Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.

Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.

Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.

Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.

Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Gợi Ý Chia Sẻ

Con người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?

Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.

Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các giáo lý viên tái khởi hành từ Chúa Kitô, sống như giáo lý viên, để dẫn đưa tha nhân về với Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài huấn dụ khi gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên từ các nước trên thế giới tham dự Đại hội quốc tế về giáo lý do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức tại Vatican từ 26 đến 28-9 nhân dịp Năm Đức Tin.

Tham dự Hội nghị cũng có hơn 30 GM Chủ tịch các Ủy ban huấn giáo của các HĐGM trên thế giới, các vị giám đốc các văn phòng huấn giáo toàn quốc và giáo phận.

ĐTC đã đến Đại thính đường Phaolô 6 lúc 5 giờ chiều ngày 27-9-2013 và đã được mọi người tiếp đón nồng nhiệt. Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, ĐTC đề cao tầm quan trọng của các giáo lý viên và cám ơn họ vì sự phục vụ cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. ĐTC nói:

”Các giáo lý viên thân mến,

”Tôi vui mừng vì trong Năm Đức Tin, có cuộc gặp gỡ này dành cho anh chị em: huấn giáo là một cột trụ để giáo dục đức tin và cần có những giáo lý viên tốt! Cám ơn anh chị em vì việc phục vụ dành cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Tuy rằng nhiều khi việc phục vụ này thật là khó khăn, ta làm việc rất nhiều, dấn thân tận tình nhưng không thấy kết quả mong muốn; giáo dục về đức tin thật là điều tốt đẹp! Giúp các trẻ em, thiếu niên, người trẻ, người lớn ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, đó thực là một cuộc phiêu liêu giáo dục đẹp đẽ nhất, ta xây dựng Giáo Hội qua việc làm đó! Sống như giáo lý viên! ('Essere' catechisti!) Xin anh chị em chú ý, tôi không nói ”làm” giáo lý viên, nhưng là ”sống như giáo lý viên” vì đây là điều bao gồm cuộc sống. Ta hướng dẫn tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu bằng lời nói và bằng cuộc sống, bằng chứng tá. Và ”sống như giáo lý viên” đòi phải có lòng yêu mến ngày càng nồng nhiệt hơn đối với Chúa Kitô, yêu mến Dân thánh của Chúa. Và tình yêu này nhất thiết phải khởi hành từ Chúa Kitô.

Tái khởi hành từ Chúa Kitô như thế có nghĩa là gì đối với một giáo lý viên, đối với anh chị em, đối với tôi, vì tôi cũng là một giáo lý viên!

1. Trước tiên tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là ”sống thân mật với Chúa”. Chúa Giêsu nồng nhiệt khuyến khích các môn đệ của Ngài về điều này trong Bữa Tiệc Ly, khi Ngài bắt đầu sống sự dâng hiến cao cả nhất của tình yêu, hy tế Thập Giá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và các cành, và Ngài nói: các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, hãy gắn bó với thầy, như ngành nho gắn liền với thân cây nho. Nếu chúng ta kết hiệp với Chúa, chúng ta có thể sinh hoa trái, và đây chính là cuộc sống thân mật với Chúa Kitô.

Đối với một môn đệ, điều đầu tiên là ở với Thầy Chí Thánh, lắng nghe, học hỏi với Chúa. Và điều này luôn luôn có giá trị, là một hành trình kéo dài trọn cuộc sống! Ví dụ, đối với tôi, điều rất quan trọng là ở lại trước Nhà Tạm; ở trước mặt Chúa, để cho Chúa nhìn ngắm. Điều này sưởi ấm tâm hồn, giữ cho ngọn lửa tình bạn được luôn nồng cháy, làm cho ta cảm thấy thực sự được Chúa nhìn đến, gần gũi và yêu thương. Tôi hiểu rằng đối với anh chị em sự việc không đơn giản như vậy, nhất là đối với những người có gia đình và con cái, thật là khó tìm được thời giờ yên hàn lâu dài. Nhưng cám ơn Chúa, không phải tất cả mọi người đều phải làm như nhau, trong Giáo Hội có nhiều ơn gọi và hình thái thiêng liêng khác nhau; điều quan trọng là tìm được cách thức thích hợp để ở với Chúa; và mỗi người, trong bậc sống của mình có thể thực hiện được điều đó. Trong lúc này đây mỗi người có thể tự hỏi: làm thế nào tôi có thể ”ở với Chúa Giêsu?” Tôi có những lúc ở lại trước sự hiện diện của Chúa, trong thinh lặng, để cho Chúa nhìn tôi hay không? Tôi có để cho ngọn lửa tái sưởi ấm tâm hồn tôi hay không? Nếu trong tâm hồn tôi không có sức nóng của Thiên Chúa, của tình yêu Chúa, sự dịu dàng của Ngài, làm sao chúng ta là những người tội lỗi nghèo hèn có thể sưởi ấm tâm hồn người khác?

2. Yếu tố thứ hai: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là noi gương Chúa ra khỏi bản thân mình và đi gặp gỡ tha nhân. Đây là một kinh nghiệm đẹp, và hơi nghịch lý. Tại sao? Tại vì ai đặt Chúa Kitô ở trung tâm cuộc sống của mình, thì cũng tản ra ngoài! Hễ bạn càng kết hiệp với Chúa Giêsu, thì Chúa càng trở nên trung tâm cuộc sống của bạn, và Chúa càng làm cho bạn ra khỏi chính mình, làm cho bạn không co cụm vào mình, nhưng cởi mở đối với người khác. Đó thực là một năng động thực sự của tình yêu, là sự chuyển động của chính Thiên Chúa! Thiên Chúa là trung tâm, nhưng Ngài luôn luôn là sự hiến thân, là tương quan, là sự sống thông ban.. Cả chúng ta cũng trở nên như vậy, cả chúng ta cũng kết hiệp với Chúa Kitô, Ngài làm cho chúng ta đi vào năng động như thế của tình yêu. Nơi nào có sự sống đích thực trong Chúa Kitô, thì có sự cởi mở đối với tha nhân, có sự ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ tha nhân nhân danh Chúa Kitô.

Tâm hồn của giáo lý viên luôn sống sự chuyển động ”sistole – diastole”, bóp vào – dãn ra: kết hiệp với Chúa Giêsu – gặp gỡ tha nhân. Nếu một trong hai chuyển động này thiếu thì con tim ngừng đập và ta không còn sống nữa. Lãnh nhận hồng ân Tin Vui (kerigma), và trao ban hồng ân ấy. Đó là điều ở trong chính bản chất của kerygma: đó là một hồng ân tạo ra sứ mạng, luôn thúc đẩy đi xa hơn bản thân. Thánh Phaolô đã nói: ”Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta”, nhưng ”sự thúc đẩy chúng ta” cũng có thể được dịch là ”sự chiếm hữu chúng ta”. Và thế là: tình yêu lôi kéo bạn và sai bạn đi, chiếm lấy bạn và trao bạn cho tha nhân. Trong động thái ấy, con tim của Kitô hữu cử động, đặc biệt là con tim của giáo lý viên. Tất cả chúng ta hãy tự hỏi: phải chăng con tim giáo lý viên của tôi cũng đập như thế: kết hiệp với Chúa Giêsu và gặp gỡ tha nhân? Nó được nuôi dưỡng trong tương quan với Chúa, nhưng có phải để dẫn tương quan ấy tới tha nhân hay không? Tôi nói với anh chị em một điều: tôi không hiểu làm sao một giáo lý viên có thể đứng im, không có sự chuyển động như thế.

3. Và yếu tố thứ ba vẫn luôn ở trong đường hướng ấy: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là không sợ ra đi với Chúa tới các khu ngoại ô. Ở đây tôi nghĩ đến chuyện ông Giona, một nhân vật thật là hay, nhất là trong thời đại chúng ta có những thay đổi và bất định. Giona là một người đạo đức, có đời sống yên hàn, ổn định, và điều này khiến ông có những khuôn mẫu rõ ràng và phán đoán mọi sự, mọi người theo những khuôn mẫu ấy một cách cứng nhắc. Vì thế khi Chúa gọi ông và bảo ông đi giảng ở thành Nivive, là thành phố lớn của dân ngoại, Giona không đồng ý. Thành Nivive vượt ra ngoài những khuôn mẫu của ông, ở ngoại ô thế giới của ông. Và thế là ông trốn chạy. Ông xuống tàu để đi xa. Anh chị em hãy đọc lại sách Giona! Sách này ngắn nhưng là một dụ ngôn có ý nghĩa rất xúc tích, nhất là đối với chúng ta là những người ở trong Giáo Hội. Sách này dạy chúng ta điều gì? Sách dạy chúng ta đừng sợ ra khỏi những khuôn mẫu của mình để theo Chúa, vì Chúa luôn đi ra ngoài, Thiên Chúa không sợ những vùng ngoại biên. Thiên Chúa luôn trung tín, có tinh thần sáng tạo, không khép kín, và vì thế Ngài không bao giờ cứng nhắc, Ngài tiếp đón, gặp gỡ, cảm thông chúng ta. Để trung tín, để có tinh thần sáng tạo, cần biết thay đổi. Để ở lại với Thiên Chúa cần biết ra ngoài, không sợ ra ngoài. Nếu một giáo lý viên để cho sự sợ hãi chiếm đoạt, thì họ là một người nhát sợ; nếu một giáo lý viên ở yên hàn, thì rốt cục sẽ trở thành một pho tượng trong viện bảo tàng; nếu một giáo lý viên cứng nhắc thì họ trở nhăn nheo và không mang lại lợi ích nào. Tôi hỏi anh chị em: có ai trong anh chị em muốn trở thành nhát sợ, một tượng trong viện bảo tàng hoặc son sẻ hay không?
Nhưng cần lưu ý! Chúa Giêsu không nói: hãy đi và tự xoay sở lấy! Không, Chúa nói: Các con hãy đi, Thầy ở với các con! Đây là vẻ đẹp và là sức mạnh của chúng ta; nếu chúng ta đi, nếu chúng ta ra ngoài để mang Tin Mừng của Chúa với tình yêu thương, với tinh thần tông đồ đích thực, với parresia (nói thẳng thắn), thì Chúa đồng hành với chúng ta, Ngài luôn đi trước chúng ta.

Nay anh chị em đã học ý nghĩa của lời ấy. Đây là điều cơ bản đối với chúng ta: Thiên Chúa luôn đi trước chúng ta! Khi chúng ta nghĩ mình đi xa, tới tận bờ cõi xa xăm, có lẽ chúng ta hơi sợ hãi, nhưng tron gthực tế Chúa đã có mặt tại đó: Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong tâm hồn người anh em, trong thân thể Ngài bị thương tích, trong cuộc sống bị áp bức, trong tâm hồn không có niềm tin. Chúa Giêsu có mặt tại đó, trong người anh em ấy. Ngài luôn đi trước chúng ta.

Các giáo lý viên thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đang làm, nhưng nhất là vì anh chị em ở trong Giáo Hội, trong Dân Chúa đang lữ hành. Chúng ta hãy ở lại với Chúa Kitô, cố gắng ngày càng trở nên một với Chúa; chúng ta hãy theo Chúa, noi gương Chúa trong chuyển động yêu thương của Ngài, trong việc ra đi gặp gỡ con người; và chún gta ra ngoài, mở cửa, chúng ta bạo dạn vạch ra những con đường mới để loan báo Tin Mừng.
Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Mẹ Maria tháp tùng anh chị em.

G. Trần Đức Anh chuyển ý O.P – Vatican Radio

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi cộng đồng quốc tế cộng tác với nhau để cải tiến tình trạng người di dân ngày càng gia tăng trên thế giới. Ngài cũng mời gọi các cơ quan truyền thông góp phần bài trừ những thành kiến khiến do người di dân không được tiếp đón tại các nước họ nhập cư.

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 24-9-2013 nhân ngày di dân và tị nạn sẽ được cử hành vào ngày 19-1-2014, với chủ đề: ”Người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”. Sau đây là toàn văn sứ điệp của ĐTC.

”Anh chị em thân mến, các xã hội chúng ta đang cảm nghiệm những tiến trình lệ thuộc lẫn nhau và ảnh hưởng trên nhau trên bình diện hoàn vũ chưa từng có trước đây trong lịch sử. Những tiến trình này tuy có những yếu tố gây khó khăn hoặc tiêu cực, nhưng chúng có mục đích cải tiến những điều kiện sống của gia đình nhân loại, không những về mặt kinh tế, nhưng cả trong những khía cạnh chính trị và văn hóa nữa. Vả lại, mỗi người là thành phần của nhân loại và, cùng với toàn thể gia đình các dân nước, cùng hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Nhận xét này gợi hứng cho đề tài mà tôi đã chọn cho Ngày Thế giới về di dân và tị nạn năm nay, đó là “Những người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”.

”Trong thế giới đang biến chuyển ngày nay, hiện tượng con người ngày càng lưu động trở nên như ”một dấu chỉ thời đại”, theo định nghĩa của ĐGH Biển Đức 16 (Xc Sứ điệp Ngày Thế giới di dân và tị nạn 2006). Thực vậy, một đàng những cuộc di cư thường cho thấy những thiếu sót từ phía các quốc gia và cộng đồng quốc tế, nhưng đàng khác chúng cũng bộc lộ khát vọng của nhân loại mong sống hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt, sự đón tiếp và lòng hiếu khách giúp phân chia đồng đều các tài nguyên của trái đất, bảo vệ và thăng tiến phẩm giá cũng như thế đứng trung tâm của mỗi người”.

Về phương diện Kitô, cả trong việc di cư, cũng như trong các thực tại khác của con người, người ta thấy có sự căng thẳng giữa một bên là vẻ đẹp của công trình sáng tạo, mang dấu vết của ơn thánh và công trình cứu chuộc, và bên kia là mầu nhiệm tội lỗi. Đối nghịch với tình liên đới và sự tiếp đón, những cử chỉ huynh đệ và cảm thông, có sự từ khước, kỳ thị, nạn khai thác bóc lột, đau khổ và chết chóc. Đáng lo hơn cả là những tình trạng trong đó việc di cư không những do sự cưỡng bách, nhưng còn được thực hiện qua nhiều thể thác khác nhau của nạn buôn người và biến thành nô lệ. Nạn lao động như nô lệ là điều thường thấy ngày nay! Tuy có những vấn đề, những rủi ro và khó khăn phải đương đầu, điều làm cho người di dân và tị nạn phấn khởi là niềm tín thác và hy vọng; họ mang trong tâm hồn mong ước một tương lai tốt đẹp hơn không những cho bản thân, nhưng còn cho gia đình và những người thân yêu của họ nữa.

”Việc kiến tạo một ”thế giới tốt đẹp hơn” bao hàm điều gì? Thành ngữ ”một thế giới tốt đẹp hơn” không ám chỉ một cách thơ ngây tới những ý niệm trừu tượng hoặc những thực tại không thể đạt tới được, nhưng đúng hơn nó hướng về sự tìm kiếm một sự phát triển đích thực và toàn diện, hoạt động để có những điều kiện sống xứng đáng cho tất cả mọi người, để họ tìm được những câu trả lời đúng đắn cho những đòi hỏi của các cá nhân và gia đình, để công trình tạo dựng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được tôn trọng, gìn giữ và vun trồng. Đấng Đáng Kính Phaolô 6 đã mô tả những khát vọng của con người ngày nay như sau: ”Được giải thoát khỏi lầm than, bảo đảm cuộc sống của mình một cách chắc chắn nhất, được sức khỏe, công ăn việc làm vững chắc; được tham gia đầy đủ nhất vào các trách nhệm, không bị áp bức nào, tránh được những tình trạng làm thương tổn phẩm giá con người; được hưởng một nền giáo dục đầy đủ hơn; tóm một lời là muốn được hiểu biết và sở hữu nhiều hơn, để sống trọn vẹn hơn” (Thông điệp Phát triển các dân tộc, 23-6-1967, 6).

”Con tim chúng ta mong ước được ”tốt đẹp hơn nữa”, điều này không phải chỉ là được một kiến thức hoặc được sở hữu nhiều hơn, nhưng nhất là được sống sung mãn hơn. Ta không thể thu hẹp sự phát triển vào sự tăng trưởng kinh tế mà người ta thường theo đuổi mà không để ý gì đến những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Thế giới chỉ có thể được cải tiến tốt đẹp hơn nếu người ta quan tâm trước tiên tới con người, nếu sự thăng tiến con người có tính chất toàn diện, trong mọi chiều kích, kể cả chiều kích tinh thần; nếu không ai nào bị lơ là, kể cả những người nghèo, các bệnh nhân, tù nhân, những người túng thiếu, người ngoại quốc (Xc Mt 25,31-46); nếu ta có khả năng đi từ một nền văn hóa gạt bỏ đến một nền văn hóa gặp gỡ và tiếp đón”.

”Những người di dân và tị nạn không phải là những con cờ trên bàn cờ của nhân loại. Họ là những trẻ em, phụ nữ và đàn ông rời bỏ hoặc bị bó buộc rời bỏ gia cư của họ vì nhiều lý do, họ cùng chia sẻ một ước muốn hợp pháp là được biết, sở hữu, và nhất là được sống trọn vẹn hơn. Thật là đáng ngạc nhiên trước con số những người di cư từ đại lục này sang đại lục khác, cũng như những người di chuyển trong nội địa quốc gia hoặc những vùng địa lý của họ. Làn sóng di dân ngày nay là làn sóng lớn nhất trong lịch sử, họ gồm những cá nhân, nếu không phải là cả dân tộc. Đồng hành với những người di dân và tị nạn, Giáo Hội dấn thân tìm hiểu những nguyên do gây ra hiện tượng di dân, và Giáo Hội cũng hoạt động để khắc phục những hậu quả tiêu cực và đề cao giá trị cũng như hậu quả tích cực của việc di cư đối với các cộng đoàn nguyên quán, cộng đoàn chuyển tiếp hoặc các cộng đoàn định cư trong tiến trình di cư.

”Đáng tiếc là, trong lúc khích lệ sự phát triển hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, chúng ta không thể im lặng trước gương mù nghèo đói trong các chiều kích khác nhau: bạo lực, bóc lột, kỳ thị, gạt ra ngoài lề, những biện pháp thu hẹp tự do cơ bản, của cá nhân cũng như của tập thể, đó là một số yếu tố chính của nghèo đói cần phải vượt qua. Nhiều lần chính những khía cạnh đó là nguyên nhân thúc đẩy sự di cư, gắn liền di cư với nghèo đói. Trong khi trốn chạy những tình trạng lầm than hoặc bách hại để tiến tới một viễn tượng tốt đẹp hơn hoặc để cứu vãn cuộc sống, hàng triệu người lên đường di cư, và trong khi hy vọng được mãn nguyện, thì họ thường gặp phải những nghi kỵ, khép kín hoặc loại trừ và bị những nghịch cảnh, cử những nghịch cảnh trầm trọng nhất và làm thương tổn phẩm giá của họ.

”Thực tại di cư, với những chiều kích mà thời đại hoàn cầu hóa ngày nay đang đòi phải được xử lý và điều hành một cách mới mẻ, công bằng và hữu hiệu, nhất là đòi phải có sự cộng tác quốc tế và một tinh thần liên đới, cảm thông sâu xa. Điều quan trọng là sự cộng tác ở các cấp độ khác nhau, với sự đồng thanh chấp nhận những văn kiện pháp lý bảo vệ và thăng tiến con người. ĐGH Biển Đức 16 đã phác họa khuôn mẫu cho các chính sách và khẳng định rằng ”chính sách như thế cần phải được khai triển từ một sự cộng tác chặt chẽ giữa các nước xuất cư và các nước tiếp cư; cần tháp tùng bằng những qui luật quốc tế thích hợp có khả năng hòa hợp những hệ thống pháp lý khác nhau, trong viễn tượng cứu vãn những đòi hỏi và những quyền của con người và các gia đình di cư, và đồng thời, quyền của các xã hội nơi những người di cư đến ngụ” (Thông điệp Caritas in veritate, 29-6-2009, 62). Cùng nhau làm việc cho một thế giới tốt đẹp hơn đòi phải có sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước, với thái độ sẵn sàng và tín nhiệm, không dựng lên những hàng rào không thể vượt qua. Một sự hợp lực có thể là khích lệ đối với các chính phủ để đương đầu với những chênh lệch về xã hội và kinh tế, và một sự hoàn cầu hóa không có qui luật nào là những nguyên nhân tạo ra di cư trong đó con người trở thành nạn nhân hơn là người nắm vai chính. Không có nước nào một mình có thể đương đầu với những khó khăn gắn liền với hiện tượng này, nó rộng lớn đến độ liên hệ tới tất cả các đại lục trong hai phong trào nhập cư và xuất cư.

”Tiếp đến, điều quan trọng là nhấn mạnh sự cộng tác ấy đã khởi sự với cố gắng của mỗi người phải làm để kiến tạo những điều kiện kinh tế và xã hội tốt đẹp hơn tại quê hương, để việc xuất cư không phải là sự chọn lựa duy nhất đối với những người tìm kiếm hòa bình, công lý, an ninh và sự tôn trọng đầy đủ phẩm giá con người. Kiến tạo những cơ hội công ăn việc làm trong các nền kinh tế địa phương, sẽ tránh được sự phân rẽ gia đình và bảo đảm những điều kiện ổn định và thanh thản cho cá nhân và cộng đoàn.

”Sau cùng, khi nhìn thực tại những người di dân và tị nạn, có một yếu tố thứ ba mà tôi muốn nêu bật trên con đường xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, đó là vượt thắng những thành kiến và thiếu cảm thông trong việc cứu xét việc di cư. Thực vậy, nhiều khi những người di dân, tản cư, xin tị nạn và người đã được tị nạn khơi dậy nơi dân chúng địa phương những ngờ vực và đối kỵ. Người ta lo sợ rằng người di dân và tị nạn tạo nên những xáo trộn trong an ninh xã hội, và có nguy cơ làm cho họ đánh mất căn tính và văn hóa, tạo ra cạnh tranh trong thị trường công việc làm hoặc làm cho tội phạm gia tăng. Trong lãnh vực này, các phương tiện truyền thông xã hội có một vai trò trách nhiệm lớn: thực vậy họ có nhiệm vụ vạch trần những thành kiến và cung cấp những thông tin chính xác khi nói về những sai lầm của một số người di dân và tị nạn, và cũng cần mô tả sự lương thiện, ngay chính, tâm hồn đại đảm của nhiều người trong số họ. Trong vấn đề này, cần có một sự thay đổi thái độ từ mọi người đối với những người di dân và tị nạn; đi từ thái độ tự vệ và sợ hãi, không quan tâm, hoặc gạt ra ngoài lề, tương ứng với nền văn hóa loại bỏ, tới thái độ dựa trên nền văn hóa gặp gỡ, là văn hóa duy nhất có khả năng kiến tạo một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, một thế giới tốt đẹp hơn. Cả các phương tiện truyền thông xã hội cũng được mời gọi đi vào sự hoán cải thái độ, và cổ võ sự thay đổi thải độ như thế đối với những người di dân và tị nạn.

“Tôi nghĩ đến Thánh Gia Nazareth cũng đã trải qua kinh nghiệm bị chối bỏ vào đầu hành trình của mình: ”Mẹ Maria sinh con đầu lòng, bọc trong tá và đặt trong mang cỏ vì không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã cảm nghiệm thế nào là rời bỏ quê hương của mình và trở thành người di cư: bị lòng khao khát quyền lực của vua Hêrôđê đe dọa, các vị buộc lòng phải chốn chạy sang Ai Cập (Xc Mt 2,13-14). Nhưng con tim từ mẫu của Mẹ Maria và trái tim ân cần của thánh Giuse, người gìn giữ Thánh Gia thất đã luôn bảo tồn niềm tín thác: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi. Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, ước gì niềm xác tín này luôn kiên vững trong tâm hồn những người di dân và tị nạn.

”Giáo Hội đáp lại mệnh lệnh của Chúa Kitô, ”Các con hãy đi khắp thế gian và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ”, Giáo Hội được kêu gọi trở thành Dân Chúa bao gồm mọi dân tộc và mang Tin Mừng cho mọi dân tộc, vì nơi khuôn mặt của mỗi người có in khuôn mặt của Chúa Kitô! Ở đây có cội rễ sâu xa nhất của phẩm giá con người, phải luôn tôn trọng và bảo vệ. Không phải các tiêu chuẩn hiệu năng, sản xuất, giai tầng xã hội, chủng tộc hoặc tôn giáo làm nền tảng cho phẩm giá con người, nhưng là sự kiện con người được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa (Xc St 1,26-27), và hơn nữa là con Thiên Chúa, mỗi người là con của Thiên Chúa! Nơi con người có in hình ảnh Chúa Kitô. Vì thế, vấn đề ở đây là trước hết chúng ta nhìn thấy và giúp người khác thấy người di dân và tị nạn không phải như một vấn đề cần phải đương đầu, nhưng như người anh em, chị em cần tiếp đón, tôn trọng và yêu mến, một cơ hội Chúa Quan Phòng ban để góp phần kiến tạo một xã hội công bằng hơn, dân chủ trọn vẹn hơn, một quốc gia liên đới hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đoàn Kitô cởi mở hơn theo Tin Mừng. Những cuộc di cư có thể làm nảy sinh cơ hội tái truyền giảng Tin Mừng, mở ra những không gian cho sự tăng trưởng một nhân loại mới đã được loan báo trong mầu nhiệm phục sinh: một nhân loại trong đó mỗi phần đất ngoại quốc là quê hgương và mỗi quê hương là đất xa lạ.

”Anh chị em di dân và tị nạn thân mến! Anh chị em đừng mất hy vọng một tương lai chắc chắn hơn cũng được dành cho anh chị em, và trên đường đi anh chị em có thể gặp một bàn tay nâng đỡ, được cảm nghiệm tình huynh đệ liên đới và hơi ấm của tình bạn! Tôi hứa cầu nguyện cho tất cả anh chị em và những người dành trọn cuộc đời và năng lực để ở cạnh anh chị em và tôi ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả.
Vatican ngày 5 tháng 8 năm 2013

Phanxicô, Giáo Hoàng

Giáo Hội là một gia đình đại đồng hiệp nhất trong khác biệt

Giáo Hội là một gia đình đại đồng hiệp nhất trong khác biệt

Giáo Hội là một gia đình đại dồng hiệp nhất trong khác biệt, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, vì Giáo Hội ”có một đức tin, một cuộc sống bí tích, một sự kế nhiệm tông đồ duy nhất, một niềm hy vọng chung, cùng đức ái”. Do đó chúng ta có đi bất cứ đâu, kể cả trong một giáo xử nhỏ bé nhất, trong một xó xỉnh xa xôi nhất của trái đất này, đều có Giáo Hội; chúng ta ở nhà, chúng ta ở trong gia đình, chúng ta là anh chị em.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 25-9-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Như mọi lần đã có hàng chục em bé được Đức Thánh Cha hôn, vuốt ve và xoa đầu. Cũng có em nhát qúa, không cho Đức Thánh Cha hôn. Lần này lại có một kiểu khác biểu lộ tình yêu thương đối với Đức Thánh Ca: có tín hữu hành hương biếu nước ngọt mở sẵn có ống hút cho ngài. Và Đức Thánh Cha đã đơn sơ nhận và uống ngay. Các nhóm trẻ thì không ngừng gọi tên Đức thánh Cha, hay hô lớn tên quốc gia của mình để lôi kéo sự chú ý của ngài, và hò lớn: thưa Đức Thánh Cha, phía này, phía này. Và dĩ nhiên là ngài phải quay qua ngay phía đó.

Trong bài giáo lý Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài: Giáo Hội là một duy nhất. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trong Kinh Tin Kính chúng ta nói: ”Tôi tin Giáo Hội duy nhất”, nghĩa là chúng ta tuyên xưng rằng Giáo Hội là duy nhất và Giáo Hội này trong chính mình là sự hiệp nhất. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào Giáo Hội Công Giáo trên thế giới chúng ta khám phá ra rằng nó bao gồm gần 3.000 giáo phận rải rác trong mọi Đại lục: biết bao nhiêu ngôn ngữ, biết bao nhiêu nền văn hóa! Ở đây có các Giám Mục của các nền văn hóa khác nhau, của biết bao nhiêu nước! Có Giám Mục của Sri Lanka, Nam Phi, Ấn Độ, biết bao nhiêu vị ở đây của châu Mỹ Latinh. Giáo Hội rải rác trên toàn thế giới. Thế nhưng hàng ngàn cộng đoàn công giáo làm thành sự hiệp nhất. Điều này có thể xảy ra như thế nào?

Chúng ta tìm ra một câu trả lời trong ”Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo”, khẳng định rằng Giáo Hội Công Giáo rải rác trên thế giới ”có một đức tin, một cuộc sống bí tích, một sự kế nhiệm tông đồ duy nhất, một niềm hy vọng chung, cùng đức ái” (s. 161). Đây là một định nghĩa đẹp, rõ ràng và hướng dẫn chúng ta rất tốt. Hiệp nhất trong lòng tin, cậy, mến, hiệp nhất trong các Bí Tích, trong chức Thừa Tác: chúng là các cột trụ nâng đỡ, và hiệp nhất toàn ngôi nhà vĩ đại của Giáo Hội. Chúng ta có đi bất cứ đâu, kể cả trong một giáo xử nhỏ bé nhất, trong một xó xỉnh xa xôi nhất của trái đất này, đều có Giáo Hội; chúng ta ở nhà, chúng ta ở trong gia đình, chúng ta là anh chị em. Và đây là một ơn rất lớn của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng: Giáo Hội là một cho tất cả mọi người. Không có một Giáo Hội cho người Âu châu, một Giáo Hội cho người Phi châu, một Giáo Hội cho người Mỹ châu, một Giáo Hội cho người Á châu, một Giáo Hội cho ngừơi Đại dương châu, nhưng Giáo Hội là một ở khắp nơi. Nó như là trong một gia đình: người ta có thể ở xa, rải rác trên thế giới, nhưng các mối dây sâu đậm hiệp nhất tất cả các chi thể của gia đình vẫn bền chặt, cho dù khoảng cách có xa bao nhiêu đi nữa. Chẳng hạn tôi nghĩ tới kinh nghiệm của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio de Janeiro: trong đám đông ngút ngàn người trẻ trên bãi biển Copacabana, người ta nghe nói biết bao nhiêu ngôn ngữ, trông thấy biết bao nhiêu nét mặt rất khác nhau, người ta gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau, thế nhưng đã có sự hiệp nhất sâu xa, người ta làm thành một Giáo Hội duy nhất, người ta hiệp nhất và cảm nhận được sự hiệp nhất ấy. Chúng ta tất cả hãy tư hỏi: tôi là tín hữu công giáo, tôi có cảm thấy sự hiệp nhất này không? Tôi là tín hữu công giáo, tôi có sống sự hiệp nhất này của Giáo Hội không? Hay nó không liên quan tới tôi, bởi vì tôi khép kín trong nhóm nhỏ của tôi hay trong chính mình? Tôi có thuộc những người ”tư nhân hóa” Giáo Hội cho nhóm của mình, cho quốc gia, cho bạn bè của mình không? Thật là buồn khi tìm thấy một Giáo Hội bị tư nhân hóa vì sự ích kỷ này hay vì thiếu đức tin! Thật là buồn!

Khi tôi nghe rằng có biết bao kitô hữu trên thế giới đau khổ, tôi có vô cảm hay đau khổ như một thành phần trong gia đình không? Khi tôi nghe nói rằng có biết bao nhiêu kitô hữu bị bách hai và hiến mạng sống cho đức tin, nó có đánh động con tim của tôi, hay không liên quan tới tôi? Tôi có cởi mở đối với người anh chị em của gia đình đang hiến mạng vì Chúa Giêsu Kitô không? Chúng ta có cầu nguyện cho nhau không?

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Tôi xin hỏi anh chị em một câu, nhưng đừng trả lời lớn tiếng, chỉ trả lời trong con tim thôi: Có bao nhiều người trong anh chị em cầu nguyện cho các kitô hữu bị bách hại? Bao nhiêu người? Mỗi người hãy trả lời trong tim mình: ”Tôi có cầu nguyện cho người anh chị em đó đang gặp khó khăn để tuyên xưng và bảo vệ đức tin của họ không? Thật là quan trọng biết nhìn ra bên ngoài hàng rào của mình, biết cảm nhận mình là Giáo Hội, gia đình duy nhất của Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nêu lên câu hỏi: Có các vết thương đối với sự hiệp nhất này không? Chúng ta có thể đả thương sự hiệp nhất này không? Và ngài trả lời:

Rất tiếc trên con đường lịch sử, cả bây gìơ nữa, chúng ta không luôn luôn sống sự hiệp nhất. Đôi khi nảy sinh ra các hiểu lầm, xung khắc, căng thẳng, chia rẽ đả thương Giáo Hội, và khi đó Giáo Hội không có gương mặt mà đáng lý chúng ta muốn, nó không biểu lộ tình bác ái, gương mặt mà Thiên Chúa muốn. Chính chúng ta tạo ra các xâu xé. Và nếu chúng ta nhìn vào các chia rẽ vẫn còn giữa các kitô hữu, công giáo, chính thống, tin lành chúng ta cảm thấy sự mệt mỏi khiến cho sự hiệp nhất ấy được hữu hình một cách tràn đầy. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự hiệp nhất, nhưng thường khi chúng ta lại sống nó một cách mệt nhọc.

Cần phải tìm kiếm, xây dựng sự hiệp thông, giáo dục hiệp thông, thắng vượt các hiểu lầm và các chia rẽ, bắt đầu từ gia đình, từ các thực tại giáo hội, cả trong cuộc đối thoại đại kết nữa. Thế giới của chúng ta cần sự hiệp nhất. Đó là một thời đai, trong đó tất cả chúng ta cần sự hiệp nhất. Chúng ta cần hòa giải, hiệp thông, và Giáo Hội là Nhà của sự hiệp thông. Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêxô rằng: ”Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đã đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,1-3). Khiêm nhường, dịu hiền, cao thượng, yêu thương để duy trì sự hiệp nhất! Đây là các con đường đích thật của Giáo Hội. Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa: Khiêm nhường, chống lại kiệu ngạo, khêm nhường, hiền dịu, cao thượng và yêu thương để duy trì sự hiệp nhất. Và thánh nhân nói tiếp: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí linh hoạt và liên tục tái tạo Giáo Hội; một niềm hy vọng, sự sống vĩnh cửu; một niềm tin, một Phép rửa, một Thiên Chúa, Cha của tất cả mọi người (x. cc.4-6). Sự giầu có của những gì hiệp nhất chúng ta! Đó là sự giầu có đích thực: điều hiệp nhất chúng ta, chứ không phải điều chia rẽ chúng ta. Đây là sự giầu có của Giáo Hội. Hôm nay mỗi người hãy tự vấn: tôi có làm cho sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn lớn lên không, hay tôi là người bép xép, là nguyên do gây chia rẽ khó chịu? Anh chị em không biết các bép xép làm hại Giáo Hôi, các giáo xứ, các cộng đoàn biết chừng nào! Chúng làm hại. Chúng gậy thương tích. Một kitô hữu trước khi bép xép phải cắn lưỡi, có hay không? Cắn lưỡi. Điều đó sẽ tốt cho chúng ta, bởi vì khi lưỡi phồng lên, thì không nói được nữa và không bép xép đựơc nữa. Tôi có khiêm tốn khâu lại các vết thương của sự hiệp thông với lòng kiên nhẫn và hy sinh không?

Bước sau cùng đi vào chiều sâu: ai là đầu máy của sự hiệp nhất Giáo Hội? Đây là câu hỏi hay. Đó chính là Chúa Thánh Thần, mà chúng ta tất cả đã nhận được trong bí tích Rửa Tội và cả trong bí tích Thêm Sức nữa. Đó là Chúa Thánh Thần. Sự hiệp nhất của chúng ta trước hết không phải là hoa trái của sự đồng thuận, hay sự dân chủ trong Giáo Hội, hoặc sự cố gắng đồng ý với nhau của chúng ta, nhưng đến từ Chúa Thánh Thần, là Đấng tạo nên sự hiệp nhất trong khác biệt, bởi vì Chúa Thánh Thần là hòa hợp, Ngài luôn tạo sự hòa hợp trong Giáo Hội, và một sự hiệp nhất hòa hợp trong biết bao khác biệt văn hóa, tiếng nói, tư tưởng. Chính Chúa Thánh Thần là đầu máy.. Vì thế cầu nguyện là điều quan trọng, vì lời cầu linh hoạt dấn thân hiệp thông và hiệp nhất của chúng ta. Lời cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Người đến và hiệp nhất Giáo Hội.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài giáo lý như sau: Chúng ta hãy xin với Chúa: Lậy Chúa, xin ban cho chúng con luôn ngày càng hiệp nhất hơn, đừng bao giờ là dụng cụ của chia rẽ; xin làm cho chúng con dấn thân, như lời cầu đẹp của thánh Phanixicô nói, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi xúc phạm, đem hiệp nhất vào nơi bầt hòa.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau, trong đó có các nhóm tới từ Nam Phi, Uganda, Australia, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Sri Lanka, Nam Hàn và Việt Nam.

Sau khi Kinh Lạy Cha Đức Thánh Cha đã ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

VATICAN. Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã trả lời cho những tấn công của một nhà toán học vô thần người Italia, ông Piergiorgio Odifreddi.

Ông thường xuất hiện trên truyền hình ở Italia và mạnh mẽ phê bình tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo. Ông đã viết cuốn ”Giáo Hoàng thân mến, tôi viết cho ngài” (Caro Papa ti scrivo), để trả lời cho cuốn ”Dẫn vào Kitô giáo” (Introduzione al Cristianesimo) của ĐGH Ratzinger.

Lá thư dài 11 trang được Đức nguyên Giáo Hoàng viết trong tháng 8 gửi đến ông Odifreddi hồi đầu tháng 9-2013. Ông đã cho báo phe tả ”Repubblica” (Cộng Hòa), đăng tải trong số ra ngày 24-9-2013.

Trong thư ĐGH Biển Đức cho biết đã đọc sách của ông Odifreddi và ngạc nhiên vì giọng văn gây hấn và sự nhẹ dạ của tác giả trong các biện luận. Ngài bác bỏ lập luận cho rằng thần học là một khoa học giả tưởng, đồng thời xác quyết ngài không bao giờ tìm cách che đậy những điều xấu trong Giáo Hội, những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thư của Đức Biển Đức 16 có đoạn viết: ”Tôi không bao giờ tìm cách che đậy những điều ấy. Sự kiện quyền lực sự ác thấu nhập đến mức độ đó vào trong lòng thế giới đức tin, đối với chúng tôi, đó thực là một điều đau khổ mà một đàng chúng tôi phải chấp nhận, và đàng khác chúng tôi phải làm tất cả những gì có thể để những vụ như thế không tái diễn. Cũng không phải là một điều an ủi khi biết rằng theo nghiên cứu của các nhà xã hội hoc, tỷ lệ các linh mục phạm những tội ác lạm dụng như thế không cao hơn tỷ lệ trong các giới chuyên nghiệp tương tự. Dầu sao đi nữa, không được ngoan cố trình bày sự lệch lạc ấy như thế đó là một sự nhơ bẩn riêng của Công Giáo mà thôi. Và cũng không được im lặng trước vết tích lớn lao về thiện hảo sáng ngời và tinh tuyền mà đức tin Kitô đã vạch ra qua dòng lịch sử. Và một điều thực sự là ngày nay đức tin đang thúc đẩy nhiều người yêu thương vô vị lợi, phục vụ tha nhân, sống chân thành và công chính”.

Sự trách cứ nghiêm khắc nhất Đức nguyên Giáo Hoàng dành cho ông Odifreddi là về đề tài lịch sử. Ngài viết: ”Điều mà ông nói về Đức Giêsu không đáng với trình độ khoa học của ông. Nếu Ông đặt vấn đề như thế, xét cho cùng, người ta không biết gì về Đức Giêsu, và không gì có thể chấp nhận được chứng tỏ Ngài là một nhân vật lịch sử, như thế thì tôi chỉ có thể quyết liệt mời gọi ông hãy tỏ ra có thẩm quyền hơn một chút về phương diện sử học. Về vấn đề này, tôi đặc biệt khuyên ông đọc 4 cuốn mà Martin Hengel, một nhà chú giải Kinh Thánh thuộc phân khoa thần học tin lành ở Tuebingen, đã xuất bản cùng với Maria Schwmer: đây là một thí dụ tuyệt hảo về sự chính xác lịch sử và cung cấp rất nhiều thông tin lịch sự. Đứng trước sự điện ấy, điều mà ông nói về Đức Giêsu thực là một kiểu nói nhẹ dạ không nên lập lại”.

ĐGH Biển Đức 16 cũng đặt câu hỏi với ông Odifreddi: ”Nếu ông muốn thay thế Thiên Chúa bằng ”Thiên Nhiên”, thì vẫn còn có câu hỏi: thiên nhiên này là ai hoặc là gì. Không có chỗ nào trong sách ông định nghĩa thiên nhiên và vì thế nó thiên nhiên xuất hiện như thần minh vô lý, chẳng giải thích gì cả.. Nhưng nhất là tôi muốn nhận xét rằng trong Tôn giáo của ông về toán học, có 3 đề tài cơ bản của cuọc sống con người không được xét tới: tự do, tình yêu và sự ác. Tôi ngạc nhiên vì ôngchỉ nhắc lướt qua tới tự do, mặc dù đây đã và đang còn là giá trị chủ yếu của thời đại ngày nay”. Tình yêu cũng không được nói đến trong sách của Odifreddi và cả sự ác cũng chẳng được đề cập đến.. Tôn giáo toán học của ông không biết thông tin nào về sự ác. Một tôn giáo bỏ qua những câu hỏi cơ bản như thế thì là một tôn giáo trống rỗng”

Từ khi từ nhiệm và sống ẩn dật tại Vatican, đây là lần thứ hai ĐGH Biển Đức 16 ”xuất hiện” công khai, nhưng ngài vẫn giữ nguyên lời hứa ẩn mình đối với thế giới (Vat. Ins. 24-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

CAGLIARI. Trong chuyến viếng thăm mục vụ chúa nhật 22-9-2013, ĐTC Phanxicô đã dành buổi chiều cùng ngày để gặp gỡ người nghèo, các tù nhân được Caritas giúp đỡ, giới văn hóa và giới trẻ tại thành phố Cagliari, thủ phủ đảo Sardegna của Italia.

ĐTC Phanxicô đã dành 12 tiếng đồng hồ để viếng thăm Tổng giáo phận Cagliari có 570 ngàn tín hữu Công Giáo. Cao điểm cuộc viếng thăm là thánh lễ ngài cử hành trước 100 ngàn tín hữu tại Quảng trường trước Đền Thánh Đức Mẹ Bonaria. Tên của Đền thánh này có liên hệ đặc biệt với tên của thành phố Buenos Aires ở Argentina nơi ĐTC làm GM. Thực vậy các thủy thủ của đoàn tàu từ Sardegna có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Bonaria nên họ đã lấy tên của Đền Thánh Đức Mẹ nơi quê hương để đặt cho nơi họ đến cư ngụ ở Argentina.

Gặp gỡ người nghèo, tù nhân và Caritas
Sau thánh lễ, ĐTC đã dùng bữa với các GM đảo Sardegna tại Đại chủng viện miền, rồi lúc quá 3 giờ chiều ngài đến Nhà thờ chính tòa Cagliari để gặp gỡ người nghèo và các tù nhân do tổ chức Caritas trợ giúp.
Có 130 người nghèo cùng với một số tù nhân và các nhân viên Caritas hiện diện tại Nhà Thờ, trong bầu không khí hân hoan và cảm động.
Trong bài huấn dụ tại cuộc gặp gỡ, ĐTC nói:

”Khi nhìn Chúa Giêsu chúng ta thấy Chúa đã chọn con đường khiêm hạ và phục vụ. Đúng ra, chính bản thân Chúa là con đường ấy… Con đường của Chúa là con đường bác ái. Vì thế chúng ta thấy bác ái không phải chỉ là ban cấp sự giúp đỡ, nhưng là sự chọn lựa một lối sống; là con đường khiêm hạ và liên đới. Sự khiêm hạ của Chúa Kitô không phải là để dạy đời, không phải là một tình cảm, nhưng đó là điều chân thực: Chúa muốn trở nên bé nhỏ, ở với những người hèn mọn, với những người bị loại trừ, ở với chúng ta là những người tội lỗi. Nhưng chúng ta cần để ý, đây không phải là một ý thức hệ! Nhưng là một lối hiện hữu và sống, đi từ tình yêu, từ con tim của Thiên Chúa Cha.

”Nhưng nhìn ngắm Chúa mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải theo Chúa nữa. Và đó là khía cạnh thứ hai. Chúa Giêsu không đến để trình diễn cho người ta thấy. Chúa Giêsu là đường và con đường là để bước theo.”

ĐTC cám tạ Chúa vì sự dấn thân của tất cả những anh chị em tận tụy quảng đại tại Cagliari và Sardegna này trong việc thực thi những công việc từ bi bác ái và ngài khích lệ họ tiếp tục con đường ấy đồng thời nhắc nhở rằng:
”Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà.”

”Khi theo Chúa Kitô trên con đường bác ái, chúng ta gieo vãi hy vọng. Đó là xác tín thứ ba mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em. Xã hội Italia ngày nay đang rất cần hy vọng, đặc biệt tại đảo Sardegna này. Ai có trách nhiệm chính trị và dân sự thì có nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ cần được hỗ trợ tích cực, như những công dân…
”Nhưng trong tư cách là Giáo Hội, tất cả chúng ta đều có một trách nhiệm lớn, đó là gieo vãi hy vọng bằng những công việc liên đới, luôn tìm cách cộng tác một cách tốt đẹp hơn với các tổ chức công cộng, trong sự tôn trọng các thẩm quyền liên hệ. Đức bác ái diễn tả cộng đoàn, và sức mạnh của cộng đoàn Kitô là làm tăng trưởng xã hội từ bên trong như men. Tôi nghĩ đến những sáng kiến của anh chị với các tù nhân trong các nhà tù, tôi nghĩ đến sự thiện nguyện của bao nhiêu hội đoàn, đến tình liên đới với các gia đình đang chịu đau khổ nhiều hơn vì thiếu việc làm. Về điểm này, tôi nói với anh chị em: hãy cam đảm, đừng để cho người ta cướp mất niềm hy vọng và hãy tiến bước!

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã chào thăm nhiều người. Có những người nhân dịp này trao cho ngài những lá thư riêng hoặc một món quà nhỏ.. Ngài mời mọi người đọc kinh Lạy Cha trước khi ban phép lành kết thúc.
Trước khi rời Nhà thờ chính tòa Cagliari, ĐTC cũng chào thăm các nữ tu thuộc các dòng khác nhau, kể cả các nữ tu chiêm niệm. Ngài nói với họ: ”Chị em là sự nâng đỡ tinh thần cho Giáo Hội. Hãy tiếp tục tiến bước với xác tín đó. Chúa kêu gọi chị em để nâng đỡ Giáo Hội bằng lời cầu nguyện của chị em”.

Gặp giới văn hóa

Hoạt động thứ hai của ĐTC chiều chúa nhật vừa qua là cuộc gặp gỡ với giới văn hóa lúc quá 4 giờ chiều tại thính đường Giáo Hoàng phân khoa thần học ở Cagliari do các cha dòng Tên đảm trách. Ngoài ra còn có đại diện của hai Đại học công lập ở Cagliari và Sassari.

Ngỏ lời trong dịp này, sau lời chào mừng của LM khoa trưởng thần học và hai giáo sư viện trưởng Đại học, ĐTC đã trình bày một số suy tư dựa trên đoạn Tin Mừng về thái độ của hai môn đệ trên đường làng Emmaus sau khi Chúa chịu chết, họ rời khỏi thành Jerusalem và trở về quê. ĐTC đã cô đọng suy tư của ngài trong 3 điểm: thất vọng, cam chịu và hy vọng.

Thứ 1. Hai môn đệ mang trong tâm hồn nỗi đau khổ và lạc hướng vì cái chết của Chúa Giêsu, họ thất vọng vì sự việc xảy ra. Chúng ta thấy tâm tình tương tự trong tình trạng chúng ta ngày nay: thất vọng, vỡ mộng, vì cuộc khủng hoảng không những về kinh tế tài chánh, nhưng cả về môi sinh, giáo dục và luân lý nữa. Đó là một cuộc khủng hoảng liên quan đến hiện tại và tương lai lịch sử, trong cuộc sống con người thuộc nền văn minh tây phương và liên hệ tới toàn thế giới… Ít nhất trong 4 thế kỷ gần đây, người ta chưa hề thấy tình trạng những xác tín chắc chắn cơ bản bị rúng động như hiện nay, những xác tín ấy vốn tạo nên cuộc sống con người. Tôi nghĩ đến sự suy thoái môi trường, những chênh lệch xã hội, tiềm năng kinh khủng của võ khí, hệ thống kinh tế tài chánh, sự phát triển, sức nặng của các phương tiện thông tin, truyền thông, chuyên chở.

2. ”Đâu là những phản ứng đứng trước thực tại ấy? Hai môn đệ làng Emmaus đã có phản ứng cam chịu, tìm cách trốn chạy khỏi thực tại, rời bỏ thành Jerusalem. Chúng ta cũng thấy thái độ như thế trong thời điểm lịch sử này. Đứng trước cuộc khủng hoảng, người ta có thể có thái độ cam chịu, bi quan đối về những gì có thể thực hiện hữu hiệu… Sự thất vọng và vỡ mộng cũng đưa tới sự trốn chạy, tìm những ”hòn đảo” hoặc ngưng lại. Thái độ đó phần nào cũng giống như thái độ rửa tay của Philatô. Thái độ này có vẻ là thực tiễn, nhưng trong thực tế nó cố tình không biết đến tiếng kêu công lý, nhân đạo, trách nhiệm xã hội và dẫn tới chủ nghĩa cá nhân, giả hình, nếu không muốn nói là đi tới thái độ sống chết mặc bay.

3. ĐTC nhận xét rằng: Về điểm này chúng ta tự hỏi: có một con đường phải đi trong tình trạng của chúng ta hay không? Phải chăng chúng ta phải cam chịu, trốn chạy thực tại, rửa tay và co cụm vào mình? Tôi nghĩ không những có một con đường phải đi, nhưng chính trong thời điểm lịch sử này, chúng ta được thúc đẩy tìm thấy những con đường hy vọng, mở ra những chân trời mới cho xã hội chúng ta. Và đây chính là vai trò của Đại học như một nơi soạn ra và thông truyền kiến thức, huấn luyện về sự khôn ngoan theo nghĩa sâu xa nhất của từ này, giáo dục toàn diện con người.

Trong ý hướng trên đây, ĐTC nói đến 3 vai trò của đại học: Đại học như một nơi phân định, đọc thực tại và phân tích suy xét, không chút sợ hãi, không hoảng hốt.. Đại học, như một môi trường của sự khôn ngoan có chức năng rất quan trọng là huấn luyện về sự phân định, để nuôi dưỡng hy vọng.

Tiếp đến đại học như một nơi kiến tạo nền văn hóa gần gũi. Sự cô lập và co cụm vào mình hoặc đóng khung trong những lợi lộc riêng của mình không bao giờ là con đường tái tạo hy vọng và thực huện sự canh tân, trái lại chính sự gần gũi, nền văn hóa gặp gỡ mới làm được điều đó. Đại học là nơi ưu tiên để thăng tiến, giảng dạy và sống nền văn hóa đối thoại..

ĐTC nhận xét rằng khi Chúa Giêsu đến gần các môn đệ làng Emmanus, ngài đồng hành, lắng nghe cái nhìn thực tại, sự thất vọng của họ, đối thoại với họ, và với cách thức đó, Ngài khơi dậy nơi họ niềm hy vọng, những chân trời mới đã hiện diện, mà chỉ có cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh giúp nhận ra.
Yếu tố sau cùng: Đại học là nơi huấn luyện về tình liên đới.. Phân định thực tại, nhận thức khủng hoảng, thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ, và đối thoại, hướng về tình liên đới, như yếu tố cốt yếu để canh tân xã hội chúng ta. Và ĐTC kết luận rằng:

”Đức tin ban cho các tín hữu Kitô chúng ta niềm hy vọng vững chắc thúc đẩy phân định thực tại, sống sự gần gũi và tình liên đới vì Thiên Chúa đi vào lịch sử chúng ta, trở thành ngừơi trong Đức Giêsu, ngụp lặn trong sự yếu đuối của chúng ta, trở nên gần gũi tất cả mọi người, chứng tỏ tình liên đới cụ thể, nhất là với những ngừơi nghèo khổ túng thiếu nhất mở ra cho chúng ta một chân trời vô biên và chắc chắn của niềm hy vọng”.

Gặp giới trẻ
Giã từ giới văn hóa, ĐTC trở lại Quảng trường Carlo Felice gần bến tàu Cagliari nơi ngài đã gặp giới lao động của đảo Sardegna vào ban sáng chúa nhật. Tại đây 100 ngàn bạn trẻ đã tụ tập tại đây ca hát, suy tư và nghe chứng từ về đề tài: ”Con hãy thả lưới!” dựa trên Tin Mừng theo thánh Luca (5,4-11).

Khi ĐTC đến, họ đã dành cho ngài một cuộc tiếp đón nồng nhiệt. Một số đại diện bạn trẻ đã chào mừng và xin ĐTC trả lời một số thắc mắc xin ngài giải đáp.

Trong phần huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn Tin Mừng về sự tích các môn đệ vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào từ hồ Galilea. Nhưng rồi Chúa Giêsu đến, gọi Phêrô, Anrê, và Giacôbê và Gioan, cũng với các ngư phủ khác, ngài bảo Phêrô thả lưới, nhưng ông nói: ”Thưa thầy chúng con vất vả cả đêm mà chẳng được gì!”
Đó là điểm đầu tiên ĐTC muốn nói tới, là kinh nghiệm về sự thất bại, có cái gì đó không ổn, có một sự thất vọng.
ĐTC nói: ”Trong tuổi trẻ chứng ta đề ra dự phóng, hướng về đằng trước, nhưng nhiều khi gặp phải thất bại, thất vọng: đó là một sự thử thách.

Cả trong Giáo Hội, chúng ta cũng trải qua kinh nghiệm ấy: các LM, giáo lý viên, những người linh hoạt vất vả rất nhiều, mất bao nhiêu năng lực, dồn toàn lực, nhưng rốt cục không thấy những thành quả tương ứng với cố gắng. Đức tin bị suy giảm, nhiều tín hữu không tích cực tham gia đời sống Giáo Hội, nhiều tín hữu Kitô mệt mỏi và buồn sầu, nhiều người trẻ, sau khi chịu phép thêm sức, thì không còn tham gia đời sống giáo xứ nữa.

ĐTC đặt câu hỏi: đứng trước thực tại ấy chúng ta có thể làm gì? Chắc chắn một điều không được làm là để cho mình bị thái độ bi quan và nản chí đè bẹp. Các bạn trẻ không thể và không được sống mà không có hy vọng, hy vọng là điều thuộc về cuộc sống của các bạn. Một người trẻ không có niềm vui và hy vọng thì thật là đáng lo, và không còn là người trẻ nữa.

Thánh Phêrô, trong giờ phút nguy kịch, thất bại, lẽ ra Người có thể chiều theo sự mệt mỏi và nán chí, nghĩ rằng thật là vô ích và tốt hơn nên rút lui về nhà. Nhưng, với lòng can đảm, thánh nhân ra khỏi mình và quyết định tín thác vào Chúa Giêsu và nói: ”Vâng lời Thầy con sẽ thả lưới!” Phêrô không nói: theo sức lực, theo những tính toán, kinh nghiệm của con như một ngư phủ lành nghề, nhưng Người nói: ”theo lời Thầy”! Và kết quả là một mẻ cá lạ lùng, lưới đầy cá, đến độ suýt bị rách!

Sang điểm thứ 2: tín thác vào Chúa Giêsu. ĐTC nói:
”Chúa luôn ở với chúng ta. Chúa đến bên bờ biển cuộc đời chúng ta, gần gũi với những thất vọng của chúng ta, sự dòn mỏng, tội lỗi của chúng ta, để biến đổi chúng. Các bạn đừng bao giờ ngừng tiếp tục cuộc chơi, như những thể tháo gia giỏi biết đương đầu với những vất vả của việc tập luyện, để đạt kết quả! Những khó khăn không được làm các bạn kinh hãi, nhưng thúc đẩy các bạn đi xa hơn. Hãy nghe những lời Chúa nói với các bạn: ”hãy ra khơi và thả lưới, hỡi các bạn trẻ Sardegna! Các bạn hãy luôn ngoan ngoãn đối với Lời Chúa.. Khi những cố gắng khơi dậy đức tin nơi các bạn đồng lứa dường như vô ích, như những vất vả suốt đêm của các ngư phủ, các bạn hãy nhớ rằng với Chúa Giêsu, tất cả có thể thay đổi. Lời Chúa đã làm đầy lưới, và lời Chúa làm cho công việc truyền giáo của các môn đệ trở nên hữu hiệu. Theo Chúa Giêsu có nhiều đòi hỏi, và có nghĩa là không hài lòng với những mục tiêu bé nhỏ, nhưng can đảm nhắm lên cao!

Điểm thứ ba: ”Hãy thả lưới bắt cá (v.4).” ĐTC nói: Các bạn trẻ Sardegna thân mến, điều thứ ba tôi muốn nói với các bạn là các bạn cũng được mời gọi trở thành những người ngư phủ lưới người. Các bạn đừng do dự dành trọn cuộc đời mình để vui mừng làm chứng về Tin Mừng, nhất là cho các bạn đồng lứa tuổi.

”Tôi muốn kể cho các bạn một kinh nghiệm bản thân. Hôm qua (21-9), tôi đã kỷ niệm 60 năm ngày tôi cảm thấy tiếng Chúa Giêsu trong tâm hồn tôi.. Tôi không bao giờ quên. Chúa đã cho tôi nghe được mạnh mẽ rằng tôi phải đi con đường ấy. Lúc đó tôi 17 tuổi. Tôi đã trải qua vài năm trước đó trước khi quyết định đi tu trở thành cụ thể và chung kết. Sau bao nhiêu năm với một vài thành công, vui mừng, những cũng có bao năm thất bại, mong manh, tội lỗi.. 60 năm trên con đường của Chúa, đi theo Chúa, cạnh Chúa, luôn luôn cùng với Chúa. Tôi chỉ nói với các bạn điều này: tôi không bao giờ hối hận vì đã đi theo Chúa! Không phải vì tôi mạnh như Tarzan, tôi không hối hận vì cả trong những lúc đen tối, những lúc tội lỗi, yếu đuối mong manh, thất bại, tôi đã nhìn Chúa Giêsu và tôi tin thác nơi Ngài và Chúa không bao giờ để tôi một mình. Các bạn hãy tín thác vào Chúa Giêsu, luôn tín thác vào ngài và tiến bước!

Sự đóng góp của các bạn thật là quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội là rao giảng Tin Mừng: Người trẻ làm tông đồ của người trẻ! Hãy nói với mọi người bằng cuộc sống của các bạn và bằng niềm vui rằng Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài luôn thời sự. Và các bạn hãy can đảm đi ngược dòng, đừng để mình bị cuốn theo dòng đời. Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, cảm nghiệm tình thương và lòng từ bi của Chúa là một cuộc phiêu lưu lớn nhất và đẹp nhất có thể xảy ra cho một người.

”Các thánh cũng như vậy, các ngài không phải là hoàn hảo khi sinh ra, không là thánh khi chào đời! Các ngài nên thánh vì đã tín thác vào lời Chúa và ra khơi như Simon Phêrô. Các bạn hãy noi gương các ngài, tín thác nơi sự chuyển cầu của các ngài và luôn luôn là những người hy vọng”.
Cuối cuộc gặp gỡ, ĐTC còn chào thăm một số bạn trẻ, trong đó có những người khuyết tật. Rồi lúc gần 7 giờ ngài đáp máy bay từ phi trường Cagliari để trở về Roma.
Sở cảnh sát ở Cagliari cho biết có tới 400 ngàn người đã tham dự các sinh hoạt và buổi lễ do ĐTC cử hành tại đây chúa nhật vừa qua.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tố cáo hệ thống kinh tế tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận

Đức Thánh Cha Phanxicô tố cáo hệ thống kinh tế tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận

Cuộc khủng hoảng kinh tế âu châu và toàn cầu cũng là cuộc khủng hoảng luân lý đạo đức, tinh thần và nhân bản. Ở nguồn gốc của nó có sự phản bội thiện ích chung từ phía các cá nhân và các nhóm quyền lực. Nó là hậu qủa của một lựa chọn quốc tế, của một hệ thống kinh tế đưa tới thảm cảnh này, một hệ thống kinh tế có một thần tượng ở trung tâm gọi là tiền bạc. Tất cả chúng ta phải cùng nhau tranh đấu để ở trung tâm, ít nhất của cuộc sống chúng ta, là người nam, người nữ và gia đình. Anh chị em đừng để cướp mất niềm hy vọng!

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn công nhân và gia đình họ trong buổi gặp gỡ tại Cagliari thủ phủ đảo Sardaigna sáng Chúa Nhật 22-9-2013.

Chúa Nhật hôm qua Đức Thána Cha Phanxicô đã viếng thăm Cagliari nơi có đền thánh Đức Bà Bonaria, trên đảo Sardaigna trong vòng 10 tiếng. Đây là chuyến viếng thăm thứ hai tại Italia sau chuyến viếng thăm người tị nạn trên đảo Lampedusa.

Theo truyền thuyết, chính tại Cagliari này vào năm 1370 các ngư phủ đã vớt được một tượng Đức Mẹ được họ rất tôn kính và nhận làm Bổn Mạng. Khi một nhóm ngư phủ di cư sang Argentina họ đã truyền bá lòng sùng mộ này và lấy tên Bonaria đặt cho thủ đô Argentina. Đây là lý do khiến cho Đức Thánh Cha, nguyên Tổng Giám Mục Buenos Aires, quyết định viếng thăm Cagliari. Đảo Sardaigna rộng hơn 24.000 cây số vuông có hơn 1,6 triệu dân, đa số sống về nông nghiệp và chăn nuôi.

Sau đây là chi tiết chuyến viếng thăm. Lúc 7 giờ sáng Đức Thánh Cha đã rời Vaticăng để ra phi trường Ciampino lấy máy bay đi Cagliari, thủ phủ đảo Sardaigna. Máy bay đã cát cánh lúc 7 giờ rưỡi và đến phi trường Mario Mameli của thành phố Cagliari-Elmas sau 45 phút bay. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Cha Arrigo Miglio, Tổng Giám Mục Cagliari, và giới chức chính quyền tiếp đón. Sau đó Đức Thánh Cha đã đi xe vào thành phố để gặp gỡ giới công nhân tại quảng trường Carlo Felice. Hàng chục ngàn công nhận thuộc mọi nghành nghề khác nhau mặc sắc phục riêng đã cùng với gia đình họ tiếp đón Đức Thánh Cha. Một công nhân thất nghiệp, một thành viên nghiệp đoàn và một nông dân đã đại diện mọi người chào mừng Đức Thánh Cha và trình bầy các khó khăn của họ.

Ngỏ lời với giới công nhân Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ bênh vực phẩm giá và quyền có công ăn việc làm và khẳng định rằng: cần phải đặt con người và việc làm vào trung tâm mọi sinh hoạt. Cuộc khủng hoảng kinh tế âu châu và toàn cầu cũng là cuộc khủng hoảng luân lý đạo đức, tinh thần và nhân bản. Ở nguồn gốc của nó có sự phản bội thiện ích chung từ phía các cá nhân và các nhóm quyền lực. Nơi đâu không có việc làm, thì cũng thiếu phẩm giá. Đây không chỉ là vấn đề của đảo Sardaigna, nơi có nạn thất nghiệp cao, cũng không phải chỉ là của Italia hay vài nước Âu châu. Và Đức Thánh Cha mạnh dạn tố cáo như sau:

Nó là hậu qủa của một lựa chọn quốc tế, của một hệ thống kinh tế đưa tới thảm cảnh này, một hệ thống kinh tế có một thần tượng ở trung tâm gọi là tiền bạc. Thần tượng tiền bạc chỉ huy mọi sự, và để bảo vệ nó tất cả chồng chất ở trung tâm và những người ở hai cực bị ngã, người già ngã, vì trong thế giới này không có chỗ cho họ… Và người trẻ ngã, vì không tìm ra việc làm, và phẩm giá. Một thế giới có hai thế hệ người trẻ không có việc làm, thì không có tương lai, vì họ không có phẩm giá.

Đức Thánh Cha nói ngài gần gũi và hiểu biết thảm cảnh thất nghiệp, vì đó đã là kinh nghiệm gia đình ngài kể lại cho ngài. Chúng ta muốn một hệ thống công bằng. Một hệ thống làm cho chúng ta tất cả tiến tới, chứ không muốn hệ thống kinh tế toàn cầu gây ra biết bao đau khổ!

Để đối phó với cuộc khủng hoảng và nạn thiếu công ăn việc làm hiện nay, tất cả mọi thành phần xã hội: các giới chức lãnh đạo chính trị, kinh tế, tôn giáo và xã hội phải sát cánh cộng tác, đối thoại với nhau, để hiểu biết thực tại và tìm ra các con đường giúp tạo công ăn việc làm xứng đáng, nhân bản, công bằng, an ninh cho mọi người, chứ không phải công việc lậu hay công việc nộ lệ, không tôn trọng thiên nhiên, nhịp sống và nhu cầu nghỉ ngơi trong các ngày lễ của gia đình. Cần biết can đảm liên đới chia sẻ và hy vọng. Tất cả chúng ta phải cùng nhau tranh đấu để ở trung tâm, ít nhất của cuộc sống chúng ta, là người nam, người nữ và gia đình. Anh chị em đừng để cướp mất niềm hy vọng!

Sau cùng Đức Thánh Cha đã mời mọi người cùng ngài cầu nguyện trong thinh lặng. Ngài thưa với Chúa: ”Lậy Chúa, xin hãy nhìn thành phố và dân chúng của toàn đảo Sardaigna, xin hãy nhìn từng người trong chúng con. Lậy Chúa, chúng con thiếu công ăn việc làm. Các thần tượng muốn cướp mất phẩm giá của chúng con. Các hệ thống bất công muốn ăn trộm niềm hy vọng của chúng con. Lậy Chúa, xin đừng để chúng con cô đơn. Xin giúp chúng con giúp đỡ nhau, để chúng con quên đi một ít ích kỷ và cảm thấy trong con tim tiếng ”chúng tôi”, chúng tôi, dân muốn đi tới. Lậy Chúa Giêsu, Chúa không thiếu việc làm, xin cho chúng con có việc làm và xin dậy chúng con tranh đấu cho việc làm và chúc lành cho chúng con”. Diễn văn và lời cầu của Đức Thánh Cha đã khiến cho nhiều người khóc vì cảm động.

Đức Thánh Cha đã bắt tay chào và hôn 30 người đại diện giới công nhân. Có một công nhân tặng ngài chiếc mũ thợ mầu vàng, ngài cám ơn và đội ngay lên đầu. Sau cùng môt em bé chạy lên tặng Đức Thánh Cha lá cờ Vaticăng em cầm trong tay.

Rời quảng trường Carlo Felice, Đức Thánh Cha đến quảng trường trước đền thánh nằm sát bãi biển. Đã có hơn 300.000 tín hữu từ khắp nơi trong đảo Sardaigna tuốn về đây để tham dự thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự. Trước cửa đền thánh ông Ugo Cappellacci, chủ tịch đảo Sardaigna và ông Massimo Zedda tỉnh trưởng Cagliari, đã ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha. Tiếp đến Đức Thánh Cha vào đền thánh và chúc lành cho khoảng 100 bệnh nhân, đa số nằm trên giường, trước khi vào phòng thánh mặc áo để dâng thánh lễ cho tín hữu. Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có các Giám Mục toàn đảo Sardaigna và hàng trăm linh mục.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói ngài đến để chia sẻ các niềm vui, hy vọng, sự nhọc mệt, các dân thân và khát vọng của người dân toàn đảo Sardaigna và để củng cố đức tin của họ. Cuộc sống của người dân gặp nhiều thử thách vì thiếu công ăn việc làm, bấp bênh và tương lai không chắn chắn. Cần phải có sự cộng tác của tất cả mọi người, và sự dấn thân của giới hữu trách các cơ cấu để bảo đảm cho các cá nhân và gia đình các quyền nền tảng, và khiến cho xã hội lớn mạnh với nhiều tình huynh đệ và liên đới hơn. Đức Thánh Cha nói:

Tôi gần gũi anh chị em, tôi nhớ anh chị em trong lời cầu nguyện và tôi khích lệ anh chị em kiên tri làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô đâm rễ sâu trong đức tin và lịch sử của vùng đất này và của dân tộc này. Anh chị em hãy luôn luôn duy trì ánh sáng của niềm hy vọng!

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói ngài cũng đến để cùng họ ở dưới chân Đức Mẹ, Đấng đã ban Con Mẹ cho thế giới. Nơi đây biết bao thế hệ người Sarde đã đến hành hương để khẩn nài sự chở che của Đức Bà Bonaria, Bổn Mạng lớn nhất của đảo. Nơi đây anh chị em đem theo các niềm vui, khổ đau của vùng đất này, của các gia đình, của các người con ở xa, thường ra đi với nỗi đau đớn và sự nhung nhớ, để kiếm việc làm và một tương lai cho mình và cho những người thân yêu. Hôm nay tụ họp nhau nơi đây, chúng ta muốn cám ơn Mẹ, vì Mẹ luôn gần gũi chúng ta, chúng ta muốn canh tân sự tin tưởng và tình yêu của chúng ta đối với Mẹ.

Mẹ Maria đã cầu nguyện cùng với cộng đoàn các môn đệ và dậy chúng ta tin tưởng tràn đầy nơi Thiên Chúa, nơi lòng thương xót của Người. Chúng ta đừng mệt mỏi gõ cửa của Thiên Chúa. Qua Mẹ Maria, chúng ta hãy đem tới cho con tim của Thiên Chúa toàn cuộc sống và mỗi ngày sống của chúng ta.

Từ Thánh Gía Chúa Giêsu đã trao phó thánh Gioan cho Đức Mẹ. Nơi thánh Gioan là tất cả chúng ta, và cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu phó thác chúng ta cho sự giữ gìn hiền mẫu của Mẹ.
Sau cùng chúng ta cũng đến đây để gặp gỡ cái nhìn của Mẹ Maria, bởi vì ở đó phản ánh cái nhìn của Thiên Chúa Cha, đã khiến cho Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cái nhìn của Con Mẹ từ thập giá khiến cho Người là Mẹ của chúng ta. Và với cái nhìn đó hôm nay Mẹ Maria nhìn chúng ta. Chúng ta cần đến cái nhìn dịu dàng, cái nhìn hiền mẫu của Mẹ, là Đấng hiểu biết chúng ta hơn bất cứ ai khác, chúng ta cần đến cái nhìn đầy cảm thương của Mẹ. Lậy Mẹ Maria, hôm nay chúng con muốn nói với Mẹ: Lậy Mẹ xin hãy ban cho chúng con cái nhìn của Mẹ. Cái nhìn của Mẹ đem chúng con tới với Thiên Chúa, cái nhìn của Mẹ là một ơn của Thiên Chúa Cha nhân lành, chờ đợi chúng con ở mỗi khúc rẽ của con đường cuộc sống…

Nhưng trên con đường thường khó khăn đó chúng ta không cộ đơn, chúng ta đông đảo và là một dân, và cái nhìn của Mẹ giúp chúng ta nhìn nhau một cách huynh đệ. Và Đức Thánh Cha khích lệ mọi người như sau:

Chúng ta hãy nhìn nhau một cách huynh đệ hơn! Mẹ Maria dạy chúng ta có cái nhìn tìm tiếp đón, đồng hành, che chở. Chúng ta hãy tập nhìn nhau dưới cái nhìn hiền mẫu của Mẹ Maria! Có những người chúng ta coi như ít nhưng trái lại họ lại cần đến cái nhìn đó hơn: những người bị bỏ rơi, người đau yếu, người không có phương tiện sống, người không biết Chúa Giêsu, người trẻ gặp khó khăn. Chúng ta đừng sợ hãi nhìn các anh chị em của chúng ta với cái nhìn của Mẹ.

Trước khi kết thúc thánh lễ Đức Thánh Cha đã đọc lời phó dâng toàn đảo Sardaigna cho Đức Bà Bonaria và nói: ”Lậy Mẹ, con xin Mẹ hướng cái nhìn của Mẹ trên tất cả và trên từng người. Con cầu xin cho từng gia đình của thành phố và vùng này. Con khẩn nài Mẹ cho các trẻ em và người trẻ, cho người già và người bệnh, cho tất cả những người cô đơn và những người bị tù tội, cho những người đói khát và cho những người không có công ăn việc làm, cho những người đã đánh mất niềm hy vọng và cho những người không có đức tin. Con cũng khẩn nài Mẹ cho các người cầm quyền và các nhà giáo dục. Lậy Mẹ, xin gìn giữ tất cả chúng con với lòng hiền dịu và ban cho chúng con sức mạnh của Mẹ và biết bao ủi an. Chúng con là con cái Mẹ, chúng con đặt mình dưới sự che chở của Mẹ. Xin đừng để chúng con cộ đơn trong lúc khổ đau và thử thách. Chúng con tín thác nơi trái tim hiền mẫu của Mẹ, và thánh hiến cho Mẹ tất cả những gì chúng con là và chúng con có. Và nhất là lậy Mẹ rất dịu dàng, xin chỉ cho chúng con Chúa Giêsu và dậy chúng con luôn luôn và chỉ làm những gì Người nói với chúng con.

Thánh lễ đã kết thúc với kinh Truyền Tin và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Trong đền thờ Đức Thánh Cha còn chào, an ủi và chúc lành cho các bệnh nhân, rồi về đại chủng viện miền để dùng bữa trưa với các Giám Mục và nghỉ ngơi chốc lát trước khi gặp các người nghèo và các tù nhân, cũng như giới văn hóa và giới trẻ vào ban chiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu dấn thân trong lãnh vực truyền thông xã hội, thông truyền kho tàng ánh sáng và hy vọng cho con người ngày nay nhiều khi đang ngỡ ngàng và lạc hướng.

Ngài đưa ra lời mời gọi này trong cuộc tiếp kiến 80 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, tiến hành từ ngày 19 đến 21-9-2013 dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Chủ tịch Claudio Maria Celli và có chủ đề là ”mạng truyền thông và Giáo Hội”.

Sau khi nhắc đến tầm quan trọng của ngành truyền thông xã hội ngày nay với những tiến bộ mau lẹ về mặt kỹ thuật, ĐTC mời gọi mọi người hãy tự hỏi: ”Đâu là vai trò của Giáo Hội trong các thực tại hoạt động và truyền thông? Đối tượng ở đây là biết dấn thân đối thoại với con người ngày nay, hiểu rõ những mong đợi, nghi ngờ và hy vọng của họ. Họ là những người nhiều khi thất vọng về một Kitô giáo mà họ cho là vô bổ, Kitô giáo gặp khó khăn trong việc thông truyền một cách quyết liệt ý nghĩa sâu xa của đức tin. Trong thời đại hoàn cầu hóa hiện nay, chúng ta chứng kiến sự gia tăng ngỡ ngàng, mất hướng đi, cô đơn, không tìm được ý nghĩa cuộc sống, khó có được những liên hệ sâu xa.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC nói: ”Điều quan trọng là biết đối thoại, và với tinh thần phân định đi vào các môi trường do các kỹ thuật truyền thông mới mẻ tạo nên, cả trong các mạng xã hội, để làm nổi bật một sự hiện diện biết lắng nghe, khích lệ. Chúng ta đừng sợ sự hiện diện như thế, và mang căn tính Kitô khi đi vào môi trường ấy.”

ĐTC cũng khích lệ các tín hữu trong ngành truyền thông ”biết thông truyền khuôn mặt của Giáo Hội như là ”căn nhà” của mọi người, giúp tái khám phá qua các phương tiện truyền thông vẻ đẹp của đức tin, của cuộc gặp gỡ Chúa Kitô. Giáo Hội cần mang hơi ấm, thắp sáng con tim; chúng ta có một kho tàng quí giá phải thông truyền, một kho tàng mang ánh sáng và hy vọng. Tất cả những điều đó đòi phải có một sự huấn luận có phẩm chất dành cho các LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong lãnh vực này. (SD 21-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Một số bổ nhiệm của Đức Thánh Cha tại Tòa Thánh

Một số bổ nhiệm của Đức Thánh Cha tại Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 21-9-2013, ĐTC đã tiến hành một số bổ nhiệm tại Tòa Thánh, đặc biệt là bộ Giáo Sĩ và tòa ân giải tối cao.

Ngài nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Manuel Monteiro de Castro người Bồ đào nha, chánh tòa ân giáo tối cao, và bổ vị kế nhiệm là ĐHY Mauro Piacenza, cho đến nay là Tổng trưởng Bộ giáo sĩ.

ĐTC bổ nhiệm Đức TGM Beniamino Stella, cho đến này là Giám đốc trường ngoại giao Tòa Thánh, làm tân Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, đồng thời quyết định để Đức TGM Celso Morga Iruzubieta tiếp tục làm Tổng thư ký của Bộ này, và cử thêm Đức Cha Jorge Carlos Patrón Wong, người Mêhicô, cho đến nay là GM giáo phận Papantla, làm Tổng TGM đặc trách chủng viện thuộc Bộ giáo sĩ.

ĐTC bổ nhiệm Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, cho đến nay là Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới làm tân Sứ thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Liên bang Đức. Đức TGM Lorenzo Baldisseri, cho đến nay là Tổng thư ký Bộ giám mục, nay làm Giám đốc trường ngoại giao Tòa Thánh.

Ngoài ra, ĐTC quyết định: ĐHY Fernando Filoni và Đức TGM Savio Hàn Đại Huy tiếp tục làm Tổng trưởng và Tổng thư ký Bộ truyền giáo. Đức TGM Protase Rugambwa người Tanzania, tiếp tục làm Đồng Tổng thư ký Bộ này, đặc trách các Hội Giáo Hoàng truyền giáo.

Đức TGM Gerhard Mueller, và Đức TGM Luis Franciso Ladaria Ferrer dòng Tên, tiếp tục làm Tổng trưởng và Tổng thư ký Bộ giáo lý đức tin, đồng thời ngài bổ nhiệm Đức TGM Augustin Di Noia, dòng Đa Minh, làm Đồng Tổng thư ký của bộ này. Cho đến nay Đức TGM Di Noia là Phó Chủ tịch Ủy Ban Ecclesia Dei, Giáo Hội của Thiên Chúa, đặc trách các tín hữu Công Giáo thủ cựu.

ĐTC tái khẳng định các vị cố vấn và thành viên của các Bộ nói trên. Ngài cũng bổ nhiệm Đức Ông Giampiero Gloder, Tham tán Sứ Thần tại Phủ Quốc Vụ khanh làm TGM tân Giám Đốc trường ngoại giao Tòa Thánh. (SD 21-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Khôn ngoan đích thực

Khôn ngoan đích thực

Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”, khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?

Khôn theo kiểu thế gian

Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!

“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”. Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu “dại” như vậy.

Khôn ngoan đích thực

Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.

Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết, toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.

Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ

Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.

Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.

Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
2. Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
3. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!

Lm. Phạm Thanh Liêm

 

 

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.

Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.

Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.

Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.

Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.

Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.

Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.

Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.

Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.

Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.

Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.

Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.

Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

NẾU ĐỒNG TIỀN BIẾT NÓI

NẾU ĐỒNG TIỀN BIẾT NÓI

Có người chia sẻ với tôi: Nếu đồng tiền biết nói, nó sẽ vui mừng tố cáo tôi, tố cáo bạn vì chúng ta đã sử dụng nó để  phạm những tội gian ác. Cả những phương tiện ta có, nếu nó biết nói, nó cũng sẽ là vật chứng tố cáo chúng ta, vì chúng ta đã sử dụng nó như phương tiện phạm tội, phương tiện gây án: án phạt ngàn đời.

Nghĩ lại cũng thật thấm thía. Tội nghiệp cho con người có trí khôn mà chịu làm nô lệ cho những đồng tiền vô tri vô giác, nô lệ cho những phương tiện hoàn toàn vật chất, lại còn bị nó làm chứng tố cáo những tội tày trời! Đã vậy, còn suy tôn tiền bạc, vật chất lên ngôi thành một chủ nghĩa, chẳng khác nào con người đang la lên rằng: “mừng quá, tôi được làm nô lệ”.

Nếu đồng tiền  biết nói… Vâng, thiết tưởng cũng đúng với thực trạng xã hội hôm nay. Một lần, anh em thân hữu chúng tôi họp mặt tại Nha Trang và chia sẻ chuyện đời thường của nhau, có câu hỏi được đặt ra: “vợ, chồng, con cái của bạn bắt đầu “hư” từ khi nào?”.

Những câu trả lời thật xót ruột:

-“Từ khi ảnh mua chiếc xe con, đi sớm về muộn, có khi vài ba ngày không về, đến lúc về, trong xe, mùi nước hoa còn nồng sặc….”,

-“Từ khi cô ta quyết định mua thêm một căn nhà ở Vũng Tàu, một cảnh hai quê, tuần cô ở Vũng Tàu, tuần cô ở Sài Gòn, sau đó, cô bảo tôi ký giấy ly hôn…”,

-“Từ lúc sắm điện thoại di động, sắm xe tay ga cho con, rồi những cuộc liên lạc, hẹn hò, đi không thưa, về chẳng trình…đến khi trình, thì trình rằng con đã có bầu ba tháng ”

-“Từ lúc nhà em bán được lô đất “sốt” ở Bình Dương, giàu lên, phung phí, phần ảnh ảnh xài, phần em em xài, ảnh kiếm thêm được bà nữa, thì em dại gì chứ”.

-“Từ khi mua cho con cái vi tính, rồi nối mạng nữa chứ…nó ngồi trên máy cả đêm, tưởng học hành, hóa ra xem phim tầm phào”.

-“Từ lúc em buôn bán khá hơn tí, có đồng ra đồng vào đồng cất để, ảnh thong thả bia rượu nhiều hơn, có luôn cả chuyện bia ôm rượu ẵm, đến lúc xơ gan mới chịu nằm một chỗ”.

– “Từ khi em nhận chức Giám Đốc…”

…….

Và còn biết bao nhiêu nguyên nhân khác, tựu chung, cũng vì sử dụng tiền bạc của cải phương tiện vào những mục đích không có lợi ích gì cho đời này và cả đời sau nữa: vừa mất nhân phẩm vừa mất linh hồn.

 Lời Chúa Giêsu hôm nay cảnh cáo sự dại dột của con người khi sử dụng tiền bạc của cải vật chất làm băng hoại đời sống con người hôm nay và mai sau. Và Chúa muốn mượn hình ảnh người quản lý để gửi đến cho tôi, cho bạn một thông điệp quan trọng: mỗi người là một người quản lý của Thiên Chúa, người quản lý phải khôn ngoan biết làm lợi cho Thiên Chúa, người quản lý phải biết tích lũy cho mai sau.

Những người không muốn biết Thiên Chúa thì họ cho rằng thân xác, trí khôn, của cải, phương tiện họ có, là của họ làm ra. Họ làm chủ tất cả. Họ muốn sử dụng sao là quyền của họ. Họ thật lầm tưởng: tưởng họ làm ra và tưởng họ có quyền, hóa ra, họ không giữ được gì cho mình cả, kể cả thân xác, và hóa ra, họ đang làm nô lệ cho thân xác, cho tiền bạc, cho những phương tiện.

Đối với con cái của Thiên Chúa, thì những gì chúng ta sở hữu trong cuộc đời đều là của Chúa ban cho. Và mỗi người chỉ là người quản lý. Có người quản lý một thân xác vạm vỡ khỏe mạnh, hay duyên dáng yêu kiều, nhưng cũng có người quản lý một thân xác yếu đuối, hay xấu xí thua người… Có người quản lý một gia tài kếch xù, nhưng cũng có người lại quản lý mấy đồng tiền lẻ.

Và dù quản lý ít hay nhiều cũng phải làm lợi cho Thiên Chúa. Làm lợi cho Thiên Chúa là biết dùng của cải thế gian mà làm cho Thiên Chúa được vinh danh, mà làm cho Nước Chúa trị đến, và làm cho ý Chúa được thể hiện khắp nơi. Cụ  thể hơn, nếu như người quản lý bất trung kia còn biết khôn ngoan mà tích lũy cho mình để phòng cho những ngày điêu linh sắp tới, thì con cái Chúa càng phải biết khôn ngoan mà tích lũy cho mình một gia sản cho đời sau. Bằng không, thì thật là uổng phí, là dại dột.

 Mỗi người phải được ơn cứu rỗi, mỗi người phải được sống lại ở đời sau, là chương trình của Thiên Chúa. Và vì thế, biết dùng của cải đời nầy mà lo cho phần rỗi đời đời của mình và của mọi người, chính là làm sáng danh Thiên Chúa, làm Nước Chúa Trị đến, làm cho ý Chúa thể hiện vậy.

-Nếu đồng tiền biết nói, hẳn nó sẽ chê cười chúng ta, loài người có trí khôn giống hình ảnh Thiên Chúa mà phải làm nô lệ cho một đồng tiền, một tờ bạc vô tri vô giác.

-Nếu đồng tiền biết hát, hẳn nó sẽ hát bài ca chiến thắng rằng chủ nghĩa duy vật đã lên ngôi và đồng tiền trở nên sức mạnh vô song đưa con người của Thiên Chúa xuống vực thẳm

Không thể như thế được, kế hoạch của ma quỷ đang luồn lách vào trí khôn của con người để phá hoại chương  trình cứu rỗi của Thiên Chúa  từ việc tham lam mỗi đồng tiền lẻ đến những xấp bạc tỉ, rồi dương dương tự đắc ngủ ngon trên đống vàng tưởng như là hạnh phúc. Một sự lầm tưởng đáng sợ, nếu không nói là gây tai họa khủng khiếp cho con người ở đời này và đời sau.

Phải làm thế nào để nếu đồng tiền biết nói, hẳn nó sẽ phải chắp tay bái quỳ chào thua chúng ta vì nó đã không sai khiến được chúng ta, và ngược lại, nó phải hoan hô tán thưởng vì chúng ta sử dụng nó vào mục đích hoàn thiện nhân phẩm, xây dựng công ích, sẻ chia yêu thương, và nhất là bảo đảm được phần rỗi đời đời: không sử dụng đồng tiền làm phương tiện phạm tội, gây án.

 Lạy Chúa Giêsu, ơn cứu rỗi là cùng đích cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con là người quản lý của Chúa, biết sử dụng mọi sự Chúa ban để hoàn thiện nhân phẩm con cái Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương, để làm sáng danh Thiên Chúa, để Nước Chúa trị đến và Ý Chúa thể hiện khắp nơi, và cuối cùng là để chúng con được hân hoan vào Nước Trời với Chúa. A men.

PM. CAO HUY HOÀNG

ĐÓ LÀ MỘT CÂU CHUYỆN HAY

ĐÓ LÀ MỘT CÂU CHUYỆN HAY

“Người ta chăm chỉ làm việc để được phần thưởng đời này dù chỉ kéo dài có vài năm hơn là vì phần thưởng vĩnh viễn ở thiên đường”

Vài năm trước đây, một linh mục giảng tĩnh tâm cho những tù nhân trong một nhà tù cấp liên bang ở miền Nam Hoa Kỳ. Một trong những bài nói chuyện đề cập đến giáo huấn của Chúa Giêsu về sự trả thù. Chúa Giêsu nói:

Anh chị em thường nghe nói, ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’. Nhưng tôi nói cho anh chị em biết: đừng trả thù ai đó làm hại anh chị em. Nếu có ai vả anh chị em má bên phải, hãy để hắn vả luôn má bên kia.” Mt 5:38-39

Để chứng tỏ điều nói trên, vị linh mục kể câu chuyện của ông Jackie Robinson, người cầu thủ da đen đầu tiên chơi trong các đội banh lớn của Hoa Kỳ.

Khi ông bầu Branch Rickey ký giao kèo đưa Jackie vào đội Dodger vào năm 1945, ông nói với Jackie, “Anh sẽ phải chịu đựng tất cả mọi sự mà chúng ném vào mặt anh, và đừng bao giờ đánh lại.”

Ông Rickey nói đúng. Ở ngoài sân banh, Jackie bị những cú ném banh dữ dội bất ngờ vào sau lưng, và các đội đối phương cũng như khán giả chửi bới, chế nhạo anh. Lúc nghỉ ngơi, anh cũng bị tống ra khỏi khách sạn và nhà hàng ăn trong khi cả đội ăn uống ngủ nghỉ.

Dù bị đối xử tệ hại, anh vẫn cố giữ vẻ bình thản. Anh đã đưa má bên kia cho người ta đánh. Và ông bầu Branch Rickey cũng không khá gì hơn, ông bị dân chúng chửi rủa vì đã ký giao kèo với anh Jackie.

Vị linh mục chấm dứt câu chuyện bằng một câu hỏi:

“Các bạn nghĩ ngày nay, các cầu thủ da đen sẽ ra sao nếu anh Jackie Robinson và ông Branch Rickey không đưa má bên kia cho đối phương?”

Sau bài giảng, một tù nhân đến nói với vị linh mục:

“Thưa cha đó là một câu chuyện hay. Nhưng tại sao cha không kể toàn bộ câu chuyện? Sao cha không cho biết lý do mà ông Rickey và anh Robinson đã không trả thù? Họ không phải vì tình yêu Thiên Chúa. Đó là vì họ yêu đồng tiền.

“Ông Rickey đã đưa má bên kia vì ông giao kèo với những cầu thủ da đen xuất sắc nhất nước và nếu anh Jackie thành công, ông sẽ được một số tiền kếch sù.

“Và anh Jackie đưa má bên kia vì nếu anh thành công, anh cũng sẽ có rất nhiều tiền.”

Vị linh mục thầm nghĩ: “Nếu anh bạn tù này đúng thì bài giảng của mình như trôi theo giòng nước.”

Nhưng vị linh mục nghĩ lại: “Nhưng mà, nếu anh bạn tù này đúng, thì câu chuyện của mình đã đưa ra một điểm quan trọng hơn nữa.”

Đó cũng là điểm mà Chúa Giêsu nói trong bài phúc âm hôm nay. Chúa nói:

Người của thế gian thì lanh lợi trong việc xử lý vấn đề hơn những người của sự sáng gấp bội.

Hay nói một cách đơn giản:

“Người đời làm việc chăm chỉ để được phần thưởng trần gian dù chỉ được một vài năm hơn là các Kitô Hữu làm việc để được phần thưởng đời đời của nước trời.”

Nói cách khác, nếu anh bạn tù nói đúng thì chỉ vì tiền mà ông Rickey và anh Robinson sẵn sàng đưa má cho người khác hơn là bạn và tôi sẵn sàng tha thứ cho người khác vì Thiên Chúa.

Một vài năm trước đây, một tờ báo cộng sản Pháp đã đưa ra nhận xét sau đối với Kitô Hữu Pháp:

“Phúc Âm của các bạn là một vũ khí mạnh mẽ gấp bội so với triết thuyết Mácxít. Nhưng, trên đường trường chúng tôi sẽ đánh bại các bạn …

“Làm sao người ta có thể tin vào Phúc Âm nếu các bạn từ chối đưa Phúc Âm vào đời sống, nếu các bạn không muốn hy sinh thời giờ và tiền bạc cho Tin Mừng? Làm sao người ta có thể tin vào Phúc Âm nếu bạn không muốn động đến ngón tay vì Tin Mừng?”

Lời nhận xét trên thật thấm thía với mỗi người chúng ta. Vì quả thật có nhiều trường hợp như vậy.

Và điều này đưa chúng ta trở về với điểm mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài phúc âm hôm nay:

Người đời thì sẵn sàng hy sinh để được phần thưởng trần thế hơn là Kitô Hữu hy sinh để được phần thưởng thiên đường.

Người cộng sản sẵn sàng hy sinh để loan truyền chủ thuyết cộng sản hơn là Kitô Hữu muốn hy sinh để truyền đạo.

Điều này nêu lên một câu hỏi.

Tại sao người đời sẵn sàng hy sinh để được phần thưởng trần gian hơn là Kitô Hữu để được phần thưởng thiên đường?

Tại sao chúng ta sẵn sàng đối xử với người xa lạ một cách tử tế chỉ vì lợi lộc tiền bạc hơn là với gia đình, thân nhân để được phần thưởng thiên đường?

Dĩ nhiên, chúng ta không thể trả lời câu hỏi ấy một cách tổng quát. Không có câu trả lời chung.

Đó là câu trả lời riêng tư. Mỗi một người chúng ta phải tự trả lời câu hỏi ấy.

Và điểm chính của bài phúc âm hôm nay là:

Chúng ta có phải là người Kitô Hữu mà Chúa Giêsu muốn nói đến?

Chúng ta có ít hy sinh để được phần thưởng thiên đường hơn là để được phần thưởng trần gian?

Chúng ta có ít hy sinh để loan truyền Tin Mừng hơn là để được tiến thân trong xã hội?

Nếu thật như vậy thì chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau:

Lạy Chúa, xin hay mở tai chúng con để lắng nghe lời Người ngay cả khi chúng con không muốn nghe, vì lời Chúa thách đố chúng con hơn cả những gì chúng con muốn.

Lạy Chúa, xin hãy mở trí chúng con để hiểu lời Chúa ngay cả khi chúng con không muốn nghĩ đến, vì lời Chúa làm chúng con bối rối hơn điều chúng con muốn.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con thực hành lời Chúa ngay cả khi chúng con không muốn sống lời ấy, vì điều đó có nghĩa chúng con phải thay đổi những gì mà chúng con không muốn.

Và sau cùng, lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết rằng Chúa không bao giờ yêu cầu chúng con thi hành điều gì mà Chúa không ban ơn cho chúng con thật dồi dào ngoài sự mơ ước. Chúa không bao giờ thiếu sự độ lượng.

Cha Mark Link, S.J.

NGƯỜI QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG

NGƯỜI QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG

Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta luôn bị cuốn hút bởi những câu chuyện dạy dỗ rất thâm thúy, nhưng lại đầy tính nhân văn của các dụ ngôn. Có những câu chuyện thật dí dóm, bất ngờ và đầy thú vị. Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để giáo huấn nhân loại, dạy dỗ chúng ta. Do đó, những bài học Chúa Giêsu đem ra để giới thiệu Nước Trời, những ví dụ, những câu chuyện thực tế xảy ra trong xã hội Do Thái xưa, thời Chúa Giêsu, vẫn là những bài học tồn tại mãi mãi, khiến con người học hoài, tìm hoài. Bài Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn người quản gia bất lương.

Ngôn sứ Amos đã chứng kiến cảnh những người chỉ ham tiền, bon chen vật chất, tranh dành địa vị, đàn áp, bóc lột kẻ nghèo. Ngôn sứ đã lên tiếng cảnh tỉnh họ. Ngài đã viết: “Giavê đã lấy kiêu uy Giacóp mà thề rằng Ta sẽ không bao giờ quên những việc làm của chúng…” (Am 8,7…). Thiên Chúa là Cha tình thương, Ngài luôn quan tâm, xót thương những người nghèo, nhưng cũng không ghét, bỏ rơi những người giầu có thiện chí, biết chia sẻ, cảm thông.

Bài Tin Mừng của thánh Luca có thể nói được là dụ ngôn về ơn cứu rỗi của người giàu. Người giàu phải làm gì để có thể vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ đến đoạn Tin Mừng nói về người thanh niên giàu có, anh này đã làm tất cả mọi sự tốt đẹp như giữ các luật lệ của Chúa từ khi còn tấm bé, nhưng khi Chúa đề nghị anh ta hãy về bán hết cả tài sản anh đang có, rồi đem phân chia cho người nghèo khó… Anh giàu này đã không làm được việc đó. Người giàu nếu cứ bo bo, giữ của, bo bo như Người giàu và Lazarô thì chắc chắn họ sẽ không vào được Nước Thiên Chúa. Chính vì thế, Chúa đòi hỏi con người phải biết chia sẻ, phải biết quan tâm đến người khác.

Người quản lý trong đoạn Tin Mừng hôm nay là người quản lý khôn ranh, ranh mãnh, biết tiên liệu, trước khi biết mình bị bãi chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho các con nợ tùy sự định đoạt khôn ngoan của anh ta. Anh ta đã dùng tài sản của chủ nợ để làm lợi nghĩa là để thêm bạn cho chính mình.Chúa khen anh ta đã hành động khôn khéo theo cách ranh mãnh của người đời. Quả thực, Chúa không khuyên chúng ta hành động như người quản gia bất lương này. Chúa dạy chúng ta phải bắt chước con cái sự sáng biết lợi dụng vật chất để thêm bạn cho mình.Dụ ngôn muốn dạy chúng ta rằng chúng ta phải biết chia sẻ, biết giúp đỡ người nghèo, để rồi khi chúng ta trở vể cát bụi, họ sẽ cầu nguyện lại chúng ta.

Đàng khác dụ ngôn cũng dạy chúng ta: giầu của cải vật chất mà không biết chia sẻ, quan tâm đến người nghèo, chỉ biết tích trữ của cải, bo bo giữ tiền không biết tìm kiếm của cải thiêng liêng, nghĩa là sự sống vĩnh cửu thì cuộc đời cũng chẳng có ích lợi gì.

Ở đời, của cải rất cần thiết, rất quan trọng nhưng nó chỉ tạm bợ, chỉ mau qua.Nó chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nếu coi của cải, tiền tài là mục đích, có một đồng lại muốn có hai đồng và cứ muốn liên tục tích lũy, quên đi tất cả mọi sự, quên đi mục đích chính là sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu.

Do đó, Chúa căn dặn mọi người, dặn dò con người: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ, và hoặc nó ghét chủ này mà mến chủ kia, hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.

Bài học Chúa Giêsu dạy nhân loại, dạy con người thật quá rõ ràng: “Người giàu có đích thực là người biết chia sẻ, biết quan tâm đến người nghèo, biết tích trữ của cải thiêng liêng: “dòi bọ, mối mọt không đục khoét được”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con khi theo Chúa, luôn biết trung thành với sứ mạng Chúa trao phó. Xin Chúa cho chúng con luôn biết chia sẻ, vì khi cho đi là khi lãnh nhận… Xin cho chúng con luôn biết quan tâm đến những người nghèo, người đau khổ và những người bị bỏ rơi, tất bạt. Xin Chúa ban cho chúng con luôn sẵn sàng phục vụ người nghèo và những người bị ruồng bỏ. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Mục đích của người Kitô hữu là gì?
2. Tiền của, vật chất có phải là cứu cánh của con người không?
3. Phải làm gì để vào được Nước Thiên Chúa?
4. Người khôn ngoan là người thế nào?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đức Thánh Cha tố giác mâu thuẫn trong y khoa

Đức Thánh Cha tố giác mâu thuẫn trong y khoa

VATICAN. ĐTC Phanxicô tố giác những xu hướng mâu thuẫn trong y khoa ngày nay và kêu gọi các bác sĩ sản khoa dấn thân bênh vực sự sống.

Ngài đưa ra lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 20-9-2013, dành cho 100 bác sĩ sản khoa tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ 10 về Công Giáo và việc săn sóc người mẹ do Liên hiệp quốc tế các hiệp hội bác sĩ Công Giáo tổ chức.

ĐTC nhận xét rằng ”trong nghề y khoa hiện nay, một đàng có sự hăng say tìm kiếm những tiến bộ trong việc trị bệnh, nhưng đàng khác người ta thấy có nguy cơ bác sĩ đánh mất căn tính của mình là người phục vụ sự sống, và nhiều khi không tôn trọng chính sự sống.. Người ta cũng thấy tình trạng mâu thuẫn này qua hiện tượng: trong khi người ta gán cho con người những quyền mới, nhiều khi chỉ là quyền giả tạo, thì họ lại không luôn bảo vệ sự sống như giá trị đầu tiên và là quyền tiên quyết của mỗi người. Mục tiêu tối hậu của hoạt động y khoa vẫn luôn là bảo vệ sự thăng tiến sự sống”.

Trong bối cảnh mâu thuẫn ấy, ĐTC nói: ”Giáo Hội kêu gọi lương tâm của mọi người chuyên nghiệp và thiện nguyện trong y khoa, đặc biệt là các bác sĩ sản khoa, hãy cộng tác vào việc sinh sản những sự sống mới. Não trạng duy lợi ích hiện nay, thứ văn hóa ”xài rồi bỏ”, đang nô lệ hóa tâm trí nhiều người, đang tạo nên một thiệt hại lớn: nó đòi phải loại bỏ con người, nhất là những người yếu thế về mặt thể lý và xã hội. Câu trả lời của chúng ta cho não trạng này là quyết liệt, không chút do dự, trong việc bênh vực sự sống. Quyền đầu tiên của con người là quyền sống.”

Cũng trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến các bác sĩ Công Giáo, ĐTC kêu gọi họ hãy sống và hoạt động phù hợp với ơn gọi Kitô; tiếp đến, đối với nền văn hóa ngày nay, hãy góp phần giúp người khác nhận ra chiều kích siêu việt, dấu vết công trình sáng tạo của Thiên Chúa trong sự sống con người, ngay từ lúc đầu tiên sau khi được hoài thai. Sự dấn thân tái truyền giảng Tin Mừng như thế nhiều khi đòi tín hữu phải đi ngược dòng, trả giá bằng chính con ngừơi của mình. Chúa đang hy vọng nơi anh chị em để phổ biến Tin Mừng sự sống”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn bác sĩ thân mến, là những người được kêu gọi săn sóc sự sống con người trong giai đoạn đầu tiên, xin các bạn hãy nhắc nhở cho tất cả mọi người, bằng việc làm và lời nói, rằng sự sống luôn luôn là thánh thiêng trong mọi giai đoạn và mọi lứa tuổi và luôn luôn có chất lượng. Đây không phải là một xác tín đức tin, nhưng còn là của lý trí và khoa học! Không có sự sống con người nào thánh thiêng hơn sự sống khác, cũng như không có một sự sống con người nào có ý nghĩa hơn về phẩm chất hơn sự sống khác. Uy tín của một hệ thống y tế không phải chỉ được đo lường bằng hiệu năng, nhưng nhất là bằng sự quan tâm và yêu thương đối với con người, sự sống của họ luôn có tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm” (SD 20-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio