ĐỨC TIN SỐNG

ĐỨC TIN SỐNG
 

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (16/09/2012)
[Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35]

Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.

Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 17).Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
 
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
 
1. Tuyên xưng Đức Tin: .
 
Tuyên xưng Đức Tin  vào Chúa Giê-su không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giê-su Ki-tô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
 
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phê-rô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8, 29),hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
 
2.Từ bỏ mình:
 
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giê-su nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình" (Mc 8, 34-35).
 
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
 
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giê-su. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
 
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Ki-tô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
 
3. Làm việc bác ái:
 
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giê-su mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Gia-cô-bê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16).
 
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Ki-tô Giáo.
 
4. Hiên ngang sống công chính:
 
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
 
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định:“Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a).
 
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi” (x. Tv 114, 1-9).
 
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Ki-tô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
 
 
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và  anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. A men.

 
PM. Cao Huy Hoàng

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

 TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (16/09/2012)
[Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35]

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do-thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Dư luận về Người kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, ít nhất cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Người, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác. Vì thế, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: "Thầy là Ðức Ki-tô".
 
Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.” Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì "giờ" của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
 
Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
 
Thực ra, không chỉ mình Phê-rô, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ. Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lới thực hiện. Và đó chính là mạc khải vậy.
 
Cũng chỉ vì con người khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó này, chịu sự cực kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định. Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải làm ra việc này việc khác… Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin (xưng – xưng ra) ấy trong cuộc sống của anh.
 
Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 26).
 
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới TUYÊN chớ chưa XƯNG ra được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình. Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen. 

 
JM. Lam Thy ĐVD.

Đức Thánh Cha ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

Đức Thánh Cha ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

HARISSA. Chiều ngày 14 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông” đúc kết thành quả Công nghị các GM Trung Đông hồi tháng 10-2012 và chứa đựng chương trình hoạt động cho Giáo Hội trong những năm tới đây.

Buổi ký Tông Huấn diễn ra lúc 6 giờ chiều tại Vương cung thánh đường thánh Phaolô của Giáo Hội Công Giáo Melkite ở Harissa, phía bắc thủ đô Beirut, và chỉ cách tòa Sứ Thần Tòa Thánh lối 5 cây số.

Thánh đường này được xây cất theo kiểu Đền thờ Santa Sofia ở Istanbul, Thổ Nhĩ kỳ, với 5 mái vòm và chứa được 450 người. Khi đến đây ĐTC đã được Đức Thượng Phụ Gregorio, cùng với Cha Bề trên Cộng đoàn tiếp đón và rước vào bên trong thánh đường. Hiện diện tại đây cũng có tổng thống Cộng hòa Liban, và phu nhân, các Thượng Phụ và GM Công Giáo cũng như các HY GM thuộc Hội đồng của Thượng HĐGM Trung Đông. Ngoài ra cũng có các phái đoàn của các Giáo Hội Chính Thống, và các Cộng đoàn Hồi giáo, cũng như đại diện giới văn hóa và xã hội dân sự.
Sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Gregorio, Đức TGM Tổng thư ký Thượng HĐGM, Nikola Eterovic, đã gợi lại vắn tắt tiến trình Thượng HĐGM Trung Đông nhóm tại Roma từ ngày 10 đến 24 tháng 10 năm 2010. Ngài nói: ”Đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần 2 ngàn năm của Giáo Hội, ĐGH triệu tập tại Roma tất cả các GM Trung Đông, các GM chính tòa và hiệu tòa, cả một số vị về hưu. Các vị tham dự Thượng HĐGM về đề tài ”Giáo Hội Công Giáo tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tà. Đông đảo các tín hữu đồng tâm hiệp ý với nhau” Cv 4,32)…

”Nay trong dịp trọng thể này, họp nhau trong Vương cung thánh đường thánh Phaolô của Giáo Hội Công Giáo Hy lạp Melkite cổ kính này, con cảm thấy có nhiệm vụ cám ơn tất cả các nghị phụ đã đóng góp đầy uy tín và giá trị vào suy tư về tình hình Giáo Hội và xã hội tại Trung Đông. Từ sự hiệp thông và công việc của Thượng HĐGM, người ta đã có thể làm nổi bật sự nảy sinh một bình minh mới đầy hy vọng cho các tín hữu Kitô, giữa những khó khăn.

Huấn từ của ĐTC
Về phần ĐTC, ngỏ lời với mọi người sau bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan (12, 20-32) nói về những dấu chỉ vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện, ngài nhận định rằng thật là một điều Chúa quan phòng khi biến cố ký Tông Huấn này diễn ra vào ngày lễ Thánh Giá Vinh Hiển, một lễ được khai sinh tại Đông Phương vào năm 335, sau lễ Thánh Hiến Đền thờ Phục Sinh trên đồi Golgotha và Mộ Thánh do Hoàng đế Constantino. ĐTC nói:
”Tôi thấy Tông Huấn hậu Thượng HĐGM Trung Đông này có thể được đọc và giải thích dưới ánh sáng lễ Thánh Giá Vinh Hiện, đặc biệt là dưới ánh sáng của hai chữ đầu của từ Cristos. Việc đọc như thế giúp tái khám phá căn tính đích thực của tín hữu đã chịu phép rửa và của Giáo Hội, đồng thời như một lời mời gọi làm chứng tá trong và qua tình hiệp thông. Hiệp thông và chứng tá Kitô đồng qui trong Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm chịu đóng đanh, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô, và tìm được sự viên mãn trong đó. Nếu không có quan hệ như thế, thì việc suy tôn Thánh Giá chỉ là biện minh cho đau khổ và chết chóc. Đối với Kitô hữu, tuyên dương Thánh Giá có nghĩa là hiệp thông hoàn toàn với tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tuyên dương thánh giá trong viễn tượng Phục Sinh.”

ĐTC cũng nhận xét rằng khi nghĩ đến tình trạng Giáo Hội hiện nay tại Trung Đông, các nghị phụ đã suy tư về những vui mừng và đau khổ, lo sợ và hy vọng của các môn đệ Chúa Kitô sống tại miền này. Toàn thể Giáo Hội đã có thể nghe những tiếng kêu lo âu và cảm thấy cái nhìn tuyệt vọng của bao nhiêu người nam nữ ở trong tình trạng cam go về mặt con người và vật chất, sống những căng thẳng mạnh mẽ trong lo sợ, Họ là những người muốn theo Chúa Kitô là Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ, nhưng nhiều khi họ bị ngăn cản. Vì thế, tôi đã muốn cho Thư thứ I của thánh Phêrô được coi như nền của Tông Huấn này. Đồng thời Giáo Hội có thể chiêm ngưỡng những gì là đẹp, và cao trọng trong các Giáo Hội tại Trung Đông.

ĐTC nhận xét rằng Tông huấn Giáo Hội tại Trung Đông giúp suy nghĩ lại hiện tại để hoạch định tương lai với cùng cái nhìn của Chúa Kitô. Qua những hướng đi Kinh thánh và mục vụ, qua lời mời gọi đào sâu về linh đạo và Giáo Hội học, qua sự canh tân phụng vụ và huấn giáo, qua những lời kêu gọi đối thoại, Tông Huấn muốn vạch ra một con đường để tim lại điều thiết yếu, đó là theo Chúa Kitô, trong một bối cảnh khó khăn, nhiều khi đau thương, một bối cảnh có thể làm nảy sinh cám dỗ cố tình không biết đến hoặc quên đi Thánh Giá vinh hiển.”

Sau bài huấn từ, ĐTC đã ký vào Văn bản Tông Huấn, một văn kiện dài hơn 100 trang sẽ được ngài chính thức trao cho các Đại diện của các Giáo Hội Công Giáo ở Trung Đông trong thánh lễ sáng chúa nhật 16 tháng 9-2012.
Giã từ Vương cung thánh đường thánh Phaolô vào lúc quá 7 giờ chiều, ĐTC đãi về Tòa Sứ thần Tòa Thánh gần đó để dùng bữa tối và qua đêm.

Sứ quán của Tòa Thánh trước kia thủ đô Beirut cho đến khi xảy ra chiến tranh hồi năm 1975, vì khu vực này liên tục bị pháo kích, nên vị đại diện Tòa Thánh phải hai lần thay đổi trụ sở trước khi di chuyển chung kết vào năm 1983 đến dinh thự mùa hè ở Harissa, chỉ cách Đền thánh Đức Mẹ Liban 300 mét.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Liban

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Liban

BEIRUT. Chiều ngày 14 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến Beirut, thủ đô Liban, để bắt đầu chuyến viếng thăm gần 60 tiếng đồng hồ tại nước này, cho đến chiều chúa nhật 16 tháng 9-2012.

Cơ hội chính cho cuộc viếng thăm của ĐTC đương kim tại Liban là việc ký và công bố Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông” đúc kết thành quả Thượng HĐGM đặc biệt về Trung Đông, nhóm tại Roma hồi tháng 10 năm 2010. Cuộc viếng thăm này diễn ra trong bối cảnh căng thẳng của vùng Trung Đông, với mùa xuân Arập đang có nguy cơ biến thành mùa đông, và nhất là với cuộc xung đột đẫm máu tại Siria từ bao tháng nay làm cho hơn 27 ngàn người thiệt mạng, 250 ngàn người tị nạn, và có nguy cơ lan sang cả Liban. Trong bối cảnh đó, chủ đề chuyến viếng thăm của ĐTC là câu nói của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ ”Thầy ban bình an cho các con” (Ga 14,27).

Liban, quốc gia bé nhỏ, chỉ rộng gần 10,500 cây số vuống, một phần 30 nước Việt Nam, với dân số chỉ có hơn 4 triệu người, trong đó gần 60% theo Hồi giáo và phần còn lại 40% là tín hữu Kitô và 1,3% thuộc các tôn giáo khác. Tổng cộng Liban hiện có 18 cộng đoàn tôn giáo khác nhau, trong đó có 5 cộng đoàn Hồi giáo, và 1 cộng đoàn Do thái giáo, 12 cộng đoàn Kitô, trong số này có 6 cộng đoàn Công Giáo gồm 6 nghi lễ khác nhau. Tổng cộng với 6 nghi lễ, Giáo Hội Công Giáo tại Liban có 53 GM, 1543 LM triều và dòng, 2.650 nữ tu và gần 150 tu huynh, 390 đại chủng sinh.

Phỏng vấn

Trên chuyến bay, ĐTC đã dành một khoảng thời gian để trả lời 4 câu hỏi do các ký giả tháp tùng nêu lên. Chẳng hạn, ĐTC cho biết là tuy tình hình Trung Đông và Liban khó khăn, nhưng ngài không hề nghĩ đến việc từ bỏ cuộc viếng thăm này, vì hễ tình hình càng phức tạp thì càng cần mang lại một dấu hiệu huynh đệ, khích lệ và liên đới. Mục đích cuộc viếng thăm của ngài tại Liban là để mời gọi đối thoại, kiến tạo hòa bình chống lại bạo lực, cùng nhau tìm giải pháp cho các vấn đề.
Trả lời một câu hỏi khác về trào lưu tôn giáo cực đoan ĐTC nhận định rằng trào lưu này luôn luôn là một sự giả tạo hóa, làm biến thái tôn giáo, và đi ngược với ý nghĩa tôn giáo, vốn là một lời mời gọi phổ biến an bình của Thiên Chúa trên thế giới. Vì thế, nghĩa vụ của Giáo Hội và các tông iáo là thanh tẩy chống lại những cám dỗ ấy, soi sáng lương tâm, và làm sao để mỗi người có ý niệm rõ ràng về Thiên Chúa.

Tiếp đón

Sau hơn 3 giờ bay, ĐTC và đoàn tùy tùng đã tới phi trường Rafiq Hariri của thủ đô Beirut vào lúc gần 2 giờ chiều giờ địa phương.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được Tổng thống Liban là tướng Michel Sleiman, một tín hữu Công giáo Maronit, cùng với phu nhân, cùng với các vị chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các vị Thượng Phụ, GM tiếp đón nồng nhiệt. Hàng trăm học sinh và tín hữu cầm cờ Tòa Thánh và Liban hiện diện tại Phi trường cũng reo hò vui mừng và hô tên của ĐTC: Benedicto! Benedicto!

Trong khi đó 21 phát đại bác nổ vang trước khi quốc thiều Vatican và Liban được trổi lên.

Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống Sleiman đã gợi lại những đóng góp quan trọng của đất nước và nhân dân Liban, qua dòng lịch sử, cho nền văn hóa của thế giới. Ông cũng nói đến sự kiện sự cởi mở và hiếu khách của Liban nhiều khi bị lợi dụng, và đất nước này nhiều khi cũng bị xâm lăng và tấn công, nhưng Liban luôn biết kháng cự và chống lại các cuộc tấn kích ấy.

Diễn văn ca Đức Thánh Cha

Trong lời đáp từ tổng thống Liban, ĐTC nhấn mạnh lý do cuộc viếng thăm của ngài:

”Một lý do khác trong cuộc viếng thăm của tôi là để ký và trao Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Trung Đông, Ecclesia in Medio Oriente, Giáo Hội tại Trung Đông. Đó là một biến cố quan trọng của Giáo Hội. Tôi cám ơn tất cả các Thượng Phụ Công Giáo đã đến đây và đặc viết là Đức Cựu Thượng Phụ HY quí mến Nasrallah Boutros Sfeir và người kế vị là Đức Thượng Phụ Béchara Rai. Tôi chào thăm trong tinh thần huynh đệ tất cả các GM Liban, cũng như những người đã đến đây để cầu nguyện với tôi và nhận lãnh từ chính tay Giáo Hoàng Văn kiện này. Qua họ tôi chào thăm như hiền phụ tất cả các tin hữu KItô Trung Đông. Tông huấn này được gửi tới toàn thế giới, và là một chương trình hành động trong những năm tới đây. Tôi cũng vui mừng vì được gặp gỡ trong những ngày này nhiều đại diện của các cộng đoàn Công Giáo tại đất nước anh em, cử hành và cầu nguyện chung với họ. Sự hiện diện, sự dấn thân và chứng tá của họ là một đóng góp được nhìn nhận và đánh giá cao trong đời sống thường nhật của mọi người dân nơi đất nước yêu quí của anh em.

”Tôi cũng kính chào các Thượng Phụ và GM Chính Thống đến đón chào tôi cũng như đại diện của các cộng đoàn tôn giáo khác nhau của Liban. Các bạn thân mến, sự hiện diện của các bạn chứng tỏ sự quí chuộng và cộng tác mà các bạn mong muốn thăng tiến giữa mọi người trong niềm tôn trọng nhau. Tôi cám ơn các bị vì những cố gắng ấy và tôi chức chắn rằng các bạn sẽ tiếp tục tìm kiếm những con đường hiệp nhất và hòa hợp. Tôi không quên những biến cố đau thương đã gây sầu khổ cho đất nước tươi đẹp của các bạn trong những năm dài. Sự sống chung hòa họp đặc biệt của Liban phải chứng tỏ cho toàn Trung Đông và thế giới thế rằng trong mỗi nước có thể có sự sộpng tác giữa các Giáo Hội khác nhau, tất cả đều là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo duy nhất, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ với các tín hữu Kitô khác, và đồng thời, có sự sống chung và đối thoại trân trọng giữa các tín hữu Kitô và những anh chị em thuộc các tôn giáo khác. Cũng như tôi, Anh chị em đều biết rằng sự quân bình ấy rất tế nhị, tuy nó được trình bày ở các nơi như một mẫu gương. Đôi khi nó bị đe dọa tan võ khi ở trong tình trạng căng thẳng như cây cung, hoặc phải chịu những sức ép quá nhiều khi có tính chất phe phái, thậm chí là do vụ lợi, trái ngược, xa lạ với sự hòa hợp và dịu dàng của Liban. Chính trong những trường hợp như thế cần tỏ ra thực sự phải ôn hòa và rất khôn ngoan. Và lý trí phải trổi vượt trên sự đam mê một chiều để tạo điều kiện cho ích chung của mọi người. Đại vương Salomon đã quen biết Hiram, Vua miền Tyro, đã chẳng coi đức khôn ngoan là nhân đức tối cao sao? Vì thế, ngài đã nài nỉ xin Chúa ơn khôn ngoan và Chúa đã ban cho Vua một tâm hồn khôn ngoan và thông minh (Xc 1 V 3,9-12).

ĐTC nói thêm rằng:
”Tôi đến đây cũng để nói lên rằng sự hiện diện của Thiên Chúa thật là quan trọng trong đời sống của mỗi người và cách sống chung, điều mà đất nước anh chị em muốn chứng tỏ, chỉ có thể trở nên sâu xa nếu nó được xây dựng trên một cái nhìn chào đón và thái độ tử tế vối với tha nhân, nếu nó ăn rễ sâu nơi Thiên Chúa, là Đấng muốn cho mọi người trở nên anh chị em với nhau. Sự quân bình nổi tiếng của Liban muốn tiếp tục là một thực tại, có thể kéo dài nhờ thiện chí và sự dấn thân của mọi người Liban. Chỉ như thế, sự quân bình ấy mới là mẫu gương cho người dân của toàn vùng và thế giới. Đây không phải chỉ là một công trình của con người, nhưng còn là một hồng ân của Thiên Chúa mà ta phải nài nỉ cầu xin, kiên trì với bất kỳ giá nào, và quyết tâm củng cố”.

”Thưa tổng thống và các bạn, mối liên hệ giữa Liban và người kế vị thánh Phêrô có tính chất lịch sử và sâu xa. Tôi đến Liban như người lữ hành hòa bình, như một người bạn của Thiên Chúa và như một người bạn của con người. Chúa Kitô đã nói: ”Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Đi xa hơn đất nước của anh chi em, ngày hôm nay tôi cũng đến tượng trưng nơi tất cả các nước Trung Đông, như một người lữ hành hòa bình, như một người bạn của Thiên Chúa và là bạn của mọi người dân của mọi nước trong vùng, không phân biệt tín ngưỡng. Chúa Kitô cũng nói với họ ”Thầy ban bình an cho các con”. Những vui mừng và cơ cực của anh chị em cũng liên tục hiện diện trong kinh nguyện của Giáo Hoàng và tôi cầu xin Chúa tháp tùng, an ủi anh chị em. Tôi có thể cam đoan với anh chị em rằng tôi đặc biệt cầu nguyện cho tất cả những người đang chịu đau khổ tại vùng này và họ thật là đông đảo. Tượng thánh Maron nhắc nhở cho tôi về những gì anh chị em đang sống và chịu đựng”.

Sau bài diễn văn của ĐTC, một đoàn quân danh dự đã diễn hành trước ĐTC, Tổng thống và các quan khách, rồi phái đoàn chính phủ Liban được giới thiệu lên ngài và phái đoàn Tòa Thánh cũng được giới thiệu với Tổng thống Liban. Tiếp đến, ĐTC còn hội kiến với tổng thống và 2 vị chủ tịch quốc hội và Hội đồng bộ trưởng Liban, cũng với các phu nhân liên hệ tại Phòng khánh tiết của Phi trường.

Tòa Sứ Thần Tòa Thánh
Rời Phi trường thủ đô Beirut, ĐTC về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa trên miền núi phía bắc cách đó 37 cây số.
Đây là một làng nhỏ ở trên đỉnh đồi cao 550 mét so nhìn xuống bờ biển và vịnh Jounieh. Harissa nổi tiếng với Đền thánh Đức Mẹ Liban được kiến thiết hồi năm 1904 nhân dịp kỷ niệm 50 năm tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội do Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 10 tuyên tín. Lễ khánh thành Đền thánh vào chúa nhật đầu tháng 5 năm 1908, và từ đó trở thành ngày lễ hàng năm kính Đức Mẹ Liban.

Pho tượng Đức Mẹ màu trắng được đúc bằng đồng tại Lyon bên Pháp cao 8 mét rưỡi và nặng 15 tấn, được đặt trên một bệ tháp bằng đá đẽo hình nón cao 21 mét, có thang xoáy ốc dẫn từ dưới lên tới tượng. Các tín hữu hành hương vẫn thường đi chân không hoặc đi bằng đầu gối leo lên các bậc thang này tới tượng Đức Mẹ ở trên đỉnh.

Ngày nay, Đền thánh Đức Mẹ quan trọng nhất ở Trung Đông này được ủy thác cho các tu sĩ dòng Thừa Sai Liban coi sóc. Mỗi ngày có 3 thánh lễ được cử hành tại đây và chúa nhật có tới 10 thánh lễ, để đáp ứng nhu cầu của các tín hữu hành hương. Họ đến đây quanh năm, nhưng nhất là trong thánh 5 kính Đức Mẹ, với những cuộc rước ban đêm khởi hành từ bờ biển lên tới Đền thánh vào lúc bình minh. Các tín hữu tay cầm đuốc sáng, vừa đi vừa hát thánh ca và cầu nguyện. Cả người Hồi giáo cũng đến hành hương tại đây để tôn kính Đức Mẹ, đặc biệt vào những ngày chúa nhật.

Cách đây gần 20 năm, vào tháng 7-1993, một Vương cung thánh đường mới được xây cất cạnh tháp bệ của Đền thánh, và có hình như một mũi tàu của người Phenici. Bên trong thánh đường có bản sao tượng Đức Mẹ Lộ Đức do ĐTC Gioan Phaolô 2 làm phép ngày 22-3 năm 1992 trong thánh lễ cho các bệnh nhân ở Đền thờ Thánh Phêrô và được Cơ quan hành hương của Giáo Phận Roma đưa tới đây. Thánh đường mới có thể chứa được 7 ngàn người, và chính tại tiền đường Đền thờ này ngày 10-5 năm 1997 ĐTC Gioan Phaolô 2 đã gặp gỡ các bạn trẻ Liban.

Đến Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa vào lúc gần 3 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã nghỉ ngơi trong vòng 2 tiếng rưỡi trước khi bắt đầu hoạt động đầu tiên của ngài là ký Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Trung Đông.

G. Trần Đức Anh OP-  Vietvatican
 

 

Đức Cha Mario Toso cử hành lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Đức Cha Mario Toso cử hành lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Lúc 10 giờ sáng ngày 14 tháng 9-2012, Đức Cha Mario Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho Vị Tôi Tớ Chúa, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, nhân dịp kỷ niệm 10 năm Người qua đời.

Hiện diện đầy Nhà Thờ Đức Mẹ Scala (Cầu Thang) của dòng Camêlô Nhặt Phép ở Roma, nơi có mộ của Đức Cố HY, có gần 30 LM đồng tế và hơn 70 tu sĩ nam nữ, giáo dân Việt Nam và nước ngoài.

Đức Cha Toso, dòng Don Bosco, cho biết ĐHY Chủ Tịch Peter Turkson rất muốn chủ sự thánh lễ này, nhưng vì đang bận công vụ bên Congo, Phi châu, nên ngài không thể hiện diện được.

Trong bài giảng, dựa vào ý nghĩa lễ Suy Tôn Thánh Giá, Đức Cha Toso đã nêu bật tấm gương của Đức Cố HY Nguyễn Văn Thuận như chứng nhân của Thập Giá của Kitô. Ngài nói: Vị Tôi Tớ Chúa Nguyễn Văn Thuận, trong những năm ngục tù cơ cực, đã kín múc sức mạnh từ lòng yêu mến Chúa Kitô chịu đóng đanh… Người đã muốn diễn tả tình yêu chịu đau khổ bằng cách dùng từng mảnh gỗ nhỏ, liên kết thành một thánh giá đeo ngực, và sau khi được trả tự do, Người thường đeo thánh giá ấy ở cổ, tỏ cho mọi người, nhất là những người đồng hương tị nạn hay di dân, như dấu chỉ hy vọng. Trong các bài giảng, ĐHY thường trích dân lời kinh phụng vụ: Kính chào Thánh Giá là niềm hy vọng duy nhất của chúng con”.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Chủ Tế và mọi người đã cùng đọc kinh ĐHY Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa ban ơn lành nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi Tớ Chúa và xin cho án phong thánh của Người sớm được hoàn thành tốt đẹp.

Nguyên văn bài giảng của Đức Cha Mario Toso
Đức Hồng Y Văn Thuận chứng nhân của Thánh Giá
Anh chị em thân mến,

Chúng ta còn nhớ rõ lễ cải táng cho Vị Tôi Tớ Chúa quí mến, ĐHY Văn Thuận, tại nhà thờ Đức Mẹ Cầu Thang này cách đây vài tháng. Nay lễ giỗ 10 năm của Người được cử hành với Thánh Lễ này, trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá. Tiếp đến, Thượng Hội đồng Giám Mục về việc tái truyền giảng Tin Mừng và lễ khai mạc Năm Đức Tin nay đang đến gần.

Vì thế, chúng ta không thể không nhìn nhận rằng năm nay, lễ giỗ ĐHY Văn Thuận mang sắc thái liên hệ tới những biến cố Giáo Hội và mục vụ đầy ý nghĩa như vậy.

Đặc biệt Lễ Suy Tôn Thánh Giá cho chúng ta nhớ đến ĐHY Văn Thuận như chứng nhân anh dũng của tình yêu Chúa Giêsu Kitô, tình yêu trọn vẹn và trung thành đã dẫn đưa Chúa đến độ chịu đựng những cực hình vốn dành cho những người nô lệ.

Thánh Giá chính là nơi Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho thấy chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và nhân loại.

Nhờ tình yêu vô biên ấy, vượt quá mọi tri thức, Chúa đã chu toàn thánh ý Chúa Cha và đã cứu chuộc nhân loại, làm cho con người có khả năng yêu yến Thiên Chúa.

Vị Tôi Tớ Chúa Văn Thuận, trong những năm chịu ngục tù cam go, đã kín múc sức mạnh từ lòng yêu mến Chúa Kitô chịu đóng đanh. Người chìm đắm trong tình yêu ấy khi cử hành Thánh Lễ một cách đơn giản tối đa, được một đức tin nồng nhiệt thúc đẩy. Người đã muốn diễn tả tình yêu chịu đau khổ ấy bằng cách dùng từng mảnh gỗ, kiến tạo một Thánh Giá đeo ngực, Thánh Giá này, sau khi được trả tự do, Người thường đeo ở cổ, tỏ cho mọi người, nhất là những người đồng hương tị nạn hoặc di dân, như dấu chỉ hy vọng.

Trong các bài giảng, Người thường trích dẫn kinh nguyện phụng vụ: O Crux Ave, spes unica: Kính Chào Thánh Giá, là nguồn hy vọng duy nhất của chúng con.

Thánh Giá, hay đúng hơn, là tình yêu tột đỉnh của Chúa Giêsu Kitô được diễn tả trên Thánh Giá, chính là niềm hy vọng của thế giới. Chỉ tình yêu ấy mới cứu chuộc và làm con người được hiển dung, mang lại sự phong phú trọn vẹn cho các dân tộc. Chỉ tình yêu trọn vẹn của Chúa Kitô đối với Chúa Cha và nhân loại, được đón nhận và sống thực, mới có thể làm tái sinh về phương diện luân lý và thiết lập đời sống xã hội trên tình yêu tha nhân, thay vì trên oán thù hoặc sợ hãi đồng loại. Trong khi làm việc tại Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Vị Tôi Tớ Chúa ĐHY Văn Thuận đã tiếp tục coi tình yêu Chúa Kitô chịu đóng đanh như một nguồn mạch đầu tiên để đổi mới, để nhân đạo hóa và giải thoát văn hóa, chính trị, kinh tế, tài chánh, gia đình các dân nước, các phương tiện truyền thông.

Tất cả chúng ta đều biết rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng chỉ được chu toàn nhờ cộng đoàn hoặc nhờ những tín hữu giáo dân sống đức tin nồng nhiệt. Một niềm tin như thế sẽ tạo nên một nền văn hóa mới, một lối sống mới, nếu được đón nhận trọn vẹn, được suy tư hoàn toàn, được sống trung thành, được cử hành với một lòng yêu mến say mê đối với Chúa Giêsu Kitô.

Một công trình tái truyền giảng Tin Mừng dẫn vào và tháp tùng các tín hữu trong một đời sống mới của tình yêu mà Chúa Giêsu Kitô chứng tỏ và thực hiện dưới hình thức tột cùng trên Thánh Giá, để trở thành những người loan báo và làm chứng về tình yêu ấy.

Vì thế, có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tái truyền giảng Tin Mừng và Thập Giá Chúa Kitô. Công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng nhắm làm cho gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, sống bằng Ngài, sống tình yêu chịu đóng đanh của Ngài, một tình yêu trung tín với Thiên Chúa và con người.

Thế giới ngày nay, đặc biệt là Âu Châu, đang có những dấu hiệu xa lìa Kitô giáo và có đức tin yếu ớt, đang cần được tái truyền giảng Tin Mừng, cần nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô để được chữa lành, như những người Israel xưa kia bị rắn lửa cắn, khi nhìn lên con rắn đồng do Môisê dựng trên cột, thì được chữa lành.

Khi kín múc nơi tình yêu Chúa Kitô chịu chết trên Thánh Giá, ta có thể chiến thắng nọc độc ác hại của những con ”rắn lửa”, trên bình diện đời sống nội tâm và thiêng liêng, những con rắn này là: coi mình là chủ nhân tuyệt đối của chân lý, ý muốn thống trị người khác, thiếu tình huynh đệ, oán ghét; và trên bình diện các ý thức hệ mới, chúng là: chủ thuyết duy vật duy tiêu thụ, chủ nghĩa thủ lợi, sự tôn thờ kỹ thuật.

Nhờ tình yêu dâng hiến của Chúa Kitô chịu đóng đanh là tình yêu trọn vẹn đối với chân lý, như ĐGH Biển Đức XVI đã dạy trong Thông điệp Caritas in veritate, Kitô giáo sẽ chứng tỏ trọn vẹn thiên tài của mình, chứng tỏ sức mạnh gợi lên nền luân lý và văn minh mới mẻ, và không bị coi là một kho dự trữ những tình cảm tốt lành mà thôi.
Khi tham dự Thánh Lễ hôm nay, lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta hãy để cho mình được lôi kéo vào trong năng động siêu việt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng đã trở nên như ”tôi tớ” Thiên Chúa và loài người khi hiến thân trọn vẹn để không một ai bị hư mất. Chúng ta hãy nhìn tấm gương của ĐHY Văn Thuận, Người đã trở thành chứng nhân trổi vượt về tình yêu ấy. Xin Thánh Giá trên đó Chúa Giêsu đã giang hai cánh tay liên kết người Do thái với dân ngoại thành một dân tộc duy nhất, giúp chúng con trở thành những người loan báo sự hiệp nhất và an bình, như Vị Tôi Tớ Chúa Văn Thuận.

O Crux ave, spes unica! Kính chào Thánh Giá, niềm hy vọng duy nhất của chúng con!

+ Mario Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình.

(G. Trần Đức Anh O.P chuyển ý)  – VietVatican
 

 

BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

Vì tội nguyên tổ, con người bị án phạt là phải chết muôn đời. Nhưng con người được Cứu Chuộc nhờ Tình Yêu của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su nói: “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. (x. Ga 3, 13-17)
Thánh Giá, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, là cách mà Thiên Chúa yêu thương và Cứu Chuộc loài người. Không có cách nào khác.
Chúa Giêsu, thân phận là Thiên Chúa, nhưng phải làm “thân phận tôi đòi” của một người phàm, và hơn thế nữa, một người phàm sinh ra tầm thường nhất, nhận một án tử hình nhục nhã nhất trong nhân loại: chết trên thập giá… “Chúa Ki-tô, vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. (x. Pl 2, 6-11) Đó là cách cứu chuộc. Không có cách nào khác!

Và nếu chỉ có cách ấy mà không có cách nào nhẹ nhàng hơn, thì phía người được cứu, được chuộc hẳn phải ngộ ra rằng tội lỗi của mình nặng nề là chừng nào. Vì rõ ràng là, cái giá để được chuộc lại không phải là một đôi năm đọa đày nô lệ, mà là một kiếp người, cái giá cứu chuộc càng không phải là một vài tấn vàng, nhưng là một sinh mạng, không phải là sinh mạng của con người kiếp bụi phong trần mà là sinh mạng Con Thiên Chúa Làm Người.

Ai đã hy sinh mạng sống mà cứu cho bạn được sống, hẳn bạn phải tri ân họ biết chừng nào. Ai đã cứu bạn, vợ chồng con cái bạn khỏi chết ngạt, khỏi chết nước, khỏi chết cháy, khỏi cảnh nghèo khổ, nợ nần, khỏi cảnh làm thuê đày đọa, khỏi bị cảnh buôn bán người sang Trung Quốc, Hàn Quốc, khỏi cảnh tù đày, nô lệ, vong thân… hẳn là phải biết ơn và đền ơn họ đến muôn đời. Có người họa hình, tạc tượng người cứu sống mình và đặt ở nơi xứng đáng mà ghi ơn, nhớ tưởng như một vị đại ân nhân, vị đại thánh. Cũng đã có người nguyện làm kiếp tôi tớ phục vụ hầu hạ người thi ân suốt đời để đền ơn.

Vẫn còn lòng biết ơn nơi mỗi con người chúng ta đấy chứ! Nhưng cũng còn có cả những lòng biết ơn thật chua chát: Chúng ta vẫn thấy những nhang hương đèn khói, những cái sấp mình cúi lạy trước những bia tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Chẳng biết cái sấp nào giả hình, cái cúi nào thật tình và cũng không biết đó có phải là cách tỏ bày lòng biết ơn đích thực không. Bởi vì, cũng có người biết ơn vì ‘nhờ những những người nằm trong bia mộ kia mà nay tôi được làm ông kia bà nọ, lương tuy ít, nhưng bỗng nhiều, không tham lam không nhũng nhiễu nhưng tự nhiên mà thiên hạ cứ đút vào túi tôi bạc tỷ!’. Hoặc phải biết ơn vì ‘nhờ các ông mà nay tôi có cái để xài, có cả cái để dành và nhất là có cái để bán cho có thêm tiền thêm vàng gửi ngân hàng nước ngoài nước trong!’ Ôi! chuyện thế gian! Thật là tồi tệ! Người ta đang biết ơn những người hy sinh xương máu, mạng sống để cho họ được cái lợi, cái lộc ở đời này hơn là biết ơn những người hy sinh chiến đấu cho một nền hòa bình công chính! Ai đã nằm xuống cho lý tưởng hòa bình công chính sẽ không được ca tụng bằng người nằm xuống để họ có cơ hội giàu có và thao túng quyền lực! Họ chẳng cần biết chung cuộc đời họ sẽ ra sao!

Cũng bởi vì nghĩ đến cái lợi trước mắt ở trần gian mà trong chúng ta cũng có người không khác người duy vật kia bao nhiêu: không bao giờ biết ơn Đấng đã cứu chuộc chúng ta ra khỏi những điều tội lỗi, ra khỏi sự chết trầm luân muôn đời, dẫn đưa chúng ta đến đời sống công chính hôm nay trên trần gian, và đời sống vĩnh cửu mai sau trên thiên quốc.

Lễ Suy tôn Thánh Giá nhắc nhớ chúng ta suy tôn và biết ơn Tình Yêu của Thiên Chúa: Tình Yêu Cứu Chuộc. “Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian”.

Quả thực, nếu không có Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô, không có ơn cứu chuộc, thì cả và nhân loại này sẽ mãi mãi trầm luân trong cuộc sống giả trá điêu ngoa, bất công và hủy diệt muôn đời. Cũng vậy, ai không tin và biết ơn, đền ơn Chúa cứu chuộc cũng sẽ nhận một án phạt bị hủy diệt muôn đời. Còn số phận của những người chà đạp Thánh Giá Chúa, hẳn nhiên thật là bi đát, họ sẽ chết muôn đời với lũ Satan, con rắn độc cắn người, con rắn bại trận!

Ước gì những người đã xem thường Thánh Giá Chúa, xúc phạm đến Thánh Giá Chúa ngộ ra tội lỗi mình mà đến cùng Hội Thánh như dân xưa đã đến cùng Môi-sê và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. (x. Ds 21, 4-9).

Lạy Chúa Giê-su, chúng con là những người bị án tử hình, mà Chúa đã vì yêu thương đến nhận thay án tử hình ấy cho chúng con bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để chúng con được sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, mến yêu Thánh Giá Chúa, biết ơn Tình Yêu Chúa và đền đáp ơn ấy bằng cách nguyện suốt đời phục vụ Chúa. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 12-9-2012

 

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Không có các lời cầu nguyên thừa thãi, vô ích. Không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả. Tuy có các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, tất cả mọi lời nguyện của chúng ta đu được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolo VI sáng thứ tư 12 tháng 9-2012. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, trong phần đầu của sách Khải Huyền lời cầu nguyện hướng tới cuộc sống bên trong Giáo Hội, trong phần hai của sách sự chú ý hướng tới toàn thế giới. Thật vậy, Giáo Hội bước đi trong lịch sử, là phần của lịch sử theo chương trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp đã khám phá ra nhiệm vụ của mình là cộng tác vào sự phát triển của Nước Chúa như ”các tư tế của Thiên Chúa và Chúa Kitô” (Kh 20,6; x. 1,5; 5,10). Giờ đây nó rộng mở cho thế giới loài người. Có hai kiểu sống trái nghịch nhau: kiểu thứ nhất là ”hệ thống của Thiên Chúa” mà cộng đoàn tùy thuộc, và kiểu thứ hai là ”hệ thống trần thế chống lại Nước Chúa và chống giao ước dưới ảnh hưởng của Kẻ Dữ”, là tên lừa dối con người, và muốn thực hiện một thế giới trái nghịch với thế giới mà Chúa Kitô và Thiên Chúa muốn.

Trong phần đầu của sách Khải Huyền Chúa Kitô đã bẩy lần nói: ”Ai có tai thì nghe điều Thần Khí nói với các Giáo Hội” (Kh 2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn được mời lên trời để nhìn xem thực tại với con mắt của Thiên Chúa và ở đây chúng ta tìm thấy ba biểu tượng tham chiếu giúp đọc hiểu lịch sử.

Biểu tượng thứ nhất là chiếc ngai trên đó có Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa toàn năng không đóng kín trên trời, nhưng đã đến gần con người, bước vào trong giao ước với con người. Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm thấy Ngài trong lịch sử một cách nhiệm mầu nhưng thực sự, tiếng Ngài được biểu tượng bằng sấm sét. Chung quanh ngai có 24 Bô lão và 4 con vật, không ngừng chúc tụng Chúa của lịch sử.

Biểu tượng thứ hai là cuốn sách chứa đựng chương trình của Thiên Chúa liên quan tới các biến cố. Nó được đóng với 7 dấu ấn và không có ai có thể đọc được. Sự không có khả năng đó của con người khiến cho Gioan rất buồn bã. Nhưng có một người nào đó có thể mở và minh giải cuốn sách.

Biểu tượng thứ ba là Chúa Kitô Chiên Con bị sát tế trong Hy lễ của Thập Giá, nhưng đứng thẳng biểu tượng cho sự Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh sẽ từ từ mở các đấu ấn, vén mở chương trình của Thiên Chúa và ý nghĩa sâu xa của lịch sử.

Các biểu tượng này nhắc cho chúng ta biết đâu là con đường giúp đọc hiểu các sự kiện của lịch sử và của cuộc sống chúng ta. Khi ngước mắt nhìn Trời của Thiên Chúa, trong tương quan liên lỉ với Chúa Kitô, khi mở rộng tâm trí chúng ta cho Người trong lời cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn, chúng ta học nhìn các sự vật một cách mới mẻ và tiếp nhận được ý nghĩa đích thật của chúng. Lời cầu nguyện như là một cửa sổ mở, cho phép chúng ta hướng cái nhìn về Thiên Chúa, để nhớ tới đích điểm chúng ta đang đi tới, cũng như để cho thánh ý Chúa soi sáng con đường đời của chúng ta và sống nó với nhiều dấn thân và mạnh mẽ hơn.

Thiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô đọc hiểu lịch sử một cách sâu xa hơn, trước hết bằng cách mời gọi nó nhìn hiện tại đang sống một cách thực tế hơn. Khi đó Chiên Con mở bốn dấu ấn đầu tiên cho thấy một thế giới với các yếu tố tiêu cực khác nhau. Trong thế giới đó có các sự dữ mà con người gây ra như bạo lực, nảy sinh từ ước muốn chiếm đoạt và trổi vượt hơn người khác, đi tới chỗ giết người (dấu ấn thứ hai); hay bất công, bởi vì con người không tôn trọng các luật lệ đã được ban cho mình (dấu ấn thứ ba). Thêm vào đó là các sự dữ con người phải gánh chịu như cái chết, đói khát, bệnh tật (dấu ấn thư tư). Trước các thực tại thường thê thảm này cộng đoàn giáo hội được mời gọi không bao giờ đánh mất đi niềm hy vọng, tin tưởng vững mạnh rằng cái toàn năng bề ngoài ấy của Kẻ dữ đụng độ với sự toàn năng đích thật của Thiên Chúa. Và dấu ấn thứ nhất mà Chiên Con mở ra chứa đựng sứ điệp này. Thánh Gioan kể: ”Tôi thấy, kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi như người thắng trận, để chiến thắng” (Kh 6,2).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ như sau: Sức mạnh của Thiên Chúa đã bước vào trong lịch sử con người. Sức mạnh ấy không chỉ có thể chống lại sự dữ, mà còn có thể chiến thắng nó nữa. Mầu trắng gợi nhớ sự Phục Sinh: Thiên Chúa gần gũi với chúng ta, tới độ xuống trong sự đen tối của cái chết để chiếu sáng nó với ánh quang sự sống thiên linh của Người. Người đã nhận lấy trên mình sự dữ của thế giới để thanh tẩy nó với lửa tình yêu của Người.

Tín hữu có thể trưởng thành khi đọc thực tại này. Vì sách Khải Huyền nói với chúng ta rằng lời cầu nguyện dưỡng nuôi nơi mỗi người và trong các cộng đoàn của chúng ta thị kiến ánh sáng và niềm hy vọng sâu xa này: nó mời gọi chúng ta đừng để cho sự dữ chiến thắng nhưng chiến thắng sự dữ với sự thiện, nhìn lên Chúa Kitô Bị Đóng Đanh và Phục Sinh, là Đấng kết hiệp chúng ta vào chiến thắng của Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Giáo Hội sống trong lịch sử, không đóng kín trong chính mình, nhưng can đảm đối đầu với con đường của mình giữa các khó khăn và khổ đau, bằng cách mạnh mẽ khẳng định rằng sự dữ không chiến thắng sự thiện, bóng tối không che mờ ánh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là điều quan trọng đối với chúng ta. Như là Kitô hữu chúng ta không bao giờ bi quan; chúng ta biết chắc rằng trên con đường cuộc sống, chúng ta thường gặp bạo lực, dối trá, thù hận, bách hại, nhưng điều này không khiến cho chúng ta nản lòng. Nhất là lời cầu nguyện giúp chúng ta trông thấy các dấu chỉ của Thiên Chúa, sự hiện diện và hành động của Người; còn hơn thế nữa chính chúng ta trở thành ánh sáng sự thiện, tỏa lan niềm hy vọng và chỉ cho thấy chiến thắng là của Thiên Chúa.

Viễn tượng này đưa tới chỗ dâng lên Thiên Chúa và Chiên Con lời cám tạ và chúc tụng: 24 bô lão và 4 con vật cùng hát ”bài ca mới” cử hành công trình của Chúa Kitô Chiên Con, Đấng làm mới mọi sự” (Kh 21,5). Nhưng sự đổi mới này là một ơn cần phải nài xin. Và ở đây chúng ta thấy một yếu tố khác nữa của lời cầu nguyện: đó là kiên trì khẩn nài Chúa cho Nước Chúa trị đến, cho con người có trái tim ngoan ngoãn đối với quyền bính của Chúa, cho ý Chúa hướng dẫn và định hướng cuộc sống chúng ta và cuộc sống thế giới. Trong thị kiến sách Khải Huyền lời cầu xin nài van này được 24 bô lão và 4 con vật cầm trong tay cùng với ”đàm cầm và các chén vàng đầy hương thơm” (Kh 5,8a). Chúng là ”các lời cầu nguyện của các thánh”, nghĩa là của những người đã đạt tới Thiên Chúa, nhưng cũng là của tất cả mọi người đang tiến bước. Và chúng ta thấy trước ngai Thiên Chúa có thiên thần cầm bình hương vàng liên tục bỏ vào đó các hạt hương, tỏa hương thơm dịu dàng được dâng lên Chúa cùng với các lời cầu nguyện (Kh 8,1-4).

Đó là biểu tượng để nói rằng tất cả mọi lời cầu của chúng ta, tuy có các các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, hầu như được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải chắc chắn rằng không có các lời cầu nguyên thừa thãi vô ích; không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả… Hình ảnh thiên thần cầm bình hương bỏ đầy lửa lấy từ bàn thờ và ném xuống đất liền có tiếng sấm sét ánh chớp và động đất (Kh 8,5) có nghĩa là Thiên Chúa không vô cảm trước các lời khẩn nài của chúng ta, Người can thiệp và cho thấy quyền năng và tiếng nói của Người trên trái đất. Người làm cho hệ thống của Kẻ Dữ run rẩy và đảo lộn. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Thường khi trước sự dữ người ta có cảm tưởng không làm gì được nữa, nhưng chính lời cầu nguyện của chúng ta là câu trả lời thứ nhất và hữu hiệu nhất mà chúng ta có thể cho, và nó khiến cho dấn thần hằng ngày của chúng ta trong việc phổ biến sự thiện được mạnh mẽ hơn. Quyền năng của Thiên Chúa làm cho sự yếu đuối của chúng ta trở nên phong phú (x, Rm 8,25-27)…

Tuy có các biểu tượng phức tạp, nhưng sách Khải Huyền lôi cuốn chúng ta vào trong một lời cầu nguyện rất phong phú, qua đó chúng ta lắng nghe, chúc tụng, cảm tạ, chiêm ngưỡng Chúa, và xin lỗi Người. Cấu trúc của lời cầu nguyện phụng vụ lớn lao của nó mời gọi chúng ta tái khám phá ra sức mạnh biến đổi ngoại thường của bí tích Thánh Thể. Tôi đặc biệt mạnh mẽ mời gọi anh chị em trung thành với Thánh Lễ Chúa Nhật trong ngày của Chúa, là trung tâm đích thật của tuần sống.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài xin mọi người giúp lời cầu nguyện cho chuyến viếng thăm Libăng của ngài diễn ra tốt đẹp. Sau cùng Đức Thánh Cha cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các GM Colombia tiếp tục tăng cường việc mục vụ gia đình trước làn sóng tục hóa trong xã hội ngày nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến chung dành cho 37 GM Colombia sáng ngày 10-9-2012 tại Castel Gandolfo, nhân dịp các vị kết thúc cuộc hành hương Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.
ĐTC nhắc đến sự kiện Giáo Hội tại Colombia được dồi dào ơn gọi LM và đời sống thánh hiến, cũng như có thái độ sẵn sàng đối với sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại; ngoài ra có nhiều phong trào tông đồ nảy sinh và các cộng đoàn giáo xứ rất sinh động. Ngài nói:

”Cùng với những điều đó, anh em cũng nhận thấy những hậu quả tàn hại của trào lưu trục hóa ngày càng gia tăng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống và đảo lộn những nấc thang các giá trị của con người, khuynh đảo chính nền tảng của đức tin Công Giáo, của hôn nhân, gia đình và luân lý Kitô. Về phương diện này, việc bảo vệ không biết mệt mỏi và thăng tiến định chế gia đình tiếp tục là một ưu tiên mục vụ đối với anh em. Vì thế, giữa những khó khăn, tôi mời gọi anh em đừng chùn bước trong những cố vắng và tiếp tục công bố chân lý trọn vẹn về gia đình, dựa trên hôn nhân, như Giáo Hội tại gia và là cung thánh của sự sống”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc nhở các GM Colombia ”hết sức quan tâm đến các LM, Phó tế và tu sĩ, để ý đến những nhu cầu tinh thần, trí thức và vật chất của họ, để họ có thể sống trung thành một cách phong phú với sứ vụ của mình. Nếu cần, anh em đừng ngại sửa chữa huynh đệ và hướng dẫn họ. Nhất là anh em hãy nêu gương sống và tận tụy đối với sứ mạng đã nhận lãnh từ Chúa Kitô. Đừng bỏ qua ưu tiên vun trọng ơn gọi và huấn luyện khởi đầu cho các ứng sinh tiến lên thánh chức hoặc tiến vào đời sống thánh hiến, giúp họ phân định sự thật về ơn gọi của Chúa để quảng đại đáp lại với ý hướng ngay chính”.

Ngài không quên nhắc đến tình trạng bạo lực tại Colombia từ hơn 50 năm nay phải chịu cảnh nội chiến. ĐTC nói ”Mặc dù có vài dấu chỉ hy vọng, bạo lực tiếp tục kéo theo đau thương, cô đơn, chết chóc và bất công cho nhiều anh chị em ở Colombia. Đồng thời tôi nhìn nhận và cám ơn vì công tác mục vụ đang được thi hành, nhiều khi tại những nơi đầy khó khăn và nguy hiểm, để giúp đỡ bao nhiêu người đang chịu đau khổ tại đất nước Colombia yêu quí. Tôi khích lệ họ tiếp tục góp phần bảo vệ sự sống con người, vun trồng hòa bình, theo gương Chúa Cứu Thế của chúng ta và khiêm tốn khẩn cầu ơn thánh của Chúa. Họ hãy gieo vãi Tin Mừng và gặt hái hòa giải, với ý thức rằng nơi nào Chúa Kitô đến, thì hòa thuận cũng mở đường, oán thù nhường chỗ cho tha thứ và cạnh tranh biến thành tình huynh đệ”. (SD 10-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát chúng ta khỏi sự câm điếc nội tâm, và khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật 9-9-2012 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, ở trung tâm Tin Mừng hôm nay (Mc 7,31-37) có một từ nhỏ, rất quan trọng. Một từ, mà trong ý nghĩa sâu đa của nó, tóm gọn tất cả sứ điệp và toàn công trình của Chúa Kitô. Thánh sử Mạccô kể lại từ này trong chính tiếng nói của Chúa Giêsu, trong đó Chúa nói lên từ ấy, và như thế chúng ta còn nghe nó sống động hơn nữa. Đó là từ ”effatà”, có nghĩa là ”hãy mở ra”. Chúng ta hãy đem bối cảnh của nó. Chúa Giêsu đang đi qua vùng ”Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, một vùng không do thái. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh ta – hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu và nói: ”Effatà” có nghĩa là ”Hãy mở ra”. Và người ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7,35). Đó là ý nghĩa lịch sử và theo chữ của từ này: nhờ sự can thiep của Chúa Giêsu người câm điếc đó được ”mở ra”; trước đó anh ta bị đóng kín, lẻ loi, rất khó thông truyền. Việc chữa lành đối với anh là một sự ”mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe và nói, lôi cuốn toàn con người và cuộc sống của anh: sau cùng anh có thể thông truyền và liên lạc trở lại.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nhưng chúng ta tất cả đều biết rằng sự đóng kín của con người, sự lẻ loi của nó không chỉ tùy thuộc các giác quan. Có một sự đóng kín nội tâm, liên quan tới nơi sau thẳm nhất của con người, đó là điều Thánh Kinh gọi là ”trái tim”. Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát, để khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với các người khác. Đó là lý do tại sao tôi đã nói rằng từ bé nhỏ ”effatà – hãy mở ra” này tóm gọn trong nó toàn sứ mệnh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong bởi tội lỗi, có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim nó, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác. Vì lý do đó từ và cử chỉ của ”effatà” đã được đưa vào trong Lễ nghi Rửa Tội, như một trong các dấu chỉ giải thích ý nghĩa của nó: khi đụng vào miệng và tai của người được rửa tội vị linh mục nói: “Effatà”, cầu xin cho họ có thể mau lắng nghe Lời Chúa và tuyên xưng đức tin. Qua bí tích Rửa Tội con người bắt đầu ”hít thở” Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã khẩn nài từ Thiên Chúa Cha với tiếng thở dài sâu xa để chữa lành người câm điếc.

Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Giờ đây trong lời cầu nguyện, chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria Rất Thánh, mà chúng ta đã mừng kính lễ Sinh Nhật hôm qua. Vì tương quan đặc bhiệt của Mẹ với Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria hoàn toàn ”rộng mở” cho tình yêu của Chúa, trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa. Xin sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ giúp chúng ta kinh nghiệm được mỗi ngày trong đức tin phép lạ ”effatà”, để sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã báo cho mọi người biết trong các ngày tới đây ngài sẽ viếng thăm Libăng để ký Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông nhóm tai Roma hồi tháng 10 năm 2010. Đức Thánh Cha sẽ vui sướng gặp nhân dân Libăng, chính quyền và các kitô hữu Libăng, cũng như các kitô hữu đến từ các nước láng giềng. Ngài nói: Tôi cũng biết tình trạng thường thê thảm, mà các dân tộc của vùng đất bị bầm dập này đang phải sống từ lâu, vì các cuộc xung đột không ngừng. Tôi hiểu nỗi âu lo của nhiều người dân Trung Đông hàng ngày bị chìm ngập trong đủ loại khổ đau gây buồn sầu, đôi khi gây chết chóc cho họ và cho gia đình họ. Tôi âu lo cho những người, để kiếm tìm một khoảng trống hòa bình, phải trốn chạy cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và sống lưu vong trong cảnh tạm bợ. Cả khi khó tìm ra các giải pháp cho các vấn đề khác nhau của vùng này, người ta không thể chịu trận đối với bạo lực và các căng thẳng tột bực. Dấn thân đối thoại và hòa giải phải là điều ưu tiên đối với tất cả mọi phe liên hệ, và nó phải đựơc hỗ trợ bởi cộng đồng quốc tế, luôn luôn ý thức hơn về tầm quan trọng của một nền hòa bình ổn định và lâu bền trong toàn vùng đối với toàn thế giới. Chuyến tông du của tôi tại Libăng cũng trải dài ra toàn vùng Trung Đông, được đặt để dưới dấu chỉ của hòa bình, bằng cách lấy lại lời của Chúa Kitô: ”Thầy ban bình an của Thấy cho các con” (Ga 14,27). Xin Thiên Chúa chúc lành cho Libăng và vùng Trung Đông. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

Đức Thánh Cha cũng chào các tín hữu công giáo và toàn dân Kazakhstan, nơi Đức Hồng Y Sodano, đặc sử của ngài, cử hành lễ thánh hiến nhà thờ chính tòa mới của giáo phận Karaganda. Ngài cũng chào các tín hữu Latinh Leopoli bên Ucraine, nơi Đức Hồng Y Tomko, đặc sứ của ngài, chủ sự các lễ nghi kỷ niêm 600 năm thành lập tổng giáo phận này.

Linh Tiến Khải

 

 

ĐIẾC VÀ NGỌNG

ĐIẾC VÀ NGỌNG
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]
 
Điếc là không nghe được, khác với nghễnh ngãng là nghe không rõ. Câm là không nói được, khác với ngọng là nói không rõ, khó nghe. Theo khoa học thì người ta nói được là nhờ khả năng bắt chước. Cứ nhìn trẻ sơ sinh được cha mẹ tập nói cho, thì đủ rõ. Trẻ chăm chú nhìn cha (hay mẹ) để biết cách sử dụng miệng lưỡi, đồng thời lắng tai nghe âm thanh phát ra từ mịêng cha mẹ, sau đó sẽ bắt chước làm những cử điệu vá phát âm giống như cha mẹ. Lúc đầu có thể không đúng và rõ, nhưng dần dần về sau sẽ nói được gọn gàng, đúng giọng. Cũng vì tập nói chủ yếu là bắt chước cách nói của cha mẹ thông qua việc nghe, nên khi trẻ bị điếc thì trẻ cũng bị ngọng luôn (dù có phát ra âm thanh cũng chỉ ú ớ không rõ tiếng).
 
Câm thì nặng hơn vì cơ quan (mịêng, lưỡi, dây phát âm) bị khuyết tật nặng nề. Ở đời, thường những người ngọng (hay câm) là vì bị điếc. Với khoa học tiến bộ ngày nay có máy trợ thính giúp người điếc nghe được và nếu bị ngọng thì có thể kiên trì tập luyện sẽ nói được, nhưng nếu người ấy bị khuyết tật cả bộ phận phát âm thì cũng chỉ còn cách nói bằng cử chỉ (dùng 2 tay, ánh mắt và môi mịêng) ra hiệu. Đã không nghe lại không nói được, cuộc đời của người câm điếc như bị đóng lại trước một thế giới đang mở ra, chẳng khác gì người tù biệt giam không thể có mối tương quan nào với xã hội bên ngoài.
 
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7, 31-37) trình thuật phép lạ Chúa Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Chúa không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng. Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.
 
Nói đến vấn  đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá nhiêu khê  và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trước rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…). Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng" (Mt 25, 42-43).
 
Quả thực là  vẫn còn quá nhiều bệnh nhân "đui mù câm điếc" tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị. Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuóc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy.
 
Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài" (Thánh Âu-tinh), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định "Đức tin của con đã chữa lành con".
 
Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã "giả mù sa mưa" để có thể câm lặng "toạ thị cầu an" hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bệnh vực cho những người bị áp bức.
 
Cúi xin Chúa ban Thần Khí chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người "què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc" được khỏi không những căn bệnh "đui mù câm điếc" về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa.
 
Ôi! Lạy Chúa! "Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời và vâng nghe theo Chúa. Xin cho biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban…" ("Lắng nghe Lời Chúa" – TCCĐ). Amen.
 
JM. Lam Thy ĐVD.
 

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ MÌNH

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ  MÌNH

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]

Con cái là niềm vui tuyệt vời của cha mẹ. Sinh được một người con là hồng ân lớn lao cho cha mẹ, gia đình, dòng tộc. Nhưng sinh một đứa con kém may mắn, không hoàn hảo, tật nguyền, dị dạng, thiểu năng bẩm sinh, câm điếc chẳng hạn, không chỉ là nỗi buồn mà còn là thử thách lớn lao cho cha mẹ: thử thách tình yêu và thử thách niềm tin. Thật là cao cả, đáng quí, đáng ca ngợi biết bao những cha mẹ phải chịu đựng hy sinh cả đời trong tin yêu phó thác mà không một lời than vãn kêu ca. Tất cả tình thương và những gì tốt đẹp nhất được dành hết cho đứa con tật nguyền, bệnh hoạn. Tôi vẫn nghĩ, họ đang mặc lấy trái tim yêu thương nhân hậu của Chúa mới có thể đối xử với con mình cách đáng trân trọng như thế. Bằng không, thật là tồi tệ.
 
Sinh được một đứa con hoàn hảo, xinh đẹp, niềm vui ấy còn tuyệt vời hơn. Con khôn ăn chóng lớn, nói chắc, đi vững, là phần thưởng cho những hy sinh của cha mẹ. Rồi con ngoan ngoãn, nghe tốt, vâng kỹ, học giỏi, thành người có ích cho gia đình, cho xã hội, thì cha mẹ hãnh diện biết bao. Nhưng đối với những cha mẹ Công Giáo, thì thiết tưởng nên chọn niềm vui thiêng liêng cao quí nhất là  thấy con khôn ngoan biết thờ phượng Chúa, siêng năng kinh hạt, sốt sắng Thánh Lễ, viếng Chúa, đọc học Lời Chúa và nên người con của Chúa cách xứng đáng: biết mến Chúa yêu người trong gia đình và ngoài xã hội.
         
Nếu trong nhà bạn, trong nhà tôi có những đứa con hình dáng xinh đẹp, trí khôn thông minh, học hành giỏi giang, kinh tế vững vàng… mà không thuộc kinh nào, hoặc là hồi nhỏ đọc kinh với cha mẹ thuộc làu làu, lớn lên bỏ đọc dần rồi quên hẳn, thì chẳng phải là con mình đang bị câm đó sao?
 
Hồi nhỏ nghe lời cha mẹ, nghe Lời Chúa, lớn lên rồi có  được ít chữ, ít kinh nghiệm, ít tiền rủng rỉnh trong túi, thì coi cha mẹ là tụt hậu, là “đồ cổ”, và không buồn nghe cha mẹ bảo ban nhắc nhở nữa, cũng không nghe Lời Chúa, không giữ luật Chúa nữa… thì chẳng phải là con mình bị điếc đó sao?
         
Con không nói được một lời cảm ơn, một lời xin lỗi, huống chi nói được một lời ủi an cha mẹ trong lúc tuổi già, huống chi nói được một lời yêu thương, tri ân hay hiếu kính, chẳng phải là nó đã bị bệnh câm rồi đó sao?
 
Con không nghe được tiếng lòng của cha, không nghe được nỗi  đau của mẹ thì làm gì nghe được nỗi xót xa của tha nhân, chẳng phải nó bị điếc rồi đó sao?
 
Thật bi đát! Bệnh câm điếc của con, đã đành, lại thêm bệnh câm điếc của vợ, của chồng, của cha mẹ. 
 
Ông B buồn uống rượu cả ngày chỉ vì bà B chưa bao giờ chịu nhún nhường xin lỗi ông B trong suốt 40 năm làm vợ. Bà X cả ngày không nói gì nếu ông X không hỏi. Bà A chưa bao giờ hỏi ông A câu “Ông có khỏe không?” Có vợ chồng chưa bao giờ đọc kinh chung với nhau kể từ sau ngày cưới ! Đến ngày cưới vợ cho con, mướn một tay MC đọc kinh luôn, hoành tráng hơn, bài bản hơn! Vợ chồng chẳng ai chịu nghe ai, chẳng ai hiểu ai, trong khi hai người đều nói tiếng Việt ! Chẳng phải là bệnh câm điếc đang hoành hành ngay trong nhà mình đó sao?
 
Nếu vợ chồng, con cái trong gia đình mà không nói nhau nghe, không nghe nhau nói, thì còn gì là một tổ ấm yêu thương? Cả nhà chúng ta cùng câm điếc mãi vậy được sao ? Ra đường, đến Nhà Thờ, làm công tác tông đồ, làm ông kia bà nọ, nói và nghe khá lắm, mà về nhà thì lại câm và điếc với nhau. Thật vô lý! Đã thế, lại không có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc trong nhà mình!
 
Sống với nhau bằng xương bằng thịt hữu hình, sờ tận tay, thấy tận mắt mà còn câm điếc thì nói gì đến việc sống với Thiên Chúa, Đấng Vô Hình? Khi đã mang bệnh câm điếc trong gia đình như  thế thì rõ ràng là không có dấu chỉ nào cho thấy sự trưởng thành cần có về Đức Tin và đời sống nội tâm với Thiên Chúa.
 
Từ  gia đình ruột thịt, đến gia đình thiêng liêng, gia đình Hội Thánh, bệnh câm điếc cũng tràn lan:
 
– Cấp trên cấp dưới trong Hội Thánh chưa thực sự  trân trọng việc nói và nghe nhau. Có khi lại còn xu nịnh phường gian ác, nạt nộ kẻ lòng ngay. Tiếng nói của con chiên vẫn luôn là thấp bé, kém giá trị, nhất là những con chiên nghèo, con chiên tội lỗi, con chiên bị áp bức, con chiên ít học lại hay nói thật mất lòng, con chiên bị kết án chống đối. Con chiên bị phân biệt đối xử đúng như khuyến cáo của Thánh Giacôbê trong bài đọc 2 hôm nay ( x. Gc 2, 1 – 5 ). Câm điếc thật nguy hại!
 
– Gương xấu câm điếc trịch thượng ấy cũng lây lan sang cho kẻ lớn người nhỏ trong các Giáo Xứ, các Hội Đoàn chẳng ai muốn nghe ai. Câm điếc thật đáng sợ!
 
Thế  nhưng, được mấy người biết mình đang câm điếc? Được mấy người biết sợ bệnh câm điếc? Được mấy người “xao xuyến”, quan tâm đến chuyện nạn câm điếc đang hoành hành nơi chính mình, trong nhà, ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội? Và được mấy người có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc cho bản thân và cho mọi người trong thời đại hôm nay? Trong khi có quá nhiều người không biết mình đang mắc bệnh câm điếc thì Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người hãy biết “xao xuyến”, biết sợ bệnh, có ước muốn được điều trị bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay chữa lành.
 
Có “biết mình đang mắc bệnh” rồi xao xuyến, và  sợ bệnh thì mới cảm được lòng lo của Thiên Chúa qua lời mời gọi của Ngôn Sứ Isaia: “Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ ! … Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được"(Is 35, 4 – 7a ).
 
Có  ước muốn chữa bệnh và tin tưởng khẩn xin Thiên Chúa chữa cho thì mới được chữa khỏi. Tin Mừng kể rõ: “Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy”. Người câm điếc ấy hẳn có đủ các yếu tố: biết bệnh, sợ bệnh, muốn được chữa khỏi và bằng lòng xin Chúa Giêsu đặt tay chữa bệnh… (Mc 7, 31 – 37).
 
Lạy Chúa Giêsu, mỗi chúng con đều ít nhiều đang bị bệnh câm điếc trong nhà ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội. Xin cho chúng con biết sợ bệnh, biết ước muốn lành bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay để mở tai chúng con nghe Lời Chân Lý, nghe được tiếng than khóc của tha nhân, mở miệng chúng con để ca tụng Tình Yêu Chúa, bênh vực kẻ bị áp bức, nói lời nhân ái trong gia đình và giữa cuộc đời. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

Trích từ Xuân Bích VN

VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC NGƯỢC VỚI GIÁO LUẬT ĐÃ TÀN PHÁ GIÁO HỘI SAU VATICAN II.

Không thể dửng dưng với Chúa Kitô.

Kỷ niệm 80 năm thành lập giáo phận Zhou Zhi, Trung Quốc.

Phán quyết lịch sử đối với các Kitô hữu: luật chống cải đạo là vi hiến.

Từ Chủ nghĩa quốc xã tới “phong trào Hồi giáo Sunni (Salafism).

Đức Biển Đức XVI, người đầu tiên đăng ký dự JWJ (WYD) Rio 2013.

Vatican nói lên ý kiến về trường hợp [tội] báng bổ của em gái người Pakistan.

Tân Học viện sẽ đẩy mạnh việc sử dụng La-tinh.

Bộ ngoại giao Israel bác bỏ khiếu nại về Tân Sứ thần Toà Thánh.

Bổ nhiệm mới.

-“Anh chị em đã sẵn sàng đi đến tận cùng chưa?”.

-Hội nghị “TIN VÀO KHOA HỌC?”, với Dominique Bourg và Pierre Gisel.

Vatican mời Usain Bolt nói chuyện tại hội nghị tự do tôn giáo.

Hội Thảo Nghiên Cứu (*) cho 92 tân giám mục thuộc các xứ truyền giáo.

Không dùng tôn giáo phục vụ cho những mục đích trần thế.

An tử quá phức tạp để giao mặc cho các nhà chính trị.

Ở Ba Tây, điều không tưởng đã xảy ra như dự định.

Xây dựng một Châu Âu mới gợi nhớ Tháp Babel.

-TGP Milwaukee dự tính đóng cửa hơn 100 giáo xứ.

Lãnh tụ Hồi giáo bị bắt vì mưu gian nhằm hại em bé Pakistan trong vụ báng bổ.

Những thử thách mới đối với nữ giới về ngừa tránh thai.

-Giáo Hội ở Liban.

Hôn nhân đồng tính sẽ ảnh hưởng khủng khiếp đến tự do tôn giáo.

Tình thương nhưng không, sự hiệp nhất với Đức Thánh Cha sẽ làm chứng cho học thuyết xã hội của Giáo Hội.

Thánh Mẫu học kể từ Vatican II – Hội Nghị Quốc tế Thánh Mẫu học lần 23.

Thủ lãnh Nhóm các LM bất đồng Áo tiếp tục vận động thay đổi trong Giáo Hội.

Rửa tội 294 người trong 8 tháng tại giáo xứ Jiang Yin, giáo phận Nan Jing.

ĐHY Á Căn Đình chỉ trích việc LM từ chối rửa tội cho các trẻ em ngoài giá thú.

Tân Nữ đại sứ Lituania tại Toà Thánh.

“Thánh Giá của Hy Vọng”(Cruz de la Esperanza).

 (Xem chi tiết . . .    TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (09-03 đến 09-09-2012) )

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải là lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn ca Chúa Giêsu Kitô Đng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 5 tháng 9-2012. Ngài đã tiếp tục loạt bài giáo lý về đề tài cầu nguyện. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay tôi muốn nói về lời cầu nguyện trong sách Khải Huyền, như anh chị em biết, là cuốn sách cuối cùng của Thánh Kinh Tân Ước. Đây là một cuốn sách khó, nhưng chứa đựng một sự phong phú rất lớn. Nó đặt để chúng ta trong sự tiếp cận với lời nguyện sống động của cộng đoàn Kitô, tụ tập nhau trong ngày của Chúa (Kh 1,10).

Một đọc viên giới thiệu với cộng đoàn sứ điệp Chúa trao phó cho thánh sử Gioan. Đọc viên và cộng đoàn tạo thành hai tác nhân sự phát triển của sách. Từ sự đối thoại liên lỉ của họ, dâng lên một bản hòa âm cầu nguyện phát triển với các hình thái khác nhau cho tới lúc kết thúc.

Khi lắng nghe đọc viên giới thiệu sứ điệp, lắng nghe và quan sát cộng đoàn phản ứng, lời cầu nguyện của họ hướng tới chỗ trở thành lời cầu nguyện của chúng ta.

Phần đầu của sách Khải Huyền (1,4-3,22) gồm ba phần tiếp nối nhau. Phần một (1,4-8) là cuộc đối thoại giữa cộng đoàn vừa tụ họp nhau lại, và đọc viên chúc họ ”ân sủng và bình an”. Lời cầu chúc ấy tới từ Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và Đức Giêsu Kitô, cùng đấn thân trong việc làm cho chương trình tạo dựng và cứu độ đối với nhân loại được tiến triển. Cộng đoàn lắng nghe, và khi nghe xướng tên Chúa Giêsu Kitô, họ đã nhảy mừng và hăng hái trả lời bằng một lời cầu chúc tụng: ”Cho Đấng yêu mến chúng ta và đã giải thoát chúng ta với Máu của Người, Đấng đã làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thủơ muôn đời Amen” (Kh 1,5-6a).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Cộng đoàn được bao bọc bởi tình yêu của Chúa Kitô cảm thấy được giải thoát khỏi các ràng buộc của tội lỗi, và tự tuyên bố là ”vương quốc” của Chúa Giêsu Kitô, hoàn toàn thuộc về Người. Nó nhìn nhận sứ mệnh lớn lao đã được giao phó với bí tích Rửa Tội là đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào lòng thế giới. Cộng đoàn nhìn lên Chúa Giêsu, và với lòng hăng say gia tăng, nó thừa nhận “vinh quang và uy quyền cứu thoát thế giới của Người. Mấy câu đầu chứa đựng một sự phong phú lớn, vì cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta. Bị chìm ngập trong biết bao nhiêu lời nói, chúng ta ít có thói quen lắng nghe, nhất là đặt để mình trong tư thế nội tâm và bề ngoài để chú ý tới những điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta. Ngoài ra, các câu này còn dậy cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Người đọc lại nhắc nhở cộng đoàn dấn thân tiếp đón sự hiện diện tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc sống: ”Kìa Người ngự giữa đám mây, ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người” (Kh 1,7a). Sau khi đã lên trời trong một ”đám mây”, biểu tượng của sự siêu việt (x. Cv 1,9), Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại như đã lên trời (x. Cv 1,11b). Khi đó mọi dân tộc sẽ nhận biết và ”sẽ hướng nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu (Ga 19,37). Họ sẽ nghĩ đến các tội lỗi của mình, là lý do của việc đóng đinh Người, và như những người đã trực tiếp chứng kiến cảnh đóng đanh trên đồi Calvê, ”họ sẽ đấm ngực” (x, Lc 23,48), xin Người tha thứ, để theo Người trong cuộc sống, và như thế chuẩn bị cho sự hiệp thông trọn vẹn với Người, sau cuộc trở lại sau hết của Người. Cộng đoàn suy tư về sứ điệp ấy và trả lời ”Amen” (Kh 1,7b). Nó diễn tả việc tiếp nhận tràn đầy những gì được chyển đạt với tiếng ”Có”, và xin cho điều đó trở thành thực tại. Đó là lời cầu nguyện của cộng đoàn suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa, được tỏ lộ ra một cách cao vời trên Thập giá, và xin được sống trung thực như môn đệ của Chúa Kitô. Và Thiên Chúa trả lời: ”Ta là Alpha và Omega, Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8).

Thiên Chúa tự mạc khải như là sự khởi đầu và kết thúc của lịch sử, Người chấp nhận và chú ý tới lời xin của cộng đoàn. Với tình yêu Người đã, đang và sẽ hiện diện tich cực trong các biến cố của loài người cho tới ngày sau hết. Lời cầu nguyện thức tỉnh trong chúng ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống và trong lịch sử; và sự hiện diện của Chúa đỡ nâng, hướng dẫn và trao ban hy vọng cho chúng ta, cả giữa sự tối tăm của vài biến cố nhân loại. Ngoài ra, mỗi một lời cầu nguyện, cả lời cầu nguyện trong thanh vắng triệt để nhất, cũng không bao giờ lẻ loi và cằn cỗi, mà là nhựa sống dưỡng nuôi cuộc đời Kitô ngày càng dấn thân và trung thực hơn.

Phần hai lời cầu nguyện của cộng đoàn (Kh 1,9-22) đào sâu tương quan với Chúa Giêsu Kitô: Chúa cho thấy Người, nói, hành động; và cộng đoàn luôn gần gũi Người hơn lắng nghe, phản ứng và tiếp nhận. Thánh Gioan chia sẻ với cộng đoàn kinh nghiệm riêng của mình đang ở đảo Patmos, vì rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu. Đó là vào Ngày của Chúa, tức Chúa Nhật, ngày cử hành sự phục sinh. Thánh nhân được Thánh Thần nắm lấy, thấm nhuần, canh tân, và làm nở khả năng tiếp nhận Chúa Giêsu mời thánh nhân viết. Lời cầu nguyện của cộng đoàn từ từ trở thành một thái độ chiêm niệm, được đánh nhịp bởi các động từ ”trông thấy”, ”nhìn”, ”chiêm niệm”, nghĩa là nội tâm hóa và biến thành của mình những gì đọc viên đề nghị.

Thánh Gioan nghe một tiếng lớn như tiếng kèn, sai gửi sứ điệp cho bẩy Giáo Hội tại Tiểu Á, và qua các Giáo Hội ấy gửi cho tất cả mọi Giáo Hội và các chủ chăn. Tiếng kèn nhắc nhớ tới cảnh Thiên Chúa hiện ra với ông Môshê trên núi Sinai trong sách Xuất Hành (Xh 20,18), và ám chỉ tiếng Thiên Chúa nói từ Trời, từ sự siêu việt của Người; ở đây nó được áp dụng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh nói với cộng đoàn đang cầu nguyện từ vinh quang của Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan trông thấy bảy cây đèn vàng với nến cháy sáng, ở giữa có một người giống như Con Người, là từ ám chỉ chính Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha giải thích hình ảnh bẩy cây đèn vàng cháy sáng như sau:

Các cây đèn vàng có nến cháy sáng ám chỉ Giáo Hội thuộc mọi thời đại trong thái độ cầu nguyện trong Phụng vụ: Chúa Giêsu Phục Sinh, ”Con Người” ở giữa Giáo Hội và mặc phẩm phục Thượng tế của Cựu Ước đang chu toàn nhiệm vụ tư tế trung gian gần Thiên Chúa Cha. Trong sứ điệp của Gioan có sự biểu lộ sáng láng của Chúa Kitô Phục Sinh với các đặc tính của Thiên Chúa. ”Tóc trắng như tuyết” (Kh 1,14) biểu tượng cho sự vĩnh cửu của Thiên Chúa (Dn 7,9) và sự Phục Sinh. Lửa trong Cựu Ước thường được gán cho Thiên Chúa biểu tượng cho hai đặc tính: thứ nhất là sức mạnh sự ghen tương tình yêu của Người linh hoạt giao ước của Người với nhân loại (x. Đnl 4,24). Người ta có thể đọc đựơc chính sức mạnh cháy nóng tình yêu ấy trong cái nhìn của Chúa Giêsu Phục Sinh: ”mắt Người như ngọn lửa hồng” (Kh 1,14a). Đặc tính thứ hai là khả năng chiến thắng sự dữ ”như lửa thiêu rụi” không thể kìm hãm được (Đnl 9,3). Chân của Chúa Giêsu tiến lên phá hủy sự dữ cũng thế, giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò (Kh 1,15). Tiếng nói của Chúa Giêsu Kitô ”giống như tiếng nước lũ” (Kh 1,15c), như tiếng ”vinh quang của Thiên Chúa tiến về Giêrusalem” mà ngôn sứ Edekiel nói tới (Ed 43,2).

Tiếp theo đó ba yếu tố biểu tượng khác nữa cho thấy điều Chúa Giêsu Phục Sinh đang làm cho Giáo Hội: Người cầm Giáo Hội vững chắc trong tay phải, nói với Giáo Hội với sức mạnh của một thanh gươm sắc nhọn, và chỉ cho Giáo Hội thấy ánh quang thiên tính của Người: ”mặt Người tỏa sáng như mặt trời chói lọi” (Kh 1,16). Kinh nghiệm tuyệt vời ấy khiến cho thánh Gioan đuối sức và ngã vật xuống như chết. Thánh nhân có Chúa Giêsu ở trước mặt đang nói với thánh nhân, trấn an và đặt tay trên đầu thánh nhân, tỏ lộ căn tính là Đấng bị đóng đanh Phục Sinh và giao cho thánh nhân nhiệm vụ viết một sứ điệp cho các Giáo Hội (Kh 1,17-18). Cộng đoàn cũng chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ hằng ngày với Chúa Giêsu, và nhận ra sự phong phú của việc tiếp xúc ấy với Chúa, là Đấng làm tràn đầy mọi không gian của cuộc sống.

Phần thứ ba là hai chương 2-3 của sách Khải Huyền, gồm sứ điệp gửi cho bẩy Giáo Hội Tiểu Á ở chung quanh Ephêx0, trong đó Chúa Giêsu ngỏ lời ở ngôi thứ nhất. Chúa khởi hành từ tình trạng sống đặc biệt của từng Giáo Hội để trải đài ra các Giáo Hội thuộc mọi thời đại. Chúa cho thấy các ánh sáng và bóng tối của từng Giáo Hội và cấp thiết mời gọi ”Hãy hoán cải” (Kh 2,5.16; 3,19c); ”Hãy nắm vững điều ngươi đang có” (3, 11); ”Hãy làm các việc thủơ ban đầu” (2,5); ”Hãy nồng nhiệt và hoản cải” (3,19b)… Các lời này của Chúa Giêsu, nếu được lắng nghe với đức tin thì bắt đầu hữu hiệu ngay. Giáo Hội đang cầu nguyện tiếp nhận Lời Chúa được biến đổi. Mọi Giáo Hội đều phải lắng nghe Chúa và rộng mở cho Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu liên tục đòi hỏi: ”Ai có tai thì lắng nghe lời Thần Khí nói với các Giáo Hội” (2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp nhận được sự khích lệ để sám hối, hoán cải, kiên trì, lớn lên trong tình yêu và định hướng lộ trình của mình.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đc Thánh Cha đã cất Kinh Lạy cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Đức Hồng Y Carlo Maria Martini S.J qua đời

Đức Hồng Y Carlo Maria Martini S.J qua đời

MILANO. ĐHY Carlo Maria Martini S.J., nguyên TGM giáo phận Milano, đã qua đời chiều ngày 31-8-2012, hưởng thọ 85 tuổi.

ĐHY Carlo Maria Martini thuộc dòng Tên, sinh tại Torino bắc Italia năm 1927, gia nhập dòng năm 17 tuổi và thụ phong LM năm 1952. Ngài vốn một chuyên gia nổi tiếng về Kinh Thánh, từng làm Viện trưởng Giáo Hoàng Học Viện Kinh Thánh rồi làm Viện trưởng Đại học Giáo Hoàng Gregoriana, trước khi được ĐGH Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm làm TGM Milano ngày 29-12-1979, là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu với gần 4 triệu 900 ngàn tín hữu Công Giáo.
Tháng 11 năm 1980 ngài thành lập ”Trường Lời Chúa” tại Milano với mục đích giúp dân Chúa đến gần Kinh Thánh theo phương pháp lectio divina.

ĐHY Martini từng làm Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu từ 1987 đến 1993, được trao tặng nhiều văn bằng tiến sĩ danh dự và các giải thưởng.

Sau hơn 22 năm coi sóc giáo phận, ĐHY về hưu ngày 11-7-2002 và trong những năm gần đây ngài bị bệnh Parkinson.

Hôm 31-8-2012, Bác sĩ Gianni Pezzoli, chuyên về thần kinh học và từ lâu vẫn chữa trị cho ĐHY Martini, cho biết bệnh trạng của ĐHY đã vào giai đoạn chót. Sau vụ lên cơn lần cuối hồi giữa tháng 8 vừa qua, ĐHY không thể nuốt được đồ ăn, đặc cũng như lỏng, nữa, nhưng ngài vẫn tỉnh táo và từ chối mọi hình thức miệt mài trị liệu.
Cha Ciro Benedettini, Phó Giám Đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ĐTC đã được thông báo về bệnh trạng của ĐHY Martini trở nên trầm trọng và ngài theo dõi bệnh trạng của ĐHY.

Chiều ngày 30-8-2012, ĐHY Angelo Scola, đương kim TGM Milno, kêu gọi các tín hữu trong giáo phận và những người quí mến ĐHY Martini đặc biệt cầu nguyện, cũng như bày tỏ lòng quí mến và sự gần gũi với Người trong giờ phút khó khăn này.

Chiều ngày 31-8-2012, tòa TGM Milano thông báo: ĐHY Martini đã từ trần lúc 15.45 tại Gallarate.

Nhận định của cha Federico Lombardi, S.J

Cha Lombardi, Giám đốc Đài Phát Thanh Vatican kiêm Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã viết một bài nhận định:

“Sự qua đời của ĐHY Carlo Maria Martini là một biến cố gây xúc động vượt ra ngoài ranh giới của Tổng giáo phận Milano rất rộng lớn, nơi ngài đã cai quản trong 22 năm. Thực vậy, ngài là một Giám Mục, bằng lời nói và rất nhiều tác phẩm, với những sáng kiến mục vụ đổi mới, đã biết làm chứng và truyền giảng hữu hiệu đức tin cho con người thời đại, được sự quí mến và tôn trọng của những người gần xa, gợi hứng cho bao nhiêu anh em của ngài trong hàng GM trên thế giới về việc thi hành sứ vụ.

”Sự huấn luyện và nhân cách của ĐhY Martini là sự huấn luyện và nhân cách của một tu sĩ dòng Tên nghiên cứu Kinh Thánh. Lời Chúa chính là điểm khởi hành và là nền tảng đường lối tiếp cận đối với mỗi khía cạnh của thực tại và mỗi sự can thiệp của ngài, những cuộc Linh Thao theo tinh thần thánh Ignaxiô Loyola, là khuôn mẫu cho linh đạo và đường lối sư phạm tu đức của ngài, quan hệ liên tục, trực tiếp và cụ thể, giữa việc đọc Lời Chúa và cuộc sống, sự phân định về tinh thần và quyết định dưới ánh sáng Tin Mừng”.

”Thật là một trực giác can đảm của Đức Gioan Phaolô 2 khi dùng sự phong phú về văn hóa và tinh thần của một người cho đến bấy giờ là một học giả, Viện trưởng Học viện Thánh Kinh rồi Viện trưởng Đại học Gregoriana, để phục vụ cho việc cai quản một trong những giáo phận lớn nhất thế giới. Đường lối cai quản của ĐHY thật là đặc biệt. Trong cuốn sách nhỏ cuối cùng của ngài tựa đề ”Giám Mục” (Il Vescovo), ĐHY Martini viết: ”Bạn đừng nghĩ Giám Mục có thể hướng dẫn dân chúng được ủy thác cho mình một cách hữu hiệu bằng cách gia tăng các qui định và các sắc lệnh, với những cấm đoán và những phán đoán tiêu cực. Trái lại, hãy nhắm tới sự huấn luyện nội tâm, về sự nếm hưởng và sức thu hút của Kinh Thánh, hãy trình bày những động lực tích cực thúc đẩy chúng ta hành động theo Tin Mừng. Như thế, bạn sẽ đạt được nhiều thành quả hơn là bằng những lời nhắc nhở cứng nhắc về sự tuân giữ các qui luật”.

”Đó thực là một gia sản quí giả, cần suy tư nghiêm túc khi chúng ta tìm kiếm những con đường để tái truyền giảng Tin Mừng”.

Sau khi ĐHY Martini qua đời, Hồng y đoàn còn 206 vị, trong đó có 118 Hồng y cử tri (dưới 80 tuổi). Các Hồng y người Ý còn 51 vị, trong đó có 30 Hồng y cử tri. Dòng Tên còn 6 Hồng y trong đó có 2 HY cử tri.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

THỰC THÀ VỚI CHÚA

 THỰC THÀ VỚI CHÚA

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (02/09.2012)
[Đnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23]

Noi gương Ông Giosuê, bắt chước Thánh Phêrô, tuần trước, chúng ta cùng thưa với Chúa rằng: Chúng con quyết không bỏ Chúa, gia đình chúng con tôn thờ Thiên Chúa và trung tín với Chúa. Tuần này, Lời Chúa dạy chúng ta cách tôn thờ Thiên Chúa thế nào cho đúng với ý Chúa muốn, và còn phải biết “dạy cho con cháu” cách sống đạo cho nên (x. Đnl 4, 1-2. 6-8).
 
Tôi bỗng nhớ câu chuyện của mẹ tôi. Trước lúc cha tôi mất, Người chỉ để lại một di ngôn ngắn lắm: “Sống đẹp lòng Chúa”. Mẹ tôi ôm ấp di ngôn của cha và hay nhắc bảo anh em chúng tôi. Mười năm sau, trước lúc mẹ mất, di ngôn của mẹ có ba điều:
 
“Các con hãy:
1. Đoàn kết thương yêu nhau.
2. Làm lành lánh dữ.
3. Giáo dục con cái biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên”.
 
Vào những ngày Giỗ, Chạp, Tết nhất hay những lúc sum họp gia đình, anh em tôi thường lặp lại Di Ngôn của cha mẹ. Có lần, chú em tôi cảm động quá, khóc và thưa với mẹ rằng:Cảm ơn mẹ đã chú giải di ngôn của cha, cho chúng con biết thế nào là sống đẹp lòng Chúa”.
 
Cô Út chợt nhận ra điều gì, nói: “Sau này, Chúa sẽ không hỏi em rằng em đã làm gì cho Chúa, nhưng chắc chắc Chúa sẽ hỏi em có tin tưởng, yêu mến và phó thác vào Chúa không ? Vậy mà có lần em cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tin tưởng, yêu mến, và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa. Xin Chúa ban cho con thoát khỏi cảnh nợ nần, nghèo khổ hôm nay”. Em tự thấy mình có điều gì gian dối. Đã tin, yêu, cậy trông mà làm như Chúa hổng biết gì về mình vậy, còn thưa lảm nhảm hoài: con khổ quá Chúa ơi! Như vậy “tin yêu mến” của em chắc là “đầu môi chót lưỡi” rồi. Đúng không?
 
Cả nhà không ai dám giải thích gì. Vì có lẽ ai cũng không khác cô út bao nhiêu! Sống thành thật với nhau đã là khó. Sống thành thật với Chúa còn khó biết bao. Người đời có thể lầm cách sống đạo của tôi, của bạn, nhưng chắc chắn Chúa không lầm. Chúa biết rõ chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa tới mức nào.
 
Ở đời, mà nhất là đời nay, thời buổi này, trong toàn cảnh Việt Nam hôm nay, thì sự dối trá càng rõ hơn. Dối khắp nơi, chỗ nào cũng dối. Dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Dối tứ phía. Tình gian dối. Tiền gian dối. Quyền lực gian dối. Tài sản gian dối. Ngay cả việc tôn kính lãnh tụ cũng chẳng có gì là thật lòng. Khóc gian dối. Cười gian dối. Và nếu chỗ nào cũng dối, người nào cũng cũng dối, thì có thể nói đó là một thách thức lớn cho Tin Mừng Sự Thật.
 
Thánh Giacôbê bảo: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác”. Thiết nghĩ, thứ nhơ bẩn ấy chính là sự dối trá trong lòng. Chúa Giêsu thì vạch mặt sự dối trá của những thầy thông luật, những kinh sư, những Pharisêu giả hình khi họ bắt bẻ các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn cho sạch sẽ theo tập tục cha ông của họ: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người".
 
Lời trách mắng của Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến hầu như tất cả chúng ta. Gọi là “tất cả”, bởi vì, mỗi người trong chúng ta, không ai tránh khỏi ảnh hưởng sự dối trá, cách sống dối trá do hậu quả của tội nguyên tổ: Không tuân phục Thiên Chúa, lừa dối Thiên Chúa.
 
Trong khi Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống chân thành để chúng ta trưởng thành về mặt Đức Tin hơn, thì ma quỷ cùng thế lực chống Thiên Chúa lại xúi quẩy chúng ta sống giả dối, cách sống ấu trĩ của ma quỷ:
Chúng ta đang biến việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi phụng tự thành lễ hội. Hình thức tổ chức lễ có vẻ được quan tâm hơn là chuẩn bị tấm lòng yêu mến tôn kính cách chân thực.
 
Càng có nhiều lễ hội tôn giáo càng chứng tỏ ra rằng đất nước ấy tự do tôn giáo, một thứ tôn giáo hời hợt bên ngoài, thứ tôn giáo giả hình. Từ lễ hội linh đình của các cấp Giáo Hội lớn, đến nhỏ hơn, và xuống đến nhỏ hơn nữa là gia đình, là cá nhân… ai cũng làm bộ có đạo, làm bộ đạo đức, mà quên rằng chúng ta đang thực sự lừa dối Thiên Chúa, cũng chẳng khác nào quân Pharisêu thờ kính Chúa ngoài môi miệng, bằng băng-rôn biểu ngữ, bằng rêu rao tự do, bằng xây cất cho hoành tráng, bằng lễ lớn lạc lớn, bằng tham gia đủ thứ hội đoàn, bằng chức danh ông kia bà nọ, bằng áo mão chỉnh tề, bằng xuất hiện công khai cách long trọng, bằng bảng vàng dâng cúng, bằng con số, bằng báo cáo thành tích, bằng toàn bộ hình thức bên ngoài và giả dối bên trong khi có thể.
 
Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta phải trở về với nội tâm sâu xa của lòng yêu mến chân thành. Lòng yêu mến Chúa thúc đẩy chúng ta thực hiện lề luật của Chúa và truyền dạy cho con cháu thực hiện lề luật ấy cách chân thành.
 
Thánh Vịnh đáp ca chỉ rõ mấy việc cần làm ngay của người có đạo: “Sống thanh liêm và thực thi công chính”, “trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống”, “không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”,  “không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương” (Tv 14, 2 – 3ab .  3cd – 4ab . 4c – 5 ).
 
Phải sống thành thực, không sống giả dối, bởi vì, theo Thánh Giacôbê: “Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật”. Ngài khuyên chúng ta tránh xa sự gian dối: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Và đó là “lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền”(Gc 1, 17 – 18 . 21b – 22 . 27).
 
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Thánh vì là Sự Thật của Thiên Chúa, nhờ Máu Chúa, chúng con đã được tẩy rửa sự gian ác trong lòng chúng con. Xin cho chúng con giữ được lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền ấy trước những cám dỗ dối trá của cuộc đời. Amen.

 
PM. Cao Huy Hoàng

Nhà thờ Saint Patrick Proto-Catheral tại San Jose, California bốc cháy

Nhà thờ Saint Patrick Proto-Catheral tại San Jose, California bốc cháy

Courtesy pic from NBC Bayarea

 

San Jose– Được biết sáng thứ Năm ngày 30 tháng 8 năm 2012, một trận hỏa hoạn đã xảy ra tại nhà thờ Saint Patrick vào khoảng 11 giờ sáng. Ngọn lửa xuất phát từ nơi thờ trang nghiêm, gần phía cuối nhà thờ. Nhà thờ tọa lạc tại số 389 E. Santa Clara street, San Jose. Sau đó ngọn lửa đã được dập tắt lúc 12:05 pm.

Trong trận chửa lửa này, một nhân viên cứu hỏa tên Francis Ryan, 44 tuổi đã bị ngã quỵ vì bị đau tim trước cửa nhà thờ. Rất may ông được cứu sống bởi các nhân viên cứu hỏa đồng nghiệp trước khi mang đến bệnh viện cấp cứu.

Đây là trận hỏa hoạn thứ ba liên tiếp trong 3 ngày, đầu tiên là khuya ngày thứ tư, hủy hoại hoàn toàn Summer Winds Nursery, kế đó là làm thiệt hại các cửa hàng tại khu Capital Commerce Center.

Các nhân chứng cho biết ngọn lửa đã làm vở các gương, cửa kính nhà thờ, rơi đầy trên mặt đất. Khói bay mịt mù tại trung tâm thành phố San Jose.

Giáo xứ Saint Patrick cũng có một trường học, nhưng được cách bởi một bải đậu xe, nên trường học vẫn an toàn. Các học sinh đã được bảo vệ và đưa ra ngoài sân.

Giáo xứ Thánh Patrick là của công giáo La Mã, phụ thuộc giáo phận San Jose chủ yếu để phụng vụ cho cộng đồng người Việt Nam. Giáo xứ đã được thành lập từ năm 1872 và là cổ xưa thứ hai sau nhà thờ Catheral Basillica of Joseph tại trung tâm thành phố San Jose là cổ xưa nhất.

Mai Hương

Trích dịch từ NBC

12 tổ chức NGO kêu gọi VN trả tự do cho các thanh niên Công giáo

12 tổ chức NGO kêu gọi VN trả tự do cho các thanh niên Công giáo

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2012-08-28

Hôm qua thứ Hai 27 tháng 08/2012, nhiều tổ chức quốc tế đã gởi thư ngỏ đến Thủ tướng Việt Nam, yêu cầu trả tự do cho 17 thanh niên Công Giáo.

Bắt giữ tùy tiện

Các tổ chức NGO trên thế giới yêu cầu chính quyền Việt Nam hãy trả tự do ngay tức khắc, đồng thời xóa bỏ mọi cáo buộc đối với 17 bloggers và nhà hoạt động xã hội bị công an bắt giữ tùy tiện từ tháng 07/2011 đến giờ.

Hầu hết những người bị bắt chưa được mang ra xét xử, trong lúc họ chỉ là những công dân làm báo, bảo vệ môi trường, chống tham nhũng và bênh vực nhân quyền.

Trong hơn một năm qua, cộng đồng nhân quyền quốc tế đã biết đến tên tuổi của họ, đó là Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Paulus Lê Văn Sơn, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh, Nguyễn Văn Oai, Thái Văn Dũng,  Trần Minh Nhật, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Đình Cương, Chu Mạnh Sơn, Hoàng Phong.

Trên đây là phần mở đầu bức thư ngỏ của 12 tổ chức ngoài chính phủ trên thế giới, gởi đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam, trong đó có Human Rights Watch, ACAT France, Access Now, Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Media Legal Defense Initiative, International Freedom Of Expression, Electronic Frontier Foundation, Front Line Defenders, Southeast Asian Press Alliance SEAPA, van van…

Đây là bức thư ngỏ thứ hai do 12 tổ chức phi chính phủ NGO trên thế giới cùng ký tên, yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho các thanh niên Công giáo và Tin lành bị công an bắt giữ từ tháng  Bảy năm ngoái.

Trước đó, vào hôm 12/03/2012, 9 tổ chức phi chính phủ cũng đã gởi cho Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng một bức thư ngỏ với mục đích tương tự, yêu cầu Việt Nam trả tự do và hủy bỏ mọi cáo buộc đối với 5 trong số 17 người bị bắt là Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh và Paulus Lê Sơn.

Được hỏi thư ngỏ ngày 27/08 có trùng hợp với sự kiện 30 thân nhân của 17 thanh niên bị bắt giữ kéo nhau đi khiếu kiện cho họ ở văn phòng thủ tướng chính phủ và đã bị cảnh sát bắt đưa lên xe chở đi nơi khác không?  bà Nina Jansen, cố vấn pháp lý của tổ chức Media Legal Defense Initiative, Khởi xướng Bảo vệ Pháp lý Truyền thông ở Anh quốc, trả lời rằng đây chỉ là sự trùng hợp về thời gian:

“Chúng tôi quyết định ký vào thư gửi như một việc làm tiếp theo thư ngỏ đã cùng gởi hồi tháng Ba năm nay, cũng với  lời yêu cầu trả tự do cho những thành viên bloggers mà heo quan điểm của chúng tôi là họ bị bắt một cách bất hợp pháp vì đã sử dụng quyền tự do ngôn luận.

Chúng tôi nghĩ những bản án mà phải gánh chịu là bất công, những người trẻ này đang thực hiện quyền tự do tư tưởng và phát biểu họ một cách hòa nhã, không một dấu hiệu nào trong những hành động đó khiến họ bị xử phạt đến như thế.

Một vấn đề khác, mà chúng tôi thấy ở đây là thủ tục tố tụng ở Việt Nam không được tôn trọng, nhiều bloggers không có luật sư bào chữa, không ai biết được khi nào họ bị mang ra xử, và còn nhiều hành động vi phạm nhân quyền khác nữa của chính phủ Việt Nam mà  thế giới phải quan tâm.”

Quốc tế quan tâm

Từ Bangkok, Thái Lan, giám đốc văn phòng chuyên trách Đông Nam Á của Human Rights Watch, ông Phil  Robertson, nói rằng ý kiến về thư ngỏ gởi thằng lên cấp lãnh đạo cao nhất của Việt Nam nhằm mục đích nhấn mạnh sự quan tâm sâu sắc của các tổ chức phi chính phủ bên ngoài, nhân khi nhớ đến vụ bắt giữ tùy tiện 17 người diễn ra đã một năm hơn:

“Chúng tôi đã làm việc cùng các tổ chức khác cùng mục đích, nhằm nêu vấn đề đối với Thủ tướng Việt Nam là tự do ngôn luận trong đất nước của ông đã bị chà đạp.

Chúng tôi cũng muốn gia đình, thân nhân của 17 người bị bắt hiểu rằng thế giới bên ngoài không quên lãng  họ, rằng cộng đồng thế giới vẫn tiếp tục áp lực chính phủ Việt Nam trả tự do ngay cho những thanh niên sinh viên này”.

Đề cập đến cuộc biểu tình khiếu kiện và kêu oan của thân nhân 17 thanh niên sinh viên đang ở trong tù, mà đã bị cảnh sát trấn áp và giải tán, giám đốc chuyên trách văn phòng Đông Nam Á của Human Rights Watch bày tỏ suy nghĩ của ông là, đáng lẽ cảnh sát Việt Nam nên để cho thân nhân và gia đình được tự do khiếu nại trường hợp bị bắt bớ của con em họ một cách ôn hòa:

“Bởi họ chỉ mặc áo in hình con em họ, nói con em họ vô tội, rồi im lặng  tuần hành trên đường cho mọi người thấy được nỗi oan khuất của gia đình họ mà thôi. Thay vì can thiệp, cảnh sát nên để họ được bày tỏ ý kiến của họ, được hành động theo lương tâm của họ.

Việt Nam đã ký vào bản tuyên ngôn nhân quyền trong đó bảo đảm công dân có quyền tự do bày tỏ ý kiến  và tự do hộp họp, nhưng rồi chính phủ càng ngày càng vi phạm những nguyên tắc căn bản về quyền làm người của công dân trong nước họ. Đó là điều Human Rights Watch nhìn thấy”.

Và cũng từ Bangkok, bà Gayathry Venkisteswaran, Giám đốc điều hành SEAPA, tức Southeast  Asian Press Alliance – Liên minh Báo chí Đông Nam Á, nói rằng tổ chức không chỉ chú trọng đến tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do phát biểu và bênh vực quyền lợi của người làm báo ở khu vực Đông Nam Á, mà còn quan tâm đến những trường hợp cá nhân các bloggers lên mạng để chuyển tải ý tưởng hay suy nghĩ của họ:

“Chính vì thế, với thư ngỏ gởi đi hôm qua, chúng tôi hy vọng có thể thuyết phục, hoặc là có thể khiến chính phủ Việt Nam suy nghĩ lại điều mà chúng  tôi gọi là sự vi phạm, bởi vì những bloggers và những thành viên mạng bị bắt giữ đấy chỉ làm một việc rất bình thường là đưa lên mạng những suy nghĩ của mình.

Có  nhiều cách hợp lý và hợp pháp mà một chính phủ có thể  đương đầu với những người bất đồng chính kiến, nhưng cái mà chúng tôi quan ngại là Việt Nam đã áp dụng những điều luật mơ hồ, nếu không muốn nói là hồ đồ, để làm cái cớ bắt giữ và bịt miệng những người không nói không nghĩ theo mình. Đó là phạm luật,  là chà đạp quyền và lợi ích của công  dân.”

Sau cùng, từ Dublin, Ireland, giám đốc Phòng Báo Chí và Liên Lạc của Front Line Defenders, ông Jim Loughran, cho rằng đàn áp và bạo lực là điều thường xảy ra đối với những người bất đồng chính kiến ở Việt Nam:

“Điển hình của chuyện này là nhóm 17 người đã bị bắt và đang bị cầm tù, họ là bloggers, là công dân làm báo, là những nhà hoạt động trong cộng đồng.

Lá thư mà chúng tôi ký tên và gởi đi cho lãnh đạo Việt Nam  là thư ngỏ tập thể thứ nhì của các tổ chức phi chính phủ, và tôi lấy làm tiếc phải nói rằng một mặt theo dõi xem Việt Nam có cải thiện vấn đề nhân quyền hay không thì mặt khác chỉ thấy sự bức bách, đe dọa, bắt giữ càng ngày càng gia tăng chứ không có dấu hiệu giảm đi”.

Vẫn theo lời ông Jim Loughran, điều vừa nói không chỉ là quan điểm riêng của Front Line Defenders mà là ý kiến và tiếng nói đồng nhất của các tổ chức phi chính phủ chuyên tranh đấu, bảo vệ và binh vực cho những dân tộc và những đất nước không  biết tôn trọng những quyền lợi cũng như nghĩa vụ căn bản của người công dân trong một đất nước thường tuyên bố là có nhân quyền và tôn trọng pháp luật.

(Thanh Trúc tường trình từ Thái Lan)

 

 

Gia đình các thanh niên Công giáo bị bắt kéo đến Văn phòng Chính Phủ

Gia đình các thanh niên Công giáo bị bắt kéo đến Văn phòng Chính Phủ

2012-08-27

Sáng 27/8, người nhà của 17 thanh niên Công Giáo và Tin Lành bị bắt từ cuối tháng 7/2011 đã kéo nhau đến Văn Phòng Chính Phủ yêu cầu chính quyền trả tự do cho thân nhân của họ.

Nộp đơn khiếu kiện

Đây là những người từ Vinh Hà Nội để khiếu kiện trường hợp mười bảy thanh niên và sinh viên Công Giáo cũng như Tin Lành, bị bắt giữ trong lúc đang ở ngoài đường mà nhiều người không được đưa ra xét xử cũng như không được gặp mặt gia đình hơn một năm nay.

Vào khoảng 10 giờ sáng, trước văn phòng chính phủ, Ông Chu Văn Nghiêm, thân phụ của anh Chu Mạnh Sơn, bị bắt ngày Một tháng Tám năm ngoái, cho hay:

Công an đang ngăn chặn, không có ai vào được. Ở nơi văn phòng chính phủ ở ngoài Hà Nội, phố Mai Xuân Thưởng. Hôm nay đi ra văn phòng chính phủ, kéo 30 người đến nộp đơn mà coi như công an hắn xô hắn kéo. Giờ đương cãi nhau với công an đây.

Ông Phương, giáo dân Thái Hà đi cùng trong đoàn:

Có nhiều lắm, có chị Nguyễn Thị Nhi này, có gia đình của cháu Lê Sơn, có gia đình của Chu Mạnh Sơn, có gia đình của Thái Văn Dũng, nói chung là tất cả gia đình của mười bảy nạn nhân.

Ông Phẩm, cậu ruột của Lê Văn Sơn, bị bắt ngày 3 tháng Tám 2011:

Công an không cho vào gởi đơn, họ xô đẩy đàn áp anh em sang bên kia đường, họ bảo đây không phải là chỗ nộp đơn, đến chỗ khác mà nộp đơn. Công an đang tập trung đông lắm, đông hơn dân bọn em nhiều, đang lộn xộn lắm.

Được biết 30 người gồm cha mẹ, cậu, anh, em, vợ, cháu của những người bị bắt đều mặc áo trắng có dán hình mười bảy người bị bắt, đồng thời mang theo biểu ngữ và đơn khiếu nại. Vẫn lời ông Chu Văn Nghiêm:

Bắt đầu là đi qua lăng Hồ Chủ Tịch, ra nơi công viên của văn phòng thủ tướng chính phủ thì bắt đầu mới cởi áo ra, còn là áo đã mặc ở trong là màu trắng. Người thì con tôi vô tội, người thì em tôi vô tội, người thì chồng tôi vô tội, người thì cháu  tôi vô tội, người thì anh tôi vô tội. Đằng sau thì  photo hình của mười bảy người đó rồi dán đằng sau lưng.

Phải bất ngờ như rứa nó mới không biết được, còn không nó chặn dưới ni chứ mần chi lên được mãi trên nớ.

Rồi bắt đầu là đi ngược lên, ngược lên lại đi xuống, cứ đi rứa không nói chi hết. Đến nơi văn phòng thủ tướng chính phủ là bắt đầu xin vào nộp đơn. Bận đầu thì mới có mười người là ào vô được đến cổng thôi, sau là hắn điện đến từng bầy từng bầy, rứa là họ nhiều người hơn mình.

Đến 11 giờ sáng, nhà báo tự do Dương Thị Xuân, cũng có mặt tại chỗ, báo cho biết :

Công an đưa hết bà con trong Vinh ra Hà Nội, đưa  lên ô tô, mà theo như họ nói với lái xe là chở về trụ sở tiếp dân số 1 Ngô Thời Nhậm Hà Đông. Chẳng qua là họ muốn giải tỏa số người dân ngồi tập trung ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội thôi, để tránh bị phê bình coi như là đã cho dân tập trung đông người trước trụ sở văn phòng chính phủ.

Bị tống lên xe bus

Trên chuyến xe chạy đến số 1 Ngô Thời Nhậm, Hà Đông, bà Nguyễn Thị Nhi bảo công an nói với mọi người là:

Đưa về nơi tiếp đón công dân để nhận đơn, đưa về nơi nhận đơn có qui định. Mình không lên nhưng mà người ta cưỡng chế người ta đưa lên. Giờ đang trên con đường về nơi tiếp công dân có qui định, chắc sắp đến rồi.

Sau đó, từ trụ sở tiếp dân số 1 Ngô Thời Nhậm, Hà Đông, ông Chu Văn Nghiêm trình bày tiếp vụ việc:

Bố của Chu Mạnh Sơn đây, bà của cháu Dương với lại mấy ông già già là thoát được. Bởi vì khi nớ là công an cảnh sát tới là cứ hốt lên xe. Công an nhiều quá nó vây mãi mà họ nhiều hơn mình, bốn năm anh rinh một anh, bắt là 20 người, còn cảnh sát với cơ động là cỡ khoảng hơn 100 người, loạn chỗ chính phủ cả ô tô còn không đi được cơ mà. Xe họ chở đi thì chỉ một xe to thôi, đương còn chờ coi thử chiều họ giải quyết như thế nào, giờ chừ trưa rồi họ đương còn nghỉ.

Đến 3 giờ 24 phút chiều, đường dây được nối về số Một Ngô Thời Nhậm, ông Trần Hữu Trường là ba của sinh viên Trần Hữu Đức báo cho biết:

Lúc đầu họ quay phim chụp ảnh rồi tỏ ra thái độ nạt dân, nói là phải quay về Bộ Công An đòi giấy xác nhận là ai giới thiệu lên đây, rồi là ai bắt, bắt ai. Bà con phản đối kích liệt rồi là họ mời ba người lên phòng họp để làm việc, còn mọi người ở ngoài chờ chưa có kết quả.

Đến hơn 4giờ chiều, một trong ba người được mời vào làm việc ở số 1 Ngô Thời Nhậm, ông Đỗ Văn Phẩm, cậu của blogger Lê Văn Sơn, loan báo:

Làm việc xong là lúc hơn 4 giờ, người ta giải thích về làm lại đơn rồi gởi bưu điện. Giờ lại phải về quê để làm lại mỗi gia đình mỗi lá đơn riêng thì người ta mới giải quyết được chứ tập trung đông như thế này, người bắt hôm nay người bắt hôm khác thì biết làm sao mà giải quyết được. Quốc hội nói vậy, trung ương đảng nói vậy. Giờ đang bắt xe buýt về Hà Nội.

Tưởng cần nhắc, trong  năm 2011, 17 thanh niên Công Giáo và Tin Lành đã bị bắt giữ một cách đột ngột, có thể nói là như bị bắt cóc mà không hề có trát tòa.

Các thanh niên, sinh viên Công Giáo trong chiến dịch bắt giữ này thuộc hai giáo phận Vinh và Thanh Hóa, một vài người bị bắt tại Vinh, một số khác bị bắt tại Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội.

Hôm 24 tháng Năm 2012, tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đưa ra xét xử bốn thanh niên Công Giáo Đậu Văn Dương, Trần Hữu Đúc, Chu Mạnh Sơn, Hoàng Phong, tội tuyên truyền chống pha nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vi phạm điều 88 Bộ Luật Hình Sự. Đây là phiên xử đầu tiên nhưng gia đình bốn người đều không được mời tham dự.

Kết quả anh Đậu Văn Dương bị tuyên phạt 42 tháng tù giam, 18 tháng  quản chế. Trần Hữu Đức 39 tháng tù giam một năm quản chế, Chu Mạnh Sơn 36 tháng tù giam một năm quản chế, Hoàng Phong 24 tháng tù treo.

Ngày 12 tháng Ba 2012,  chín tổ chức phi chính phủ, trong đó có tổ chức Media Defense –South East Asia, đồng ký tên vào lá thư gởi cho thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng, yêu cầu trả tự do ngay và hủy bỏ những cáo buộc đối với năm người trong số bị bắt là các anh Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh và Paulus Lê Sơn.

         

Tòa Tổng Giám Mục Aleppo bên Syria bị cướp phá

Tòa Tổng Giám Mục Aleppo bên Syria bị cướp phá

ALEPPO. Tòa TGM giáo phận Aleppo của Giáo Hội Công Giáo Melkite ở miền bắc Syria đã bị những cướp phá.

Hãng tin Fides của Bộ truyền giáo truyền đi hôm 27 tháng 8-2012 cho biết Đức TGM Jean Clément Jeanbart và vài linh mục đã rời tòa TGM và tị nạn tại tu viện của dòng Phanxicô ở thành Aleppo, để tránh các cuộc giao tranh. Vụ này đã xảy ra hôm thứ năm 23 tháng 8-2012 và hiện nay Đức TGM đang ở Liban và chuẩn bị đi Pháp.

Hãng Fides trích thuật nguồn tin ở địa phương cho biết thủ phạm vụ tấn công là những nhóm chưa được xác định, họ muốn khơi lên một cuộc chiến tranh tôn giáo và kéo dân Syria vào cuộc xung đột hiện nay.

Trong những tháng qua, tòa GM của Giáo Hội Công Giáo Maronit cũng đã bị hư hại vì cuộc chiến giữa quân đội chính phủ và phiến quân.

Theo tin của các cha dòng Phanxicô và của Cha George Abu Khazen, Quyền Đại diện Tông Tòa Công Giáo la tinh ở Aleppo, hồi cuối tuần qua, một đại diện của Đức TGM Jeanbart đã ghé qua tòa TGM và thấy các cửa bị phá toang và thiếu nhiều vật dụng như các máy vi tính. Cả bảo tàng viện Bizantine tên là ”Maarrat Nahman” cũng bị đột nhập và nhiều đồ vật triển lãm cũng với các ảnh đạo vẽ trên gỗ bị hư hại.

Aleppo là thủ đô kinh tế của Siria. Tổng giáo phận Công Giáo Melkite tại đây có 18 ngàn tín hữu.

Hãng tin Fides trích thuật nguồn tin ở Aleppo cho biết do sự can thiệp của các nhóm Hồi giáo thánh chiến ở Syria, người ta thấy có một toan tính xách động oán thù và xung đột phe phái tại đây. Người ta cũng ghi nhận sự hiện diện ngày càng gia tăng của các dân quân Hồi giáo Wahabite và Salafite đến từ Tchétchénie, Pakistan, Liban, Afganistan, Tunisie, Arập Sauđi và Libia. Các nhóm này chỉ theo đuổi mục tiêu là tạo nên sự hỗn độn, tàn phá, những hành vi tàn ác và làm tê liệt đời sống xã hội. Các thường dân Siria là nạn nhân, nhưng họ không để mình rơi vào những cạm bẫy ấy. (KNA 27-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino (3/3)

Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino (3/3)

Phỏng vấn giáo sư Bruno Barberis

Vào hạ tuần tháng 5 năm nay giáo sư Bruno Barberis, chuyên viên nghiên cứu Tấm khăn liệm thành Torino, đã thuyết trình các bài cuối cùng trong chương trình khóa học lấy bằng chuyên môn về khoa nghiên cứu Tấm Khăn Liệm, do đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ ở Roma tổ chức.

Giáo sư Barberis đã bắt đầu nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino năm 1975, và từ năm 1977 giáo sư là thành viên ”Huynh đoàn Tấm Khăn Liệm Rất Thánh thành Torino” và của ”Trung tâm quốc tế Khoa Tấm Khăn Liệm học”, là cơ quan tổ chức các cuộc nghiên cứu và tìm hiểu Tấm Khăm Liệm. Giáo sư là tác giả của hơn 20 cuốn sách và hơn 150 bài viết về Tấm Khăn Liệm trên bình diện khoa hoc cũng như trên bình diện phổ biến kiến thức đại đồng. Các bài nghiên cứu này được đăng trên các tạp chí khoa học và nhật báo Italia và quốc tế. Giáo sư cũng đã chủ tọa 2.000 buổi diễn thuyết về Tấm Khăn Liệm tại Itaia cũng như tại hải ngoại.

Tấm Khăn Liệm thành Torino dài 4 mét 41, rộng 1 mét 13, dầy khoảng 34 milimét, và nặng khoảng 2 kí 450 gram, được khâu trên một tấm khăn đệm khác. Năm 1898 Tấm Khăn Liệm được chụp hình lần đầu tiên, và trên bản âm người ta nhận ra hình một người đàn ông cao lớn, có râu tóc dài, mang các dấu vết của các ngược đãi và tra tấn, phù hợp với các trình thuật cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu thành Nagiarét. Đầu tóc râu trán và mặt bê bết máu, sống nũi bị đánh gẫy, tay chân bị đóng đanh, vết đinh đóng trên cổ tay phải và trên chân rất rõ. Toàn thân mình chằng chịt các vết roi đánh. Truyền thống kitô coi đó là tấm khăn đã được dùng liệm xác Đức Giêsu chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh.

Từ ”Sindone” phát xuất từ tiếng Hy Lạp ”sindon” là vải gai tốt. Nhưng từ này đã trở thành đồng nghĩa với khăn liệm xác Đức Giêsu. Tấm Khăn Liện đã được trưng bầy cho tín hữu kính viếng trong các năm 1978, 1998, 2000 và 2010 từ ngày 10 tháng 4 cho tới 23 tháng 5.

Lịch sử các Giáo Hội Đông Phương có nhắc tới tấm khăn ”Mandylion” có hình của Chúa Cứu Thế, hay ”Hình của tỉnh Edessa” vì ít nhất từ năm 544 nó được giữ tại Edessa, ngày nay là thành phố Urfa bên Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng vào năm 994 khi người Hồi đánh chiếm Edessa, các kitô hữu Bisantin chuyển tấm khăn có hình mặt Chúa Giêsu về Constantinopoli, và tấm khăn được giữ tại đây cho tới năm 1204, khi thàmh phố này bị Thập tự quân cướp phá và lấy đi rất nhiều thánh tích. Từ đó Tấm khăn Mandylion mất dấu vết.

Tài liệu lịch sử thuộc thế kỷ thứ X, do “Gregorio tổng Phó tế và là tường trình viên của Giáo Hội Constantinopoli” viết, kể lại biến cố tấm khăn Mandylion được mang tới Constantinopoli năm 944. Trong đó có nói tới ”các giọt máu rỉ ra từ cạnh sườn Chúa” (Cod. Vat. Gr. 511. fogli 143-150 v). Như thế, trên tấm khăn Mandylion không chỉ có hình mặt Chúa, mà còn có hình của toàn thân thể với vết máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu nữa.

Tài liệu thứ hai cũng thuộc thế kỷ thứ X thuộc Codex Vossianus latinus (Q 69) hiện được giữ trong thư viện của đại học Rijksunivedriteit tỉnh Leiden bên Hòa Lan, kể lại câu chuyện thuộc thế kỷ thứ VIII, phát xuất từ truyền thống Siriac, được địch ra tiếng Latinh bởi Ngự y trưởng thành Smirna, nói rõ rằng tấm khăn Mandylion không chỉ có hình mặt, mà có hình của toàn thân mình Chúa Kitô nữa. Các nguồn tại liêu cổ xưa nói tới tấm khăn ”tetradyplon” là gấp 4 hai lần, tức 8 lần, chỉ để cho thấy Mặt của Chúa Kitô mà thôi. Nhiều học giả cho rằng đó chính là Tấm Khăn Liệm Thánh thành Torino.

Vào thế kỷ thứ XIV không biết từ đâu Tấm Khăm Liệm lọt vào tay Hiệp Sĩ Geoffroy de Charny (1305-1356) và vợ là Jeanne de Vergy. Ngày 20 tháng 6 năm 1353 ông tặng Tấm Khăn Liệm cho các Kinh sĩ Lirey, và Tấm Khăn Liệm được trưng bầy lần đầu tiên năm 1357. Năm 1415 Marguerite de Charny, con cháu của Hiệp Sĩ Geoffroy đòi lại Tấm Khăn Liệm, rồi năm 1453 bán hay nhường cho các Quận Công nhà Savoia. Từ đó Tấm Khăn Liệm được giữ tại Chambéry. Ngày 4-12-1532 nhà nguyện thánh của Tấm Khăm Liệm Thánh bị cháy, khiến cho Tấm Khăn Liệm bị hư hại nhiều chỗ, vì lửa cháy nóng khiến cho chì của hòm đựng nhỏ xuống Khăn Thánh. Năm 1578 Tấm Khăn Liệm được mang về Torino, bắc Italia, theo lời yêu cầu của thánh Carlo Borromeo Tổng Giám Mục Milano, và được cất giữ ở đây từ đó đến nay. Vua Umberto II nhà Savoia trối lại gia tài cho Tòa Thánh Vaticăng, và Tòa Thánh giao cho Tổng Giám Mục Torino việc coi giữ Tấm Khăn Liệm Thánh.

Trong qúa khứ Giáo Hội công giáo đã không coi đó là tấm khăn thật liệm xác Chúa Giêsu. Năm 1389 Giám Mục thành Troyes gửi thư cho Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng tấm khăn chỉ coi là ”một bức vẽ rất tài tình, do tay người làm ra chứ không phải do phép lạ”. Năm 1390 Đức Giáo Hoàng Clemente VII công bố 4 tự sắc cho phép trưng bầy nhưng phải nói lớn tiếng rằng nó ”không phải là tấm khăn liệm thật của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”. Năm 1506 Đức Giáo Hoàng Julio II cho phép công khai sùng kính Tấm Khăn Liệm với lễ và kinh thần vụ riêng. Ngày nay, tuy Giáo Hội không lên tiếng về vấn đề này, và để cho các nhà khoa học nhiệm vụ tìm hiểu các bằng chứng phò hay chống, nhưng cho phép sùng kính hình cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Nhiều Giáo Hoàng từ Đức Pio XI đến Đức Gioan Phaolô II đã bầy tỏ xác tín riêng về tính cách đích thực của Tấm Khăn Liệm Thánh.

Năm 2005 một nhóm 24 nhà nghiên cứu đã ký chung một tài liêu cung cấp nhiều tin tức và khẳng định rằng đã không có thí nghiệm nào thành công trong việc tái tạo lại tất cả các đặc thái của Tấm Khăn Liệm thành Torino.

Trong hai buổi phát lần trước chúng tôi đã gửi tới qúy vị và các bạn phần đầu và phần hai bài phỏng vấn, hôm nay xin gửi phần ba cuộc phỏng vấn giáo sư Barberis dành cho hãng thông tấn ZENIT ngày 8 tháng 6 năm nay.

Hỏi: Thưa giáo sư Barberis, hai kiểu tìm hiểu hình người in trên Tấm Khăn Lim thành Torino như giáo sư đã trình bầy có thực sự đối kháng với nhau đến như vậy không?

Đáp: Riêng cá nhân tôi, thì tôi cho rằng hai kiểu tìm hiểu Tấm Khăn Liệm không chỉ có thể hòa hợp với nhau, mà còn bổ túc cho nhau nữa. Chúng làm thành hai phần không thể thiếu của một sự trình bầy Tấm Khăn Liệm một cách đúng đắn, hữu hiệu và đầy đủ. Chúng rất có thể hiện hữu cùng nhau, miễn là tôn trọng các tầng lớp chuyên môn khác nhau, không tìm mọi cách trộn lẫn chúng và gò ép các kết luận mà không tôn trọng tính cách chuyên biệt của chúng. Về điểm này, để khỏi gây ra các hiểu lầm, cần phải nhắc nhớ rằng đức tin kitô không dựa trên và sẽ không bao giờ dựa trên Tấm Khăn Liệm. Có nhiều lần tôi đã bi các nhà báo và các phóng viên hỏi rằng đức tin của tôi sẽ ra sao, nếu người ta chứng minh được rằng Tấm Khăn Liệm thành Torino không phải là tấm khăm thật đã liệm xác Chúa Giêsu. Dĩ nhiên là tôi đã trả lời rằng sẽ không có gì thay đổi cả. Đức tin kitô dựa trên nhiều giả thiết khác, mà Tấm Khăm Liệm có thể là một yểm trợ có giá trị, nếu được coi như là một dụng cụ qúy báu, qua thứ ngôn ngữ của hình ảnh, nó góp phần vào việc suy tư về một điều nòng cốt quan trọng của đức tin: đó là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đối với tất cả những ai đứng trước Tấm Khăm Liệm mà không có các ý niệm chế sẵn trước, và không có các thành kiến, thì việc trình bày đúng đắn cống hiến khả thể bước đi trên một lộ trình suy tư, giúp khám phá ra mầu nhiệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, được kể lại trong hình thái văn chương bởi các tác giả Phúc Âm. Lộ trình ấy cần được nâng đỡ bởi các xác nhận và các khám phá đến từ các cuộc nghiên cứu khoa học các dấu vết trên Tấm Khăn Liệm, cũng như từ suy tư cho phép đi xa hơn hình ảnh để tiếp nhận được sứ điệp cứu rỗi và ơn cứu độ, mà sự khổ đau của Chúa Kitô trao ban cho chúng ta trên con đường khổ nạn dài và đau đớn của Người. Vì thế Tấm Khăn Liệm tuyệt đối cần được nghiên cứu và hiểu biết theo cả hai kiểu tìm hiểu: kiểu tìm hiểu của khoa học và kiểu tìm hiểu của đức tin. Nếu không, sẽ không thể nào tiếp nhận và đào sâu được sứ điệp sâu xa của nó một cách tràn đầy.

Hỏi: Thưa giáo sư, vậy Tấm Khăn Liệm có thể là đi tượng của cuộc đối thoại đa tôn giáo hay không?

Đáp: Câu trả lời của tôi chắc chắn là có rồi. Không ai được ngạc nhiên trước sự kiện đề tài Tấm Khăn Liệm không chỉ lôi cuốn sự chú ý của các tín hữu thuộc nhiều Giáo Hội Kitô, mà nó cũng lôi cuốn người của các tôn giáo khác và cả những người tuyên bố mình là vô thần nữa. Lịch sử của cả các lần trưng bầy cuối cùng đầy các chứng từ chứng minh cho điều đó. Trong lần trưng bầy Tấm Khăn Liệm hồi năm 2010 tôi đã có dịp thảo luận lâu và một cách rất xây dựng với một nhóm tín hữu Hồi đến Torino để viếng Tấm Khăm Liệm. Đây đã là một kỷ niện không thể nào quên được. Cũng thế, các buổi thuyết trình của tôi tại Đan Mạch và Phần Lan hồi năm 1998 cho phép tôi có dịp đối thoại với các tín hữu Luther rất chú ý tới Tấm Khăn Liệm và sứ điệp của nó; hay các buổi thuyết trình tại Nam Hàn hồi năm 1999 cũng thế. Các kinh nghiệm này đã xác nhận một xác tín mà tôi có trong tim từ lâu. Nó nảy sinh từ nhiều sự kiện và các cuộc gặp gỡ mà người khác đã sống và kể lại cho tôi nghe. Xác tín rằng sứ điệp mà hình người trên Tấm Khăn Liệm chuyển tới thật sự đại đồng, và nó nói với tất cả mọi người nam nữ thuôc mọi chủng tộc và tôn giáo. Tôi không nghi ngờ sự kiện mỗi một tín hữu hành hương đi qua trước Tấm Khăm Liệm Thánh đều trở về nhà, được phong phú và trưởng thành hơn trên bình diên tinh thần, và sẽ khó mà quên đựơc hình ảnh của Tấm Khăn Liệm, một hình ảnh gây âu lo và nói một cách hùng hồn với con người của mọi thời đại, của mọi nền văn hóa, của mọi tôn giáo và chủng tộc. Đó là lý do tại sao tôi hoàn toàn đồng ý với bà Mechthild Flury Lemberg, tín hữu Luther người Thụy Sĩ, chuyên viên về các loại vải cổ xưa. Hồi năm 2002 bà là người đã khâu Tấm Khăn Liệm trên một lớp khăn đệm mới. Và trong một cuộc phỏng vấn bà đã định nghĩa Tấm Khăn Liệm ”là một dụng cụ qúy báu có thể tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại đại kết”. Tấm Khăn Liệm có đó, ở trước mặt tất cả mọi người không trừ ai. Chúng ta có bổn phận không phung phí sứ điệp rất qúy báu của nó, bằng cách tận tâm làm sao để cho tất cả mọi người đều có thể trông thấy và hiểu biết nó một cách tường tận.

Hỏi: Tấm Khăn Lim đã đơc các Giáo Hoàng đnh nghĩa như là ”sự khiêu khích trí thông minh”, ”tấm gương của Phúc âm”, ”hình ảnh của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh”. Giáo sư, thì giáo sư định nghĩa Tấm Khăn Liệm là gì?

Đáp: Một trong các đặc tính chuyên biệt của Tấm Khăn Liệm là đã đựợc định nghĩa bởi hằng chục kiểu khác nhau. Đó là dấu chỉ của các khía cạnh đa diện qua đó có thể đọc bức hình duy nhất và không thể lập lại được này. Không có một định nghĩa ý nghĩa hơn các định nghĩa khác, bởi vì tất cả mọi định nghĩa đều góp phần định nghĩa một khía cạnh nền tảng. Trong biết bao nhiệu định nghĩa, định nghĩa mà tôi thích nhớ lại nhất là định nghĩa Tấm Khăn Liệm như là ”một hính ảnh không thể giải thích được”, vì nó nêu bật một sự kiện thực sự gây kinh ngạc: đó là tất cả các lý thuyết được đề nghị cho tới nay để thử giải thích kiểu tạo thành hình trên Tấm Khăn Liệm, dù tự chúng có hay mấy đi nữa, nhưng kết qủa đều luôn luôn thiếu sót, bởi vì chúng đã được kèm theo bởi các kiểm soát thực nghiệm minh nhiên trên các hình ảnh có được các đặc thái vật lý hóa học rất khác với các đặc thái có được từ Tấm Khăm Liệm. Vì thế tiến trình tạo thành hình trên Tấm Khăn Liệm vẫn chưa được biết tới, và để đạt tới việc nhận ra nó cần phải có các nghiên cứu trên bình diện lý thuyết cũng như trên bình diện thử nghiệm.

(ZENIT 10-6-2012) (3/3)

Linh Tiến Khải