Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Tổng thống Giorgio Napolitano của Italia sáng 8 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh nghĩa vụ bênh vực tự do tôn giáo, và kêu gọi giữ vững hy vọng trong nỗ lực vượt thắng các cuộc khủng hoảng hiện nay.

Đây là cuộc viếng thăm chính thức của Tổng thống Napolitano sau lần gặp gỡ ĐTC Phanxicô vào cuối buổi lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ngài. Tháp tùng ông có phu nhân và đoàn tùy tùng gồm 13 người.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC ca ngợi quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia cũng như sự cộng tác chặt chẽ giữa hai bên. Ngài nhắc đến sự kiện năm nay là dịp kỷ niệm 1.700 năm, sắc chỉ Milano được Hoàng đế Constantino ban hành năm 313 để tha bách hại Kitô giáo. Nhiều người coi đây là biểu tượng sự khẳng định đầu tiên về nguyên tắc tự do tôn giáo.

ĐTC nói: ”Trong thế giới ngày nay, tự do tôn giáo thường được khẳng định hơn là được thực hiện. Thực vậy, tự do tôn giáo phải chịu nhiều loại đe dọa và nhiều khi bị vi phạm. Những vụ chà đạp trầm trọng quyền tự do cơ bản này là nguồn mạch gây ra lo âu và phải được các nước trên thế giới đồng thuận phản ứng, tái khẳng định phẩm giá bất khả nhượng của con người, chống lại mọi vi phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ tự do tôn giáo và thăng tiến tự do này cho mọi người. Trong việc cùng nhau bảo vệ thiện ích luân lý ấy, có một sự bảo đảm cho việc tăng trưởng và phát triển toàn thể cộng đồng”.

ĐTC cũng đề cập đến những cuộc khủng hoảng hiện nay tại Italia cũng như nhiều nước trên thế giới, làm cho các vấn đề kinh tế và xã hội thêm trầm trọng, đè nặng đặc biệt trên các thành phần yếu thế nhất trong xã hội. Nhất là có những hiện tượng đáng lo âu như gia đình và các liên hệ xã hội bị suy yếu, dân số giảm sút, lợi lộc được coi trọng hơn lao công, sự lưu tâm không đủ đối với các thế hệ trẻ và việc huấn luyện cho họ để có một tương lai thanh thản và chắc chắn hơn”.

ĐTC nói: ”Trong thời điểm khủng hoảng như hiện nay, một điều cấp thiết là, trong các nỗ lực chính trị, cần có sự quan tâm nhiều hơn đối với người trẻ, và các tín hữu cũng như những người không tí ngưỡng càn cộng tác với nhau để thăng tiến một xã hội trong đó bất công được khắc phục và mỗi người được đón nhận, cũng như có thẻ góp phần vào công ích theo phẩm giá của mình”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi đừng đánh mất hy vọng và nói rằng: ”Bao nhiêu tấm gương trong chiều hướng này đã được các ông bà chúng ta nêu lên, khi đương đầu với những thử thách cam go trong thời đại các ngài, với lòng can đảm và tinh thần hy sinh. Nhiều lần ĐGH Biển Đức 16 đã lập lại rằng cuộc khủng hoảng hiện nay phải là cơ hội để canh tân các quan hệ nhân bản trong tình huynh đệ. Cả dân tộc Italia, kín múc từ truyền thống Kitô rất phong phú của mình trong tinh thần tín thác và sáng tạo, cũng như từ tấm gương của các vị thánh bổn mạng Phanxicô Assisi và Catarina Siena và nhiều nhân vật đạo đời, từ chứng tá âm thầm của bao nhiêu người nam nữ, Italia có thể và phải khắc phục mọi chia rẽ và tăng trưởng trong công lý và hòa bình, nhờ đó tiếp tục giữ vai trò đặc thù trong bối cảnh Âu Châu và trong gia đình các dân nước”.

Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Napolitano và đoàn tùy tùng đã gặp ĐHY Bertone Quốc vụ khanh, và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh (SD 8-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2,030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1.500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

NIỀM VUI GÓA PHỤ

NIỀM VUI GÓA PHỤ

“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”.

Ôi, con mắt của Thiên Chúa, cái nhìn thấy của Thiên Chúa có khác con mắt và cái nhìn của con người trần gian.

Trước cái chết của một con người, ai cũng ngậm ngùi thương tiếc người đã ra đi, ai cũng thở than cuộc người sao ngắn ngủi. Có người lại còn suy luận rằng: “Ta rồi cũng phải chết. Thế thì không hưởng thụ cho hết cuộc đời này trước khi chết, thì thật là dại dột”. Họ còn tự cho cái suy luận của mình như thế là có khoa học, là văn minh, là kim chỉ nam cho mình, là chủ trương, là đường lối cho những thuộc hạ mình noi theo! Thật tồi tệ!
 
Trong Tin Mừng hôm nay, trước cái chết của thanh niên, con trai duy nhất của bà góa thành Naim, điều mà Chúa Giê-su thấy trước tiên lại là nỗi đau của người mẹ đã mất chồng, nay lại mất con, nỗi đau của người sẽ cô độc trong đời. Và Chúa động lòng thương bà ấy.

Người đã chết rồi còn đau khổ gì không?
Kẻ góa bụa tan nát lòng, đứt ruột
Một đời yêu trên dương trần cơ cực
Được mấy ngày thực hạnh phúc bên nhau
 
Chút con trai niềm vui sống ngọt ngào
Lấp khoảng trống trước sau căn nhà nhỏ
Tình mẹ con sớm chiều thương bày tỏ
Cũng vội vàng từ  bỏ mẹ mà đi….
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Không chỉ động lòng thương theo kiểu của người thường là một chút xúc động hời hợt bất thường, một tình cảm tự nhiên chóng qua, Chúa Giê-su còn thể hiện tình thương ấy bằng việc “đưa tay chạm vào quan tài” người thanh niên, một việc mà thời bấy giờ người ta cho là ô uế, nhớp nhúa. Ngay cả thời nay, lúc hãy còn sống, thì thân người ôi thơm tho, người muốn nắm tay người, người muốn hôn lên môi người, người muốn ôm lấy thân người để biểu tỏ tình cảm với người, nhưng khi người đã nhắm mắt xuôi tay, nào ai dám đến gần vuốt mặt, cầm tay….nghĩ cũng đáng buồn cho kiếp người.

Chúa chạm tay vào quan tài, và Lời Chúa tuyên phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Nắp áo quan bỗng mở ra. Một thi hài bất động bỗng ngồi lên cười nói trước mắt mọi người, trước mắt nhóm người theo Chúa và trước mắt nhóm người đi trong đám tang.

“Thanh niên hỡi, hãy chỗi dậy rỡ ràng”
Tấm nắp mở toang, người chết đang ngồi dậy
“Này góa phụ, con trai bà sống lại”
Thật diệu kỳ, mẹ  ôm lấy con yêu
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Tất cả mọi người sững sờ trước chuyện xưa nay chưa từng có. Có thể họ đã bàn tán xôn xao: Con mắt của Người nhìn thấu tận tâm can, thấu từng nỗi đau mà người đời khó  thấy. Bàn tay của Người thực hiện bao việc lạ lùng. Lòng thương của Người thật vĩ đại. Lời Người thật quyền năng. Thánh Luca ghi rõ tâm trạng của những người chứng kiến việc thanh niên kia sống lại là “sợ hãi và ngợi khen”. Đây hẳn không phải sự sợ hãi trước một sự dữ khủng khiếp kinh hoàng, nhưng là sự nghiêng mình kính phục trước quyền năng và lòng từ ái vô biên của Thiên .

“Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người".

Và  khi đã mục kích, đã hết lòng khâm phục, đã yên tâm tin tưởng vào quyền năng và lòng từ ái ấy, họ trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa:

“Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận”.

Cho mọi người hiểu biết về Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, kính phục tôn thờ mến yêu tin tưởng Thiên Chúa nơi Người, và loan truyền ơn cứu độ của Người khắp cùng thiên hạ, là mục đích của Người qua phép lạ làm cho con trai bà góa thành Naim sống lại.

“Xin ngợi ca lòng nhân Chúa tỏ tường
Vinh hiển Chúa khắp mười phương thiên hạ
Hằng hà sao hằng hà ơn phước cả
Vạn niềm đau, muôn phép lạ lẫy lừng”
(“Chúa đã viếng thăm”  – Ba Chuông)

Qua trang Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta được:

– Mặc lấy cái nhìn yêu thương, thông cảm của Chúa, để biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời đau khổ.

– Không ngại khiêm cung cúi thấp mình xuống để chạm vào nỗi đau của anh em, không ngại tanh hôi, thối vữa, không ngại những lời chỉ trích phê phán của những kẻ chỉ thích ăn trên, ngồi trước, sống chết mặc ai dưới chân mình.

– Tin tưởng Lời Chúa có sức làm cho chính mình được  ơn Phục Sinh, ơn đổi mới, ơn công chính và cũng dùng chính Lời Chúa làm động lực thi thố lòng thương xót của Chúa đối với tất cả mọi người.

– Tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong cuộc sống chúng ta bằng cách sống trọn vẹn ơn công chính để trở thành lời chứng cho Tin Mừng, lời chứng cho danh Thiên Chúa trên khắp vũ hoàn.
 
Lạy Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa Uy Quyền và Giàu Lòng Thương Xót, xin cứu sống linh hồn chúng con, và cho chúng con ca tụng danh Chúa đến muôn đời. A men.

PM. Cao Huy Hoàng

ĐỪNG KHÓC NỮA

ĐỪNG KHÓC NỮA

Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì  không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.

Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.

Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.

Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.

Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).

Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…

Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời:”Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.
 
Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ : R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh : requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.
 
Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mạn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2.030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1,500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6 tháng 6-2013, dành cho các sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các Linh mục sinh viên luôn vun trồng tự do nội tâm và đời sống thiêng liêng.

Trong số 45 người hiện diện tại buổi tiếp kiến, ngoài hơn 30 LM sinh viên, còn có ban giám đốc, và các nữ tu phục vụ tại trường, dưới sự hướng Đức TGM Giám đốc Benjamin Stella.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói: ”Công việc phục vụ tại các Sứ quán của Tòa Thánh là một công việc đòi phải có một tự do nội tâm sâu xa, giống như mọi loại sứ vụ linh mục. Các con hãy sống những năm chuẩn bị cho sứ vụ ấy với tinh thần dấn thân, quảng đại và tâm hồn cao thượng, để tự do nội tâm ấy thực sự hình thành nơi các con!”.

ĐTC giải thích các khía cạnh khác nhau của tự do nội tâm. ”Trước tiên có nghĩa là tự do khỏi các dự phóng cá nhân, khỏi một số cách thức cụ thể mà có lẽ các con đã nghĩ ra để sống chức LM của mình, khỏi khả thể hoạch định tương lai.. Tự do nội tâm cũng có nghĩa là trở nên tự do một cách nào đó đối với nền văn hóa và não trạng xuất xứ của các con, để cởi mở, cảm thông với các nền văn hóa khác, trong tinh thần bác ái.. Nhất là tự do nội tâm có nghĩa là cảnh giác để tránh những tham vọng hoặc mục tiêu cá nhân, chúng có thể gây thiệt hại rất nhiều cho Giáo Hội. Tóm tắt một lời, sứ vụ mà chúng con đang chuẩn bị đòi các con phải ra khỏi chính mình, một sự tách biệt chỉ có thể đạt được nhờ một hành trình thiêng liêng khẩn trương, nghiêm túc liên kết cuộc sống của các con với mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa và kế hoạch khôn lường trong ơn gọi của Chúa”.

ĐTC không quên nhắn nhủ các LM sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh hết sức chăm sóc đời sống thiêng liêng là nguồn mạch tự do nôi tâm, vun trồng đời sống cầu nguyện, công việc hằng ngày thành môi trường thánh hóa bản thân. Ngài nêu bật tấm gương của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 trong khi phục vụ như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, tại Bulgari, rồi Thổ nhĩ kỳ và Pháp (SD 6-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thứ Sáu 7 tháng 6-2013, Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày Thánh Hóa các Linh Mục, do ĐTC Gioan Phaolô 2 thiết lập ngày 25 tháng 3 năm 1995. Trong thư gửi các LM nhân ngày Thứ năm Tun Thánh năm đó, ngài viết: ”Dưng như là điều thích hợp hơn bao giờ hết, đề nghị do Bộ giáo sĩ đưa ra về việc cử hành trong mỗi giáo phận một Ngày Thánh Hóa các linh mục, nhân dịp lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu”.

Lễ này do Đức Giáo Hoàng Piô 9 ấn định cho Giáo Hội hoàn vũ hồi năm 1856.
Nhân dịp Ngày Thánh Hóa các LM năm nay, ĐHY Mauro Piacenza, Tng trưởng Bộ giáo sĩ, đã công bố một thư gửi các chủng sinh trên thế giới, với nội dung như sau:

Các chủng sinh rất thân mến,

Với lễ trọng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, ngày Thánh Hóa các linh mục cũng được cử hành với đầy ý nghĩa, và vì các thầy ở trong chủng viện là để đáp lại ơn gọi một cách thích hợp tối đa, tôi thân ái gửi đến các thầy lá thư này để các thầy cảm thấy được can dự và được nhớ đến trong dịp ý nghĩa này.

Chúng ta cùng nhau suy niệm về thực tại nguyên thủy của ơn Chúa gọi. Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh về tính chất cụ thể của tình yêu mà tất cả các linh mục của Chúa Kitô và của Giáo Hội phải thực hành. Trong bài giảng nhân dịp thánh lễ dầu đầu tiên ngài cử hành (28-3-2013), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: ”Đây là điều tôi xin anh em: anh em hãy trở thành những mục tử ”với mùi của đoàn chiên”. Qua hình ảnh xúc tích này, Người Kế Nhiệm thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy có một tình yêu nồng nhiệt và cụ thể đối với Dân Chúa, tình yêu này, như chính ĐGH đã nhận xét, không được nuôi dưỡng bằng những động lực hoàn toàn phàm nhân, cũng chẳng được củng cố nhờ những kỹ năng tự kỷ ám thị. Chính cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa, sự luôn ý thức sinh động chúng ta được Ngài kêu gọi, mang lại sức mạnh thực sự trổi vượt, siêu nhiên, để trở thành Linh Mục theo hình ảnh Vị Mục Tử nhân lành của mọi người, là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng để được như thế trong tương lai, ngay từ bây giờ các thầy phải chuẩn bị. Với những lời rất rõ ràng, ĐGH Phanxicô nhắc nhở về chỗ đứng tối thượng của ơn thánh trong đời sống linh mục: ”Không phải nhờ tự cảm nghiệm, hoặc nhờ liên tục nhìn vào nội tâm mà chúng ta gặp gỡ Chúa: các khóa học về cách tự giúp đỡ mình trong cuộc sống có thể là hữu ích, nhưng sống đời sống linh mục của chúng ta bằng cách đi từ khóa học này đến khóa học khác, từ phương pháp này sang phương pháp khác, sẽ thúc đẩy linh mục trở thành những người chỉ cậy trông vào sức riêng và coi nhẹ sức mạnh của ơn thánh” (Ibidem).

Đối với người môn đệ, đồng hành với Chúa Kitô, bước đi trong ơn thánh, có nghĩa là mang trên vai gánh nặng của thánh giá Linh Mục với một niềm vui thiêng liêng. Chúng ta hãy nghe tiếp giáo huấn của Đức Thánh Cha về vấn đề này. Ngài viết: ”Khi chúng ta tiến bước mà không có thánh giá, khi chúng ta xây dựng mà không có thánh giá, và khi chúng ta tuyên xưng một Đức Kitô không có thánh giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa, chúng ta là người của thế gian” (Bài giảng Thánh lễ với các Hồng Y ngày 14-3-2013). Trái lại, sống sứ vụ của chúng ta như một sự phục vụ Chúa Kitô của thập giá, làm cho chúng ta không coi Giáo Hội như một tổ chức phàm nhân, ”một tổ chức phi chính phủ (ONG) có màu sắc tôn giáo, chứ không phải là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa” (Ibidem).

”Dưới ánh sáng những giáo huấn đầu tiên của ĐGH Phanxicô, tôi mời gọi các thầy hãy coi cuộc sống của mình như một hồng ân của Thiên Chúa, và đồng thời, như một nghĩa vụ được ủy thác cho các thầy, không phải như do con người mà thôi, nhưng xét cho cùng -qua sự trung gian cần thiết của Giáo Hội,- sự ủy nhiệm ấy là do chính Chúa, Đấng đã có một chương trình cho đời sống của các thầy và đời sống của những anh chị em mà các thầy sẽ được kêu gọi phục vụ”.

”Cần đọc lại toàn thể cuộc sống chúng ta như một ơn gọi của Chúa, chứ không phải chỉ là một sự quảng đại đáp trả của con người. Vấn đề ở đây là vun trồng nơi chúng ta sự ”nhạy cảm về ơn gọi”, giải thích cuộc sống như một cuộc đối thoại liên tục với Chúa Giêsu, Đấng phục sinh và hằng sống. Trong mọi thời đại, Chúa Kitô đã và đang kêu gọi một số người theo sát Ngài, cho họ tham gia vào chức Linh Mục của Ngài – điều này ngụ ý rằng, trong mỗi thời đại của lịch sử Giáo Hội, Chúa đã dệt lên một cuộc đối thoại ơn gọi với các tín hữu mà Chúa chọn, để họ trở thành những đại diện của Ngài giữa lòng Dân Chúa, và là những người trung gian giữa Trời và đất, đặc biệt là qua việc cử hành phụng vụ và bí tích. Thực vậy, chúng ta có thể nói, phụng vụ mở rộng cho chúng ta Trời trên trái đất này”.
”Trong viễn tượng đó, các thầy được kêu gọi, qua việc truyền chức, mà không có công trạng gì từ phía ta,- để trở thành những người trung gian giữa Thiên Chúa và dân, và làm cho cuộc gặp gỡ cứu độ có thể diễn ra nhờ việc cử hành các mầu nhiệm của Chúa. Mặc dù có những giới hạn, các thầy đã quảng đại và vui mừng đáp lại tiếng gọi ấy. Điều cần là các thày luôn giữ cho tâm hồn trẻ trung của các thầy được luôn sinh động: một con tim trẻ trung, dù 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua” (ĐGH Phanxicô, bài giảng Chúa nhật lễ lá, 24-3-2013, n.3).

”Sự trẻ trung của tinh thần linh mục, kiên trì trong ơn gọi, được bảo đảm nhờ kinh nguyện, nghĩa là nhờ thái độ liên tục giữ thinh lặng nội tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lắng nghe lời Chúa hằng ngày. Sự cởi mở liên tục của tâm hồn như thế, dĩ nhiên diễn ra trong một sự ổn định, – sau khi đã đi tới những quyết định nền tảng của cuộc sống – có khả năng trung thành cho đến chết, với những lời cam kết long trọng, nhờ ơn Chúa. Tuy nhiên, sự vững chắc cần thiết như thế không có nghĩa là khép kín con tim đối với những tiếng gọi của Chúa, vì mặc dù luôn củng cố chúng ta mỗi ngày trong ơn gọi cơ bản, Chúa luôn đứng ở cửa tâm hồn chúng ta và gõ (Xc Kh 3,20), chờ đợi chúng ta mở cửa cho Ngài với cùng một lòng quảng đại như khi chúng ta thưa ”xin vâng” lần đầu tiên với Ngài, noi gương thái độ luôn sẵn sàng của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa (Xc Lc 1,38). Vì thế, không bao giờ chúng ta có thể đặt ra những giới hạn cho kế hoạch mà Thiên Chúa đề xướng và được thông báo cho chúng ta, ngày qua ngày, suốt trong cuộc đời chúng ta.

”Sự cởi mở đối với ơn gọi như thế cũng là con đường chắc chắn nhất để sống niềm vui Tin Mừng. Thực vậy, chính Chúa làm cho chúng ta được hạnh phúc thực sự. Niềm vui của chúng ta không phát xuất từ sự thỏa mãn phàm tục, làm cho ta hân hoan một lúc ngắn ngủi và tan biến mất, như thánh Ignatio Loyola đã nhận xét trong sự phân định đầu tiên của Ngài (Xc Phụng vụ các Giờ Kinh, Giờ độc vụ ngày 31-7, Bài đọc 2). Niềm vui của chúng ta là Chúa Kitô! Trong cuộc đối thoại hằng ngày với Chúa, tinh thần được sảng khoái và đà tiến cũng như lòng nhiệt thành đối với các linh hồn liên được đổi mới.

”Chiều kích cầu nguyện này của ơn gọi linh mục nhắc nhở chúng ta những khía cạnh khác có tầm quan trọng đặc biệt. Trước kiên là sự kiện chúng ta có được những ơn gọi, cốt yếu không phải nhờ một chiến lược mục vụ, nhưng nhất là bằng việc cầu nguyện. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: ”Các con hãy xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Ngài” (Lc 10,2). Khi bình luận những lời này, ĐGH Biển Đức 16 nhận xét rằng: ”Chúng ta không thể 'sản xuất' ơn gọi, ơn gọi phải đến từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm như trong các nghề nghiệp khác, nhờ sự tuyên truyền quảng cáo nhắm đúng đích, nhờ các chiến lược thích hợp, tuyển mộ được nhiều người. Ơn gọi, xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, phải luôn tìm được con đường dẫn đến tâm hồn con người” (Cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ miền Baviera, 14-9-2006).

Hỡi các chủng sinh quí mến,

Các thầy được Chúa kêu gọi, nhưng có nhiều người rải rác trên thế giới đã và đang cộng tác vào câu trả lời của các thầy qua lời cầu nguyện và hy sinh của họ. Các thầy hãy có tâm hồn biết ơn và hiệp với những người ấy để tạo điều kiện dễ dàng cho việc đáp lại ơn gọi. Tiếp đến, cùng với vị thế tối thượng của việc cầu nguyện, cũng có hoạt động lành mạnh và hăng say do công việc mục vụ ơn gọi từ phía Giáo Hội, trong tư cách là máng chuyển ơn thánh Chúa. Về sự cộng tác này của Giáo Hội với việc Chúa ban các vị mục tử cho Dân Chúa và Nhiệm Thể Chúa Kitô, cũng nên nhắc lại vắn tắt ở đây vài khía cạnh phải làm nổi bật sự cộng tác ấy, nghĩa là lòng quí chuộng đối với ơn gọi linh mục, cuộc sống chứng tá của các linh mục, hoạt động chuyên biệt của các nhà đào tạo trong các chủng viện.

Điều cần thiết trước tiên là trong Giáo Hội phải có sự quí chuộng ơn gọi Linh Mục, xét vì sự kiện Cộng đồng các môn đệ của Chúa Kitô không thể hiện hữu nếu không có công tác phục vụ của các thừa tác viên thánh chức. Vì thế, cần phải chăm sóc, lưu tâm và tôn trọng chức linh mục. Thứ đến, các ơn gọi được nâng đỡ rất nhiều nhờ tấm gương và sự chăm sóc mà các LM dành cho ơn gọi. Một linh mục gương mẫu không thể không gợi lên nơi tâm trí các bạn trẻ câu hỏi: phải chăng tôi cũng được kêu gọi sống một cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc như thế? Chính qua cách thức đó các linh mục là những máng qua đó Thiên Chúa, làm cho tiếng gọi của Chúa tái vang dội trong tâm hồn của những người mà Ngài đã chọn! Rồi các Linh mục hãy chăm sóc những mầm mống ơn gọi qua bí tích giải tội, linh hướng, giảng thuyết và linh hoạt mục vụ. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong các thầy đã chứng kiến và được hưởng những điều ấy.

”Ngoài ra tôi muốn nói một lời về vai trò quan trọpg của các linh mục mà các GM ủy thác việc huấn luyện các thầy. Các nhà đào tạo trong chủng viện được kêu gọi tiếp tục và đào sâu việc chăm sóc các ơn gọi linh mục, trong khi cung cấp tất cả những trợ giúp thích hợp cho sự phân định bản thân cần thiết của mỗi ứng sinh. Về điểm này, cần nhắc lại hai nguyên tắc phải hướng dẫn việc thẩm định ơn gọi: đó là sự đón tiếp nồng nhiệt và sự nghiêm khắc đúng đắn. Trong khi cần phải tránh mọi thành kiến, cũng như mọi thái độ ngặt nghèo khi đón nhận các chủng sinh, một điều rất quan trọng là cẩn thận tránh thái độ cẩu thả và lơ là trong phán đoán. Chắc chắn Giáo Hội cần các linh mục, nhưng không phải bất kỳ loại linh mục nào! Vì thế tình thương đón nhận phải đi kèm sự thật phán đoán một cách rõ ràng để xem nơi ứng sinh có những dấu hiệu ơn gọi và những yếu tố nhân bản cần thiết để có câu trả lời đáng tin cậy hay không. Nhu cầu mục vụ cấp thiết của các Giáo Hội địa phương không thể đưa tới sự vội vã trong việc truyền chức thánh. Khi có hồ nghi, thì tốt hơn nên dành thời giờ cần thiết và lượng định thích hợp, và loại trừ những ứng sinh không có những bảo đảm đầy đủ.

”Các chủng sinh rất thân mến, với những chỉ dẫn vắn tắt trên đây, tôi muốn tái lưu ý về hồng ân vô biên và mầu nhiệm, hoàn toàn nhưng không của ơn gọi đặc biệt của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh và thánh Giuse hồng ân trung thành và bền đỗ trong ơn gọi của Chúa, mà Ngài rộng ban cho chúng ta và tìm cách đáp lại lòng quảng đại của Chúa, Đấng luôn gửi các mục tử đến chăm sóc đoàn chiên của Ngài, với đà tiến tông đồ được đổi mới. Các thầy hãy kiên trì, luôn nhớ rằng danh xưng của tình yêu trong thời gian là ”lòng trung thành”.

Tôi nhớ đến các thày mỗi ngày trong kinh nguyện với lògn quan tâm và quí mến, và tôi thành tâm khẩn cầu phúc lành của Chúa trên các thầy.Hồng Y Mauro Piacenza
Tổng trưởng Bộ giáo sĩ

(G. Trần Đức Anh O.P chuyển ý) – Vatican Radio

Công bố văn kiện Tòa Thánh về mục vụ người tị nạn và tản cư

Công bố văn kiện Tòa Thánh về mục vụ người tị nạn và tản cư

VATICAN. Hôm 6 tháng 6-2013, Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, đã công bố Văn kiện dài 72 trang với tựa đề ”Đón tiếp Chúa Kitô nơi những người tị nạn và những người bị cưỡng bách di cư. Những đường hướng mục vụ”.

Văn kiện được ĐHY Antonio Mario Vegliò, Chủ tịch Hội đồng mục vụ di dân và người lưu động, cùng với ĐHY Robert Sarah, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh, và hai chuyên gia khác.

ĐHY Vegliò cho biết Văn kiện này được soạn thảo để đáp ứng

những biến chuyển trong bản chất của hiện tượng cưỡng bách di cư những năm gần đây, đặc biệt từ sau khi Hội đồng Tòa Thánh công bố văn kiện hồi năm 1992 với tựa đề ”Những người tị nạn, một thách đố đối với tình liên đới”.

Tiếp đến, cần để ý đến nhiều lý do bó buộc con người phải rời bỏ gia cư của họ. Và đối lại với hiện tượng này là các luật lệ nghiêm ngặt hơn do các chính phủ ban hành để đối phó với làn sóng người tị nạn và di dân. Nhiều khi cả dư luận quần chúng cũng chống lại hiện tượng này.

Vì thế, cần phải có những suy tư mới, cũng vì trong các trong các cuộc thảo luận chính trị trên bình diện quốc gia và quốc tế, càng ngày các chính quyền càng đưa ra những biện pháp làm cho con người sợ mà không dám di cư hoặc tị nạn, thay vì các biện pháp khích lệ mưu an sinh cho con người, bảo vệ nhân phẩm và thăng tiến vị thế trung tâm của con người. Dường như vấn đề ở đây là làm sao để những người tị nạn và di dân đừng bén mảng tới đất nước liên hệ, thay vì tìm hiểm những lý do tại sao họ buộc lòng phải rời bỏ quê hương. Nguyên sự hiện diện của người tị nạn và xuất cư bị coi là như vấn đề. Tất cả những điều đó đe dọa việc bảo vệ họ”.

ĐHY Vegliò cho biết Văn kiện mới của Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động nhấn mạnh sự cấp thiết cần bảo đảm ít là các quyền được liệt kê trong Hiệp Ước quốc tế năm 1951 về người tị nạn, tuy rằng văn kiện quan trọng này chỉ có tính chất tối thiểu, có thể được cải tiến. Vấn đề ở đây là canh tân tinh thần Hiệp Ước năm 1951 để đi tới những chính sách sáng suốt, có thể đáp ứng hoàn toàn các vấn đề ngày nay và những vấn đề manh nha trong tương lai.

Văn kiện cho thấy Giáo Hội cảm thấy nghĩa vụ phải biểu lộ sự gần gũi với những người tị nạn và những người buộc lòng phải rời bỏ quê hương căn cội của mình. Công tác mục vụ của Giáo Hội là biểu hiện cụ thể đức tin của hội Thánh. Chính vì thế, từ cấp giáo xứ và những cơ cấu cơ bản, cho tới những thành phần khác nhau ở cấp miền, đại lục và hoàn vũ, Giáo Hội không sợ dấn thân bênh vực người di dân, tị nạn và tản cư, cũng như những nạn nhân của nạn buôn người trong mọi miền trên thế giới.

Sự dấn thân của Giáo Hội được cụ thể hóa dưới nhiều hình thức khác nhau, như lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, cứu giúp trực tiếp và trợ giúp vật chất trong những tình trạng khủng hoảng và cấp thời, giúp đỡ trong những nhu cầu thiêng liêng, ban các bí tích va thăng tiến tất cả những gì có thể góp phần chữa lành, củng cố và gây ý thức trách nhiệm cho cá nhân và các gia đình”.

Dàn bài

Văn kiện mới của Tòa Thánh về đường hướng mục vụ người tị nạn và cưỡng bách di cư dài 72 trang gồm 124 đoạn, ngoài phần nhập đề và kết luận, được chia làm 4 phần:
– Phần thứ I nói về ”sứ mạng của Giáo Hội bênh vực những người bị cưỡng bách rời bỏ quê hương”
– Phần thứ II mang tựa đề: ”Những người tị nạn và những người khác bị cưỡng bách rời bỏ quê hương”.
– Phần thứ III bàn về ”những quyền lợi và nghĩa vụ: hướng nhìn về tương lai”
– Phần thứ IV nói về ”việc mục vụ chuyên biệt cho người tị nạn và những người bị cưỡng bách rời quê hương.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình mùa hè của Đức Thánh Cha

Chương trình mùa hè của Đức Thánh Cha

VATICAN. Hôm 6 tháng 6-2013, Phủ Giáo Hoàng công bố chương trình mùa hè của ĐTC, theo đó trong tháng 7, tất cả 4 cuộc tiếp kiến chung của ngài vào những ngày thứ tư (3, 10, 17, 31) đều bị hủy bỏ.

Các cuộc tiếp kiến chung sáng thứ tư sẽ được mở lại tại Vatican từ ngày thứ tư 7 tháng 8-2013.

Từ 22 đến 29-7, ĐTC sẽ đi Brazil nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 28 tại thành phố Rio de Janeiro.
Trưa chúa nhật 14 tháng 7, ĐTC sẽ chủ sự buổi đọc kinh truyền tin với các tín hữu tại Dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo.

Tuy nhiên, ĐTC vẫn tiếp tục ở nhà trọ Thánh Marta trong nội thành Vatican vào mùa hè chứ không đi nghỉ tại Castel Gandolfo.

ĐTC sẽ chấm dứt thánh lễ lúc 7 giờ sáng với bài giảng dành cho các nhóm kể từ ngày 8 tháng 7-2013. Thánh lễ này sẽ được mở lại sau mùa hè. (SD 6-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

(Vatican Radio) Đức Giáo Hoàng Francis hôm thứ Tư đã gửi một bức điện thư chia buồn cho Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Krakow, Ba Lan ngay sau khi hay tin sự qua đời của Đức Hồng Y Stanislas Nagy.

Đức Hồng Y Stanislas Nagy, là linh mục của Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (Dehonians), sinh ngày 30 tháng 9 năm 1921 tại Bieruń Stary, Tổng Giáo Phận Katowice (Ba Lan). Ngài bước vào nhà dòng Dehonian vào năm 1937. Ngày 08 tháng bảy năm 1945 ngài thụ phong chức linh mục của Dòng.

Ngài từng là Giám đốc của Tiểu Chủng viện Dehonian tại  Kraków-Płaszów và Đại Chủng viện tại Tarnów. Ngài cũng là giảng dạy tại Đại học Công giáo Lublin, là  nơi  Ngài trở thành giảng sư đại học năm 1972.

Từ năm 1973 đến 1974, Ngài là một thành viên của Ủy ban Công giáo-Lutheran (Joint Catholic-Lutheran Commission). Ngài cũng từng là thành viên của Ủy ban thần học quốc tế và là giám đốc của bộ phận thần học của ban biên tập Bách khoa Công giáo của Đại học Lublin. Ngài  đã tham gia trong Thượng Hội Đồng năm 1981 và năm 1985. Quan tâm đến các vấn đề hiệp nhất, ông đã viết về sự cởi mở của Giáo hội của hậu công đồng Vatican để cùng nhau hòa giải.

Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách về Đức Gioan Phaolô II, là một cộng tác viên lâu năm.

Đức Hồng Y bổ nhiệm, ông được đề cử vào nhà thờ của Hólar (nhà thờ được bổ nhiệm với một Hồng Y), với danh hiệu riêng của Đức Tổng Giám mục vào ngày 07 Tháng 10 năm 2003 và sau đó được thánh hiến vào ngày 13 tháng 10. Đức Gioan Phaolô II đã thiết lập nên, tuyên bố Đức Hồng Y trong hội nghị công giáo năm 2003.


Dưới đây, xin vui lòng xem bức điện văn của Đức Thánh Cha Phanxicô chia buồn về sự ra đi của Đức Hồng Y Stanislas Nagy:

Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz
Đức Tổng Giám Mục của Krakow

Khi nghe tin về cái chết của Đức Hồng y Stanislaw Nagy đáng kính, tôi muốn bày tỏ với ngài, đến toàn thể cộng đồng giáo phận, đến các gia đình của vị giám chức xứng đáng, và dòng tu Dehonian, sự chia sẻ chân thành của tôi trong nỗi buồn của họ, ghi nhớ với tình yêu thương người anh em mến yêu này mà người đã phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội, đặc biệt là trong thế giới học thuật, được đánh giá là một giảng sư chuyên môn rất chăm chỉ của các ngành thần học. Tôi nhớ lại, với lòng biết ơn sự hợp tác hiệu quả và thâm tình ấm áp với Chân Phước Gioan Phaolô II, và sự hổ tương lẫn nhau của họ, cũng như các sinh hoạt cùng nhau hiệp nhất của mình. Tôi dâng lên những lời cầu nguyện nhiệt thành của tôi với Thiên Chúa, rằng, nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, người tôi tớ trung thành được mời gọi, một người ưu tú của Giáo Hội, vào trong sự vui mừng và bình an vĩnh cửu, và tôi sẵn sàng truyền đạt cho tất cả những ai thương tiếc sự ra đi của Ngài, Xin an ủi ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Phỏng dịch Vatican Radio

Thái Trọng
 

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Tôi ước mong tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tiến một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bẫy tỏ như trên với khoảng 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Vì hôm qua là ”Ngày quốc tế môi sinh” do Liên Hiệp Quốc phát động nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đề cập tới tầm quan trọng phải tôn trọng môi sinh, tiết kiệm không phung phí thực phẩm, vì trên thế giới hiện có hàng tỷ người phải sống trong cảnh đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Đức Thánh Cha nói: Khi chúng ta đề cập tới môi sinh, tôi nghĩ tới các trang đầu tiên của Thánh Kinh, tới sách Sáng Thế, trong đó có khẳng định rằng Thiên Chúa đặt người nam và người nữ trên trái đất để họ vun trồng và giữ gìn nó (St 2,15). Và nổi lên trong tôi các câu hỏi: Vun trồng và giữ gìn trái đất có nghĩa là gì? Chúng ta có thật sự ”vun trồng” và giữ gìn thụ tạo hay không? Hay chúng ta đang tàn phá và lơ là với nó? Động từ ”vun trồng” gợi lên trong trí tôi việc săn sóc của nhà nông đối với đất đai của mình, để nó cho hoa trái và hoa trái đó được chia sẻ: biết bao nhiêu là chú ý, đam mê và tận tụy! Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Vun trồng và gìn giữ thụ tạo là một chỉ dẫn Thiên Chúa ban cho không phải chỉ ngay từ đầu lịch sử, mà còn cho từng người trong chúng ta nữa; nó là một phần chương trình của Người; nó muốn nói rằng đó là làm cho thế giới này lớn lên với tinh thần trách nhiệm, biến đổi nó để nó là một ngôi vườn có thể ở đối với tất cả mọi người. Và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhắc lại nhiều lần rằng nhiệm vụ này do Thiên Chúa Tạo Hóa giao cho chúng ta đòi hỏi phải tiếp nhận tiết nhịp và luận lý của việc tạo dựng.

Chúng ta trái lại thường khi được hướng dẫn bởi sự kiêu căng của thống trị, chiếm hữu, lèo lái và khai thác; chúng ta không ”giữ gìn”, không tôn trọng, không coi thụ tạo như là một ơn nhưng không cần phải săn sóc. Chúng ta đang đánh mất đi thái độ của sự kinh ngạc, của sự chiêm niệm, của việc lắng nghe thụ tạo; và như thế chúng ta không thành công trong việc đọc được nơi đó điều mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gọi là ”tiết nhịp cảu lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với con người”. Tại sao lại xảy ra điều ấy? Bởi vì chúng ta nghĩ và sống theo chiều ngang, chúng ta xa rời Thiên Chúa, chúng ta không đọc ra các dấu chỉ của Người nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định: Nhưng mà ”vun trồng và gìn giữ” không chỉ bao gồm tương quan giữa con người với môi sinh, giữa con người với thụ tạo, mà cũng liên quan tới các tương quan nhân bản nữa. Các Giáo Hoàng đã nói tới môi sinh nhân bản, gắn liền chặt chẽ với môi sinh thiên nhiên. Chúng ta đang sống một thời điểm khủng hoảng; chúng ta trông thấy nó trong môi sinh, nhưng nhất là chúng ta trông thấy nó nơi con người. Con người đang gặp nguy hiểm, và chăc chắn là như vậy. Ngày nay con người đang gặp nguy hiểm. Vì thế môi sinh nhân bản là sự cấp bách! Và nguy hiểm nghiêm trọng, bởi vì lý do của vấn đề không hời hợt, mà sâu đậm; Nó không chỉ là một vấn đề kinh tế, nhưng là vấn đề luân lý và nhân chủng. Giáo Hội đã nhấn mạnh nhiều lần; và nhiều người nói rằng: vâng đúng vậy, thật thế. Nhưng tình hình không thay đổi và Đức Thánh Cha giải thích lý do tại sao:

Nhưng hệ thống tiếp tục như trước, bởi vì điều thống trị là các năng động của một nền kinh tế và của một nền tài chánh thiếu luân lý đạo đức. Cái chỉ huy con người ngày nay không phải là con người mà là ”tiền bạc”, ”tiền bạc”, tiền bạc chỉ huy! Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã cho chúng ta nhiệm vụ giữ gìn chứ không phải giữ gìn tiền bạc. Chúng ta, các người nam nữ, chúng ta có nhiệm này! Như thế các người nam nữ bị sát tế cho các thần tượng của lợi nhuận và tiêu thụ: đó là ”nền văn hóa của sự gạt bỏ”. Nếu một máy vi tính bị bể, nó là một thảm cảnh, nhưng sự nghèo túng, các nhu cầu, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người thì lại là chuyện bình thường.

Nếu trong một đêm mùa đông tại đây, tại quảng trường Ottaviano chẳng hạn, có một người chết, thì đó không phải là tin tức. Nếu trong biết bao nhiêu vùng trên thế giới có các trẻ em không có ăn, sự kiện đó không phải là tin. Xem ra là điều bình thương thôi! Nhưng điều đó không thể như vậy được! Và các điều này bước vào trong sự bình thường: có vài người không nhà chết ngoài đường vì lạnh, không có tin gì cả… Trái lại thị trường chứng khoán trong các thành phố sụt 10 điểm, thì đó là một thảm cảnh. Người chết thì không là tin tức, nhưng thị trường chứng khoán mất 10 điểm thì là thảm họa. Như vậy con người bị ”vứt bỏ”. Chúng ta là người, chúng ta bị vứt bỏ như thể là rác rưởi.

”Nền văn hóa vứt bỏ” hướng tời chỗ trở thành tâm thức chung, lây nhiễm tất cả mọi người. Sự sống con người, bản vị con người không còn được cảm nhận như giá trị đầu tiên cần phải tôn trọng và bảo vệ nữa, đặc biệt nếu đó là sự sống nghèo túng hay tàn tật, nếu nó không phục vụ nữa – như trẻ em sẽ sinh ra – hay không còn cần thiết nữa – như người già.

Đức Thánh Cha nhận xét về hậu qủa của nền văn hóa gạt bỏ này như sau:

Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả các phung phí và vứt bỏ thực phẩm, nó còn đáng khinh bỉ hơn nữa, khi trong mọi miền trên thế giới này rất tiếc có nhiều người và nhiều gia đình phải đau khổ vì đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Xưa kia các thế hệ ông bà chúng ta đã rất chú ý không vất bỏ đồ ăn còn thừa. Chế độ tiêu thụ đã dẫn đưa chúng ta tới chỗ quen với sự thừa thãi và phung phí thực phẩm mỗi ngày, mà đôi khi chúng ta không còn biết đánh giá đúng đắn nữa, và nó vượt xa các tham số thuần túy kinh tế. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vất bỏ đi, thì cũng như thể là chúng ta ăn trộm từ bàn ăn của người nghèo, của người đói! Tôi mời gọi tất cả mọi người suy tư về vấn đề đánh mất và phung phí thực phẩm để nhận diện ra các con đường và phương thế giúp đối đầu một cách nghiêm chỉnh với vấn đề đó, ước chi chúng là phương tiện của tình liên đới và chia sẻ với các anh chị em cần được trợ giúp nhất.

Cách đây mấy ngày trong lễ Mình Thánh Chúa chúng ta đã đọc trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu cho đám đông ăn với năm chiếc bánh và hai con cá. Và kết luận văn bản thật quan trọng: ”Mọi người ăn no nê và những mảnh vụn còn thừa, người ta thu lại còn được mười hai thúng.” (Lc 9,17).

Chúa Giêsu xin các môn đệ đừng để cho những gì còn thừa bị mất đi: không vứt bỏ cái gì cả! Và có sự kiện mười hai thúng. Tại sao lại mười hai thúng? Nó có nghĩa là gì? Mười hai là con số 12 chi tộc Israel, biểu tượng cho toàn dân Chúa. Và điều này nói rằng khi lương thực được chia sẻ đồng đều, với tình liên đới, thì không ai bị lấy mất đi điều cần thiết, mỗi cộng đoàn có thể đáp ứng các nhu cầu của những người nghèo nhất. Môi sinh nhân bản và môi sinh thiên nhiên luôn đi đôi với nhau.

Như thế tôi ước mong rằng tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tién một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã dành ra hơn nửa tiếng để chào tín hữu. Một em bé khi được ngài hôn đã nắm chặt lấy mảnh áo choàng của ngài và không muốn rời ra nữa. Có một cặp tín hữu đã tặng Đức Thánh Cha chiếc mũ calốt trắng, ngài nhận đội ngay lên đầu và lấy cái ngài đang đội tặng lại họ. Một tín hữu Mehicô tặng ngài cái poncho mầu đỏ và quàng lên vai Đức Thánh Cha. Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng dành ra gần một giờ để chào tín hữu, các cặp vợ chồng mới cưới và người tàn tật.

Ngài cũng đã chào các tín hữu đến từ các đảo Antille, Maurizius, và Côte d'Ivoire, cũng như một nhóm các imam hồi giáo dấn thân trong cuộc đối thoại liên tôn, và các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Colombia, Uruguay, Argentina, Mêhicô và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng A rập Đức Thánh Cha nhắn nhủ như sau: ”Chúng ta đừng để cho mình quen với thảm cảnh của nghèo túng, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người không nhà cửa chết trên đường phố, hay thấy biết bao nhiêu trẻ em không đựơc giáo dục và săn sóc y tế. Chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vứt đi thì như là chúng ta ăn trộm từ bàn tay của người nghèo và người đói.

Chào một nhóm tân linh mục và chủng sinh Ba Lan Đức Thánh Cha khuyến khích họ cảm tạ Chúa Giêsu vì ơn gọi linh mục, và vun trồng nó dưới ánh sáng và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, để luôn là các thừa tác viên hăng say của ơn thánh Chúa.

Đức Thánh Cha cũng chào phái đoàn hành hương các giáo phận Aversa, Macerata và Matera cùng với các Giám Mục cũng như phái đoàn công nhân các hãng đưởng Venezia với Đức Thượng Phụ.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức thánh Cha xin Chúa dậy giới trẻ hiểu biết vẻ đẹp của tình yêu và cảm thấy được yêu. Ngài xin Chúa an ủi các anh chị em đau yếu trong nổi khổ đau thử thách của họ, và nâng đỡ các cặp vợ chồng mới cưới trên con đường cuộc sống hôn nhân.

Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

 

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

 

ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI

Anh Chị Em thân mến,

Hôm nay chúng ta đặc tâm chú ý đến một nhà truyền giáo cao cả của thế kỷ VIII, đã loan truyền Ki Tô giáo cho miền Trung Âu Châu, chính trên quê hương của tôi: đó là Thánh Boniface được lịch sử xem là " vị tông đồ của Nước Đức". Chúng ta có được không ít các tin tức về cuộc đời của ngài nhờ vào lòng chuyên cần các nhà viết tiểu sử về ngài.

Được sinh ra trong một gia đình người Anh ở Wessex khoản năm 675 và được rửa tội với tên là Winfrid.
Lúc còn rất trẻ đã gia nhập tu viện, vì cậu được thu hút bởi lý tưởng của đời sống tu viện.
Nhờ vào có được khả năng trí thức đáng kể, dường như cuộc đời của cậu Winfrid được khởi đầu để tiến đến nghề nghiệp một học giả yên tĩnh và sáng lạn: chàng đã trở thành giáo sư dạy văn phạm La Tinh, viết một vài bản văn và nhiều thi phú bằng La Tinh.

Được truyền chức Linh Mục vào khoảng ba mươi tuổi, Cha Winfrid cảm nhận mình được kêu gọi làm tông đồ giữa các dân ngoại ở lục địa. Lúc đó, nước Anh, quê cha đất tổ của Cha chỉ mới được truyền giáo một trăm năm trước đó, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ( Benedictini) do Thánh Agostino thành lập. Nước Anh cảm thấy mình có được đức tin thật vững chắc và lòng bác ái nồng cháy để gởi các nhà truyền giáo của mình vào Trung Âu để rao giảng Phúc Âm.
Năm 716 Winfrid cùng với một vài bạn đồng hành đến được Frisia ( Hoà Lan hiện nay), nhưng chạm trán phải sự đối kháng của người lãnh đạo địa phương và như vậy ý định rao giảng Phúc Âm ở đó bị thất bại.

Trở về quê hương, nhưng vẫn không nãn chí, hai năm sau Cha Winfrid đến Roma để hầu chuyện với Đức Giáo Hoàng Gregory II và nhận chỉ thị của ngài liên quan đến vấn đề. Đức Giáo Hoàng, theo những gì một tác giả tiểu sử gia thuật lại, đón nhận Cha " bằng khuôn mặt tươi cười và cái nhìn đầy âu yếm", và trong những ngày kế tiếp đã có " những cuộc thảo luận quan trọng với Cha" ( Willibaldo, Vita s. Bonifatii, ed. Levisonl pp. 13-14).
Và sau cùng, sau khi đặt tên cho Cha là Boniface, Đức Giáo Hoàng ủy thác cho Cha với các chứng minh thư chính thức sứ mạng rao giảng Phúc Âm giữa các dân tộc trên nước Đức.

1 – Đươc Đức Thánh Cha trợ lực và nâng đỡ, Boniface dấn thân vào việc rao giảng Phúc Âm trong các vùng vừa kể ( trên lãnh thổ Đức), chống lại các cách phượng tự ngoại giáo và củng cố nền tảng luân lý nhân bản và Ki Tô giáo. Với tinh thần trách nhiệm cao cả, Cha viết ở một trong những lá thư như sau:
" Chúng ta hãy vững mạnh trong việc chiến đấu trong ngày của Chúa, bởi vì các ngày phiền muộn và khốn cùng đã đến…Chúng ta không phải là những con chó câm, cũng không phải là những kẻ bàng quang thinh lặng, hay hạng thương gia trục lợi trốn chạy trước đoàn chó sói ! Trái lại, chúng ta là những Chủ Chăn tỉnh thức canh chừng trên đoàn chiên Chúa Ki Tô, rao giảng cho những nhân vật quan trọng cũng như cho người dân đơn sơ tầm thường, cho người giàu và người nghèo thánh ý Thiên Chúa…trong các thời điểm thuận tiện cũng như bất lợi…" ( Epistulae, 3, 352: MGH).

Với động tác không mệt nhọc ngừng nghỉ của Cha, với tài năng thiên phú để tổ chức, với tính mềm dẻo và dễ thương nhưng vững chắc, Boniface đạt được nhiều kết quả trọng đại.
Bởi đó Đức Thánh Cha " tuyên bố muốn đặt lên Cha địa vị của một Giám Mục, bởi vì như vậy Cha khả năng hơn để quyết định sửa chữa và dẫn dắt các người lầm lạc trở lại trên con đường chân lý, Cha có thể cảm nhận được uy quyền cao cả hơn của phẩm trật tông đồ nâng đở và cũng sẽ được tất cả mọi người chấp nhận trong trách vụ rao giảng, khi thấy được chính vì đó mà ngài được truyền chức vị lãnh đạo tông đồ cho" ( Otloho, Vita s. Bonifatii, ed. Levison, lib. I, p. 127).

Cũng chính Đức Thánh Cha Gregory II truyền chức " Giám Mục Vùng" ( = Tổng Giám Mục), nghĩa là Giám Mục cho cả nước Đức, cho Boniface. Đức Giám Mục Boniface trở về và tiếp tục lại các động tác cực nhọc tông đồ trong các lãnh địa được giao phó cho và kế đến mở rộng hoạt động của mình đến cả Giáo Hội nước Gallia ( nước Pháp): cùng với sự thận trọng và khôn ngoan, Đức Giám Mục Boniface
– tu chính lại quy luật Giáo Hội,
– tổ chức nhiều phiên nhóm Thượng Hội Đồng Giám Mục để bảo đảm cho quyền lực giáo luật,
– tăng cường thêm mối thông hiệp cần thiết với Đức Giáo Hoàng ở Roma: đó là điểm mà Đức Giám Mục Boniface luôn luôn canh cánh trong lòng.
Cả những vị kế nghiệp Đức Giáo Hoàng Gregory II cũng rất qúy trọng Đức Giám Mục Boniface: Đức Gregory III
– bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục cho cả nước Đức,
– gởi áo choàng Giám Mục cho ngài
– và trao cho ngài quyền tổ chức phẩm trật Giáo Hội trong các vùng đó ( cf Epist, 28; S. Bonifatii Epistulae, ed. Tangl, Berolini 1916).
Đức Thánh Cha Zaccaria xác nhận chức vụ đó của ngài và khen ngợi tin thần chuyên cần dấn thân của ngài ( cfr. Epist. 51, 57, 58, 60, 68, 77, 80, 86, 87, 89:op. cit.).
Đức Thánh Cha Stefano III , khi vừa được tuyển chọn, đã nhận được một bức thư của Đức Tổng Giám Mục Boniface, trong đó ngài bày tỏ mối hân hoan con cái của mình đối với Đức Thánh Cha ( cfr Epist. 108, op. cit.).

2 – Đức Tổng Giám Mục Boniface cao cả,
– ngoài việc rao giảng Phúc Âm
– và tổ chức Giáo Hội qua việc thành lập các giáo phận
– và nhóm họp các Thượng Hội Đồng Giám Mục,
– ngài cũng không quên thiết lập các tu viện, nam và nữ, để cho đó là những ngọn đèn pha chiếu toả ánh sáng đức tin, văn hoá con người và văn hoá Ki Tô giáo ra khắp lãnh thổ.
Từ các cộng đồng tu viện Biển Đức ( Benedittini ) trên xứ sở của mình, Đức Tổng Giám Mục Boniface kêu gọi các nam nữ tu sĩ đến trợ lực với ngài bằng động tác vững chắc và qúy báu để
– giúp ngài trong việc rao giảng Phúc Âm
– và phổ biến khoa học nhân loại và nghệ thuật cho dân chúng.
Bởi vì ngài có lý nghĩ rằng việc làm để rao giảng Phúc Âm cũng phải là động tác để truyền bá văn hoá con người.
Nhứt là tu viện ở Fulda , được thiết lập năm 743, là trái tim và là trung tâm từ đó chiếu toả ra cách sống đạo đức thiêng liêng và văn hoá tôn giáo: ở đó, các tu sĩ,
– trong kinh nguyện,
– trong việc làm và trong hoán cải đền tội, tìm cách cố gắng tiến đến sự thánh thiện,
– các vị còn được giáo dục trong các lãnh vực tôn giáo và trần thế, các vị đang chuẩn bị mình để ra đi rao giảng Phúc Âm, để trở thành những nhà truyền giáo.
Nhờ công lao của Đức Tổng Boniface, của các vị tu sĩ nam – nữ của ngài – ngay cả các nữ tu sĩ cũng góp phần quan trọng vào việc rao giảng Phúc Âm – mà việc đâm hoa kết quả cả nền văn hoá nhân loại, là những gì không thể tách rời đức tin và cho thấy vẻ đẹp của đức tin.
Bonifacio cũng viết ra tác phẩm chú giải Ars grammatica ( Nghệ thuật văn phạm), trong đó ngài giải thích
– các biến hoá danh từ ( declinazioni),
– cách chia động từ ( coniugazione),
– lối phân chia mệnh đề ( sintassi)
của tiếng La tinh,
và đó đối với ngài cũng là một dụng cụ để phổ biến đức tin và văn hoá.
Người ta cũng gán cho ngài là tác giả của Ars metrica ( Nghệ thuật phân chia nhịp điệu), nghĩa là phần dẫn nhập làm sao để có thể viết một bài thi phú , và các các sắp xếp các phần cân đối của bài thơ và sau cùng là một loạt thu tóm các bài giảng, gồm 15 bài.

Và mặc dầu đã đến tuổi già – gần 80 tuổi – Đức Tổng Boniface cũng chuẩn bị một sứ mạng truyền bá Phúc Âm mới: với khoản năm mươi tu sĩ, ngài trở lại miền Frisia ( Hoa Lan), nơi ngài đã khởi đầu công trình rao giảng.
Như có linh tính báo trước về cái chết gần kề, khi đề cập đến chuyến hành trình của cuộc sống, ngài đã viết cho người đệ tử và là vị kế nhiệm ngài ở tông toà Magonza ( Wuerburg), Đức Giám Mục Lullo như sau:
" Ta mong ước được hướng dẫn đến lúc kết thúc mục đích của chuyến đi nầy; ta không thể nào khước từ lòng ước muốn khởi hành chuyến đi. Ngày cuối cuộc đời của ta đã gần kề và cái chết của ta đã đến gần; khi xác chết của ta được chôn xuống, ta sẽ lên để lãnh lấy phần thưởng đời đời. Nhưng con, con rất qúy mến của ta, con hãy không ngừng nghỉ kêu gọi dân chúng xa lìa đều sai lạc cứng cỏi của họ, con hãy thực hiện việc xây cất công trình đã khởi sự kiến trúc đại thánh đường Fulda và đặt xác già nua với năm tháng dai dẳng với cuộc sống của ta ở đó" ( Willibaldo,Vita S. Bonifatii, ed. cit., p. 46).

Trong khi ngài sắp cử hành Thánh Lễ ở Dokkum ( ở miền Bắc Hoà Lan hiện nay), ngày 5 tháng 6 năm 754, Thánh Boniface bị một nhóm người ngoại đạo ám sát. Ngài tiến đến trước mặt họ với khuôn mặt tươi tỉnh,
" ngăn cấm các bổn đạo của mình chiến đấu chống lại bằng cách nói: " các con hãy dừng lại, dừng lai, đừng chiến đấu, hãy dẹp bỏ chiến tranh, bởi vì nhân chứng Thánh Kinh cảnh cáo chúng ta đùng lấy sự ác để trả sự ác, nhưng hãy lấy việc thiện trả cho ác. Đây là ngày mà từ lâu ta đang mong đợi, đây là thời điểm cuối cùng của ta đã đến; hãy can đảm trong Thiên Chúa" ( Ibid., pp. 49-50).
Đó là những lời cuối cùng của ngài trước khi ngã gụt xuống dưới trận đánh đập của những kẻ tấn công.
Xác của vị Giám Mục tử đạo được mang vào thánh đường Fulda, nơi mà ngài được chôn cất tương xứng.
Một trong những tác giả viết tiểu sử ngài đã nói về ngài bằng nhận xét như sau:
" Chúng ta có thể nói là Vị Thánh Giám Mục Boniface là cha của mọi người dân Đức, bởi vì ngài là người đầu tiên đã sinh ra họ trong Chúa Ki Tô bằng lời của ngài qua việc giảng dạy, đã làm cho họ trở nên vững chắc bằng gương sống của ngài, và sau cùng, đã hy sinh mạng sống của ngài cho họ, đó là đức bác ái, mà không ai có thể ban cho một đức bác ái nào cao cả hơn được" ( Otloho, Vita S. Bonifatii, ed. cit., lib. I., p.158).

3 – Sau hai thế kỷ, sứ điệp nào chúng ta có thể đón nhận được từ lời giảng dạy và động tác tuyệt diệu của nhà truyền giáo cao cả và tử đạo nầy?

a ) Điều hiển nhiên thứ nhứt mà ai muốn đến gần Thánh Boniface cũng thấy được: lời Chúa là trung tâm điểm, được đem ra thực hiện trong cuộc sống và giải thích trong đức tin của Giáo Hội, đó là Lời mà vị Thánh đã sống, đã giảng dạy và nhân chứng đến việc hy sinh tột độ, hy sinh chính mình trong tử đạo.
Ngài đã say sưa Lời Chúa đến độ cảm thấy khẩn cấp và có bổn phận phải đem đến cho người khác, ngay cả phải chấp nhận nguy hiểm cho chính mình.
Ngài đặt đức tin của mình trên Lời Chúa như là nền tảng, Lời mà ngài đã long trọng tuyên bố dấn thân trong lúc mình được phong chức Giám Mục:
" Con tuyên xưng hoàn toàn tính cách trong sáng của đức tin thánh thiện công giáo và được Chúa giúp đở con muốn được trung thành ở lại hiệp nhứt trong đức tin nầy, trong đó không có gì nghi ngờ, là tất cả sự cứu rỗi của người tín hữu Chúa Ki Tô" ( Epist. 12, in S. Bonifatii Epistolae, ed. cit., p.29).

b) Điều hiển nhiên thứ hai, rất quan trọng, mà chúng ta thấy được trong đời sống của Thánh Boniface là lòng thông hiệp trung thành với Tông Toà.
Đó là một định điểm bất di dịch và là trung tâm điểm động tác truyền giáo của ngài. Ngài luôn luôn giữ vững mối thông hiệp đó như là khuôn thước của động tác truyền giáo mình và đã để lại như là lời di chúc của mình.
Trong một thư gởi cho Đức Thánh Cha Zaccaria, ngài xác quyết:
" Con đừng bao giờ ngừng nghỉ kêu gọi và đặt ho dưới sự vâng lời đối với Tông Toà, những ai muốn trung thành với đức tin công giáo và hợp nhứt với Giáo Hội Roma và cả những ai mà Thiên Chúa đã ban cho con trong cộng cuộc truyền giáo nầy như là những người nghe con giảng dạy và là môn đệ " ( Epist. 50: ibid., p. 81).

Kết quả của cuộc dấn thân chuyên cần nầy là tinh thần vững chắc khắn khít với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mà Đức Giám Mục Boniface chuyển đến các cộng đồng Giáo Hội trong lãnh thổ truyền giáo của ngài, nối kết Anh Quốc, Đức Quốc, Pháp Quốc với Roma.
Và như vậy ngài góp phần một cách quyết định gây dựng gốc rễ Ki Tô giáo cho Âu Châu, làm cho Âu Châu có khả năng đâm hoa kết quả trong những thế kỷ kế tiếp.

) c ) Về đặc tính thứ ba mà Thánh Boniface muốn nhắc nhở chúng ta nên lưu ý: đó là việc ngài tạo cơ hội cho việc gặp gỡ giữa nền văn hoá Roma – Ki Tô giáo và văn hoá Đức Quốc.
Thật vậy, Thánh Boniface biết rằng trong việc thăng tiến nhân phẩm con người và loan báo Phúc Âm, phổ biến văn hoá là phần chính yếu của sứ mạng của một vị Giám Mục. Trong khi chuyển đạt đến dân chúng kho tàng cổ của các giá trị Ki Tô giáo, Thánh Boniface tháp ghép vào dân chúng Đức một cách sống tôn trọng phẩm giá con người hơn, nhờ đó mà các quyền bất khả nhượng của con người được dễ kính trọng hơn.

Với tư cách là người con chính danh của Thánh Benedett, Thánh Boniface biết liên kết cầu nguyện và làm việc ( việc làm tay chân và làm việc bằng trí óc), bằng ngòi viết và bằng lưỡi cày.

Nhân chứng can đảm của Thánh Boniface là một lời mời gọi đối với tất cả chúng ta biết đón nhận lời Chúa trong cuộc sống của mình, như là định điểm chính yếu cho các động tác,
– mời gọi chúng ta biết tha thiết yêu thương Giáo Hội,
– biết cảm thấy mình cũng có bổn phận đối với tương lai của Giáo Hội,
– tìm cách kết hợp liên kết nhau chung quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.
Đồng thời Thánh Boniface cũng nhắc nhớ chúng ta rằng Ki Tô giáo, bằng cách phát huy việc phổ biến văn hoá, khuyến khích sự tiến bộ con người.
Bây giờ đến lược chúng ta, hãy hành xử tương xứng với một kho tàng cao cả như vậy và làm cho kho tàng đó đâm hoa kết quả ích lợi cho những thế hệ sắp đến.

Tôi luôn luôn cảm thấy thán phục nhiệt tâm nóng bỏng của ngài đối với Phúc Âm:
– lúc bốn mươi tuổi ngài ra đi từ một cuộc sống tót đẹp và đầy kết quả của một dòng tu, từ giả ra đi để lại sau lưng một cuộc sống của vị tu sĩ và của một giáo sư để rao giảng Phúc Âm cho những kẻ tầm thường, cho dân còn có cuộc sống man rợ ( barbari)
– lúc tám mươi tuổi, lại một lần nữa, ngài khởi đầu một cuộc hành trình vào một vùng mà đoán trước rằng mình sẽ phải chịu tử đạo.
Sánh đức tin đầy nhiệt huyết, lòng hăng say của ngài đối với Phúc Âm, so với đức tin nhiều lúc hâm hẩm vậy vậy và đức tin theo thủ tuc bàn giấy của chúng ta, chúng ta hãy tự hỏi
– phải làm gì và phải làm thế nào để cải đổi hoá đức tin,
– để chính chúng ta cũng có thể cống hiến cho thệ hệ chúng ta viên ngọc qúy Phúc Âm.

Phỏng dịch tư nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, Các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Các người tội lỗi, kẻ đồi bại và các Thánh là đề tài gồm ba nhóm mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên trong buổi thánh lễ sáng ngày thứ Hai 06/03/2013 tại nhà trú Martha. Đức Thánh Cha nói các kẻ đồi bại xấu xa đã làm tổn hại đến Giáo Hội Công Giáo bởi vì họ là những người chỉ biết sùng ái tôn thờ chính họ. Ngược lại các Thánh làm các việc tốt lành, là những ngọn đèn sáng trong Giáo Hội Công Giáo.

Việc gì xảy ra khi chúng ta muốn trở thành các chủ của vườn nho? Dụ ngôn của các tá điền gian ác trong bài đọc phúc âm là một điểm bắt đầu cho bài giảng ĐTC Phanxicô mà Ngài nhấn mạnh đến “ Ba nhóm người đặc trưng cho người công giáo trong Hội Thánh: Người tội lỗi, Kẻ đồi bại và các Thánh”. ĐTC ghi chú thêm rằng “không cần bàn thêm nhiều về “người tội lỗi” bởi vì chúng ta tất cả là người tội lỗi. Chúng ta đã thấy trong chính chúng ta và biết rằng tội là gì. Nếu bất cứ ai trong chúng ta không cảm nhận việc này, thì người ấy cần phải đi đến bác sĩ tinh thần” bởi vì “có cái gì không đúng”. Tuy nhiên, dụ ngôn cho chúng ta một cái hình ảnh khác, cho những ai muốn sở hữu vườn nho và ai mất sự liên hệ với Chủ của vườn nho mà Chủ vườn nho là người thương yêu, bảo vệ chúng ta, là người cho chúng ta sự tự do. ” Những kẻ muốn chiếm hữu vườn nho, “tự cho là họ mạnh mẻ, và cho rằng không trực thuộc vào Thiên Chúa”:

“Những kẻ này, dần dần sẽ rơi vào tự chủ mình, độc lập với sự liên kết với Thiên Chúa “Chúng tôi không cần Ông Chủ đó, ông ta không nên đến và quấy rầy chúng tôi!” Họ là những kẻ đồi bại, Đây là những kẻ có tội giống chúng ta, nhưng họ đã làm một bước tiến vượt quá sự kiện này, nếu như họ xác nhận tội lỗi của họ, họ không cần đến Thiên Chúa. Nhưng dường như  là như vậy, trong tính di truyền của họ có sự liên kết với Thiên Chúa và từ đấy họ không thể chối bỏ điều này, họ tự tạo một thần linh đặc biệt, chính họ là thần linh. Họ là kẻ đồi bại.

Đức Thánh Cha tiếp: “Đây cũng là một sự nguy hiểm cho chúng ta. Trong các cộng đồng Kitô hữu, kẻ đồi bại chỉ nghĩ đến riêng nhóm của họ: “Tốt, tốt lắm, đó là của chúng ta – họ nghĩ như vậy – nhưng thực ra, ‘họ chỉ lo cho chính họ mà thôi”:

“Giuđa [là kẻ thứ nhất]: từ một người tội lỗi tham lam, cuối cùng trở thành đồi bại. Con đường tự chủ là một con đường hiểm nguy: họ rất dễ quên, quên sự yêu thương, mà Thiên Chúa tạo dựng lên vườn nho và chính họ. Họ cắt đứt sự liên hệ với sự yêu thương này và họ trở thành những người tự tôn tự đại. Thật là sự đồi bại trong cộng đồng Kitô giáo. Cầu xin Thiên Chúa cứu thoát chúng ta con đường đồi bại ấy.

ĐTC cũng nói về các Thánh, tưởng niệm ngày hôm nay là lần thứ 50 ngày mất của Chân Phước Gioan XXIII, “một mẫu thánh thiện”. Ngài tiếp: “Trong Phúc Âm hôm nay, các Thánh là những người đi thu tiền các tá điền thuê mướn vườn nho. Họ biết họ có bổn phận gì, họ phải làm bổn phận của họ”:

Các Thánh là những người vâng theo Thiên Chúa, những người tôn thờ Thiên Chúa, họ không mất sự yêu thương  mà Thiên Chúa đã ban khi tạo dựng ra vườn nho. Những kẻ tham nhũng đã gây bao nhiêu tai hại cho Giáo Hội, nhưng các Thánh lại làm biết bao nhiêu điều tốt lành. Cũng như kẻ đồi bại làm tổn hại đến Hội Thánh  nhưng các Thánh làm rất nhiều việc tốt lành. Thánh Gioan Tông đồ nói những kẻ đồi bại là những kẻ chống lại Chúa, họ ở giữa chúng ta, nhưng họ không phải là chúng ta. Còn các Thánh, Lời Chúa phán rằng họ giống như ánh sáng, ‘họ sẽ thờ phượng ở trước ngai tòa Thiên Chúa.’ Hôm nay chúng ta xin Thiên Chúa ban cho ân sủng để hiểu rằng chúng ta là kẻ tội lỗi, thực sự có tội,  tội lỗi không bao quát, nhưng người tội lỗi liên quan đến chỗ này, chỗ đó và chỗ khác, tội lỗi cụ thể, với sự cụ thể của tội lỗi. Ân sủng sẽ không trở thành đồi bại: người tội lỗi thì được, nhưng đồi bại thì không. Và hồng ân sẽ đi trên con đường thánh thiện. Amen.

Phỏng dịch từ Vatican Radio

Thái Trọng

Thông báo về buổi lễ kết thúc giai đoạn điều tra cấp giáo phận án phong chân phước cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Thông báo về buổi lễ kết thúc giai đoạn điều tra cấp giáo phận án phong chân phước cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Ngày 5 tháng 7-2013, ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Roma, sẽ chủ tọa buổi lễ kết thúc cuộc điều tra ở cấp Giáo phận trong án phong chân phước cho vị Tôi Tớ Chúa, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Buổi lễ này sẽ diễn ra lúc 11 giờ 30 sáng tại Hội trường ”Hòa Giải” trong dinh thự Latarano cũng là Tòa Giám quản của giáo phận Roma. Bắt đầu là thánh ca, tiếp đến là đọc biên bản, rồi diễn văn của ĐHY Vallini, và lời cám ơn của ĐHY Turkson, sau cùng là thánh ca kết thúc.

Trong thư mời tham dự buổi lễ này, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, và ĐHY Vallini cũng cho biết trước đó, vào lúc 9 giờ rưỡi sáng cùng ngày thứ sáu, 5 tháng 7, sẽ có thánh lễ đồng tế tại Vương cung Thánh Đường Thánh Antôn Padova của dòng Phanxicô, ở đường Merulana, 124.


Ngoài ra, vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày, sẽ có buổi giới thiệu cuốn sách của ĐHY Nguyễn Văn Thuận với tựa đề ”Các thư mục vụ – theo vết Công đồng chung Vatican 2”; trình bày các bản sao Thánh Giá của ĐHY Nguyễn Văn Thuận; tuyên bố cấp học bổng về đạo lý xã hội của Hội Thánh, để kính nhớ Đức Cố Hồng Y. Sau cùng là buổi hòa nhạc.

Ngày thứ bẩy, 6 tháng 7, lúc 12 giờ sẽ có buổi tiếp kiến của ĐTC và thánh lễ tạ ơn được cử hành tại Nhà Thờ Đức Mẹ Cầu Thang nơi có mộ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận (Santa Maria della Scala – Piazza S. Maria della Scala, 23).

Thư mời của ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đặc biệt cám các tổ chức ân nhân như: Ngân Quỹ ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận ở Hoa Kỳ; Ngân Quỹ Thánh Mathêu, tưởng niệm ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận ở Vatican, Hiệp Hội các cựu Chủng sinh Huế ở Mỹ, Ngân Quỹ Antica Zecca ở Lucca, Italia, Phong trào Canh tân trong Thánh Linh ở Tampa, Florida, và sau cùng là Giáo đoàn Công Giáo Việt Nam ở Đức.

Sau buổi lễ tại Tòa Giám Quản Roma, toàn bộ hồ sơ thu thập được trong cuộc điều tra, được niêm phong và gửi về Bộ Phong Thánh. Tại đây, Bộ sẽ cứu xét giá trị cuộc điều tra đã thực hiện trước khi chỉ định vị Tường trình viên (Relatore) để cùng với vị Thỉnh nguyện viên soạn tập Hồ sơ đúc kết (Positio) và các nhân đức anh hùng của vị Tôi Tớ Chúa. Hồ sơ này sẽ được giao cho 9 vị chuyên gia cố vấn của Bộ cứu xét và cho ý kiến. Nếu mọi giai đoạn của việc cứu xét này là tích cực, ĐTC sẽ cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng và vị Tôi Tớ Chúa được gọi là Đấng Đáng Kính.

Giai đoạn kế tiếp và cứu xét phép lạ. Nếu có phép lạ được chứng thực qua các giai đoạn cứu xét của Hội đồng giám định y khoa, Ủy ban thần học và hội đồng Hồng Y, ĐTC sẽ cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận, và việc phong chân phước có thể tiến hành sau đó (TPN 3-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ðại sứ Mỹ gặp cộng đồng Việt vùng Little Saigon cuối tuần ngày 1 và 2 tháng 6 -2013

Ðại sứ Mỹ gặp cộng đồng Việt vùng Little Saigon cuối tuần ngày 1 và 2 tháng 6 -2013

WESTMINSTER, California (NV) Trong lần đầu tiên gặp gỡ cộng đồng Việt Nam tại vùng Little Saigon, ông David Shear, đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, cho biết kết quả vận động nhân quyền của tòa đại sứ tại Việt Nam có kết quả “khiêm tốn.”

 

Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông David Shear (phải), nghe một cử tọa đặt câu hỏi tại buổi gặp gỡ cộng đồng Việt Nam tại Little Saigon. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Tại cả ba buổi gặp gỡ trong ngày Thứ Bảy vừa qua, một tại Trung Tâm Le-Jao Center của Ðại Học Cộng Ðồng Coastline, một tại nhà hàng Làng Ngon, và một tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, ông David Shear lập đi lập lại nhiều lần chữ “khiêm tốn” (modest) khi nói về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam.

“Kể từ khi làm đại sứ tại Việt Nam, mỗi khi gặp các lãnh đạo cao cấp như ông Trọng, ông Sang, ông Dũng, hoặc Ngoại Trưởng Minh, cũng như những người khác, tôi không chỉ nói nhân quyền quan trọng như thế nào trong quan hệ Việt-Mỹ, mà tôi yêu cầu họ thả tù nhân, tôn trọng tự do nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do tụ tập, và tự do tín ngưỡng. Thế nhưng, chúng tôi chỉ đạt một kết quả 'khiêm nhường,'” nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ tại Việt Nam nói trước cử tọa bao gồm nhiều người Việt Nam và nhiều vị dân cử địa phương trong vùng.

Ông dẫn chứng: “Ví dụ như trường hợp thả Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân.”

Rồi ông mời ông Quân đứng lên và nói: “Tôi mừng là ông có mặt ở đây, chứ không còn ở trong tù nữa.”

“Như vụ thả Luật Sư Lê Công Ðịnh,” ông David Shear nói tiếp. “Tháng Hai vừa qua, lần đầu tiên Việt Nam tiếp ông phó chủ tịch tổ chức Amnesty International. Tôi hy vọng đây sẽ là bước mở đầu trong quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức nhân quyền.”

 

Từ trái, Dân Biểu Alan Lowenthal, Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ, ông Ðỗ Hoàng Ðiềm (chủ tịch đảng Việt Tân) và Ðại Sứ David Shear tại nhà hàng Làng Ngon. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)


Ông nói tiếp: “Tuy nhiên, như tôi nói, đây chỉ là những kết quả 'khiêm tốn.' Chúng ta còn nhiều việc phải làm, không thể thay đổi mọi chuyện qua một đêm. Và để làm được điều này, chúng ta phải tiếp tục nêu lên những quan tâm của cộng đồng Việt Nam và chúng ta có điều kiện ảnh hưởng họ (chính quyền Việt Nam).”

Ông cũng cho biết ảnh hưởng của cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ rất lớn, và có thể gây ảnh hưởng tại Việt Nam.
“Tiếng nói của cộng đồng Việt Nam rất mạnh, và chúng tôi, tại Hà Nội, lắng nghe quý vị một cách nghiêm túc,” ông nói. “Ngoài ra, quý vị có những vị dân cử liên bang luôn biết lắng nghe và sẵn sàng lên tiếng cho quý vị, ví dụ như các dân biểu Alan Lowenthal, Loretta Sanchez và Ed Royce.”

Ông cũng không quên đề cập đến mục tiêu của Hoa Kỳ.

Ông nói: “Hoa Kỳ muốn Việt Nam là một quốc gia giàu mạnh và độc lập, nhưng phải tôn trọng luật lệ.”
Trong quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù, Ðại Sứ David Shear cho biết Washington theo đuổi bốn mục tiêu: (1) Quan hệ kinh tế và thương mại. (2) Hợp tác ngoại giao và an ninh. (3) Giúp đỡ giáo dục và môi trường. (4) Kêu gọi họ – một cách mạnh mẽ và liên tục – tôn trọng nhân quyền.

“Tại sao tôi lại đề cập nhân quyền cuối cùng?” ông đại sứ đặt câu hỏi.

“Vì nhân quyền có liên quan đến ba mục tiêu trên,” ông David Shear giải thích.

 

Về mục tiêu số một, ông David Shear cho biết trao đổi thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nay lên đến $20 tỉ/năm. Nếu Việt Nam được vào TPP (Trans-Pacific Panership) với Hoa Kỳ và các quốc gia khác ở Thái Bình Dương, Hoa Kỳ sẽ gia tăng xuất cảng vào Việt Nam.

Trong mục tiêu số hai, Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng quyền lợi với các quốc gia khác trong Biển Ðông. Và Hoa Kỳ đã có hợp tác quân sự với Việt Nam ở mức khiêm nhường.

Ông nêu ví dụ: “Trong năm 2011, hai nước đã ký hiệp định hợp tác cứu hộ trên biển, hàng hải, và tìm kiếm người mất tích trong trường hợp thiên tai trên Biển Ðông.”

Với mục tiêu số ba, ông David Shear cho biết hiện có 15,000 sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ.

Ông nói thêm: “Hoa Kỳ cố gắng rất nhiều trong việc đẩy mạnh nhân quyền tại Việt Nam, nhưng chính 15,000 sinh viên khi trở về sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.”

Ông cũng nhắc đến các hoạt động của Mỹ giúp Việt Nam chống bệnh AIDS, các bệnh tật khác, cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là khi dòng sông này bị “tấn công từ phía trên” và mực nước biển dâng lên ở phía dưới, cùng với sự thay đổi khí hậu.

Về mục tiêu số bốn – nhân quyền – ông David Shear cho biết ông và ông Lê Thành Ân, tổng lãnh sự tại Sài Gòn, coi đây là vấn đề rất quan trọng.

Ông nói: “Hồi Tháng Tám, 2011, khi Việt Nam muốn vào TPP, chúng tôi nói thẳng họ phải cải thiện nhân quyền.”
“Nhân quyền là một cái gì đó nằm sâu trong máu của người Mỹ,” ông nói tiếp. “Tuy nhiên, rất dễ cho tôi nói chuyện với Việt Nam về phát triển kinh tế, nhưng không dễ khi nói chuyện nhân quyền với họ.”

Ông cũng cho biết, ông đã đi nhiều nơi tại Việt Nam, từ đồng bằng đến vùng núi, đến vùng cao nguyên, khoảng 24 tỉnh, nhưng vẫn bị hạn chế khi muốn đi đến một số nơi khác.

Về tự do tôn giáo, ông David Shear cho biết cũng đang làm việc cật lực để vấn đề được tốt hơn.

 

 

Giám Sát Viên Janet Nguyễn (trái) và Ðại Sứ David Shear (thứ hai từ trái) nói chuyện với đại diện tôn giáo và cộng đồng tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, Westminster. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)

Ông kể, và có chiếu một số hình ảnh để minh họa, là từng gặp một nhà bất đồng chính kiến như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế, vài giám mục Công Giáo, Thánh Ðịa La Vang và một số nơi khác.

Nhưng có một lần ông bị “cản trở” khi muốn gặp giám mục Giáo Phận Vinh.

Ông kể: “Hôm đó, tôi dự trù đến Vinh hai ngày, có lấy hẹn gặp vị giám mục, nhưng khi đến nơi, tôi được biết không thể gặp ngài được. Tôi rất bực bội và nói thẳng với Ban Tôn Giáo của tỉnh Nghệ An là tôi rất không hài lòng. Tôi trở lại Hà Nội ngay lập tức.”

Về chuyện đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC (Countries of Particular Concern), vì không tôn trọng tự do tôn giáo, ông Shear giải thích: “Chúng ta đưa Việt Nam ra khỏi danh sách này năm 2006. Sau đó, chúng ta thấy điều lệ để đưa một quốc gia vào CPC quá giới hạn, và Việt Nam không đủ tiêu chuẩn.”

Trong phần hỏi đáp với cử tọa, nhiều người đề cập đến chuyện một viên chức Mỹ từng làm việc ở Tổng Lãnh Sự Sài Gòn bị bắt vì bị tình nghi bán visa, ông David Shear đáp: “Tôi không thể trả lời vấn đề này vì sự việc đang được điều tra. Nhưng tôi muốn nói rõ, chúng tôi không chấp nhận chuyện này, và khi biết ai làm, chúng tôi sẽ trừng phạt họ.”

Ông cũng cho biết vụ bán visa không ảnh hưởng việc cấp visa cho du học sinh cũng như khách du lịch từ Việt Nam vào Hoa Kỳ.

 

Ðại Sứ David Shear (trái) trả lời câu hỏi của giới truyền thông Việt Ngữ sau buổi gặp gỡ cộng đồng Việt Nam. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nhiều người cũng đặt câu hỏi về quan điểm của Mỹ trong tranh chấp ở Biển Ðông, giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa khối ASEAN và Trung Quốc, ông David Shear khẳng định: “Hoa Kỳ không đứng về phía nào, nhưng cũng phản đối bất cứ hình thức nào đơn phương tuyên bố chủ quyền Biển Ðông, vì đây là hải lộ quốc tế quan trọng.”

“Hoa Kỳ muốn mọi khác biệt được giải quyết qua phương thức ngoại giao, tôn trọng lẫn nhau, nhất là qua Quy Tắc Ứng Xử (Code of Conduct-COC),” ông David Shear nói.

Buổi gặp gỡ giữa Ðại Sứ David Shear và cộng đồng Việt Nam ở Trung Tâm Le-Jao do ba dân biểu Alan Lowenthal, Loretta Sanchez và Ed Royce đồng bảo trợ, tuy nhiên, chỉ có ông Lowenthal có mặt, còn hai vị kia bận việc khác.

Trước khi mở đầu, Dân Biểu Lowenthal giới thiệu ông Trí Tạ, thị trưởng Westminster, và bà Janet Nguyễn, giám sát viên Orange County, phát biểu chào mừng vị đại sứ và đồng hương.

Sau đó, Ðại Sứ David Shear có một buổi gặp gỡ và ăn trưa với một số nhân vật trong cộng đồng và đại diện một số đảng phái tại nhà hàng Làng Ngon, Westminster. Buổi gặp gỡ này do năm cá nhân đài thọ. Ðó là nhạc sĩ Trúc Hồ (tổng giám đốc SBTN), Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ (phó tổng giám đốc SBTN), Luật Sư Nguyễn Anh Tuấn (thành viên HÐQT SBTN), Tiến Sĩ Susie Xuyến-Ðông Matsuda (thành viên đảng Việt Tân) và ông Trần Trung Dũng (đại diện Ðảng Bộ Việt Tân Bắc Mỹ).

Sau đó, ông David Shear gặp và nói chuyện với một số đại diện tôn giáo và cộng đồng, và một số vị dân cử, trong một buổi tiếp tân do Giám Sát Viên Janet Nguyễn tổ chức tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, Westminster.

 

––
Liên lạc tác giả: DoDzung@nguoi-viet.com

PHÉP LẠ THÁNH THỂ

PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Trong chuyến hành hương Fatima tháng 4 vừa qua, tôi có đến thăm Nhà Thờ Phép Lạ Thánh Thể ở Santarem. Santarem là một thị trấn cách Fatima chừng 60km.

 

http://www.206tours.com/tour37/church-santarem1a.jpg
 

Vào khoảng giữa năm 1225 hay 1247, có  một phụ nữ Công giáo cư ngụ tại Santarem. Bà ta là người quá bất hạnh vì luôn yên trí rằng: người chồng không thương yêu mình và đã thất tín, nên bà ta dùng mọi mánh khoé để lôi kéo chồng, nhưng không thành công. Đau khổ quá, bà ta tìm đến với một mụ phù thủy như giải pháp cuối cùng. Mụ phù thủy hứa sẽ làm cho người chồng quay trở lại yêu thương bà với điều kiện bà mang cho mụ ta một tấm Bánh Thánh với ý đồ xúc phạm Mình Thánh Chúa.

Điều kiện quái gở này đã làm cho người phụ nữ rất lo sợ, vì đây là việc phạm sự thánh. Tuy nhiên, vì quá đau khổ, cuối cùng bà ta liều mình chấp nhận. Bà đi dự lễ và lên rước Mình Thánh Chúa tại Nhà thờ Thánh Stêphanô. Nhưng thay vì nuốt Mình Thánh, bà ta lấy Mình Thánh ra khỏi miệng và gói vào một chiếc khăn, rồi lập tức rời khỏi Nhà thờ để đem giao Mình Thánh Chúa cho mụ phù thủy.  

Dọc đường, Mình Thánh Chúa bắt  đầu rỉ máu. Tuy nhiên, bà ta không hề hay biết, cho đến khi những người qua đường nhìn bà  ta chằm chằm, vì họ tưởng bà bị xuất huyết. Quá hoảng sợ, bà ta vội vã trở  về nhà, bỏ khăn ra và đặt Mình Thánh Chúa vào một đáy rương. Suốt ngày hôm đó cho đến tối, bà chờ đợi chồng trong sự lo sợ. Đến khuya người chồng về nhà nhưng bà ta giấu không hề hé môi nói về chuyện đó, sau cùng cả hai vợ chồng đi ngủ. Cả đêm hôm đó, bà không sao ngủ được, tâm hồn bị dày vò vì tội phạm sự thánh và bà luôn nghĩ rằng, không biết Mình Thánh có còn chảy máu nữa hay không?

Tảng sáng, hai vợ chồng tỉnh giấc, những tia sáng chói loà từ chiếc rương phát ra. Không giấu nổi, bà đành thú tội với chồng về tội phạm sự thánh. Thế rồi cả hai đã quì thờ lạy Thánh Thể Chúa cho tới sáng. Sáng sớm, ánh sáng càng rực rỡ từ chiếc rương đã thu hút bao khách qua đường đến chật ních ngôi nhà của bà. Tất cả mọi người đã chứng kiến phép lạ cách tỏ tường. Thế rồi tin phép lạ Thánh Thể đã đến tai cha xứ. Ngài vội vã đến nơi xảy ra phép lạ và nghe bà trình lại tỉ mỉ sự việc. Sau đó, cha xứ long trọng rước Thánh Thể về Nhà thờ. Ngài đặt Thánh Thể vào trong hộp tráng sáp và để trong Nhà Tạm.

Rồi một phép lạ khác lại xảy ra sau đó. Lần kia, khi cha xứ mở cửa Nhà Tạm, hộp tráng sáp đựng Thánh Thể đã bị vỡ tung thành trăm mảnh. Thế vào đó, ngài đã phải làm một hộp pha lê đựng Mình Thánh Chúa. Hộp đó đã được lưu giữ cẩn thận ở ngôi thánh đường này cho đến ngày nay. Từ đó, ngôi Thánh đường được đổi tên là “Nhà thờ Phép Lạ Thánh Thể”.

Từ ngày phép lạ xảy ra, hằng năm, vào Chúa Nhật thứ hai trong tháng 4, dân địa phương đã diễn lại sự kiện trên, và Phép Lạ Thánh Thể đã được long trọng cung nghinh từ ngôi nhà xảy ra phép lạ về Nhà thờ chính.

Từ năm 1684, căn nhà này đã trở thành nhà nguyện để cho khách thập phương kính viếng. Phép Lạ Thánh Thể Santarem chỉ rời thành phố một lần vào lúc quân đội Napolêon chiếm đóng Bồ Đào Nha vào năm 1810. Vì dân làng lo sợ quân Pháp xúc phạm đến Mình Thánh Chúa, nên Đức Giám Mục Lisbon đã chuyển Thánh Thể đi khỏi Santarem. Ngài đã đặt Thánh Thể để các tín hữu ở Lisbon tôn kính. Có người cho rằng ngài muốn lưu giữ Thánh Thể vĩnh viễn tại Thánh đường Pacao. Dân thành Santarem hay tin đã nổi giận và mở một cuộc biểu tình quá gây cấn. Thế rồi, Phép Lạ Thánh Thể lại được đem về Santarem cách bí mật trong ngày 2-12-1811 và ở lại đó cho đến ngày nay.
 

http://2.bp.blogspot.com/-FOHzl4hBv18/UTnKXEYUeYI/AAAAAAAAC54/NLQF0GMKGXQ/s1600/Hostia-Santarem.jpg
 

Bánh Thánh Thể có hình khác thường với những đường máu chảy từ trên xuống dưới và người ta đã thu được một số lượng máu  ở hộp đựng Bánh Thánh.

Bác sĩ Hoagland ở New Jersey đã đến viếng Bánh Thánh Thể nhiều lần và nhận thấy có nhiều lúc máu có màu như máu tươi. Máu Thánh vẫn còn ở thể lỏng cho tới 750 năm sau khi Phép Lạ xảy ra vào đầu thế kỷ XIII.

Sau khi được sự chuẩn nhận của Giáo quyền, Nhà Thờ Thánh Têphanô ở Santarem được đổi tên là “Nhà Thờ Phép Lạ Thánh Thể”. Trong thinh lặng, chúng tôi lần lượt từng người đi theo lối phía sau cung thánh, ngay phía sau Nhà Tạm có 5 bậc tam cấp để bước lên và hôn kính Thánh Thể được đặt trong một mặt nhật bằng vàng. Sau đó chúng tôi đi ra Nhà thờ quỳ gối thờ lạy Chúa Giêsu ngự trong Bánh Thánh Thể.

Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có  Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực.

Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép: “Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II); “Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III); “Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).

Thánh Thể mầu nhiệm  đức tin. Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ  ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy".

Vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.

Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Rước lễ là  gắn bó với một ngôi vị: Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.

Rước lễ là  gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh : Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy.

Rước lễ là  đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là  sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.

Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa  đã ban bí tích Thánh Thể, chúng con được rước Mình và Máu Thánh Chúa là lãnh nhận sự sống của Chúa, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

(Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ)

60 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

60 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

VATICAN. 60 ngàn tín hữu đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa chúa nhật 2 tháng 6-2013.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, theo lịch chung tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Ngài cũng tái lên tiếng kêu gọi chấm dứt các cuộc xung đột đẫm máu kéo dài từ 2 năm nay ở Siria, trả tự do cho những người bị bắt cóc.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em!

”Thứ năm vừa qua, chúng ta đã cử hành lễ kính Mình Thánh Chúa, lễ này tại Italia và các nước khác được dời vào chúa nhật hôm nay. Đây là Lễ Thánh Thể, Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.

”Bài Tin Mừng đề nghị với chúng ta trình thuật phép lạ bánh hóa nhiều (Lc 9,11-17); tôi muốn dừng lại ở một khía cạnh vẫn luôn gây ấn tượng mạnh cho tôi và làm cho tôi suy nghĩ. Chúng ta đang ở bên bờ hồ Galilea, chiều tối đến gần; Chúa Giêsu lo âu vì dân chúng ở với Ngài từ lâu giờ: hàng ngàn người, và họ đang đói. Làm sao đây? Cả các môn đệ cũng đặt vấn đề và nói với Chúa Giêsu: 'Xin Thầy giải tán dân chúng” để họ vào các làng mạc lân cận tìm thức ăn. Trái lại Chúa Giêsu nói: ”Chính các con hãy cho họ ăn đi” (v.13) Các môn đệ ngỡ ngàng và trả lời: ”Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá”, như thể nói: chỉ vừa đủ cho chúng ta.

”Chúa Giêsu biết rõ phải làm sao, nhưng muốn các môn đệ can dự vào, Ngài muốn giáo dục họ. Thái độ của các môn đệ thật là thái độ thường tình của con người, vốn tìm một giải pháp thực tiễn nhất, và không gây quá nhiều vấn đề: đó là giải tán đám đông, mỗi người tự lo liệu lấy, vả lại Thầy đã làm quá nhiều cho họ rồi, Thầy đã giảng giải, đã chữa lành các bệnh nhân.. Xin Thầy hãy giải tán đám đông!

”Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn, và thái độ ấy do sự kết hiệp của Ngài với Chúa Cha và do sự cảm thông với dân chúng, và cũng do ý chí muốn gửi đến các môn đệ một sứ điệp. Đứng trước 5 chiếc bánh đó, Chúa Giêsu nghĩ: đây thực là điều quan phòng! Từ số lượng bé nhỏ ấy, Thiên Chúa có thể rút ra những gì cần thiết cho mọi người. Chúa Giêsu hoàn toàn tín thác nơi Cha trên trời, Ngài biết rằng đối với Chúa Cha tất cả đều có thể. Vì thế, Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho dân chúng ngồi xuống thành từng nhóm 50 người – không phải là tình cờ; điều này có nghĩa là họ không còn là đám đông nữa, nhưng trở thành một cộng đoàn, được nuôi dưỡng bằng bánh của Thiên Chúa. Rồi Chúa cầm lấy những chiếc bánh và những con cá ấy, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng – hiển nhiên đây là sự ám chỉ tới Phép Thánh Thể -, rồi Ngài bẻ ra và bắt đầu phân phát cho các môn đệ, và các môn đệ phân phát … bánh và cá ấy không hết! Đó là phép lạ: đây không phải là sự hóa bánh ra nhiều cho bằng một sự chia sẻ, được đức tin và kinh nguyện linh hoạt. Tất cả đều ăn và vẫn còn thừa: đó là dấu chỉ Chúa Giêsu, bánh của Thiên Chúa cho nhân loại.

”Các môn đệ đã thấy, nhưng họ không lãnh hội rõ sứ điệp. Giống như đám đông, họ phấn khởi vì sự thành công. Một lần nữa họ theo lý luận phàm nhân chứ không phải lý luận của Thiên Chúa, đó là sự phục vụ, yêu thương và tin tưởng. Lễ Mình Thánh Chúa yêu cầu chúng ta trở về với niềm tin nơi sự Quan Phòng của Chúa, biết chia sẻ điều ít ỏi mà chúng ta có và chính bản thân chúng ta, và đừng bao giờ khép kín co cụm trong chính mình. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Maria của chúng ta giúp đỡ chúng ta trong cuộc hoán cải này, để thực sự theo Chúa Giêsu một cách chân thực hơn, Đấng mà chúng ta thờ lại trong Thánh Thể. Amen

Kêu gọi và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nói thêm rằng:

”Anh chị em thân mến, tôi vẫn rất lo âu và đau buồn vì cuộc xung đột kéo dài từ hơn hai năm nay làm cho Siria ở trong tình trạng máu lửa và gây tổn thương đặc biệt cho dân chúng vô phương tự vệ, họ đang khao khát một nền hòa bình trong công lý và cảm thông. Tình trạng chiến tranh đau thương này kéo theo những hậu quả bi thảm: chết chóc, tàn phá, thiệt hại lớn lao về kinh tế và môi sinh, cũng như tệ nạn bắt cóc người. Trong khi lên án những sự kiện đó, tôi muốn cam đoan về kinh nguyện và tình liên đới của tôi đối với những người bị bắt cóc và thân nhân họ, và tôi kêu gọi tình người của những kẻ bắt cóc hãy trả tự do cho các nạn nhân. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho Siria yêu quí”.

Quốc gia này tiếp tục ở trong tình trạng bất an và vô chính phủ do chiến tranh gây ra, nhiều vụ bắt cóc có động lực kinh tế để đòi tiền chuộc mạng, một số vụ bắt cóc khác dường như là do sự trả đũa giữa các nhóm Hồi giáo khác nhau hoặc do trào lưu cực đoan cuồng tín. Trong số những nhân vật được biết đến nhiều nhất giữa những người bị bắt cóc từ hơn một tháng nay có Đức GM Yohanna Ibrahim, thuộc Giáo Hội Chính Thống Siriac ở Aleppo, và Đức GM Boulos Yaziji, TGM giáo phận Chính Thống Hy Lạp cũng tại Aleppo, thành phố lớn thứ hai của Siria. Thêm vào đó cũng có 1 ký giả người Italia là ông Domenico Quirico.

ĐTC nói: ”Trên thế giới hiện có bao nhiêu tình trạng xung đột, nhưng cũng có bao nhiêu dấu hiệu hy vọng. Tôi muốn khích lệ những bước tiến gần đây tại nhiều nước Mỹ châu la tinh hướng về sự hòa giải và hòa bình. Chúng ta hãy tháp tùng họ trong kinh nguyện.

Trước khi kết thúc buổi đọc kinh, ĐTC kể lại rằng:

”Sáng hôm nay tôi đã cử hành thánh lễ với một số quân nhân và thân nhân của một số người đã ngã gục trong các sứ vụ hòa bình nhắm thăng tiến sự hòa giải và hòa bình tại những nước đang còn có máu đổ ra giữa những người anh chị em với nhau đang gặp chiến tranh, vốn là điều điên rồ.”

và ĐTC trích dẫn câu nói của ĐGH Piô 12, được Đức Gioan Phaolô 2 lấy lại: ”Với chiến tranh tất cả đều mất mát. Với hòa bình ta được tất cả”. Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho những người tử nạn, những người bị thương và gia đình họ. Và giờ đây, chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong thinh lặng, trong tâm hồn chúng ta, một kinh nguyện cho những người đã ngã gục, những người bị thương và gia đình họ”.

Sau một phút thinh lặng cầu nguyện, ĐTC còn ngỏ lời chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện hôm nay: các gia đình, các tín hữu thuộc bao nhiêu giáo xứ Italia và các nước khác, các hội đoàn và phong trào. Ngài nói: ”Tôi đặc biệt chào các tín hữu đến từ Canada, từ Croát và Bosni Erzegovine, cũng như một nhóm thuộc tổ chức Cottolengo nhỏ ở Genova, Hội thánh Orione. Tôi chào tất cả và cầu chúc tất cả chúa nhật tốt đẹp và dùng bữa trưa ngon!

Thánh lễ ĐTC cử hành ở nguyện đường Nhà Trọ thánh Marta lúc 9 giờ rưỡi sáng chúa nhật hôm qua có khoảng 80 người tham dự dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Vincenzo Pelvi, Giám mục giáo hạt quân đội Italia và một số LM tuyên úy quân đội. Trong số các tín hữu hiện diện có 55 thân nhân, đặc biệt là cha mẹ của 24 binh sĩ Italia tử trận trong vòng 4, 5 năm nay, đặc biệt tại Afganistan, và ngoài ra có 13 quân nhân bị thương đã từng tham gia các sứ vụ hòa bình như vậy.

Hôm 2 tháng 6-2013 cũng là lễ Cộng hòa của Italia, nên vào cuối lễ có đọc kinh cầu nguyện cho Italia do Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 soạn hồi năm 1994. Sau thánh lễ, ĐTC đã thân ái chào thăm từng người tham dự.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự chầu Thánh Thể hoàn vũ

Đức Thánh Cha chủ sự chầu Thánh Thể hoàn vũ

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi chầu Thánh Thể trọng thể từ 5 đến 6 giờ chiều chúa nhật 2 tháng 6-2013 tại Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử giờ chầu này được cử hành đồng thời tại các nhà thờ chính tòa và nhiều giáo xứ, cộng đoàn và tu viện trên thế giới, bất kể các múi giờ khác nhau. Như tại quần đảo Samoa trong Thái Bình Dương là 4 giờ sáng, Seul Nam Hàn là nửa đêm, Việt Nam là 10 giờ tối.

Đền thờ Thánh Phêrô đông chật các tín hữu. Trong số này có gần 20 Hồng Y và 20 GM, rất đông các nữ tu.
Giờ chầu bắt đầu bằng thánh ca Năm Đức Tin trong khi ĐTC tiến vào Đền Thờ. Tiếp đến một thầy Phó Tế mang Mình Thánh Chúa có các thầy giúp lễ tháp tùng lên bàn thờ chính và đặt vào Mặt Nhật, trong khi ca đoàn và cộng hát bài Adoro te devote (Lạy Chúa Giêsu, con sùng kính thờ lạy Chúa).

Buổi chầu được xen lẫn giữa những phút thinh lặng cầu nguyện riêng, những đoạn sách thánh, các đoạn sách trích lời ĐGH Gioan Phaolô 2, Gioan 23 và Biển Đức 16, cùng với những lời khẩn nguyện, sau cùng là bài ca Tantum Ergo và ĐTC ban phép lành Mình Thánh Chúa cho tất cả mọi người.

Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cũng là Chủ tịch Ban tổ chức, cho biết ĐTC Phanxicô đã thêm những ý nguyện mà ngài mong muốn các tín hữu hiệp ý cầu trong giờ chầu Thánh Thể chung:

Ý nguyện thứ I là: ”Cầu cho Giáo Hội rải rác khép thế giới và ngày hôm nay được liên kết với nhau trong việc Thờ Lạy Mình Thánh Chúa. Xin Chúa ban cho Giáo Hội luôn vâng phục lắng nghe Lời Chúa để xuất hiện trước mặt thế giới ”ngày càng xinh đẹp, không vết nhăn và tỳ ố, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,28). Qua việc loan báo trung thành, ước gì Lời cứu độ của Chúa tái vang dội như Lời từ bi và thúc giục các tín hữu tái dấn thân trong tình thương để mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho đau khổ và tái lập niềm vui tươi và thanh thản”.

Ý nguyện thứ hai ĐTC đề nghị là:

”Cầu cho những người ở các nơi trên thế giới đang chịu đau khổ vì những thứ nô lệ mới và các nạn nhân của chiến tranh, của nạn buôn người, buôn bán ma túy, phải làm việc như nô lệ, cầu cho cac trẻ em và phụ nữ đang phải chịu mọi hình thức bạo hành. Ước gì tiếng kêu cứu âm thầm của họ được Giáo Hội tỉnh thức lắng nghe, để Giáo Hội ngắm nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, nhưng không quên bao nhiêu anh chị em bị bỏ mặc cho bạo lực. Ngoài ra chúng ta hãy cầu cho tất cả những người ở trong tình trạng kinh tế bấp bênh, nhất là những người thất nghiệp, người già, người nhập cư, người không gia cư, các tù nhân và những người đang bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ước gì kinh nguyện và hoạt động tích cực của Hội Thánh an ủi và nâng đỡ họ trong hy vọng, là sức mạnh giúp họ can đảm bênh vực phẩm giá con người”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ

Đức Thánh Cha kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria trong việc lắng nghe Lời Chúa, quyết định và phục vụ tha nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài suy niệm ngắn vào cuối buổi đọc kinh Mân Côi trọng thể tối ngày 31-5-2013 qua tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân dịp kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ.

Hiện diện tại Quảng trường có lối 30 HY, GM và khoảng 40 ngàn tín hữu cùng với các tu sĩ nam nữ.

ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng của ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng và nhấn mạnh đến gương Mẹ Maria đối diện với hành trình cuộc sống trong tinh thần thực tế, đầy tình người và đúng đắn. Ngài tóm gọm mẫu gương của Đức Mẹ trong 3 từ: lắng nghe, quyết định và hành động.

1. ĐTC nhận xét rằng hành động của Mẹ Maria lên đường viếng thăm bà Elisabeth xuất phát từ sự lắng nghe Lời Chúa. Đó không phải là nghe hời hợt, nhưng là chăm chú lắng nghe, đón nhận và sẵn sàng đối với Thiên Chúa. Mẹ Maria lắng nghe cả những sự kiện, nghĩa là đọc các biến cố trong cuộc sống, đi sâu vào ý nghĩa của chúng. Thái độ này cũng có giá trị trong cuộc sống chúng ta: lắng nghe Chúa nói với chúng ta, lắng nghe thực tại cuộc sống thường nhật, quan tâm đến con người và sự kiện vì Chúa đứng ở cửa đời sống chúng ta và gõ cửa bằng nhiều cách, đặt những dấu hiệu trên hành trình của chúng ta. Chúng ta cần có khả năng nhìn thấy những dấu hiệu ấy.
2. Từ thứ hai là ”Quyết định”. ĐTC giải thích rằng Mẹ Maria không sống ”vội vã”, cơ cực, nhưng như thánh Luca đã nhấn mạnh, ”Mẹ suy niệm tất cả những điều đó trong lòng” (Xc Lc 2,19.51)… Mẹ Maria không để mình bị các biến cố lôi đi, không tránh né những nỗ lực vất vả cần phải làm khi quyết định. Và điều đó diễn ra không những trong chọn lựa căn bản thay đổi cuộc sống của Mẹ: ”Này tôi là tôi tớ Chúa..” (Xc Lc 1,38), nhưng cả trong những chọn lựa thường nhật nhất..

Từ mẫu gương của Mẹ Maria, ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy can đảm đề ra những quyết định trong cuộc sống, đừng trì hoãn hoặc dồn cho người khác quyết định thay chúng ta, hoặc để cho mình bị lôi kéo vì những biến cố hay chạy theo các mốt thịnh hành nhất thời. Ngài nói:

”Nhiều khi chúng ta biết điều mình phải làm, nhưng không có can đảm làm, hoặc chúng ta thấy đó là điều quá khó khăn vì phải đi ngược dòng. Mẹ Maria đã đi ngược dòng trong biến cố truyền tin, trong cuộc thăm viếng, cũng như tại tiệc cưới Cana. Mẹ lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ và tìm hiểu thực tại, và quyết định hoàn toàn tín thác nơi Chúa, quyết định đi thăm bà chị họ già mặc dù mình đang có thai…”

3. Sau cùng là từ ”hành động”. Mẹ Maria ”vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ Elisabeth (Xc Lc 1,39). ĐTC nhận xét rằng ”Trong kinh nguyện, trước mặt Thiên Chúa đang nói, trong suy nghĩ và suy niệm về những sự kiện của cuộc sống, Mẹ Maria không vội vã, không để mình bị các biến cố lôi đi. Nhưng khi đã rõ về điều Chúa muốn, nghĩa là về những gì phải làm, thì Mẹ không do dự chần chừ, lần lữa, nhưng ra đi ”vội vã”. Thánh Ambroxio bình luận rằng ”ơn Thánh Linh không bao hàm sự chậm trễ” (Expos. Evang. sec. Lucan, II, 19: PL 15,1560).

ĐTC nói: ”Nhiều khi chúng ta dừng lại ở việc lắng nghe, suy tư về điều mình phải làm, có lẽ chúng ta cũng có quyết định rõ ràng phải đề ra, nhưng chúng ta không đi tới hành động. Và nhất là chúng ta không ”mau lẹ” đến với người khác để giúp đỡ họ, để tỏ bày sự cảm thông và tình bác ái của chúng ta; để như Mẹ Maria, mang cho tha nhân những gì quí giá nhất đối với chúng ta là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa bằng lời nói và nhất là bằng chứng tá cụ thể trong hành động của chúng ta”. (SD 31-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ

Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ

Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: “Chính các con hãy cho họ ăn”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: “Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh”. Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.

Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.

Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông”. Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.

Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con”. Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.

Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.

Xin Chúa giúp chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.

Radio Veritas