Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

  Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm C

Kính thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh, thời đại thị trường kinh tế; nhất là, nếu những ai đang sống trên đất nước Hoa Kỳ, một đất nước có rất nhiều cơ hội tiến thân trong việc học hành, làm ăn, phát triển tài năng, hay sử dụng các phương tiện, nhưng tất cả phải có điều kiện của nó; Điều kiện là: “nếu”. Nếu anh có cái này, thì anh mới được cái kia, và hầu như không có cái gì là free trăm phần trăm, cho dù có những điều xem ra free, nhưng khi đi sâu vào trong đó thì chẳng có free như ta tưởng đâu. Và nói cho cùng, những cái ta có được trên đời này, tất cả chỉ được một thời gian nào đó thôi, để rồi cuối cùng tất cả đều phải tan biến như mây khói, vì chẳng có sự gì ở trần gian này bền vững. Thế mà tất cả phải có “điều kiện”. Vậy thì, có một món quà vô cùng quí giá, và bền vững muôn đời thì nó lại càng đòi hỏi ‘điều kiện” biết chừng nào.

     Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy rất rõ về vấn đề này, vì đây là điều mà Chúa Giê-su đã từng nói thế này sao: “ Ai yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. ( Ga 14, 23). Yêu mến “Điều kiện” phải giữ lời Chúa.

     Kính thưa quí ông bà anh chị em, nếu ở đời,  giả sử chúng ta có được người nào đó có thế lực, giàu có và họ luôn giúp ta, thì chắc là ta an tâm và sung sướng biết dường nào. Thế mà ở đây, như lời của Chúa Giê-su phán qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thì ta không những có Chúa Giê-su luôn ở bên cạnh chúng ta mà còn ở ngay trong lòng chúng ta, và còn hơn thế nữa là: chúng ta lại được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng ngự trị trong lòng chúng ta, thế thì còn niềm vui sướng hạnh phúc nào hơn nữa; thế mà không chừng chúng ta chẳng có chút cảm nghiệm hạnh phúc này. Thế mới là: Chúa ở rất gần ta nhưng lòng ta lại xa Chúa. Thánh Augustino cũng đã có một kinh nghiệm về “gần mà xa”, khi ngài nói: “Chúa ở trong sâu thẳm nhất của tâm hồn con thế mà con lại đi tìm Chúa ở đâu đâu. Ôi ! lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
 
     Vậy thì cuộc sống lòng tin của chúng ta nếu ta được Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn chúng ta thì còn gì bằng nữa, còn ai làm gì được ta nữa. Nói như tác giả Thánh Vịnh 27, vua Đa-vít đã thốt lên: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa” (Tv 27,1). Phải chăng đây là lời của Chúa Giê-su phán: “Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” Xao xuyến và sợ hãi làm cho cuộc sống con người mất bình an; nhất là ngày hôm nay chúng ta đang sống giữa một xã hội đầy dẫy những biến loạn do con người gây ra, bên cạnh còn biết bao sự đau khổ do sự tàn phá của thiên nhiên bão lụt, gió lốc đó đây, nạn đói kém, bệnh tật gia tăng. Sống trong tình trạng như thế thì nỗi xao xuyến và sợ hãi lại càng gia tăng.
 
     Với cuộc sống như thế thì, hơn bao giờ hết chúng ta lại càng phải xác tín mạnh mẽ hơn nữa vào Thiên Chúa và vào lời của Chúa Giê-su khuyên bảo chúng ta: “Anh em đừng xao xuyến và sợ hãi”. Phương thế để giúp ta đẩy lui những sự bất an đó thì tốt hơn hết ta tìm đến Chúa để xin sự bình an, và chắc chắn Chúa ban cho; vì Ngài không những đã hứa mà còn luôn muốn ban cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian” (Ga 14,27). Nhưng “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33).
 
     Quả thật, bình an của Thiên Chúa ban thật khác với thứ bình an mà con người ban tặng cho nhau. Nhưng thật nghịch lý ở chỗ: xem ra sự bình an mà con người ban tặng cho nhau chóng qua đó nhưng nó lại hấp dẫn, mùi mẫn, ngọt ngào; vì sao vậy. Vì loại bình an con người trao tặng cho nhau là những thứ ta cảm nhận được ngay qua cảm giác của các giác quan như: giọng nói ngọt ngào của yêu thương, hứa hẹn, các loại quảng cáo đầy hấp dẫn đập vào mắt như: tiền bạc, sắc đẹp, quyền lực, hưởng thụ… Thành thử ra, những thứ đó như những liều thuốc mê làm cho con người mê mẫn, đắm đuối, ngã vào. Còn bình an của Chúa trao ban qua những điều thoạt mới nghe thì thật chói tai và ai cũng sợ như: chịu đau khổ, hiền lành, khiêm nhường, chịu bắt bớ, hiểu lầm, bị xỉ nhục. Những điều này, Chúa Giêsu đã từng công bố qua Tám Mối Phúc thật rõ ràng. Và bất cứ ai sống một cách triệt để các mối phúc thật thì chắc chắn tâm hồn họ có được sự bình an đích thực; thứ bình an khác với con người ban tặng, vì sự bình an của Chúa ban không ai lấy đi được, và chỉ có sự bình an đích thực này mới giúp ta đứng vững giữa bao nhiêu thăng trầm thay đổi, biến loạn, thử thách, đói khổ, tù đày và kể cả cái chết cũng không làm gì được, vì bình an này là của Chúa ban, hay nói cách khác BÌNH AN CỦA CHÚA BAN CHÍNH LÀ CHÚA.
 
     Ta thử nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su, trong mọi nghịch cảnh Ngài luôn bình an kể cả trong sự đau khổ tột cùng nhất, giây phút trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá, giữa bao nhiêu tiếng thét gào nhạo báng, chê cười mà Ngài vẫn bình an.
 
     Bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, bao người đã sống đích thực niềm vui hạnh phúc của sự bình an múc lấy từ Thiên Chúa, những người này ta gọi là những vị thánh; như các thánh tông đồ, các thánh giáo phụ, các thánh nam nữ tử đạo, hiển tu, ẩn tu…Chẳng hạn như thánh giáo phụ Ba-si-li-ô, khi ngài bị các nhà cầm quyền bắt, đứng trước những đe dọa, ngài không một chút sợ hãi, ngài trả lời: “Các ông làm gì được tôi, tịch thu tài sản ư? Tôi chẳng có gì để mà sợ. Bắt bớ tù đày ư? Chẳng có sao, vì đâu đâu cũng có Chúa. Giết chết tôi ư?  Lại càng hay, vì tôi hằng khao khát được về với Chúa càng sớm càng tốt.”
 
     Với thánh giáo phụ Ba-si-li-ô là như thế, còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thực sự được bình an của Chúa chưa? Nếu chúng ta có được sự bình an của Chúa thì ta sẽ có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Ta chẳng sợ hãi và xao xuyến giữa bao thử thách mà ta đang gặp phải, như: khó khăn về tiền bạc, mất công việc làm, nhà cửa, bị hiểu lầm, bỏ rơi, phản bội, bệnh tật và ngay cả cái chết. Tất cả nếu chúng ta có Chúa Ba Ngôi ở trong ta thì ta không còn lo lắng, xao xuyến và sợ hãi nữa, như lời của tác giả Thánh Vịnh 62 mà ta đã trích ra ở trên: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng. Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân” (Tv 62, 6-8).
 
     Chúc quí ông bà anh chị em có được một sự bình an đích thực của Chúa, có như thế chúng ta mới có được niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mai sau. Lạy Chúa, nếu đời con có Chúa, là con có tất cả, và bằng mọi cách, xin cho con biết tìm kiếm và chiếm lấy  được Chúa làm gia nghiệp  đời con.  Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Phúc cho ai biết lắng nghe và giữ Lời Chúa

Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.

Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.

Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.

Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.

Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.

Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.

Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy“. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.

Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.

Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.

Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?

Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.

Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.

Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.

Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.

Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.

Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong và ngoài tình yêu

Trong và ngoài tình yêu

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ANH RÕ TRƯỚC SẼ CÓ NGÀY CÁCH BIỆT

ANH RÕ TRƯỚC SẼ CÓ NGÀY CÁCH BIỆT

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi.”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 17: 20-26

Ngày cách biệt, dù biết trước vẫn thiệt xa khơi. Ngày đó, là ngày Chúa ra đi về với Cha để rồi Ngài sẽ gửi Thánh Thần Ngài đến với muôn người. Tâm tình này, thánh Gioan nay ghi ở trình thuật gồm tóm trong ý nghĩa: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, như Chúng Ta là Một…” (Ga 17: 21)
 
Tin Mừng Tình Chúa “Có Cha ở trong Con”, chan hoà cùng Thần Khí, cứ kéo dài mãi đến ngày Chúa về trời, hẳn ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng, từng chi tiết cả sự việc Chúa xuất hiện với các kẻ tin Ngài.

Hội thánh thời tiên khởi, đã thấy xuất hiện rất sớm chứng nhân nổi bật là thánh Phaolô tông đồ. Thánh-nhân không rành rẽ về truyền thống cũ xưa, nhưng vẫn có khả năng đưa ra chứng cứ về tư cách “nên Một” có “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Thánh Phaolô biết rất rõ tiến trình duy nhất Chúa Phục sinh/trỗi dậy để rồi Ngài đi vào với vinh quang Nước Trời. Với thánh Phaolô, thì Phục Sinh – Thăng Thiên diễn ra chỉ một lần. Nói cách khác, đó là hai khía cạnh của cùng một nhiệm tích rất Đức Chúa.

Với thánh Phaolô, Thân mình Chúa đã biến dạng ngay lúc Ngài trỗi dậy và đã trở thành Thân Mình Linh thiêng rất Thánh ái. Chứng cứ mà thánh-nhân đưa ra đã bắt đầu từ ngày thánh-nhân trải-nghiệm thị-kiến trỗi dậy trên đường đi Đamát. Thánh-nhân nói rất rõ: thị kiến mình trải nghiệm chính là thị kiến trỗi dậy và coi đó là chứng cứ về sự kiện “Chúa nên một”, thời rất sớm.

Ngay với thị kiến Đamát, không có ai hiện diện để nghe hoặc chứng kiến sự việc tận mắt như bằng chứng nhãn tiền. Tức, không có dân gian quần chúng hiện diện để sẻ san như nền tảng khách quan, mà là thị kiến đơn thuần. Tuy nhiên, nói thế không có ý bảo rằng sự việc này không có thật hoặc là sự thật rất thực, nhưng đã hiện hữu như sự kiện lịch sử rất khách quan.

Là nhân chứng xuất hiện sau thánh Phaolô, nhưng sống trước thời điểm thánh Mátthêu và Luca viết Tin Mừng, thánh Máccô không viết điều gì có liên quan đến sự việc Chúa Phục Sinh hiện ra. Và, thánh Máccô kết thúc Tin Mừng do mình chép có đính kèm một thông điệp xác định là Chúa đang trên đường ra đi đến với Galilê, trước đồ đệ. Và, chính tại nơi này, các thánh tông đồ sẽ được gặp Thày, chợt hiện đến. Ngay cả sứ giả “áo trắng” xuất hiện ở mộ phần, cũng căn dặn các nữ phụ hãy nhắc bảo tông đồ Chúa đi về phía Galilê ở đó sẽ có Thày hiện đến, để gặp gỡ.          

Người đọc Tin Mừng hẳn cũng đều biết: thánh Mác-cô kết thúc Tin Mừng bằng trình thuật cuối này. Như thế tức là: với thánh Máccô, rõ ràng chỉ xảy ra duy nhất mỗi sự kiện Chúa hiện đến ở Galilê, thôi. Xem ra như thể thánh Máccô có ý định viết về chuyện hiện ra như thế, nhưng nếu thánh nhân có viết đi nữa, hẳn ta cũng sẽ có được văn bản rõ ràng. Thế nhưng, sự thể là: Tin Mừng theo thánh Máccô đã chấm dứt cách đột ngột; và chẳng thấy có trình thuật nào do thánh nhân viết nói về việc Chúa hiện ra ở Galilê hoặc nơi nào khác. Xem như thế, tư tưởng của thánh Máccô cũng không xa ý tưởng mà thánh Phaolô đưa ra. Nhưng, như ta thấy, tư tưởng ấy lại khác xa ý của thánh Mátthêu và Luca.

Thánh Mátthêu kể cho mọi người nghe biết về sự kiện Chúa xuất hiện lần đầu với đồ đệ Ngài, và lần đó là ở Galilê. Và trước đó, thánh sử cũng viết về sự việc Chúa hiện ra với các nữ phụ (trước cả buổi gặp gỡ đồ đệ ở Galilê) nơi mộ phần trống vắng ở Giêrusalem. Và qua trình thuật này, Chúa cũng yêu cầu các chị hãy về nhắn với đồ đệ là hãy đi Galilê để được Chúa hiện ra.

Thánh Luca thì khác. Thánh-sử kể một loạt những lần Chúa hiện đến với đồ đệ trong tình cảnh thật rất khác và khó mà đếm được là bao nhiêu. Nhưng, tất cả đều diễn ra ở Giệrusalem chứ không phải ở Galilê. Và Thăng Thiên được coi thánh-nhân tả như Chúa hiện ra một lần cuối.

Sau thánh Phaolô và Máccô, truyền thống Giáo hội đã từ từ kể về những lần Chúa hiện ra suốt từ Phục Sinh cho đến ngày Ngài Thăng Thiên về Trời. Xem thế thì, ta có 40 ngày diễn tiến sự việc Chúa hiện diện với con dân đồ đệ. Truyền thống Giáo hội ta vẫn nghe quen, đã trở thành sự việc được mọi người lãnh nhận như sự thật, độc đáo.

Theo truyền thống được Giáo hội chấp nhận, Đức Giêsu được cất nhắc trở về với mọi người một cách sống động, trước nhất ở địa cầu trần gian và sau đó, Ngài lại được nâng nhấc rất sống động về chốn thiên cung. Xem như thế, ta thấy có tiến trình gồm 2 bước, bước đầu được gọi cách đơn giản  là Phục sinh; và bước kia là sự việc Chúa Thăng Thiên về Trời, với Cha. Mỗi bước Chúa được tả một cách khác biệt. Với bước đầu, vào lúc Phục Sinh, Chúa đã sở hữu Thân Mình có sự sống ở mặt đất, giống mọi người. Bước tiếp theo, vào lễ Chúa Thăng Thiên về trời, Thân Mình Ngài biến đổi trở thành Thân Mình Thánh Thiêng có Thần Khí Chúa ở cùng. Và, Ngài có khả năng sống thánh ở thiên quốc.

Truyền thống này, không giống truyền thống đầu; tức: hiểu mọi việc như thánh Phaolô và thánh Máccô hiểu một cách rất sớm sủa. Phải chăng truyền thống này vững chắc hơn truyền thống sau, do thánh Mátthêu và Luca diễn nghĩa? Phải chăng truyền thống sau lại quan trọng và nắm phần chủ chốt để trở thành thánh-truyền, như Hội thánh phán?

Đối với ta, điều quan trọng là nhận ra rằng: thị kiến/viễn cảnh, là chuyện thông thường được nhiều tôn giáo trải nghiệm. Đó là tình trạng, mà ngày nay khoa học gọi là trạng thái thôi miên, trong đó người được thị kiến rất kinh ngạc, hãi sợ và vui mừng. Đó là nền tảng tốt cho niềm tin hơn coi đó như chứng cứ thực nghiệm, chút nào hết.

Đức Giêsu cũng cảm nghiệm nhiều thị kiến khá đáng kể, như vào lúc Ngài nhận thanh tẩy từ thánh Gioan; hoặc, các cảm nghiệm Ngài từng có vào những ngày Ngài sống ở sa mạc cũng như cảm nghiệm khác khi Ngài biến hình trên núi… Tất cả đã được thánh Mátthêu và Luca ghi chép trong Tin Mừng. Trong thị kiến, người nhập thị chứng kiến được Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, chứ không phải thân mình được chỉnh sửa cho thích hợp với sự sống, ở thế trần. Các vị nhập cuộc vào thị kiến, chỉ mỗi suy về những gì mình chứng kiến và là đường lối viết Tin Mừng của thánh Luca. Điều mà thánh sử muốn nói lên, đích thực là Thân Mình Thánh Thiêng của Chúa, mà các thánh được diện kiến bằng con mắt tinh thần, mà thôi.

Xem như thế, ta có hai truyền thống tổng cộng. Một, là của thánh Phaolô và Máccô. Còn truyền thống kia, lâu nay được gọi là thánh-truyền, do thánh Mát-thêu và Luca lập ra. Giữa hai truyền thống, không thấy có sự nhất quán, thuần nhất nào hết.

Nhưng truyền thống sau lại đã chuyển đổi trên căn bản nên hơi khác truyền thống đầu, khi dân con Đạo Chúa lại để mất thị kiến của Giáo hội tiên khởi. Từ đó trở đi, ta lại đã đi tìm các dữ kiện thực nghiệm để củng cố cho điều mình tín thác. Thế nên, các thánh mới kể chuyện: Chúa đi quanh mộ phần trống vắng khiến các nữ phụ lại cứ nhìn ra như thợ làm vườn. Ngài tự mở cửa mồ và Ngài có khả năng ăn uống tựa hồ người bình thường, và còn để cho thánh Tôma sờ chạm vào chân tay. Riêng thánh sử Gioan lại cũng kể về việc Chúa đi đây đó, Ngài hiện ra và diễn giải sự việc cho tông đồ hiểu.

Chính vì lý do thực nghiệm, mà các thánh sử lại thấy khó là làm sao kể việc Chúa về Trời, nên mới nghĩ ra viễn cảnh Chúa thăng hoa đi vào chốn mù khơi mây khói kiểu con tầu vũ trụ khiến các nhà khoa học ngày nay không làm sao mường tượng cho hợp với định luật vật lý được.

Từ đó, trọng tâm của thị kiến xem ra khá hấp dẫn trên bình diện xã hội. Bởi, nói như thế tức như thể: các thánh lãnh nhận thị kiến lại đã có khả năng sống trong môi trường đặc biệt có vai vế và quyền hành trong hội thánh thời tiên khởi. Và cuối cùng, các văn bản viết về truyền thống sau lại đã hướng thẳng vào cơ cấu cộng đoàn phát triển. Đặc biệt hơn, thánh Luca lại đã mô tả lễ Ngũ Tuần có Thần Khí Chúa đáp là là xuống xã hội nói chung chứ không phải là thị kiến cá thể, riêng rẽ.

Xem thế thì, truyền thống Hội thánh thời sau này, lại đặt nặng tính cộng đoàn dân Chúa có Thần Khí ở với và ở cùng, để củng cố niềm tin và sự sống trong vũ trụ.

Bằng vào cảm nghiệm niềm tin như thế, ta sẽ ngâm lên lời thơ vui vẫn từng hát:
 

“Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt,
Ngó như gần, nhưng vẫn thiệt xa khơi.”              
(Hàn Mặc Tử – Trường Tương Tư)

           
Ngó và nhìn, là điều nhà thơ từng làm như đấng bậc trong Hội thánh theo cung cách thị kiến rất thi ca, “xa khơi”, cách biệt. Nhưng truyền thống Hội thánh vẫn giữ lại niềm tin con cái Chúa nay về với Cha ngõ hầu củng cố tình Ngài thương ta rất mực, qua Thần Khí.       
 
Lm. Nguyễn Đức Vinh Sanh
Mai Tá lược dịch

RA ĐI HAY TRỞ VỀ?

RA ĐI HAY TRỞ VỀ?

Bình thường, khi người ta đang sum họp với nhau, mà có việc phải ra đi, thì nói lời “từ biệt anh em để ra đi”. Ra đi là xuất hành từ một nơi này đến một nơi khác, từ giã những người ở lại để đến với người khác. Vậy mà trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI-PS – Ga 14, 23-29)), khi từ giã các môn đệ để bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giê-su lại nói: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14, 27- 28). Một câu nói khó hiểu! Tuy nhiên, nếu bao quát toàn bộ cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su thi sẽ thấy đó luôn luôn và mãi mãi là một cuộc xuất hành. Khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì đó chính là cuộc “ra đi và đến cùng anh em”, và bây giờ ra đi chịu khổ nạn để chiến thắng sự dữ thì cũng là lúc “đi về cùng Chúa Cha”.

Nói đến xuất hành là nói đến lộ trình và vì thế nên những cuộc “ra đi” để “đến với” thường được gọi là hành trình. Lộ trình mà Đức Giê-su thực hiện những cuộc xuất hành chính là Đại Lộ Tình Yêu từ khởi điểm Thiên Chúa Tình Yêu đến với nhân loại. Đức Giê-su đã khởi đi từ Trái Tim Nhân Hậu của Thiên Chúa – một Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” cho nhân loại (Ga 3, 16). Vâng lệnh Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 7). Người từ bỏ cõi trời để đến “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Hành trang và phương tiện cho cuộc ra đi của Con Thiên Chúa không phải là những tiện nghi vật chất của nhân loại (y phục, đồ ăn thức uống, ngựa xe…), cũng không phải là quyền năng tối thượng của Đấng Tối Cao, mà Người chỉ mang theo Trái Tim Yêu Thương vô hạn của Thiên Chúa.

Một cách cụ thể, cuộc Xuất Hành của Đức Giê-su không chỉ là con đường một chiều từ Thiên Chúa đến với nhân loại, mà là hai chiều, đem Thiên Chúa đến cho nhân loại và đem nhân loại về với Thiên Chúa. Vai trò trung gian của Đức Giê-su là sự nối liền đường dây chuyển tải sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Người chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời Hằng Sống, vì thế Người đến để những kẻ tin được sống dồi dào (Ga 10, 10) bằng Lời của Thiên Chúa. Thật vậy, “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Lời là nội dung những gì Thiên Chúa muốn nói với nhân loại, là Tình Yêu mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhưng không cho con người qua Đức Ki-tô. Để con người có thể đón nhận và sống Lời, Thiên Chúa Cha còn chu đáo hơn khi ban tặng một Thầy Dạy là Thần Khí Sự Thật, là Đấng Bảo Trợ, “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Hoá cho nên, “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ Lời Thầy. Và Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14, 23-24).

Như vậy là đã rõ, trước giờ Thương Khó – cuộc Xuất Hành từ thế gian về với Chúa Cha – Đức Giê-su thay vì lo âu phiền muộn vì sắp phải chịu một cực hình đến nỗi mất cả mạng sống, Người lại muốn chia sẻ niềm vui với các môn đệ. Niềm vui ấy xuất phát từ Tình Yêu, vì chỉ trong tình yêu, các môn đệ mới có thể hiểu được ý nghĩa đích thực cuộc ra đi của Thầy ( “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” – Ga 14:28). Mặc dù đã được tiên báo từ Cựu Ước (Is 53, 1-12) và chính Đức Giê-su cũng báo trước cho các môn đệ (“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.” – Mc 8, 31), nhưng cuộc ra đi lần này của Đức Giê-su vẫn làm các môn đệ thực sự xao xuyến và sợ hãi. Vì thế, Đức Giê-su mới chúc lành và khuyên bảo các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).

Ngay từ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và nhất là từ ngày Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, mỗi lần nói chuỵên với các môn đệ, Đức Giê-su đều chúc: “Bình An cho anh em!”, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự Bình An Người ban không phải là sự Bình An tạm bợ của thế gian, nhưng là sự Bình An thật, sự Bình An bền vững trong tâm hồn có Thiên Chúa Tình Yêu ngự trị. Sự Bình An đó chính là hoa trái của Tình Yêu trong tương quan hai chiều giữa “cho” và “nhận”; và chỉ có tình yêu thực sự mới có thể giúp con người sống trong an bình đích thực và hạnh phúc viên mãn, đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã của ba thù khiến tâm hồn xao xuyến và sợ hãi. Sự Bình An thật trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin.

Tóm lại, từ cuộc xuất hành “ra đi và đến cùng anh em” (Ngôi Lời nhập thể đem Thiên Chúa đến cho loài người) đến cuộc xuất hành “trở về cùng Chúa Cha” (đem nhân loại về với Thiên Chúa), Đức Giê-su đã minh chứng Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, và sứ vụ Người vâng lệnh Chúa Cha thực hiện để cứu độ nhân loại cũng chỉ có thể là sứ vụ Tình Yêu. Tình Yêu đích thực sẽ trổ sinh hoa trái là sự bình an và đó chính là hệ quả tất yếu của sự tôn vinh Tình Yêu. Nói cách khác, đó chính là lời chúc thần thiêng đêm Giáng Sinh được các thiên sứ loan báo: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).

JM. Lam Thy ĐVD.

Đức Thánh Cha Phanxicô đón vị Tiền Nhiệm trở về Vatican

Đức Thánh Cha Phanxicô đón vị Tiền Nhiệm trở về Vatican

VATICAN. Chiều ngày 2 tháng 5-2013, ĐTC Phanxicô đã đón tiếp vị tiền nhiệm của ngài, Đức Biển Đức 16, trở về Vatican, sau hơn 2 tháng lưu ngụ tại dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo.

Đức nguyên Giáo Hoàng đã rời Vatican đến dinh thự này chiều ngày 28-2-2013, vài giờ trước khi việc từ nhiệm của ngài bắt đầu có hiệu lực. Trong thời gian ở tại đó, ĐTC Phanxicô đã nhiều lần điện thoại thăm hỏi, chúc mừng lễ bổn mạng, và đặc biệt ngài đích thân đến thăm vị tiền nhiệm chiều ngày 23-3 vừa qua.

Đón tiếp Đức nguyên Giáo Hoàng tại sân trực thăng trong nội thành Vatican có 3 HY và 3 GM, đứng đầu là ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn, ĐHY Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh và ĐHY Giuseppe Bertello, Thống đốc thành Vatican, Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh, Đức TGM Mamberti ngoại trưởng của Tòa Thánh và Đức Cha Giuseppe Sciacca, Tổng thư ký Phủ Thống Đốc Vatican.

Tiếp đến, Đức Biển Đức 16 dùng xe về Đan viện, cách đó vài trăm mét. Tại đây ngài được ĐTC Phanxicô tiếp đón ”một cách rất thân mật và huynh đệ”. Sau đó hai vị cùng cầu nguyện một lát trong nhà nguyện của Đan viện.

Trong thời gian qua, Đan viện Mẹ Giáo Hội ở Nội thành Vatican đã được tu bổ. Đức Biển Đức 16 đã đáp trực thăng từ Castel về đến Vatican khoảng 5 giờ chiều. Ngài được ĐTC Phanxicô tiếp đón và tháp tùng về Đan Viện Mẹ Thiên Chúa. Đan viện ở trung tâm thành Vatican, được Đức Gioan Phaolô 2 thành lập hồi năm 1994 cho các nữ đan sĩ thuộc các dòng khác nhau, đến cư ngụ tại đây với mục đích cầu nguyện, nâng đỡ sứ vụ của Đức giáo Hoàng phục vụ toàn thể Giáo Hội.

Trong 18 năm qua, cho đến 2012, đã có các nữ đan sĩ dòng thánh Clara, Camêlô nhặt phép, Biển Đức và dòng Thăm Viếng, thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, lần lượt cư ngụ trong Đan viện Mẹ Giáo Hội.

Mẹ Maria Sofia Cichetti, thuộc dòng Biển Đức, Bề trên Đan viện Mẹ Giáo Hội, kể lại với ký giả Nicola Gori rằng: ”Hồi năm 2008, khi ĐGH Biển Đến đến thăm chúng tôi lần đầu tiên, với lòng rất khiêm tốn và nỗi đau khổ hiền phụ, ngài xin chúng tôi đặc biệt cầu nguyện cho ngài và nói rằng ”Thánh giá mà Giáo Hoàng phải vác thật là nặng nề, vì thế một mình tôi không thể vác nổi. Tôi cần sự nâng đỡ và lời cầu nguyện của toàn thể Giáo Hội, và đặc biệt là của chị em là những người có sứ mạng đặc thù này”.

5 năm sau lời tuyên bố đó, nay Đức Biển Đức 16 đã quyết định trực tiếp lãnh nhận sứ mạng đặc thù ấy trên vai. Từ Đan viện này nơi mà bao lời cầu nguyện được dâng lên Chúa cho ngài, nay chính ngài cầu nguyện cho Vị Kế nhiệm và cho toàn thể Giáo Hội”.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, nói với giới báo chí rằng ”Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 vui mừng trở về Vatican, tại nơi mà ngài muốn tận tụy phục vụ Giáo Hội bằng lời cầu nguyện, như chính ngài đã loan báo ngày 11-2-2013”. Cha xác nhận rằng cùng cư ngụ với Đức Biển Đức 16 tại Đan viện Mẹ Thiên Chúa có Đức TGM Georg Gaensweine, Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, bí thư của Đức nguyên Giáo Hoàng và 4 chị thuộc tu hội Memores Domini (nhớ Chúa) vốn thuộc gia đình Giáo Hoàng trong những năm gần đây (SD 2-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cộng Đồng Việt Tại Quận Cam Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư: Nén Hương Cho Chiến Sĩ VNCH, Đồng Bào Tử Nạn Chiến Cuộc VN

Cộng Đồng Việt Tại Quận Cam Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư: Nén Hương Cho Chiến Sĩ VNCH, Đồng Bào Tử Nạn Chiến Cuộc VN

Đại diện liên tôn trong ngày tưởng niệm 30 tháng 04-2013Đại diện Liên tôn đốt nén hương trong ngày tưởng niệm 30 tháng 04-2013 (Courtesey Photo-Việt Báo)

Westminster (Bình Sa)- – Đúng 12 giờ trưa Thứ Ba ngày 30 tháng 4 năm 2013, trước Khu Thương Xá Phước Loệc Thọ, Ban tổ chức Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 tháng 4 phối hợp với Đài Phát Thanh Little Sàigon Radio  tổ chức Lễ chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa và đốt nhang tưởng niệm những anh hùng vị quốc vong thân, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đồng bào tử nạn trên đường vượt thoát chế độ cộng sản.

Hiện diện trong buổi lễ có Hội Đồng Liên Tôn, Linh Mục Nguyễn Thái, về phía dân cử có Ông Tạ Đức Trí Thị Trưởng Thành Phố Westminster và các Nghị Viên thuộc Hội Đồng Thành Phố, Dân Biểu Liên Bang Địa Hạt 47 Ông Alan Lowenthal, Bà Quyên Trần, Đại Diện Thượng Nghị Lou Correa, Luật Sư Nguyễn Xuân Nghĩa, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali, LS Trần Sơn Hà, Phó Chủ Tịch Cộng Đồng, Ông Phan Như Hữu, Bà Trần Thanh Hiền, và các thành viên trong Ban Chấp Hành, Ông Nguyễn Mạnh Chí, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát và các thành viên trong Hội Đồng Giám Sát, Ông Phan Ngọc Lượng, Chủ Tịch và Ông Phan Tấn Ngưu, Phó Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ, Ông Trần Vệ, Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ Vùng Tây Nam Hoa Kỳ, Ông Phan Kỳ Nhơn, Chủ Tịch Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai qúy vị đại diện các hội đồng hương, hội đoàn, đoàn thể, các cơ quan truyền thanh, truyền hình, báo chí tham dự.

Đúng 12 giờ tín hiệu từ đài Phát Thanh Radio Little Sàigon phát ra yêu cầu đồng hương nghiêm chỉnh chuẩn bị làm lễ chào quốc kỳ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4, mọi người cùng nghiêm chỉnh hát bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và phút mặc niệm. Sau đó Ban tổ chức mời quúy vị trong Hội Đồng Liên Tôn và Linh Mục Nguyễn Thái lên dâng hương cầu nguyện trước bàn thờ tổ quốc có chân dung qúy vị Tướng Lãnh vị quốc vong thân. Tiếp theo lời chào mừng và cảm ơn của Ban tổ chức, sau đó phần phát biểu cảm nghĩ của qúy vị dân cử, qúy vị đại diện Hội Đoàn, Đoàn Thể về ngày Quốc Hận 30-4.
Mọi người đều im lặng để hồi tưởng về qúa khứ sau 38 năm cộng sản cưởng chiếm Miền Nam Việt Nam với những cảnh tượng bi thảm tưởng chừng như mới xảy ra tự hôm nào.

Được biết tiếp theo chuổi sinh hoạt 30 tháng 4, Cộng Đồng Công Giáo Giáo Phận Orange County tổ chức buổi tưởng niệm và cầu nguyện cho quê hương Việt Nam. Buổi lễ tổ chức vào lúc 7 giờ tối Thứ Ba ngày 30 tháng 4 năm 2013 tại Trung Tâm Công Giáo, chương trình có:

Niệm một nén hương cho anh linh những người đã hy sinh trong biến cố 30 tháng 4 và những người đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do. Cùng chung lời cầu nguyện cho những người đang bị bách hại vì đức tin và tự do dân chủ tại quê nhà, Cầu nguyện cho sự toàn vẹn lãnh thổ và quê hương Việt Nam được tự do dân chủ thật sự.

Trong khi đó Cộng Đồng Việt Nam Nam California do cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, Quyền Chủ Tịch Cộng Đồng cũng tổ chức lễ cầu nguyện nhân ngày quốc hận vào lúc 6:30 chiều Thứ Ba ngày 30 tháng 4 năm 2013 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ.

Mạch Sống – Việt Báo

USCIRF đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC

USCIRF đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC

Hoài Hương – VOA

Hôm 30/4, Ủy Hội Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (gọi tắt là USCIRF) công bố phúc trình thường niên, đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam và 6 nước khác, vào danh sách các Quốc Gia Cần Quan Tâm Đặc Biệt (Country of Particular Concerns, gọi tắt là CPC).

Tiến sĩ Scott FlipseTiến sĩ Scott Flipse, chuyên gia về Việt Nam và hiện là Phó Giám đốc đặc trách nghiên cứu chính sách của USCIRF.

Phúc trình năm 2013 của Ủy hội Tự Do Tôn giáo Quốc Tế nêu lên lý do của đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC:

“Tình trạng tự do tôn giáo vẫn tồi tệ bất chấp một số thay đổi tích cực trong thập niên qua để đáp lại sự chú ý của quốc tế. Chính quyền Việt Nam tiếp tục bỏ tù nhiều cá nhân vì họ hoạt động tôn giáo hay vận động cho tự do tôn giáo. Hà Nội sử dụng lực lượng đặc nhiệm công an tôn giáo và áp dụng các luật mơ hồ về an ninh quốc gia để trấn áp các hoạt động tôn giáo độc lập, kể cả Phật Giáo, Tin Lành, Hoà Hảo và Cao Đài, đồng thời tìm cách chặn đứng sự phát triển của đạo Tin Lành và Công Giáo trong các dân tộc thiểu số qua hình thức kỳ thị, bạo lực và cưỡng bức bỏ đạo.”

Tiến sĩ Scott Flipse là một chuyên gia về Việt Nam và hiện là Phó Giám đốc đặc trách nghiên cứu chính sách của USCIRF.  

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ VOA, Tiến sĩ Scott Flipse nói tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam sẽ cải thiện nếu Việt Nam định chế hóa một số quyền tự do.

“Tự do ngôn luận, tự do internet, tự do tôn giáo, tự do lập hội, nếu xảy ra tại Việt Nam và nếu các quyền tự do ấy được bảo vệ thì Việt Nam sẽ tốt đẹp hơn. Đó là những quyền tự do mà chúng ta cần nỗ lực làm việc để cải thiện cùng lúc, bởi vì chúng liên kết chặt chẽ với nhau.”

Giải đáp thắc mắc về việc Việt Nam luôn luôn khẳng định có đầy đủ luật pháp để cho phép người dân được hành sử các quyền tự do mà ông vừa nêu lên, Tiến sĩ Scott Flipse nói:

“Đúng, Việt Nam có rất nhiều luật lệ, nhưng xã hội Việt Nam là một xã hội pháp trị, chứ không phải là một xã hội pháp quyền, điều đó có nghĩa là các yếu tố chính trị hay quan niệm về nhu cầu an ninh quốc gia chiếm thế thượng phong những điều khoản bảo vệ các quyền tự do được ghi trong Hiến Pháp. Thế cho nên tôi nghĩ rằng chúng ta phải tiếp tục chuyển hướng, từ một xã hội pháp trị sang một xã hội cai trị bằng luật pháp, luật pháp là tối thượng”.

Tiến sĩ Scott Flipse nói cách duy nhất để buộc Việt Nam phải chú ý là đặt vấn đề nhân quyền làm trọng tâm của các quan hệ Mỹ-Việt, kể cả với chiến lược và an ninh.

“Thông điệp mà chúng ta cần gửi đến người Việt Nam là đây là quyền lợi của người Mỹ, và chúng tôi sẽ không tiến hành các chương trình phục vụ quyền lợi kinh tế và an ninh của Việt Nam, đặc biệt liên quan tới cuộc tranh chấp Biển Đông, cho tới khi nào có tiến bộ về các quyền lợi của Hoa Kỳ như nhân quyền và tự do tôn giáo.”

Tiến sĩ Scott Flipse nói Việt Nam hành động nhanh chóng để cải thiện pháp quyền khi Việt Nam muốn gia tăng xuất khẩu, nhưng lại trì hoãn việc cải thiện nhân quyền, dân quyền và quyền chính trị, bởi vì họ lo sợ các quyền ấy có thể động chạm tới quyền cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bản phúc trình của USCIRF nêu ra nhiều trường hợp về đàn áp tôn giáo, như vụ đàn áp Giáo Xứ Cồn Dầu ở Đà Nẵng, bỏ tù các thanh niên Công Giáo, đàn áp và bỏ tù những những người Hmong và Thiểu Số Tây Nguyên theo đạo Tin Lành, kiểm soát các hoạt động của Phật Giáo Hoà Hảo và Cao Đài, tịch thu đất đai tài sản của các tổ chức tôn giáo, và tại một số nơi, bắt các tín đồ phải bỏ đạo.

Bản phúc trình của USCIRF nêu lên Nghị Định 92 (92/2012/NĐ-CP) về Tôn Giáo của Việt Nam, nói rằng đây là một bước thụt lùi sẽ tạo nhiều khó khăn cho các nhóm tôn giáo đang hoạt động không chính thức.

Phúc trình của USCIRF nói tình hình tự do tôn giáo trên thế giới ngày càng lâm nguy vì sự hiện diện của điều mà tác giả của phúc trình gọi là “các lực gây bất ổn”, như sự gia tăng của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, đi kèm với những hành động hay thiếu hành động của các chính quyền.

Ủy ban Tự Do Tôn giáo Quốc Tế là một ủy ban độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập để theo dõi tình hình tự do tôn giáo trên thế giới, ủy ban này có nhiệm vụ đề nghị nên đưa nước nào vào danh sách các nước đáng quan tâm về nhân quyền, gọi tắt là CPC.

Ngoài Việt Nam, 6 nước khác cũng bị Ủy Hội đề nghị đưa vào Danh sách đáng quan tâm về tự do tôn giáo gồm có: Miến Điện, Trung Quốc, Eritrea, Iran, Bắc Triều Tiên, Ả rập Xê-út, Sudan và Uzbekistan.

 

Đức Thánh Cha kêu gọi bài trừ nạn ”lao công nô lệ” và cầu nguyện nhiều hơn trong gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi bài trừ nạn ”lao công nô lệ” và cầu nguyện nhiều hơn trong gia đình

Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 1 tháng 5-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi bài trừ nạn ”lao công nô lệ” và cấu nguyện nhiều hơn trong gia đình, đặc biệt là lần hạt Mân Côi trong tháng Năm kính Đức Mẹ.

Dưới nắng ấm mùa xuân đã có hơn 100.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ với vị cha chung. Càng ngày Đức Thánh Cha Phanxicô càng thu hút tín hữu và du khách hành hương. Ai cũng yêu thích các cử chỉ rất thân thiết và tràn đầy thương mến của ngài đối với mọi người, nhất là các trẻ em, người già và người tàn tật.

Xe díp chở ngài đi qua các lối đi giữa quảng trường để Đức Thánh Cha chào tín hữu. Mấy cận vệ của ngài đã rất vất vả vì các bà mẹ có con nhỏ đứng gần các lối đi ai cũng muốn đưa con cho Đức Giáo Hoàng hôn và vuốt ve chúc lành cho chúng. Có một bà cụ chắc là quen Đức Thánh Cha tại Buenos Aires đã gọi ngài khi xe đi qua, Đức Thánh Cha nhận ra bà và ngài xuống xe đến gần ôm hôn bà và nói chuyện với bà. Giới trẻ thì không ngừng vỗ tay reo hò và gọi tên ngài: ”Phanxicô, Phanxicô”. Phải mất 30 phút Đưc Thánh Cha mới lên tới khán đài trước thềm đền thờ thánh Phêrô. Tới nơi ngài còn bắt tay chào các Đức Ông thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh có nhiệm vụ giới thiệu các nhóm, tóm tắt bài huấn dụ, và địch lời Đức Thánh Cha chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Vì hôm qua là lễ thánh Giuse Thợ và cũng là Ngày quốc tế lao động, và là đầu tháng Kính Đức Mẹ, nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về ý nghĩa của công việc làm và thái độ sống các tín hữu phải có, noi gương Thánh Gia Nagiarét. Ngài khích lệ mọi người siêng năng lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ và chiêm ngắm các mầu nhiệm của Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha nói: Phúc Âm thánh Máthêu kể rằng trong một lần Chúa Giêsu trở về thăm quê hương mình là Nagiarét và nói trong hội đường, các người đồng hương kinh ngạc trước sự khôn ngoan của Người và hỏi nhau: ”Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, Người đến giữa chúng ta, sinh ra từ Đức Maria bởi công trình của Chúa Thánh Thần, nhưng với sự hiện diện của thánh Giuse, là người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dậy cho Chúa làm việc. Đức Thánh Cha giải thích biến cố này như sau:

Chúa Giêsu sinh ra và sống trong một gia đình, trong Thánh Gia, học từ thánh Giuse nghề thợ mộc, trong xưởng thợ Nagiarét, chia sẻ với thánh nhân sự dấn thân, sự mệt nhọc, hài lòng và cả các khó khăn thường ngày nữa. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết phẩm giá và sự quan trọng của công việc làm. Sách Sáng Thế kể rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên người nam và người nữ, giao phó cho họ nhiệm vụ sinh sôi nẩy nở tràn đầy trái đất, khắc phục nó và trông nom nó với công việc của mình (x. St 1,28); 2,15).

Tiếp đến Đức Thánh Cha định nghĩa công việc làm như sau:
Công việc làm là một phần của chương trình tình yêu của Thiên Chúa; chúng ta được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Công việc làm là một yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Công việc, để dùng một hinh ảnh, ”xức dầu ” phẩm giá cho chúng ta, làm cho chúng ta được tràn đầy phẩm giá; khiến cho chúng ta giống Thiên Chúa, là Đấng đã làm việc và đang làm việc, là Đấng luôn hành động (x. Ga 5,17). Công việc làm trao ban cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia mình. Ở đây tôi nghĩ tới các khó khăn mà thế giới lao công và doanh thương đang gặp phải trong nhiều quốc gia khác nhau. Tôi nghĩ tới tất cả những ai, không phải chỉ là người trẻ mà thôi, bị thất nghiệp, nhiều khi vì một quan niệm kinh tế xã hội tìm lợi lộc ích kỷ, ngoài các mô thức của công bằng xã hội.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi sau đây: Tôi muốn hướng tới tất cả mọi người lời mời gọi liên đới, và hướng tới các vi hữu trách của cuộc sống công cộng lời khích lệ làm mọi cố gắng để tái tạo công ăn việc làm. Điều này có nghĩa là lo lắng cho phẩm giá con người, nhất là tôi muốn nói rằng dừng mất niềm hy vọng. Cả thánh Giuse cũng đã gặp những lúc khó khăn, nhưng Người đã không bao giờ mất sự tin tưởng và đã biết vượt thắng chúng, trong xác tín rằng Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta. Rồi tôi muốn đặc biệt kêu gọi người trẻ: các con hãy dấn thân trong bổn phận hăng ngày, trong việc học hành, trong công việc, trong các tương quan tình bạn, trong việc trợ giúp tha nhân. Tương lai của các con cũng tùy thuộc nơi việc biết sống các năm qúy báu này của cuộc đời. Đừng sợ hãi dấn thân, hy sinh, và đừng sợ hãi nhìn tương lai. Hãy duy trì niềm hy vọng: vì luôn luôn có một ánh sáng ở cuối chân trời.

Tôi muốn nói thêm một lời liên quan tới tình trạng công việc khiến tôi lo âu: tôi muốn nói tới điều mà chúng ta có thể định nghĩa là ”lao công nô lệ”, công việc biến con người thành nô lệ. Trên toàn thế giới có biết bao nhiêu người là nạn nhân của loại nộ lệ này, trong đó con người phục vụ công việc, trong khi chính công việc phải phục vụ con người để họ có phẩm giá. Tôi xin các anh chị em tín hữu và tất cả mọi người thiện chí một lựa chọn cương quyết chống lại việc buôn người, trong đó có ”nô lệ lao công”.

Tư tưởng thứ hai: đó là sự kiện trong sự thinh lặng của hoạt động hằng ngày thánh Giuse cùng với Mẹ Maria đã chỉ có một trọng tâm chú ý chung: Chúa Giêsu. Các ngài đồng hành và giữ gìn Con Thiên Chúa làm người lớn lên cho chúng ta với sự dấn thân và lòng hiền dịu, bằng cách suy tư về tất cả những gì xảy ra. Trong các Phúc Âm thánh Luca nhấn mạnh hai lần thái độ của Mẹ Maria và cũng là thái độ của thánh Giuse: ”Giữ gìn mọi sự ấy bằng cách suy niệm trong tim” (2,19.25). Đức Thánh Cha giải thích thêm thái độ này như sau:

Để lắng nghe Chúa, cần phải học biết chiêm ngắm Người, nhận biết sự hiện diện liên lỉ của Người trong cuộc sống chúng ta. Cần dừng lại đối thoại với Người, dành khoảng trống cho Người với lời cầu nguyện. Mỗi người trong chúng ta, cả các con là các bạn trẻ, đông đảo tại quảng trường này sáng nay, các con cũng phải tự hỏi: tôi đành cho Chúa khoảng trống nào đây? Tôi có dừng lại để đối thoại với Người không? Từ khi chúng ta còn nhỏ, cha mẹ chúng ta đã tập cho chúng ta thói quen bắt đầu và kết thúc ngày sống với một lời kinh, để giáo dục chúng ta cảm nhận được rằng tình bạn và tình yêu của Thiên Chúa đồng hành với chúng ta. Chúng ta hãy nhớ đến Chúa nhiều hơn trong ngày sống của chúng ta!

Trong tháng Năm này tôi muốn nhắc nhở sự quan trọng và vẻ đẹp của lời kinh Mân Côi thánh. Khi đọc các Kinh Kính Mừng, chúng ta được dẫn đưa tới chỗ suy ngắm các mầu nhiệm của Chúa Giêsu, nghĩa là suy tư về các thời điểm chính trong cuộc đời của Người, để như cho Mẹ Maria và thánh Giuse, Người là trung tâm các tư tưởng, các chú ý và các hành động của chúng ta. Thật là đẹp đẽ, nếu và nhất là trong tháng Năm này, chúng ta đọc Kinh Mân Côi và vài kinh cho Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria trong gia đình, với bạn bè, trong giáo xứ. Cầu nguyện chung với nhau là lúc qúy báu để khiến cho cuộc sống gia đình của chúng ta và tình bạn được vững vàng hơn nữa! Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn trong gia đình và như là gia đình!

Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin thánh Giuse và Đức Trinh Nữ Maria dậy cho chúng ta biết trung thành với các dấn thân thường ngày, sống đức tin trong hành động mỗi ngày, dành nhiều chổ hơn cho Chúa trong cuộc sống chúng ta, và dừng lại để chiêm ngắm gương mặt của Chúa.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hành hương, chẳng hạn như đoàn tín hữu của giáo phận Qwangiu Nam Hàn, các đoàn hành hương Argentina, Costa Rica, Peru và Mexico. Với các tín hữu Ba Lan ngài nhắc cho họ biết rằng ngày hộm qua là kỷ niệm 2 năm Đức Gioan Phaolô II được phong Chân phước. Ngài cầu chúc cuộc sống của họ thấm đượm đức tin, đức mến và lòng can đảm tông đồ của Đức Gioan Phaolô II. Chào các bạn trẻ ngài mời gọi họ hãy say mê Chúa Kitô và hăng say trung thành bước theo Chúa. Đức Thánh Cha xin các anh chị em bệnh nhân dìm các khổ đau của họ trong mầu nhiệm tình yêu và Máu Thánh của Chúa Cứu Thế. Ngài khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới trung thành yêu nhau, và trở thành dấu chỉ hùng hồn tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo Hội.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CHÂU ÂU : HÃY CHẤM DỨT SỰ BẤT BAO DUNG TÔN GIÁO

CHÂU ÂU : HÃY CHẤM DỨT SỰ BẤT BAO DUNG TÔN GIÁO

Bishop Léonard

« Hãy chấm dứt mọi hình thức bất bao dung tôn giáo ! » : các Giám mục Châu Âu lên tiếng phản đối và biểu lộ tình liên đới với Đức cha André-Joseph Léonard, Tổng giám mục Malines-Bruxelles, chủ tịch HĐGM Bỉ, nạn nhân của sự bất bao dung tôn giáo hôm 23/4 vừa qua.

Đức Cha đang có một buổi hội thảo về đề tài « Sự phạm thượng : sự xúc phạm hay quyền tự do diễn đạt » ở Đại học Tự do Bruxelles, thì ngài đã bị nhóm nữ quyền Femen tấn công.

Bốn phụ nữ thuộc phong trào này đã tìm cách lẻn vào phòng hội thảo của Đại Học. Họ cởi trần và mang khẩu hiệu như « Hãy chấm dứt nỗi sợ người đồng tính », họ đã dùng những chai nước nhỏ có hình Đức Mẹ để tạt nước vào ngài và nói : « Léonard, đủ rồi ! ». Hành vi này chỉ kéo dài một phút và họ bị trục xuất ngay lập tức.

Phản ứng của Đức Cha là bất động, mắt nhắm lại và cầu nguyện. Ngài đã được thính phòng thán phục.

Trong một bức thư gởi cho Đức cha Léonard, vị chủ tịch của Hội đồng các HĐGM Châu Âu đã bày tỏ sự gần gũi và liên đới và đồng thời lên án những hình thức gây hấn bất bao dung tôn giáo này.

Vị chủ tịch của các HĐGM Châu Âu cũng đã chia sẻ lập trường của HĐGM Bỉ theo đó « một cuộc tranh luận dân chủ về các vấn đề xã hội chỉ có thể nếu người ta cho phép mỗi người diễn tả các ý tưởng của mình trong sự tôn trọng nhau và sự tự do diễn đạt ».

Các Giám mục Bỉ cũng bày tỏ tình liên đới với Đức cha Léonard trong một thông cáo, nói rằng : « Thái độ của một số người tối qua hoàn toàn thiếu đi tính khả tín và ý thức dân sự và hoàn toàn mâu thuẫn với đề tài của buổi tranh luận, và với cách thức mà Giáo Hội Công Giáo muốn đối thoại trong một khung cảnh đa nguyên ».

Tý Linh – Xuân Bích VN

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Thống Israel

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Thống Israel

VATICAN. Tòa Thánh cầu mong các cuộc thương thuyết giữa Israel và Palestine sớm được mở lại để đạt tới một hiệp định đáp ứng các khát vọng của hai dân tộc.

Lập trường trên đây của Tòa Thánh được bày tỏ trong cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho tổng thống Israel, Ông Shimon Peres tại Vatican, sáng ngày 30-4-2013.

Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi hội kiến với ĐTC, Tổng thống Peres đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Bertone và Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti.

”Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị đã đề cập đến tình hình chính trị và xã hội ở Trung Đông, nơi vẫn còn nhiều thực tại xung đột. Tòa Thánh cầu mong các cuộc thương thuyết sớm được mở lại giữa người Israel và Palestine, để với những quyết định can đảm và sự sẵn sàng của hai bên, cũng như với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, người ta có thể đạt tới một hiệp định tôn trọng các khát vọng hợp pháp của hai dân tộc và qua đó quyết liệt góp phần vào nền hòa bình và sự ổng định trong vùng. Các vị cũng đề cập đến vấn đề quan trọng là thành Jerusalem. Tòa Thánh đặc biệt tỏ ra lo âu vì cuộc xung đột đang xảy ra tại Siria và cầu mong một giải pháp chính trị, ưu tiên theo tiêu chuẩn hòa giải và đối thoại.”

“Trong các cuộc hội kiến các vị cũng đề cập đến quan hệ giữa Nhà Nước Israel và Tòa Thánh, và giữa chính quyền quốc gia Israel và cộng đoàn Công Giáo địa phương. Hai bên đánh giá cao những tiến bộ đạt được nhờ Ủy ban làm việc songphương, dấn thân trong việc soạn một Hiệp định về những vấn đề được hai bên quan tâm, và Tòa Thánh mong ước việc soạn Hiệp định này sớm được kết thúc”.

Tổng thống Shimon Peres đã mời ĐTC Phanxicô đến viếng thăm Thánh Địa.

Cha Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết ĐTC vui mừng vì lời mời viếng thăm Thánh Địa, nhưng hiện nay cuộc viếng thăm này không có trong chương trình của ĐGH. Cha nói với giới báo chí: ”Chúng ta biết rằng tất cả các vị Giáo Hoàng đều sẵn sàng đến Thánh Địa, vì thế lời tổng thống Shimon Peres mời ĐGH Phanxicô đến Jerusalem chắc chắn được đón nhận với sự sẵn sàng vào vui mừng, nhưng hiện giờ không có chương trình nào cả”.

Mặt khác, Đức Cha Shomali, GM phụ tá Đức Thượng Phụ Công Giáo la tinh đặc trách các tín hữu Công Giáo tại Jerusalem phê bình quyết định của chính phủ Israel thiết lập bức tường an ninh phân chia thung lũng Cremisan.
Theo quyết định ngày 24-4 vừa qua, bức tường an ninh bao vây 3 phía của một tu viện Công Giáo và tường tiểu học trên lãnh thổ của người Palestine. Bên kia bức tường là phần lớn đất đai của các nữ tu và dân làng Công Giáo Beit Jala.

Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem bày tỏ ”kinh ngạc và lo âu” vì quyết định của Ủy ban đặc nhiệm cấp cao của Israel phê chuẩn dự án thiết lập bức tường phân chia thung lũng Cremisan, tạo ra những khó khăn rất lớn cho dân chúng địa phương trong việc giáo dục người trẻ.

Tại Cremisan có hai tu viện của dòng Don Bosco và dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, với trường học, trường huấn nghệ nông nghiệp trở giúp dân chúng trong làng Công Giáo Beit Jala.

Với bức tường chia cách này, tu viện của các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ tọa lạc bên phía Palestine, bị bao vây 3 phía, và trường tiểu học của các nữ tu bị xáp nhập, và phần lớn đất đai còn lại thì tọa lạc ở phía Israel. Sự phân cách này làm cho ơn 450 học sinh Palestine phải học tại một trường có hình dánh như một nhà tù có hàng rao và các trạm kiểm soát bao quanh.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Asia News, Đức Cha Shomali nhấn mạnh rằng những lý do bênh vực việc xây tường thật là yếu ớt và mơ hồ. An ninh của Israel có thể được bảo kể cả khi dời xa bức tường hoặc tìm những giải pháp khác. Đàng khác, đối với chính quyền Israel, không thể thay đổi lộ trình vì bức tường đã được hoàn thành” (SD, 30-4, Asia News 29-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời

Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời

Hãy mở toang cánh cửa cuộc sống cho Thần Khí của Thiên Chúa và hoạt động hướng dẫn biến đổi của Người. Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm đi ngược dòng đời và làm chứng cho Người.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ như trên 44 bạn trẻ lãnh nhận Bí tích Thêm Sức và gần 200,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự thánh lễ tại quảng trường thánh Phêrô sáng Chúa Nhật Hộm qua. Đây cũng là buổi gặp gỡ của Đức Thánh Cha với 70,000 bạn trẻ đã hay đang chuẩn bị lãnh Bí tích Thêm Sức về Roma hành hương trong Năm Đức Tin.

Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có Đức Cha Salvatore Fisichella, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Cha José Octavio Ruiz Arenas và 380 Linh Mục. Ban giúp lễ gồm 15 thầy dòng Rogazionisti. Ngoài ca đoàn Sistina còn có ca đoàn Mater Ecclesiae phụ trách phần thánh ca. Tham dự thánh lễ có gần 200.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc phụng vụ, và đề nghị với các bạn trẻ ba tư tưởng ngắn gọn giúp suy tư về cuộc sống chứng nhân kitô và lòng can đảm mà Chúa Thánh Thần ban cho tín hữu trong bí tích Thêm Sức. Ngài nói: Bài đọc thứ hai trình bầy thị kiến rất đẹp của thánh Gioan: đó là cảnh trời mới đất mới và thành Thánh từ Thiên Chúa mà xuống. Tất cả đều mới mẻ, được biến đổi thành điều thiện, vẻ đẹp và chân lý; không còn than khóc và sầu thương nữa… Đó là hành động của Chúa Thánh Thần: Người đem chúng ta tới với sự mới mẻ của Thiên Chúa; Người đến với chúng ta và canh tân mọi sự, Người biến đổi chúng ta. Thần Khí biến đổi chúng ta. Và thị kiến của thánh Gioan nhắc cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều đang trên đường tiến về thành Giêrusalem trên trời, là sự mới mẻ vĩnh viễn đối với chúng ta; và đối với toàn thực tại nó là ngày hạnh phúc, trong đó chúng ta sẽ có thể trông thấy gương mặt của Chúa, gương mặt tuyệt vời xinh đẹp biết bao của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có thể sống với Người luôn mãi trong tình yêu của Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm về sự mới mẻ nói trên:

Các con thấy không, sự mới mẻ của Thiên Chúa không giống các sự mới mẻ của trần gian, là những điều tất cả đều tạm thời, qua đi và người ta luôn tìm kiếm thêm. Sự mới mẻ mà Thiên Chúa ban cho cuộc sống chúng ta vĩnh viễn, và nó không chỉ ở trong tương lai, khi chúng ta sẽ ở với Người, mà cả hiện nay nữa: Thiên Chúa đang đổi mới mọi sự, Chúa Thánh Thần thực sự biến đổi chúng ta và qua cả chúng ta Người muốn biến đổi thế giới trong đó chúng ta đang sống. Chúng ta hãy mở cửa ra cho Thần Khí, hãy để cho Người hướng dẫn, hãy để cho hoạt động liên lỉ của Thiên Chúa biến chúng ta thành những con người mới, được linh hoạt bởi tình yêu của Thiên Chúa, mà Thánh Linh ban cho chúng ta! Thật đẹp biết bao, nếu mỗi người trong chúng ta, vào ban chiều có thể nói rằng hôm nay tại trường học, ở nhà, trong nơi làm việc, được Thiên Chúa hướng dẫn tôi đã thực thi một cử chỉ yêu thương đối với bạn tôi, đối với cha mẹ tôi, đối với một cụ già! Đẹp biết bao, phải không!

Tư tưởng thứ hai Đức Thánh Cha đề nghị với các bạn trẻ là điều thánh Phaolô và thánh Barnaba khẳng trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Công Vụ: ”Chúng ta phải bước vào trong vương quốc của Thiên Chúa qua nhiều khổ đau” (Cv 14,22). Ngài nói:

Con đường của Giáo Hội và cả con đường cuộc sống cá nhân kitô của chúng ta nữa, không luôn luôn hạnh phúc, nhưng gặp các khó khăn và các khổ đau khốn khó. Theo Chúa, để cho Thánh Linh biến đổi các vùng đen tối của chúng ta, các thái độ hành xử không theo ý muốn của Thiên Chúa và gột rửa các tội lỗi của chúng ta, là một con đường gặp biết bao nhiêu chướng ngại, bên ngoài chúng ta, trong thế giới chúng ta sống, và cả ở bên trong chúng ta nữa, trong con tim, thường không hiểu chúng ta. Nhưng các khó khăn và các khổ đau ấy là phần của con đường giúp đạt tới vinh quang của Thiên Chúa, như đối với Chúa Giêsu, là Đấng đã được vinh hiển trên Thập Giá; chúng ta sẽ luôn luôn gặp chúng trong cuộc sống! Nhưng đừng nản lòng: chúng ta có sức mạnh của Thần Linh giúp chiến thắng các khổ đau khốn khó ấy.

Tư tưởng thứ ba là lời mời gọi Đức Thánh Cha hướng tới các bạn trẻ lãnh bí tích Thêm Sức và tất cả mọi người: hãy vững vàng trên con đường đức tín với niềm hy vọng vững chắc nơi Chúa. Đó là bí mật con đường của chúng ta. Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm đi ngược dòng đời. Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ:

Hỡi các bạn trẻ, các con hãy nghe rõ đây: hãy đi ngược dòng đời, điều này khiến cho con tim được mạnh mẽ, nhưng cần phải có can đảm đi ngược dòng đời và Chúa ban cho chúng ta sự can đảm ấy. Không có các khó khăn, khổ đau khốn khó, hiểu lầm nào phải khiến cho chúng ta sợ hãi, nếu chúng ta sống kết hiệp với Thiên Chúa như cành nho gắn chặt vào thân nho, nếu chúng ta không đánh mất đi tình bạn với Người, nếu chúng ta luôn ngày càng dành chỗ cho Người trong cuộc sống chúng ta. Cả khi và nhất là nếu chúng ta cảm thấy nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi, bởi vì Thiên Chúa ban sức mạnh cho sự yếu đuối của chúng ta, ban phong phú cho sự nghèo nàn của chúng ta, ban ơn hoán cải và ơn tha thứ cho tội lỗi chúng ta. Chúa thương xót biết bao, nếu chúng ta đến với Người, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng nơi hành động của Thiên Chúa! Với Chúa chúng ta có thể làm các điều trọng đại; Người sẽ làm cho chúng ta cảm thấy niềm vui là môn đệ người, chứng nhân của Người. Các con hãy đánh cuộc với các lý tưởng to lớn, với các điều trọng đại; là tín hữu kitô chúng ta không được Chúa tuyển chọn cho các điều bé nhỏ, các con hãy luôn luôn đi xa hơn nữa, hướng tới các điều cao cả; hỡi các bạn trẻ, các con hãy chơi cuộc sống cho các lý tưởng lớn lao!

Các bạn thân mến, chúng ta hãy mở tang cánh cửa cuộc sống cho sự mới mẻ của Thiên Chúa, là Đấng ban Thánh Thần cho chúng ta, để Người biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở thành mạnh mẽ trong các khốn khó, để Người củng cố sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa, ở vững vàng trong Người: đó là một niềm vui đích thật. Ước gì được như vậy!

Tiếp đến là nghi thức lập lại các lời hứa rửa tội, và ban Bí tích Thêm Sức. Đức Thánh Cha mời toàn cộng đoàn cầu nguyện cho các bạn trẻ, rồi ngài đặt tay trên họ xin Thiên Chúa đổ tràn đầy bẩy ơn của Chúa Thánh Thần trên họ. Sau đó từng bạn trẻ một tiến lên với cha mẹ đỡ đầu để Đức Thánh Cha xức dầu thánh trên trán cho họ, trong khi cha hay mẹ đỡ đầu đặt tay phải trên vai người con thiêng liêng của mình.

Vào phần hiệp lễ Đức Thánh Cha đã cho 44 thanh thiếu niên và hàng trăm tín hữu rước lễ, trong khi các Phó tế trường Truyền Giáo và 200 Linh Mục đồng tế đã cho tín hữu chịu Mình Thánh Chúa.

Sau lời nguyện cuối lễ có hai bạn trẻ, một thanh niên đến từ Buenos Aires và một thiếu nữ Italia, đã lên cám ơn Đức Thánh Cha và nói lên niềm hãnh diện là tín hữu kitô được Chúa Kitô sai đi làm chứng nhân cho Người, và cùng các bạn trẻ thế giới được sống kinh nghiệm của Giáo Hội đại đồng.

Trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã phó thác tất cả mọi người hiện diện và các bạn trẻ mới lãnh nhận bí tích Thêm Đức cho Đức Mẹ. Ngài nói: Đức Trinh Nữ Maria dậy cho chúng ta biết ý nghỉa

của cuộc sống trong Thánh Thần và việc tiếp nhận sự mới mẻ của Thiên Chúa vào trong cuộc sống. Mẹ đã thụ thai Chúa Giêsu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần; mỗi một tín hữu kitô đều được mời gọi tiếp nhận Lời Chúa, tiếp nhận Chúa Giêsu vào trong lòng mình, và đem Chúa đến cho mọi người. Mẹ Maria đã cầu khấn Thánh Thần cùng với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly. Cả chúng ta nữa, mỗi khi chúng ta tụ họp nhau cầu nguyện, chúng ta được nâng đỡ bởi sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu, để nhận ơn của Thần Linh và có sức mạnh làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Cha đặc biệt nói điều này với các con là các bạn trẻ vừa mới lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Xin Mẹ Maria giúp các con chú ý tới điều Chúa xin các con, luôn sống và bước đi theo Chúa Thánh Thần.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho các nạn nhân vụ sập nhà máy bên Bangladesh. Ngài bầy tỏ tình liên đới và gần gũi với gia đình các nạn nhân đang khóc thương người thân của họ. Ngài tha thiết kêu gọi các giới hữu trách bảo vệ phẩm giá và an ninh cho giới nhân công.

Sau cùng ca đoàn đã cất Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và Đức Thánh Cha đã ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau khi thay áo lễ Đức Thánh Cha đã đi xe díp ra quảng trường chào các bạn trẻ và tín hữu giữa tiếng vỗ tay và hoan hô liên tục của các bạn trẻ réo gọi tên ”Phanxicô”. Nhiều bạn trẻ cầm các bàn tay có ngón cái giơ lên để nói rằng ”Đức Thánh Cha là số một.” Các bà mẹ thì đua nhau đưa con nhỏ của mình cho các vệ binh bế đến để cho Đức Thánh Cha hôn và vuốt đầu các em. Ngài cũng xã xuống xe đến chào thăm và hôn các người tàn tật ngồi trên xe lăn.
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TƯỞNG NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN CHO QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

TƯỞNG NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN CHO QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

Để tưởng niệm 38 năm biến cố 30 tháng 04, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange trân trọng thông báo cộng đồng dân Chúa, quí đồng hương, buổi tưởng niệm và thánh lễ cầu nguyện cho quê hương được tổ chức tại :

Trung Tâm Công Giáo

1538 N Century Blvd

Santa Ana, CA 92703

Lúc 7 giờ tối Thứ Ba, ngày 30 tháng 4 năm 2013

Kính mời Đức Cha, quí Đức Ông, quí Cha, quí Thày Sáu, quí Sơ, quí chủ tịch Ban Chấp Hành các cộng đoàn, hội đoàn, đoàn thể, và quí đồng hương tham dự để:

         – Niệm một nén hương cho anh linh những người đã hy sinh trong biến cố 30 thángTư và những người đã bỏ mình trên đường tìm tự do.

         -Cùng chung lời cầu nguyện cho những người đang bị bách hại vì đức tin và tự do dân chủ tại quê nhà

         – Và cầu nguyện cho sự vẹn toàn lãnh thổ, lãnh hải và quê hương Việt Nam được tự do, dân chủ thật sự.

Kính mong quí vị đi chung xe và theo sự hướng dẫn của BanTrật Tự.

 

Trân trọng thông báo và kính mời,                                     

NguyễnVănLiêm                                                       

Chủ Tịch               

Ban chấp hành

 

LM.NguyễnThái

Chủ Tịch Hội Đồng Mục vụ và

Điều hành Trung Tâm Công Giáo               

Yêu người như Chúa

Yêu người như Chúa

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.

Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ. Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.

Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.

Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2. Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
3. Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

TÌNH YÊU ĐỔI MỚI MỌI SỰ

 TÌNH YÊU ĐỔI MỚI MỌI SỰ

Điều răn trọng nhất trong thời Cựu Ước là “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, yêu thương người như mình ta vậy”.

Tôi muốn hiểu hai từ điều răn ấy là Hiến Pháp của Thiên Chúa, của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh và của mỗi tín hữu.

Chúa Giê-su đã bổ  sung phần 2 trong bản hiến pháp quan trọng ấy mà Người gọi là “Điều Răn Mới” đó là “Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”.  Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Chúa Giê-su và tình yêu ấy trở nên tiêu chuẩn số một để xác nhận một tình yêu đích thực cho chúng ta.

– Tình yêu ấy bắt nguồn từ lòng khiêm nhượng của Thiên Chúa. Buổi khai giảng một lớp Giáo Lý Khai Tâm, cô giáo lý  viên nói: “Học Giáo Lý là học về Thiên Chúa. Vậy có em nào biết Thiên Chúa là ai không?” Một em nhanh nhảu giơ tay xin trả lời. “Thưa cô, bà nội em kể Thiên Chúa là một vị thần rất lớn, rất cao, rất có quyền, thấy con người đau khổ, nên thương con người quá, bỏ trời xuống đất, làm một em bé…” Cô bất ngờ, hỏi bâng quơ: “Bà nội em già chưa ? Làm nghề gì?” – “Thưa cô, bà nội em năm nay 75 tuổi rồi. Ngày xưa bán bánh canh, giờ già rồi ở nhà quét sân và đọc kinh thôi ạ!”

Tôi mừng thầm về cách bà nội giới thiệu Thiên Chúa cho cháu: một Thiên Chúa khiêm nhượng. Thiên Chúa quyền năng, cao cả, thượng trí vô cùng sao có thể yêu được con người phàm hèn tội lỗi hay hư mất. Chỉ có khiêm nhượng mới nhìn thấy, lắng nghe, thấu hiểu và bỏ cả trời cao mà xuống đất thấp để chạm vào nỗi đau của con người.

– Tình yêu vì  hạnh phúc của người mình yêu: Thiên Chúa là chủ muôn loài muôn vật sao có thể thèm khát chi loài người vốn giống dòng mỏng manh kia lại hay kiêu căng phản bội ? Có ích lợi gì cho Ngài đâu! Vâng, rõ ràng Thiên Chúa yêu con người, Ngài không mong được thêm gì cho Ngài. Vậy mà, Chúa Giêsu đã làm tất cả những gì có thể cho con người được hạnh phúc đời này và đời sau. Môt tình yêu bất vụ lợi.

– Tình yêu cho đi, tình yêu phục vụ: Một Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật phải phủ phục tôn thờ, sao có thể hóa thân thành một con người Giêsu quỳ xuống mà rửa chân cho các Tông Đổ. Ngày ấy, bất ngờ, hẳn là chân các ông thật nhơ nhớp (Không như bây giờ, tên các vị được rửa chân Thứ Năm Tuần Thánh đã được báo trước, và chuẩn bị chà rửa chân cho cực kỳ sạch sẽ). Ngài còn rửa cả chân cho Giuđa. Lòng khiêm nhường của Thiên Chúa mở đường cho Tình Yêu của Ngài là phục vụ, nhất là những người thấp bé, kể cả những người phản bội.

– Tình yêu tự hủy, dâng hiến: Thiên Chúa Cha đứt ruột khi nhìn con mình tan nát tấm thân. Chúa Giêsu chấp nhận đau thương và sẵn lòng chết vì yêu con người, một cái chết kinh khủng nhất, đúng như Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thân xác và linh hồn một Thiên-Chúa-làm-người ấy đã trở nên lễ hiến dâng đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để Chúa Cha tha thứ cho nhân loại.

– Tình yêu đổi mới mọi sự: Sự sống lại của Chúa Giêsu, mở  ra một trời mới, đất mới, một tương lai mới, một hạnh phúc mới cho những ai tin và sống như Người đã dạy, yêu như Người đã yêu. Đó là Sự  Sống vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa mà Thánh Gioan đã thị kiến: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới… Thiên Chúa ở với loài người… Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ… Và Đấng ngự trên ngai vàng đã phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21, 1 – 5a).

– Hãy yêu như  Thầy đã yêu: Người Công Giáo chúng tôi tin Chúa Giêsu vì Ngài đã yêu nhân loại hết lòng, trong đó có  chúng tôi. Tình Yêu của Ngài là tiêu chuẩn để chúng tôi yêu nhau, và cũng là tiêu chuẩn để chúng tôi đặt niềm tin nơi Ngài. “Kính mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu người như Chúa đã yêu” là Hiến Pháp mới của Nước Thiên Chúa, của Hội Thánh, của mỗi gia đình, của mỗi người.

Lời Chúa cũng đang mời gọi mọi dân nước, mọi người hãy yêu theo tiêu chuẩn Tình Yêu Chúa Giêsu: một tình yêu khiêm tốn, dâng hiến, tự hủy, phục vụ, vì hạnh phúc đời này và đời sau. Không ai có thể tin được người không có tình yêu, càng không tin được người có tình yêu vụ lợi.

Hội Thánh của Chúa Kitô bền vững muôn năm muôn đời vì Hội Thánh yêu thương như Giêsu yêu, sống bằng tình yêu thương, một tình yêu đích thực. Vì thế, ai sống trong Hội Thánh mà không sống yêu thương như Chúa yêu là kẻ phá hoại Hội Thánh, không kể thành phần nào. Chức vụ càng cao trong Hội Thánh mà không phản chiếu được tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, cho trần gian, thì tội phá hoại Hội Thánh càng nặng hơn.

Chủ nghĩa nào, đảng phái nào cũng ước muốn muôn năm, nhưng rồi tan tành sụp đổ khi hãy còn quá non trẻ, là bởi vì, hoặc chủ nghĩa ấy, đảng phái ấy, không có tình yêu đích thực cho dân, vì dân, hoặc có một thứ tình yêu giả dối, bịp bợm, gian ác, vơ vét. Cần phải chỉnh đốn điều gì để được tồn tại muôn năm? Chẳng phải là nhắm đến chuyện phát triển mọi mặt bằng một nền tảng là tình yêu đích thực? Ngược lại, sẽ là suy sụp tàn lụi  nếu như cứ tiếp tục cái thế độc quyền cai trị vô cảm và tham lam, vụ lợi của mình?

Gia đình nào cũng ước mong trăm năm hạnh phúc, nhưng thời nay, tình yêu trong hôn nhân gia đình thành ra cũ rích, nhàm chán, lạnh nhạt, có nguy cơ đổ nát, là vì người ta chưa yêu nhau theo tiêu chuẩn của Tình Yêu Giêsu. Ai cũng phải khiêm tốn làm cho “tình yêu bất vụ lợi, tình yêu tự hạ, tự hủy, dâng hiến” sống lại thật trong lòng mình. Mà muốn cho Tình Yêu đúng nghĩa ấy sống lại, hẳn là phải “hỏa táng” cái thứ tình yêu vụ lợi vị kỷ kia đi!

Tình yêu đôi lứa, tuổi trẻ đang bị ảnh hưởng cách yêu vụ lợi của người lớn nên cứ sa đà vào xu hướng ích kỷ cách điên cuồng, dẫn đến bao nhiêu “vụ án cuồng yêu gây chấn động dư luận”

Những rối loạn bên trong, những vụ án bên ngoài ấy, đang nói với chúng ta về cách định nghĩa tình yêu ngược lại với cách định nghĩa của Chúa Giêsu: “Hãy yêu như Thầy đã yêu”. Hiện tình ấy cũng thôi thúc những người còn lương tâm hãy chỉnh đốn chính cách sống yêu của mình cho đúng cách.
 
Lạy Chúa, chúng con nguyện xin cho Hội Thánh Chúa “yêu như Chúa Yêu”, nên chứng tá cho xã hội loài người về một Tình Yêu đích thực. Xin ánh sáng Tình Yêu Chúa chiếu dọi lương tâm con người để con người biết đón nhận “điều răn mới” của Chúa mà thực thi trong xã hội loài người hôm nay. Chúng con tin cung cách “Yêu như Chúa đã yêu” sẽ đổi mới mọi sự nên tốt lành trong thế giới hôm nay. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

TÔN VINH TÌNH YÊU

TÔN VINH TÌNH YÊU

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.V/PS – Ga 13, 31-33a.34-35) trình thuật việc Đức Giê-su nói lời cáo biệt với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Tự nhiên có một thắc mắc: “Đáng lẽ giờ phút này là giờ phút Con Người phải chịu nhục mạ, phỉ báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá cho đến chết (Mt 20, 17-19; Lc 18, 31-33); nhưng tại sao Người lại nói “Giờ đây, Con Người được tôn vinh”? Câu trả lời cũng hiển nhiên như sự thật đã diễn ra: Nếu xét theo trình tự thời gian thì đúng là câu này phải được Đức Giê-su phát biểu sau khi Người Phục Sinh. Nhưng tất cả đã được Chúa Cha an bài từ trước vô cùng (xc “Bài ca Người Tôi Trung” – Is 52, 13-15; 53,1-12) và được chính Đức Ki-tô khẳng định: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” (Lc 18, 31-33). Vì thế, từ “Giờ đây” ở đây diễn tả biến cố tương lai như một thực thể hiện tại, nghĩa là sự tôn vinh của Đức Giê-su chưa hoàn tất, mà lại được coi như đã xảy ra; xem như sự khổ nạn, sự chết và sống lại của Người đã được hoàn thành. Và có lẽ cũng vì thế nên Giáo Hội mới xếp bài Tin Mừng đó vào Chúa nhật V Phục Sinh.

Khi Giu-đa It-ca-ri-ốt đi khỏi, một bầu khí ấm cúng, thân mật và thật cảm động bao bọc Chúa Giê-su và các Tông đồ. Bầu khí ly biệt thật là thích hợp để Đức Giê-su tâm sự với các Tông đồ về một điều vô cùng quan trọng và cần thiết, đó là Tình yêu (“Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người… Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” – Ga 13, 31-35). Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai điểm chính: Đức Ki-tô tôn vinh Tình Yêu và Người truyền cho các môn đệ sống với nhau trong Tình Yêu.

a) Tôn vinh Tình Yêu: Đức Giê-su nhìn giây phút “giờ đây” Người sắp hiến mạng sống mình vì bạn hữu là thời điểm Người được tôn vinh. Cả cuộc đời trần thế 33 năm của Đức Giê-su đã chứng tỏ cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương họ đến chừng nào (“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” – Ga 3, 16-17). Cái chết và phục sinh của Đức Giê-su là dấu chỉ chiến thắng vinh quang của Tình Yêu Thiên Chúa và cũng là thời điểm Tình Yêu Nhập Thể được tôn vinh. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vâng lệnh Chúa Cha xuống thế mặc xác phàm, hiến mạng sống cho người mình yêu là nhân loại, nên có thể nói Đức Ki-tô là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu (Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 12). Vì thế, khi Đức Vua Tình Yêu Giê-su được tôn vinh, thì Thiên Chúa là chính Tình Yêu nên cũng phải được tôn vinh. Đó là nguyên lý tất yếu.

b) Thể hiện Tình Yêu: Lệnh truyền của Đức Giê-su là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nói đến Tình yêu là nói đến nguyên nhân và kết quả. Thiên Chúa Tình Yêu là nguyên nhân phát sinh ơn Cứu Độ, thì kết quả là loài người được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Tình yêu Đức Giê-su Thiên Chúa dạy các môn đệ tất nhiên phải là tình yêu sinh hiệu quả. Hiệu quả cụ thể được nói đến ở đây là: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy”. Thật thế, khi chúng ta sống yêu thương khiến những người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa, thì đó chính là cách chúng ta làm cho tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Một cách cụ thể thì đó là lời tha thiết mời gọi các môn đệ và mọi tín hữu hãy noi gương Người-hiện-thân-của-Tình-Yêu-Thiên-Chúa, thể hiện cách cụ thể Tình Yêu bằng những chứng tá bác ái trong cuộc sống đời thường. Vâng, chính những “Hoạt động bác ái của Hội Thánh như là một cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi” (Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 19).

Như vậy là đã rõ tại sao trong lịch Phụng Vụ, Giáo Hội lại xếp vào Chúa nhật V Phục Sinh bài Tin mửng nói về những lời cáo biệt của Đức Giê-su trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô chính là đỉnh điểm Tình Yêu Thiên Chúa. Nói cách khác thì đó chính là công cuộc hiện thực hoá Lời Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” (Lc 10, 27).

Bài học về tình yêu hôm nay Đức Giê-su giúp các tín hữu khám phá tình yêu qua những khía cạnh thật mới mẻ, sống động và cụ thể. Vâng, “Chúa Ki-tô đã chết và đã sống lại một lần cho tất cả và cho mỗi người, nhưng sức mạnh sự sống lại của Ngài, sự vượt qua từ tình trạng nô lệ sự ác đến tự do của điều thiện, phải được thể hiện trong mọi thời đại, trong mọi không gian cụ thể của cuộc sống chúng ta, trong đời sống mỗi ngày của chúng ta.” (ĐTC Phan-xi-cô I – “Sứ điệp Phục Sinh 2013”). Rõ ràng Đức Ki-tô dạy chúng ta biết tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa nơi chính Con Người và nơi những “người thân cận” trên khắp thế giới, không phân biệt màu da hay sắc tộc. Sống yêu thương là cách tốt nhất để ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa. Và đã gọi là sống yêu thương, tức là phải thể hiện ra bằng cả tâm hồn và hành động, vì “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).

Tuy nhiên, “Ngày nay con người vẫn còn phải tiến qua bao nhiêu sa mạc! Nhất là sa mạc trong nội tâm con người, khi họ thiếu lòng mến Chúa yêu người, khi họ không ý thức mình là người gìn giữ tất cả những gì Đấng Tạo Hóa đã và đang ban cho chúng ta. Nhưng lòng từ bi Chúa có thể làm cho đất khô cằn nhất nở hoa, có thể tái ban sự sống cho những bộ xương khô (Xc Ez 37, 1-14)” (ĐTC Phan-xi-cô I – “Sứ điệp Phục Sinh 2013”). Quả thật, Tình yêu chỉ thực sự được tôn vinh khi người Ki-tô hữu sống trọn hảo điều răn trọng nhất: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con biết đem tình yêu vào cuộc sống. Chính tình yêu sẽ làm cho mọi công việc và hoạt động của chúng con – tuy tầm thường – nhưng vẫn chiếu toả trước mặt thiên hạ, để người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua con người thấp hèn và bé mọn của chúng con. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

Tình Yêu, Điều Răn Mới

Tình Yêu, Điều Răn Mới

Tháng 3 năm 1930, Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp về nhận họ đạo Tắc Sậy. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo vùng phụ cận như: Bà Ðốc, Cam Bô, An Hải, Ðầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Ðồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con dân chúng di tản, Cha Bề Trên điạ phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả người Pháp cũng gọi ngài lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì trở về họ đạo, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết.”

Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm luá của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.

Ngài mất trong khi thi hành nhiệm vụ chủ chăn. Xác ngài được vớt lên từ một cái ao của ông giáo Sự, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.

Thi hài ngài được chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo. Ðến năm 1969, hài cốt ngài được di dời về nhà thờ Tắc Sậy, nhiệm sở của ngài thi hành chức vụ chủ chăn trong 16 năm. Ngôi nhà mồ của ngài hiện nay, được trùng tu và khánh thành ngày 4-6-1989. Ngài là Cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy. (Lm Nguyển Ngọc Tỏ, Tiểu sử Lm Fx Trương Bửu Diệp)

Trích thuật Tin Mừng thánh Gioan hôm nay loan báo Chúa Giêsu ban cho các môn đệ một Điểu Răn Mới.” Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13, 34 -35). Điểm quan trọng nhất là“anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Trong Kinh Thánh tiếng Hy Lạp có tất cả bốn chữ để diễn tả tình yêu: eros là tình yêu trai gái; philio là tình yêu giữa bạn bè; storge, tình yêu giữa anh chị em trong gia đình; và agape, là tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện.

Tình Yêu agape được Chúa Giêsu đề cập đến khi hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?“ (Ga 21, 15). Như vậy Tình Yêu agape trọn vẹn siêu việt trong Điều Răn Mới phải rất đặc biệt.

Yêu một chiều

Tình yêu thông thường như eros, philio, storge thì luôn luôn đòi hỏi hai chiều, âm hưởng giữa hai đối tượng. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Có đáp ứng lại với nhau, mới phát sinh tình cảm yêu thương. Nhưng Tình Yêu agape trái lại, chỉ duy nhất một chiều, không cần điều kiện vì, do hay nếu, không mong chờ đền đáp, dù rất mong muốn.

Vì là một chiều, Tình Yêu agape mới có thể vươn xa, ra khỏi bản ngã, cái tôi đáng ghét, ra bên ngoài mối thân thích, họ hàng, bạn bè quen thuộc, đến với kẻ xa lạ, thậm chỉ đến với cả địch thù, chống báng, đối đầu, bất cộng đái thiên.

“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6, 27-28)

Không những yêu thương kẻ thù, mà còn chúc lành và cầu nguyện cho kẻ thù nữa. Hoặc cho vay, mà chẳng mong đển trả, khác chi cho không biếu không, nói tắt là Tình Yêu agape trao tặng vô điều kiện.

“Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6, 35)

Yêu là chết đi

Nếu không dẹp đi những cản trở vị kỷ, thì không thể chân thành yêu thương người khác được. Những toan tính vụ lợi cá nhân ngăn chận bước chân thân tình đến với tha nhân. Lòng tự phụ, kiêu căng, sĩ diện, so đo, đố kỵ, tham lam, ác độc, chỉ hoàn toàn phủ nhận, hạ bệ, chà đạp tha nhân, thay vì đón tiếp vào vòng tay nhân ái. Do vậy, cần chết đi cách sống cũ ích kỷ, bất nhân, từ tâm tưởng, lời nói và hành động, nếu muốn yêu thương theo Chúa Giêsu.

“Những ai thuộc về Đức Kitô thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.” (Gl 5, 24)

Cha Phanxicô Xaviê Trưởng Bửu Diệp đã mạnh dạn ra đi theo Chúa, gắn bó với sứ vụ mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho Tình Yêu agape trọn vẹn viên mãn.

Yêu là sống cho

Chết đi những thói hư tật xấu, những đam mê phù phiếm, những ham muốn xác thịt, để Tình Yêu agape có thể phục vụ tha nhân trong sự khiêm hạ và thân tình. Như thế Tình Yêu agape sống cho tha nhân, cũng như sống cho Chúa, chứ không còn ràng buộc vào sống cho mình, mưu cầu hạnh phúc bản thân.

“Chúng ta có sống là sống theo Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 8)

Với Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, sống cho tha nhân trong tinh thần khiêm tốn, biết quên mình phục vụ, như Chúa từng khiêm hạ, quỳ xuống rửa chân các môn đệ.

“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20) Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ như thế trong Thư gửi tín hữu Galat.

Các thánh càng già thì quả tim họ càng trẻ. (Đường Hy Vọng, 177)

Đừng để tháng ngày làm quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con. (Đường Hy Vọng, 178)

Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, xin cho con noi gương Chúa, biết khiêm hạ, bỏ mình và phục vụ trong Tình Yêu dâng hiến trọn vẹn.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con nuôi dưỡng Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, để con biết tha thứ, quên hết hằn thù, chúc phúc và cầu nguyện cho những người ám hại con. Amen.

AM Trần Bình An

Chương trình của Đức Thánh Cha Phanxicô

Chương trình của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Trong năm nay, 2013, ĐTC Phanxicô chỉ thực hiện 1 cuộc viếng thăm duy nhất tại nước ngoài, đó là tại Brazil nhân ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 28, tiếng hành tại Rio de Janeiro từ ngày 23 đến 28-7-2013.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết như trên trong cuộc gặp gỡ giới báo chí hôm 25-4-2013. Cha không loại trừ sự kiện trước cuối năm nay, ĐTC Phanxicô có thể công bố thông điệp đầu tiên của ngài, và cha Lombardi nhắc lại rằng ĐGH Biển Đức 16 đã chuẩn bị tài liệu về đề tài đức tin.

Cũng trong cuộc họp báo, LM Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 sẽ từ Castal Gandolfo dọn về Đan viện Mẹ Giáo Hội ở nội thành Vatican trong khoảng từ cuối tháng 4 và những ngày đầu tháng 5 này. Trong khi đó, ĐGH Phanxicô tiếp tục cư ngụ tại Nhà trọ Thánh Marta. Hiện thời dường như ĐTC không muốn thay đổi nơi ở, cho dù đây không phải là một quyết định chung kết.

Trong những ngày qua, tiến sĩ Alberto Gasbarri, đặc trách chuẩn bị các chuyến viếng thăm của ĐTC tại nước ngoài, cũng là giám đốc hành chánh của Đài Vatican, đã đến Rio de Janeiro, để xác định những chi tiết trong cuộc viếng thăm của ĐTC Phanxicô.

Cha Lombardi nói: “Chương trình sẽ theo sự nhạy cảm của ĐGH”. Sự hiện diện của ngài được xác nhận trong lễ nghi tiếp đó, đàng Thánh giá, buổi canh thức và thánh lễ bế mạc sáng chúa nhật 28-7 tại Cánh đồng đức tin ở khu vực Guaratiba (SD 25-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày phán xét thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành và bác ái hơn

Ngày phán xét thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành và bác ái hơn

Ngày phán xét không làm cho chúng ta sợ hãi, nhưng thúc đẩy chúng ta sống giây phút hiện tại tốt lành hơn, biết nhận ra Chúa nơi các anh chị em nghèo túng và yêu thương trợ giúp họ.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 24-5-2013. Trong số các đoàn hành hương hiện diện và được ngồi hai bên khán đài có phái đoàn 55 tín hữu Việt Nam, do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn hướng dẫn. Đức Thánh Cha đã chào phái đoàn như sau:

Tôi thân ái chào các khách hành hương Việt Nam của tổng giáo phận thành phố Sàigòn, dưới sự hướng dẫn của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.

Trong hài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm, như viết trong Kinh Tin Kinh: ”Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức thánh Cha nói: Lịch sử loài người đã bắt đầu với việc tạo dựng người nam và người nữ giống hình ảnh của Thiên Chúa, và kết thúc với việc phán xét sau hết của Chúa Kitô. Thường khi chúng ta quên hai cực này của lịch sử, và nhất là niềm tin vào việc trở lại của Chúa Kitô và ngày phán xét sau hết đôi khi không rõ ràng và vững vàng trong tim của các kitô hữu. Trong cuộc sống công khai Chúa Giêsu đã thường dừng lại trên thực tại này của lần trở lại sau cùng.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã suy tư về ba dụ ngôn giúp mình giải ý nghĩa của tín lý này: đó là dụ ngôn 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, dụ ngôn các nén bạc và văn bản nói về ngày phán xét sau hết. Cả ba văn bản đều thuộc diễn văn của Chúa Giêsu về ngày tận thế trong Phúc Âm thánh Mátthêu.

Với việc Lên Trời Con Thiên Chúa đã đem nhân tính của chúng ta mà Người đã nhận lấy lên gần Thiên Chúa Cha, và muốn kéo tất cả chúng ta đến với Người, muốn kêu gọi toàn thế giới được đón nhận trong vòng tay rộng mở của Thiên Chúa, để khi lịch sử kết thúc, toàn thực tại được giao cho Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, có ”thời gian tức khắc” giữa biến cố Chúa Kitô đến lần đầu và lần cuối, là thời gian chúng ta đang sống. Dụ ngôn mười trinh nữ nằm trong bối cảnh của ”thời gian tức khắc” này (x. Mt 25,1-13).

Đây là mười trinh nữ đang chờ Chàng Rể tới, nhưng chàng đến chậm và các cô thiếp ngủ. Khi nghe báo Chàng Rể đang tới, tất cả các cô chuẩn bị tiếp đón Chàng, nhưng trong khi các cô khôn ngoan có dầu để châm cho đèn, thì các cô khờ dại bị tắt đèn vì không có dầu; và trong khi họ tìm cách đến với Chàng Rể thì các trinh nữ khờ dại thấy cửa vào phòng tiệc cưới đã đóng. Họ kiên trì gõ cửa nhưng đã qúa muộn, Chàng Rể trả lời: Ta không biết các ngươi. Chàng Rể là Chúa, và thời gian chờ đợi Người tới là thời gian Chúa cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, với sự thương xót và lòng kiên nhẫn, trước ngày Chúa đến lần sau hết; đó là một thời gian tỉnh thức, thời gian trong đó chúng ta phải giữ cho đèn của đức tin, đức cậy và đức mến được cháy sáng, trong đó chúng ta phải giữ cho con tim rộng mở cho sự thiện, cho vẻ đẹp và cho tình bác ái; đó là thời gian sống theo Thiên Chúa, bởi vì chúng ta không biết ngày giờ cuộc trở lại của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha giải thích giáo huấn của dụ ngôn như sau:

Điều đòi hỏi chúng ta là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này, được chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ đẹp, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu; nó có nghĩa là biết trông thấy các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, giữ cho đức tin của chúng ta được sống động, với lời cầu nguyện, với các Bí tích, tỉnh thức để đừng ngủ, để đừng quên Chúa. Cuộc sống của các kitô hữu ngủ là một cuộc sống buồn sầu, không phải là một cuộc sống hạnh phúc. Kitô hữu phải là người hạnh phúc, với niềm vui của Chúa Giêsu. Chúng ta đừng ngủ!

Dụ ngôn thứ hai là dụ ngôn các nén bạc, khiến chúng ta suy tư về tương quan giữa việc chúng ta dùng các ơn nhận được từ Thiên Chúa như thế nào và việc trở lại của Người, trong đó Người sẽ hỏi chúng ta đã dùng các ơn ấy ra sao (x. Mt 25,14-30). Chúng ta biết rõ dụ ngôn: trước khi đi xa, ông chủ trao cho mỗi đầy tớ vài nén bạc, để chúng được sử dụng trong lúc ông vắng nhà. Ông giao cho người thứ nhất năm nén, người thứ hai hai nén và ngươi thứ ba một nén. Trong thời gian ông đi vắng hai người dầu tiên làm cho các nén bạc sinh lợi, trong khi người thứ ba thích chôn nén bạc của mình và trả lại nguyên vẹn cho chủ. Khi chủ về ông xét xử công việc của họ: ông khen ngợi hai người đầu, trong khi người thứ ba bị đuổi ra ngoài trong tối tăm vì anh ta đã dấu nén bạc vì sợ hãi, và khép kín trong chính mình. Một kitô hữu khép kín trong chính mình, chôn dấu tất cả nhữmg gì Chúa đã ban cho không là một kitô hữu. Đó là một kitô hữu không cám ơn Chúa về tất cả những gì Chúa đã ban cho họ. Đức Thánh Cha giải thích giáo huấn của dụ ngôn như sau:

Điều này nói với chúng ta rằng sự chờ đợi Chúa trở lại là thời gian của hành động – chúng ta đang sống trong thời gian hành động – thời gian, trong đó sinh hoa trái các ơn Chúa ban cho chúng ta, không phải cho chính chúng ta, nhưng là cho Chúa, cho Giáo Hội, cho những người khác, là thời gian trong đó luôn tìm cách gia tăng sự thiện trong thế giới. Và một cách đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng ngày nay, điều quan trọng là không khép kín trong chính mình, bằng cách chôn dấu nén bạc, các phong phú tinh thần, trí tuệ, vật chất của mình, tất cả những gì mà Chúa đã ban cho chúng ta, nhưng phải mở ra, liên đới, chú ý tới người khác. Trong quảng trưởng tôi trông thấy nhiều người trẻ, có đúng thế không? Có nhiều người trẻ phải không? Người trẻ ở đâu rồi? Với các con là những người còn đang ở lúc khởi đầu của con đường cuộc sống cha xin hỏi: Các con đã nghĩ tới các nén bạc Thiên Chúa đã ban cho các con chưa? Các con đã nghĩ có thể dùng chúng để phục vụ tha nhân chưa? Đừng chôn dấu các nẻn bạc! Hãy đánh cá chúng trên các lý tưởng lớn, các lý tưởng rộng mở con tim, các lý tưởng phụng sự khiến cho các nén bạc của các con phong phú. Cuộc sống không được ban cho để chúng ta khư khư giữ nó cho chính mình, mà được ban để chúng ta cho đi. Các người trẻ thân mến, hãy có một tâm hồn cao thượng! Đừng sợ hãi mơ tưởng các điều vĩ đại!

Sau cùng là một lời liên quan tới sự phán xét sau hết, trong đó được miêu tả lần đến thứ hai của Chúa, khi Người sẽ phán xét tất cả mọi người kẻ sống và người chết (x. Mt 25,31-46). Hình ảnh được thánh sử dùng là hình ảnh của người mục tử tách chiên khỏi dê. Bên phải được đặt những người đã hành động theo ý muốn của Thiên Chúa, cứu giúp tha nhân đói khát, khách lạ, trần truồng, yếu đau, bị cầm tù – tôi đã nói ”khách lạ”: tôi nghĩ tới tất cả các người nước ngoài ở trong giáo phận Roma này, chúng ta phải làm gì cho họ? – trong khi đi về bên trái là những kẻ đã không cứu giúp tha nhân. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa sự phân cách này như sau:

Điều này nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xử theo tình bác ái, theo cách chúng ta sẽ yêu thương các anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người yếu đuối và cần được giúp đỡ. Chắc chắn chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta được biện minh, chúng ta được cứu rỗi nhờ ơn thánh, vì một hành động của tình yêu thương nhưng không của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn đi trước chúng ta; một mình chúng ta không thể làm được gì. Đức tin trước hết là một ơn mà chúng ta đã nhận được. Nhưng để mang hoa trái ơn thánh Chúa luôn luôn đòi hỏi chúng ta rộng mở cho Người, câu trả lời tự do và cụ thể của chúng ta. Chúa Kitô đến để đem lại cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa là Đấng cứu thoát. Chúng ta được yêu cầu tín thác nơi Người, đáp trả lại ơn tình yêu của Người với một cuộc sống tốt lành, gồm các hành động được linh hoạt bởi đức tin và tình yêu thương.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến nhìn vào sự phán xét sau hết không bao giờ làm chúng ta sợ hãi; đúng hơn nó thúc đẩy chúng ta sống hiện tại tốt lành hơn. Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta thời gian này với lòng thương xót và sự kiên nhẫn, để chúng ta học nhận biết Người mỗi ngày nơi các anh chị em nghèo túng và bé nhỏ, để chúng ta làm việc thiện và tỉnh thức trong lời cầu nguyện và trong tình yêu thương. Ước chi vào cuối cuộc đời mình và khi lịch sử kết thúc Chúa có thể thừa nhận chúng ta như các đầy tớ tốt lành và trung tín của Người.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào người trẻ và khuyến khích họ tận dụng mọi khả năng và tài khéo Chúa ban để xây dựng Nước Chúa, Giáo Hội rất cần đến họ. Sau cùng ngài cất Kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha mừng lễ thánh Giorgio bổn mạng

Đức Thánh Cha mừng lễ thánh Giorgio bổn mạng

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi toàn thể Giáo Hội can đảm loan báo Tin Mừng, dù gặp phải những bách hại và khó khăn.

Trên đây là ý chính bài giảng ứng khẩu của ĐTC trong thánh lễ lúc 10 giờ sáng 23 tháng 4-2013, nhân lễ thánh Giorgio bổn mạng của ngài.

Đồng tế thánh lễ với ĐTC tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa có hơn 45 Hồng Y cư ngụ tại Roma, và một số chức sắc thuộc Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Đầu thánh lễ, ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng y đoàn, đã đại diện các Hồng Y chúc mừng lễ bổn mạng ĐTC và nhắc lại vài nét nổi bật trong cuộc đời của thánh Giorgio: Người đã từ bỏ chức vụ sĩ quan cấp cao trong quân đội của hoàng đế Roma, để trở thành chiến binh của Chúa Kitô. Thánh nhân cởi bỏ binh giáp để mặc lấy áo giáp đức tin và đức ái. ĐHY Sodano cầu chúc ĐTC được hồng ân sức mạnh Kitô mà Chúa Thánh Linh phú cho các vị tử đạo trong mọi thời đại. Chính hồng ân sức mạnh Thánh Linh đổ tràn tâm hồn viên sĩ quan trẻ Giorgio của quân đội Roma, đã giúp thánh nhân đương đầu với mọi khó khăn trong việc từ bỏ binh nghiệp để trở nên môn đệ Chúa Kitô, phân phát tài sản của mình cho người nghèo. ĐHY niên trưởng nói thêm rằng: ”Cùng với ĐTC, chúng con cũng cầu xin ơn sức mạnh Kitô cho những người đang còn chịu đau khổ vì đức tin, như thời thánh Giorgio. Như cách đây mấy ngày, ĐTC đã nhắc nhở chúng con rằng thời kỳ của các vị tử đạo vẫn chưa chấm dứt!”.

Trong bài giảng, dựa vào các bài đọc, ĐTC ghi nhận một số điểm: trước tiên là chính lúc Giáo Hội bị bách hại, thì cũng là lúc bùng lên công trình truyền giáo của Giáo Hội: các tín hữu Kitô bị bách hại như thế đã đi tới tận miền Fenicia, đảo Cipro, và Antiokia, để công bố Lời Chúa. Họ mang trong mình lòng nhiệt thành tông đồ và nhờ đó đức tin được phổ biến. Và khi đến Antiokia, các tín hữu ấy đã bắt đầu nói với cả những người Hy Lạp. Chính Thánh Linh đã giúp họ có sáng kiến nói với cả những người Hy Lạp, đã thúc đẩy họ đi xa hơn nữa!

ĐTC cũng nhận xét rằng: Tại Jerusalem bấy giờ, có những người nghe tin về điều ấy, thì cảm thấy căng thẳng, và họ đã gửi Barnaba đến ”thanh tra tông tòa”; với một chút tinh thần khôi hài, chúng ta có thể nói cuộc thanh tra tông tòa của Barnaba ấy là khởi điểm thần học của Bộ giáo lý đức tin! Nhưng thánh Barnaba đến nơi đã thấy mọi sự tốt đẹp. Giáo Hội trở thành một người Mẹ có nhiều người con, người Mẹ cho chúng ta đức tin, mang cho chúng ta căn tính. Căn tính Kitô chính là sự thuộc về Giáo Hội.

Về điểm này, ĐTC Phanxicô phê bình lập luận của những người cho rằng mình muốn sống với Chúa Giêsu chứ không muốn sống với Giáo Hội; thật là một điều tách biệt vô lý khi muốn theo Chúa Giêsu ngoài Giáo Hội, yêu Chúa Giêsu mà không có Giáo Hội”. Chính Giáo Hội là Mẹ ban Chúa Giêsu cho chúng ta, trao tặng chúng ta căn tính: căn tính này không phải chỉ là một ấn tích, nhưng là sự thuộc về Giáo Hội”.

ĐTC cảnh giác thái độ chiều theo hoặc thỏa hiệp với thế gian, tìm an ủi nơi trần thế mà không ý thức về những bách hại và khó khăn. Ngài nói: ”Nếu chúng ta muốn tiến bước một chút trên con đường trần thế, thương thảo với thế gian – như những người Macabêu xưa kia bị cám dỗ muốn thực hiện, thì chúng ta sẽ không bao giờ được sự an ủi của Chúa. Và nếu chúng ta chỉ tìm an ủi, thì đó chỉ là một sự an ủi hời hợt, chứ không phải là ơn an ủi của Chúa, chỉ là một sự an ủi của phàm nhân. Giáo Hội luôn tiến bước giữa Thập Giá và sự Phục Sinh, giữa bách hại và sự an ủi của Chúa. Đó chính là hành trình của Giáo Hội: ai tiến trên con đường này thì không ai lầm”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được lòng nhiệt thành tông đồ, thúc đẩy chúng ta tiến bước, như anh em với nhau! Hãy tiến bước, mang theo danh Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thánh là Mẹ chúng ta, và như thánh Ignatio đã nói, Giáo Hội ”có phẩm trật và Công Giáo” (SD 23-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio