Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các GM Colombia tiếp tục tăng cường việc mục vụ gia đình trước làn sóng tục hóa trong xã hội ngày nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến chung dành cho 37 GM Colombia sáng ngày 10-9-2012 tại Castel Gandolfo, nhân dịp các vị kết thúc cuộc hành hương Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.
ĐTC nhắc đến sự kiện Giáo Hội tại Colombia được dồi dào ơn gọi LM và đời sống thánh hiến, cũng như có thái độ sẵn sàng đối với sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại; ngoài ra có nhiều phong trào tông đồ nảy sinh và các cộng đoàn giáo xứ rất sinh động. Ngài nói:

”Cùng với những điều đó, anh em cũng nhận thấy những hậu quả tàn hại của trào lưu trục hóa ngày càng gia tăng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống và đảo lộn những nấc thang các giá trị của con người, khuynh đảo chính nền tảng của đức tin Công Giáo, của hôn nhân, gia đình và luân lý Kitô. Về phương diện này, việc bảo vệ không biết mệt mỏi và thăng tiến định chế gia đình tiếp tục là một ưu tiên mục vụ đối với anh em. Vì thế, giữa những khó khăn, tôi mời gọi anh em đừng chùn bước trong những cố vắng và tiếp tục công bố chân lý trọn vẹn về gia đình, dựa trên hôn nhân, như Giáo Hội tại gia và là cung thánh của sự sống”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc nhở các GM Colombia ”hết sức quan tâm đến các LM, Phó tế và tu sĩ, để ý đến những nhu cầu tinh thần, trí thức và vật chất của họ, để họ có thể sống trung thành một cách phong phú với sứ vụ của mình. Nếu cần, anh em đừng ngại sửa chữa huynh đệ và hướng dẫn họ. Nhất là anh em hãy nêu gương sống và tận tụy đối với sứ mạng đã nhận lãnh từ Chúa Kitô. Đừng bỏ qua ưu tiên vun trọng ơn gọi và huấn luyện khởi đầu cho các ứng sinh tiến lên thánh chức hoặc tiến vào đời sống thánh hiến, giúp họ phân định sự thật về ơn gọi của Chúa để quảng đại đáp lại với ý hướng ngay chính”.

Ngài không quên nhắc đến tình trạng bạo lực tại Colombia từ hơn 50 năm nay phải chịu cảnh nội chiến. ĐTC nói ”Mặc dù có vài dấu chỉ hy vọng, bạo lực tiếp tục kéo theo đau thương, cô đơn, chết chóc và bất công cho nhiều anh chị em ở Colombia. Đồng thời tôi nhìn nhận và cám ơn vì công tác mục vụ đang được thi hành, nhiều khi tại những nơi đầy khó khăn và nguy hiểm, để giúp đỡ bao nhiêu người đang chịu đau khổ tại đất nước Colombia yêu quí. Tôi khích lệ họ tiếp tục góp phần bảo vệ sự sống con người, vun trồng hòa bình, theo gương Chúa Cứu Thế của chúng ta và khiêm tốn khẩn cầu ơn thánh của Chúa. Họ hãy gieo vãi Tin Mừng và gặt hái hòa giải, với ý thức rằng nơi nào Chúa Kitô đến, thì hòa thuận cũng mở đường, oán thù nhường chỗ cho tha thứ và cạnh tranh biến thành tình huynh đệ”. (SD 10-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát chúng ta khỏi sự câm điếc nội tâm, và khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật 9-9-2012 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, ở trung tâm Tin Mừng hôm nay (Mc 7,31-37) có một từ nhỏ, rất quan trọng. Một từ, mà trong ý nghĩa sâu đa của nó, tóm gọn tất cả sứ điệp và toàn công trình của Chúa Kitô. Thánh sử Mạccô kể lại từ này trong chính tiếng nói của Chúa Giêsu, trong đó Chúa nói lên từ ấy, và như thế chúng ta còn nghe nó sống động hơn nữa. Đó là từ ”effatà”, có nghĩa là ”hãy mở ra”. Chúng ta hãy đem bối cảnh của nó. Chúa Giêsu đang đi qua vùng ”Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, một vùng không do thái. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh ta – hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu và nói: ”Effatà” có nghĩa là ”Hãy mở ra”. Và người ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7,35). Đó là ý nghĩa lịch sử và theo chữ của từ này: nhờ sự can thiep của Chúa Giêsu người câm điếc đó được ”mở ra”; trước đó anh ta bị đóng kín, lẻ loi, rất khó thông truyền. Việc chữa lành đối với anh là một sự ”mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe và nói, lôi cuốn toàn con người và cuộc sống của anh: sau cùng anh có thể thông truyền và liên lạc trở lại.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nhưng chúng ta tất cả đều biết rằng sự đóng kín của con người, sự lẻ loi của nó không chỉ tùy thuộc các giác quan. Có một sự đóng kín nội tâm, liên quan tới nơi sau thẳm nhất của con người, đó là điều Thánh Kinh gọi là ”trái tim”. Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát, để khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với các người khác. Đó là lý do tại sao tôi đã nói rằng từ bé nhỏ ”effatà – hãy mở ra” này tóm gọn trong nó toàn sứ mệnh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong bởi tội lỗi, có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim nó, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác. Vì lý do đó từ và cử chỉ của ”effatà” đã được đưa vào trong Lễ nghi Rửa Tội, như một trong các dấu chỉ giải thích ý nghĩa của nó: khi đụng vào miệng và tai của người được rửa tội vị linh mục nói: “Effatà”, cầu xin cho họ có thể mau lắng nghe Lời Chúa và tuyên xưng đức tin. Qua bí tích Rửa Tội con người bắt đầu ”hít thở” Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã khẩn nài từ Thiên Chúa Cha với tiếng thở dài sâu xa để chữa lành người câm điếc.

Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Giờ đây trong lời cầu nguyện, chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria Rất Thánh, mà chúng ta đã mừng kính lễ Sinh Nhật hôm qua. Vì tương quan đặc bhiệt của Mẹ với Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria hoàn toàn ”rộng mở” cho tình yêu của Chúa, trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa. Xin sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ giúp chúng ta kinh nghiệm được mỗi ngày trong đức tin phép lạ ”effatà”, để sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã báo cho mọi người biết trong các ngày tới đây ngài sẽ viếng thăm Libăng để ký Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông nhóm tai Roma hồi tháng 10 năm 2010. Đức Thánh Cha sẽ vui sướng gặp nhân dân Libăng, chính quyền và các kitô hữu Libăng, cũng như các kitô hữu đến từ các nước láng giềng. Ngài nói: Tôi cũng biết tình trạng thường thê thảm, mà các dân tộc của vùng đất bị bầm dập này đang phải sống từ lâu, vì các cuộc xung đột không ngừng. Tôi hiểu nỗi âu lo của nhiều người dân Trung Đông hàng ngày bị chìm ngập trong đủ loại khổ đau gây buồn sầu, đôi khi gây chết chóc cho họ và cho gia đình họ. Tôi âu lo cho những người, để kiếm tìm một khoảng trống hòa bình, phải trốn chạy cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và sống lưu vong trong cảnh tạm bợ. Cả khi khó tìm ra các giải pháp cho các vấn đề khác nhau của vùng này, người ta không thể chịu trận đối với bạo lực và các căng thẳng tột bực. Dấn thân đối thoại và hòa giải phải là điều ưu tiên đối với tất cả mọi phe liên hệ, và nó phải đựơc hỗ trợ bởi cộng đồng quốc tế, luôn luôn ý thức hơn về tầm quan trọng của một nền hòa bình ổn định và lâu bền trong toàn vùng đối với toàn thế giới. Chuyến tông du của tôi tại Libăng cũng trải dài ra toàn vùng Trung Đông, được đặt để dưới dấu chỉ của hòa bình, bằng cách lấy lại lời của Chúa Kitô: ”Thầy ban bình an của Thấy cho các con” (Ga 14,27). Xin Thiên Chúa chúc lành cho Libăng và vùng Trung Đông. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

Đức Thánh Cha cũng chào các tín hữu công giáo và toàn dân Kazakhstan, nơi Đức Hồng Y Sodano, đặc sử của ngài, cử hành lễ thánh hiến nhà thờ chính tòa mới của giáo phận Karaganda. Ngài cũng chào các tín hữu Latinh Leopoli bên Ucraine, nơi Đức Hồng Y Tomko, đặc sứ của ngài, chủ sự các lễ nghi kỷ niêm 600 năm thành lập tổng giáo phận này.

Linh Tiến Khải

 

 

ĐIẾC VÀ NGỌNG

ĐIẾC VÀ NGỌNG
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]
 
Điếc là không nghe được, khác với nghễnh ngãng là nghe không rõ. Câm là không nói được, khác với ngọng là nói không rõ, khó nghe. Theo khoa học thì người ta nói được là nhờ khả năng bắt chước. Cứ nhìn trẻ sơ sinh được cha mẹ tập nói cho, thì đủ rõ. Trẻ chăm chú nhìn cha (hay mẹ) để biết cách sử dụng miệng lưỡi, đồng thời lắng tai nghe âm thanh phát ra từ mịêng cha mẹ, sau đó sẽ bắt chước làm những cử điệu vá phát âm giống như cha mẹ. Lúc đầu có thể không đúng và rõ, nhưng dần dần về sau sẽ nói được gọn gàng, đúng giọng. Cũng vì tập nói chủ yếu là bắt chước cách nói của cha mẹ thông qua việc nghe, nên khi trẻ bị điếc thì trẻ cũng bị ngọng luôn (dù có phát ra âm thanh cũng chỉ ú ớ không rõ tiếng).
 
Câm thì nặng hơn vì cơ quan (mịêng, lưỡi, dây phát âm) bị khuyết tật nặng nề. Ở đời, thường những người ngọng (hay câm) là vì bị điếc. Với khoa học tiến bộ ngày nay có máy trợ thính giúp người điếc nghe được và nếu bị ngọng thì có thể kiên trì tập luyện sẽ nói được, nhưng nếu người ấy bị khuyết tật cả bộ phận phát âm thì cũng chỉ còn cách nói bằng cử chỉ (dùng 2 tay, ánh mắt và môi mịêng) ra hiệu. Đã không nghe lại không nói được, cuộc đời của người câm điếc như bị đóng lại trước một thế giới đang mở ra, chẳng khác gì người tù biệt giam không thể có mối tương quan nào với xã hội bên ngoài.
 
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7, 31-37) trình thuật phép lạ Chúa Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Chúa không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng. Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.
 
Nói đến vấn  đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá nhiêu khê  và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trước rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…). Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng" (Mt 25, 42-43).
 
Quả thực là  vẫn còn quá nhiều bệnh nhân "đui mù câm điếc" tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị. Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuóc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy.
 
Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài" (Thánh Âu-tinh), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định "Đức tin của con đã chữa lành con".
 
Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã "giả mù sa mưa" để có thể câm lặng "toạ thị cầu an" hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bệnh vực cho những người bị áp bức.
 
Cúi xin Chúa ban Thần Khí chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người "què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc" được khỏi không những căn bệnh "đui mù câm điếc" về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa.
 
Ôi! Lạy Chúa! "Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời và vâng nghe theo Chúa. Xin cho biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban…" ("Lắng nghe Lời Chúa" – TCCĐ). Amen.
 
JM. Lam Thy ĐVD.
 

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ MÌNH

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ  MÌNH

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]

Con cái là niềm vui tuyệt vời của cha mẹ. Sinh được một người con là hồng ân lớn lao cho cha mẹ, gia đình, dòng tộc. Nhưng sinh một đứa con kém may mắn, không hoàn hảo, tật nguyền, dị dạng, thiểu năng bẩm sinh, câm điếc chẳng hạn, không chỉ là nỗi buồn mà còn là thử thách lớn lao cho cha mẹ: thử thách tình yêu và thử thách niềm tin. Thật là cao cả, đáng quí, đáng ca ngợi biết bao những cha mẹ phải chịu đựng hy sinh cả đời trong tin yêu phó thác mà không một lời than vãn kêu ca. Tất cả tình thương và những gì tốt đẹp nhất được dành hết cho đứa con tật nguyền, bệnh hoạn. Tôi vẫn nghĩ, họ đang mặc lấy trái tim yêu thương nhân hậu của Chúa mới có thể đối xử với con mình cách đáng trân trọng như thế. Bằng không, thật là tồi tệ.
 
Sinh được một đứa con hoàn hảo, xinh đẹp, niềm vui ấy còn tuyệt vời hơn. Con khôn ăn chóng lớn, nói chắc, đi vững, là phần thưởng cho những hy sinh của cha mẹ. Rồi con ngoan ngoãn, nghe tốt, vâng kỹ, học giỏi, thành người có ích cho gia đình, cho xã hội, thì cha mẹ hãnh diện biết bao. Nhưng đối với những cha mẹ Công Giáo, thì thiết tưởng nên chọn niềm vui thiêng liêng cao quí nhất là  thấy con khôn ngoan biết thờ phượng Chúa, siêng năng kinh hạt, sốt sắng Thánh Lễ, viếng Chúa, đọc học Lời Chúa và nên người con của Chúa cách xứng đáng: biết mến Chúa yêu người trong gia đình và ngoài xã hội.
         
Nếu trong nhà bạn, trong nhà tôi có những đứa con hình dáng xinh đẹp, trí khôn thông minh, học hành giỏi giang, kinh tế vững vàng… mà không thuộc kinh nào, hoặc là hồi nhỏ đọc kinh với cha mẹ thuộc làu làu, lớn lên bỏ đọc dần rồi quên hẳn, thì chẳng phải là con mình đang bị câm đó sao?
 
Hồi nhỏ nghe lời cha mẹ, nghe Lời Chúa, lớn lên rồi có  được ít chữ, ít kinh nghiệm, ít tiền rủng rỉnh trong túi, thì coi cha mẹ là tụt hậu, là “đồ cổ”, và không buồn nghe cha mẹ bảo ban nhắc nhở nữa, cũng không nghe Lời Chúa, không giữ luật Chúa nữa… thì chẳng phải là con mình bị điếc đó sao?
         
Con không nói được một lời cảm ơn, một lời xin lỗi, huống chi nói được một lời ủi an cha mẹ trong lúc tuổi già, huống chi nói được một lời yêu thương, tri ân hay hiếu kính, chẳng phải là nó đã bị bệnh câm rồi đó sao?
 
Con không nghe được tiếng lòng của cha, không nghe được nỗi  đau của mẹ thì làm gì nghe được nỗi xót xa của tha nhân, chẳng phải nó bị điếc rồi đó sao?
 
Thật bi đát! Bệnh câm điếc của con, đã đành, lại thêm bệnh câm điếc của vợ, của chồng, của cha mẹ. 
 
Ông B buồn uống rượu cả ngày chỉ vì bà B chưa bao giờ chịu nhún nhường xin lỗi ông B trong suốt 40 năm làm vợ. Bà X cả ngày không nói gì nếu ông X không hỏi. Bà A chưa bao giờ hỏi ông A câu “Ông có khỏe không?” Có vợ chồng chưa bao giờ đọc kinh chung với nhau kể từ sau ngày cưới ! Đến ngày cưới vợ cho con, mướn một tay MC đọc kinh luôn, hoành tráng hơn, bài bản hơn! Vợ chồng chẳng ai chịu nghe ai, chẳng ai hiểu ai, trong khi hai người đều nói tiếng Việt ! Chẳng phải là bệnh câm điếc đang hoành hành ngay trong nhà mình đó sao?
 
Nếu vợ chồng, con cái trong gia đình mà không nói nhau nghe, không nghe nhau nói, thì còn gì là một tổ ấm yêu thương? Cả nhà chúng ta cùng câm điếc mãi vậy được sao ? Ra đường, đến Nhà Thờ, làm công tác tông đồ, làm ông kia bà nọ, nói và nghe khá lắm, mà về nhà thì lại câm và điếc với nhau. Thật vô lý! Đã thế, lại không có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc trong nhà mình!
 
Sống với nhau bằng xương bằng thịt hữu hình, sờ tận tay, thấy tận mắt mà còn câm điếc thì nói gì đến việc sống với Thiên Chúa, Đấng Vô Hình? Khi đã mang bệnh câm điếc trong gia đình như  thế thì rõ ràng là không có dấu chỉ nào cho thấy sự trưởng thành cần có về Đức Tin và đời sống nội tâm với Thiên Chúa.
 
Từ  gia đình ruột thịt, đến gia đình thiêng liêng, gia đình Hội Thánh, bệnh câm điếc cũng tràn lan:
 
– Cấp trên cấp dưới trong Hội Thánh chưa thực sự  trân trọng việc nói và nghe nhau. Có khi lại còn xu nịnh phường gian ác, nạt nộ kẻ lòng ngay. Tiếng nói của con chiên vẫn luôn là thấp bé, kém giá trị, nhất là những con chiên nghèo, con chiên tội lỗi, con chiên bị áp bức, con chiên ít học lại hay nói thật mất lòng, con chiên bị kết án chống đối. Con chiên bị phân biệt đối xử đúng như khuyến cáo của Thánh Giacôbê trong bài đọc 2 hôm nay ( x. Gc 2, 1 – 5 ). Câm điếc thật nguy hại!
 
– Gương xấu câm điếc trịch thượng ấy cũng lây lan sang cho kẻ lớn người nhỏ trong các Giáo Xứ, các Hội Đoàn chẳng ai muốn nghe ai. Câm điếc thật đáng sợ!
 
Thế  nhưng, được mấy người biết mình đang câm điếc? Được mấy người biết sợ bệnh câm điếc? Được mấy người “xao xuyến”, quan tâm đến chuyện nạn câm điếc đang hoành hành nơi chính mình, trong nhà, ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội? Và được mấy người có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc cho bản thân và cho mọi người trong thời đại hôm nay? Trong khi có quá nhiều người không biết mình đang mắc bệnh câm điếc thì Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người hãy biết “xao xuyến”, biết sợ bệnh, có ước muốn được điều trị bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay chữa lành.
 
Có “biết mình đang mắc bệnh” rồi xao xuyến, và  sợ bệnh thì mới cảm được lòng lo của Thiên Chúa qua lời mời gọi của Ngôn Sứ Isaia: “Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ ! … Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được"(Is 35, 4 – 7a ).
 
Có  ước muốn chữa bệnh và tin tưởng khẩn xin Thiên Chúa chữa cho thì mới được chữa khỏi. Tin Mừng kể rõ: “Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy”. Người câm điếc ấy hẳn có đủ các yếu tố: biết bệnh, sợ bệnh, muốn được chữa khỏi và bằng lòng xin Chúa Giêsu đặt tay chữa bệnh… (Mc 7, 31 – 37).
 
Lạy Chúa Giêsu, mỗi chúng con đều ít nhiều đang bị bệnh câm điếc trong nhà ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội. Xin cho chúng con biết sợ bệnh, biết ước muốn lành bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay để mở tai chúng con nghe Lời Chân Lý, nghe được tiếng than khóc của tha nhân, mở miệng chúng con để ca tụng Tình Yêu Chúa, bênh vực kẻ bị áp bức, nói lời nhân ái trong gia đình và giữa cuộc đời. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

Trích từ Xuân Bích VN

VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC NGƯỢC VỚI GIÁO LUẬT ĐÃ TÀN PHÁ GIÁO HỘI SAU VATICAN II.

Không thể dửng dưng với Chúa Kitô.

Kỷ niệm 80 năm thành lập giáo phận Zhou Zhi, Trung Quốc.

Phán quyết lịch sử đối với các Kitô hữu: luật chống cải đạo là vi hiến.

Từ Chủ nghĩa quốc xã tới “phong trào Hồi giáo Sunni (Salafism).

Đức Biển Đức XVI, người đầu tiên đăng ký dự JWJ (WYD) Rio 2013.

Vatican nói lên ý kiến về trường hợp [tội] báng bổ của em gái người Pakistan.

Tân Học viện sẽ đẩy mạnh việc sử dụng La-tinh.

Bộ ngoại giao Israel bác bỏ khiếu nại về Tân Sứ thần Toà Thánh.

Bổ nhiệm mới.

-“Anh chị em đã sẵn sàng đi đến tận cùng chưa?”.

-Hội nghị “TIN VÀO KHOA HỌC?”, với Dominique Bourg và Pierre Gisel.

Vatican mời Usain Bolt nói chuyện tại hội nghị tự do tôn giáo.

Hội Thảo Nghiên Cứu (*) cho 92 tân giám mục thuộc các xứ truyền giáo.

Không dùng tôn giáo phục vụ cho những mục đích trần thế.

An tử quá phức tạp để giao mặc cho các nhà chính trị.

Ở Ba Tây, điều không tưởng đã xảy ra như dự định.

Xây dựng một Châu Âu mới gợi nhớ Tháp Babel.

-TGP Milwaukee dự tính đóng cửa hơn 100 giáo xứ.

Lãnh tụ Hồi giáo bị bắt vì mưu gian nhằm hại em bé Pakistan trong vụ báng bổ.

Những thử thách mới đối với nữ giới về ngừa tránh thai.

-Giáo Hội ở Liban.

Hôn nhân đồng tính sẽ ảnh hưởng khủng khiếp đến tự do tôn giáo.

Tình thương nhưng không, sự hiệp nhất với Đức Thánh Cha sẽ làm chứng cho học thuyết xã hội của Giáo Hội.

Thánh Mẫu học kể từ Vatican II – Hội Nghị Quốc tế Thánh Mẫu học lần 23.

Thủ lãnh Nhóm các LM bất đồng Áo tiếp tục vận động thay đổi trong Giáo Hội.

Rửa tội 294 người trong 8 tháng tại giáo xứ Jiang Yin, giáo phận Nan Jing.

ĐHY Á Căn Đình chỉ trích việc LM từ chối rửa tội cho các trẻ em ngoài giá thú.

Tân Nữ đại sứ Lituania tại Toà Thánh.

“Thánh Giá của Hy Vọng”(Cruz de la Esperanza).

 (Xem chi tiết . . .    TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (09-03 đến 09-09-2012) )

MỪNG SINH NHẬT MẸ MARIA 8 THÁNG 9

MỪNG SINH NHẬT MẸ MARIA 8 THÁNG 9

Ngày ấy, có tiếng khóc chào đời của một nữ nhi. Có thể gọi là một tiên nữ giáng thế, bởi nữ nhi ấy không thuộc về cõi phàm, không vương nhơ vướng uế, nhưng là một phần hữu thể của Thượng Đế chí thánh, chí thiện, chí cao. Nữ Nhi ấy là Mẹ Maria.

Tôi tin Đức Maria là Tiên Nữ, hay là Người Nữ Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, Tôi tin Người Nữ của Thiên Chúa được chính Thiên Chúa tác thành. Bởi, Đức Maria vẫn là cốt nhục của đôi con người Gioakim và Anna, là kết tinh của một tình yêu đôi lứa thánh thiện, nhưng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa thì cốt nhục ấy cũng không thể thành hình vì khi bà Anna mang thai thì đôi vợ chồng ấy đã đến hồi luống tuổi.

Vậy, việc Đức Maria sinh ra trong trần gian là chương trình từ ngàn đời của Thiên Chúa, trong kế hoạch Tình Yêu bao la muốn chia sẻ, muốn hiến trao. Có thể nói Đức Maria là mạc khải mới nhất của tình yêu Thiên Chúa, mạc khải một niềm hy vọng cho trần gian sẽ có một ngày ánh sáng Thiên Chúa ngập tràn, mạc khải một niềm ủi an vô hạn trong cảnh đọa đày gian khổ, mạc khải một nỗi vui của sự sống mới giữa cảnh đời đang khô khốc cảnh chết chóc, tan tác, bụi bay vì tội nguyên tổ.

Chính nơi cung lòng tinh tuyền của Đức Maria, Đức Giêsu Kitô, Mặt trời Công Chính đã cư ngụ, đã hình thành thuở là một thai nhi.

Chính Đức Maria, đã làm cho ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Tình Yêu được thực hiện.

Như vậy, sự hiện diện của Đức Maria trên trần gian, khởi điểm cho sự hiện diện của Đấng Cứu Thế, Đấng là Ngôi Lời  Sáng Thế, nay là Ngôi Lời Cứu Thế; Đấng cứu chúng ta ra khỏi Lời chúc dữ để nhận lại Lời Chúc Lành thuở khai nguyên.

Kể từ lúc Đức Maria nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế, chúng ta gọi Người là Đức Mẹ, Mẹ của Đấng Cứu Thế, và là Mẹ của những ai tin vào Đấng Cứu Thế, con của Người.

Giáo Hội Mừng Sinh Nhật Mẹ, nhắc nhở mỗi người hiểu được nỗi lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sinh ra Đức Maria tinh tuyền, một Evà mới tinh tuyền, để Đức Maria Tinh Tuyền sinh ra một một Mặt Trời Công Chính là Chúa Giê-su Ki-tô, và chính Ngài sẽ phục hồi cho Thiên Chúa một nhân loại mới tinh tuyền, thánh thiện như thuở khai nguyên.

Mừng sinh nhật Mẹ Maria, dịp thuận tiện cho mỗi tín hữu nhớ lại mình đã được sinh lại cùng với Chúa Giê-su Ki-tô để nên con người mới của Thiên Chúa, và cũng là dịp thuận tiện đễ mỗi người nhìn mình: có còn giữ được sự thánh thiện, tinh tuyền của dòng dõi Thiên Chúa hay không.

Nguyện xin Mẹ Maria giúp chúng con biết quí trọng ơn tái sinh và gìn giữ cho được tinh tuyền mãi trong suốt hành trình dương thế, để xứng đáng được Chúa Giê-su Con Mẹ, đưa chúng con vào cuộc sống vĩnh cửu.

“Hỡi Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Sinh Nhật của Mẹ đã làm cho mọi người tràn trề niềm an ủi và vui mừng, bởi vì Mặt Trời công chính, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã được sinh ra từ Mẹ, chính Ngài đã kéo chúng ta ra khỏi lời chúc dữ và ban cho chúng ta muôn vàn lời chúc phúc; sau khi đã làm cho vương quốc sự chết lụi tàn, chính Ngài đã đưa chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu.”

PM. Cao Huy Hoàng, 8 tháng 9-2012

Đức Thánh Cha tiếp kiến 100 Giám Mục thuộc các xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến 100 Giám Mục thuộc các xứ truyền giáo

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các GM thuộc các xứ truyền giáo tiếp tục tín thác vào sức mạnh của Tin Mừng giữa bao nhiêu nghịch cảnh và khó khăn đang đè nặng trên cuộc sống hằng ngày của dân chúng.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 7-9-2012, dành cho khoảng 100 GM đến từ các xứ thuộc Bộ truyền giáo ở Á, Phi, Mỹ la tinh và Úc châu, đang tham dự khóa bồi dưỡng tổ chức tại Học viện Thánh Phaolô ở Roma. Hiện diện tại buổi kiếp kiến cũng có ĐHY Tổng trưởng Fernando Filoni và 2 vị Tổng thư ký của Bộ là Đức TGM Savio Hàn Đại Huy SDB và Đức TGM Protase Rugambwa.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Các giáo phận của anh em biết rõ bối cảnh xã hội bấp bênh đang ảnh hưởng mạnh đến đời sống hằng ngày của người dân. Những tình trạng cấp thiết về lương thực, sức khỏe và giáo dục đang đặt ra những câu hỏi cho cộng đoàn Giáo Hội và liên hệ trực tiếp tới Giáo Hội. Nói đúng hơn, sự quan tâm và hoạt động của Giáo Hội được đánh giá cao và ca ngợi. Ngoài những thiên tai còn có nạn kỳ thị văn hóa và tôn giáo, sự bất bao dung và thiên vị, hậu quả của trào lưu cực đoan với những nhân sinh quan sai lầm và dẫn tới sự coi rẻ, hoặc chối bỏ tự do tôn giáo, sự tôn trọng những người yếu thế nhất, đặc biệt là các trẻ em, phụ nữ và người khuyết tật. Sau cùng là sự xung khắc giữa các chủng tộc và giai cấp tái lan tràn, gây ra những bạo lực không thể biện minh được.”

Đứng trước những hiện tượng ấy, ĐTC nói với các GM rằng: ”Anh em hãy tín thác nơi Tin Mừng, nơi sức mạnh đổi mới của Tin Mừng, khả năng thức tỉnh lương tâm và khơi lên từ nội tâm sự cứu độ con người và tạo nên một tình huynh đệ mới. Việc phổ biến Lời Chúa làm triển nở hồng ân hòa giải và tạo điều kiện cho sự hiệp nhất các dân tộc”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC ca ngợi đức tin sinh động của các Giáo Hội trẻ, và gọi đây là một dấu chỉ hy vọng cho tương lai Giáo Hội hoàn vũ. Ngài nói: ”Anh em hãy quan tâm đến sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, hội nhập đức tin vào các nền văn hóa địa phương, huấn luyện các ứng sinh linh mục, chăm sóc hàng giáo sĩ giáo phận, các tu sĩ nam nữ và giáo dân. Giáo Hội nảy sinh từ sứ vụ truyền giáo và tăng trưởng với sứ vụ này”.

ĐTC nhắc nhở rằng “Một sự hội nhập đúng đắn đức tin vào các nền văn hóa sẽ giúp anh em đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của các dân tộc, và đón nhận những gì là tốt trong các nền văn hóa ấy. Đây là một tiến trình lâu dài và khó khăn, và không bao giờ được làm thương tổn đặc tính và sự toàn vẹn của đức tin Kitô (Xc Redemptoris missio 52). Sứ mạng truyền giáo đòi các vị Mục Sử phải trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô nhờ đời sống thánh thiện, khôn ngoan, thận trọng, nhìn xa trông rộng và sẵn sàng quảng đại xả thân vì Tin Mừng và quan tâm tới tất cả các Giáo Hội”.

Sau cùng, ĐTC không quên mời gọi các GM hướng dẫn các LM bằng gương sáng, sống hiệp thông với các LM, sẵn sàng lắng nghe và đón nhận các vị ấy tới tình phụ tử, đề cao những khả năng khác nhau của các LM, dấn thân đảm bảo cho các LM của mình những cuộc gặp gỡ chuyên biệt và theo định kỳ để huấn luyện. (SD 7-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI CÁC THẦN HỌC GIA VÀ CHUYÊN VIÊN THÁNH MẪU HỌC GÓP PHẦN SUY TƯ VÀ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ CHO NĂM ĐỨC TIN

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI CÁC THẦN HỌC GIA VÀ CHUYÊN VIÊN THÁNH MẪU HỌC GÓP PHẦN SUY TƯ VÀ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ CHO NĂM ĐỨC TIN

CASTEL GANDOLFO: Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi các thần học gia và chuyên viên thánh mẫu đóng góp suy tư và đề nghị mục vụ, để cho Năm Đức Tin sắp khai mở trở thành thời điểm ơn thánh, trong đó đức tin tinh tuyền của Mẹ Maria trở thành đèn pha định hướng và là mẫu gương của sự trưởng thành kitô.

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo trưa 8 tháng 9, dành cho các tham dự viên đại hội thánh mẫu học quốc tế lần thứ 23. Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trường Bộ Phong thánh, và Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng tóa thánh về văn hóa, cũng như vị chủ tịch và các giới chức của Hàn lâm viện giáo hoàng thánh mẫu quốc tế. Đại Hội có đề tài là ”Thánh mẫu học từ Công Đồng Chung Vatican II. Tiếp nhận, tổng kết và các viễn tượng”. Đức Thánh Cha đã nhắc lại sự kiện Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII muốn khai mạc Công Đồng Chung Vatican II vào ngày 11 tháng 10, cùng ngày Công Đồng Chung Êphêxô công bố Đức Maria là ”Theotókos” Mẹ Thiên Chúa, hồi năm 431.

Đức Thánh Cha nói: Như anh chị em biết ngày 11 tháng 10 tới đây Giáo Hội cũng bắt đầu Năm Đức Tin, mà tôi đã tuyện bố với Tự Sắc ”Cánh cửa Đức tin”, trong đó khi trình bầy Đức Maria như là mô thức, mẫu gương của đức tin, tôi khẩn nài sự che chở và bầu cử đặc biệt của Mẹ trên con đường của Giáo Hội, và phó thác cho Mẹ thời gian ơn thánh này. Hôm nay Giáo Hội cũng vui mừng cử hành lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, toàn thánh, rạng đông sự cứu rỗi của chúng ta.

Nhắc lại kỷ niệm là chuyên viên thần học gia trẻ tham dự Công Đồng, Đức Thánh Cha cho biết ngày 29 tháng 10-1963 các nghị phụ đã bỏ phiếu chấp nhận lược đồ trình bầy gương mặt và vai trò của Đức Mẹ trong bối cảnh của Giáo Hội, thay vì cho ra một tài liệu riêng. Vì thế Hiến chế tín lý về giáo Hội dành một chương để nói về Mẹ Thiên Chúa, trong đó gương mặt của Mẹ Maria được đọc lại và tái đề nghị từ Lời Chúa, từ các văn bản của truyền thống giáo phụ và phụng vụ, cũng như từ suy tư thần học và tu đức, và xuất hiện trong tất cả vẻ đẹp và sự đặc biệt lồng khung trong các mầu nhiêm nền tảng của đức tin kitô. Đức tin của Mẹ được hiểu trong mầu nhiệm tình yêu và sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Sự cộng tác của Mẹ vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa và vào sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô được khẳng định và đặt trong việc nhấn mạnh đúng đắn, khiến cho Mẹ trở thành mô thức và điểm quy chiếu cho Giáo Hội. Giáo Hội nhận ra nơi Mẹ chính mình cũng như ơn gọi và sứ mệnh của mình. Sau cùng lòng tôn sùng bình dân đối với Mẹ được dưỡng nuôi bởi các quy chiếu kinh thánh và giáo phụ. Tuy không trình bầy tất cả các đề tài liên quan tới gương mặt của Mẹ Thiên Chúa, nhưng văn bản công đồng cung cấp chân trời giải thích nòng cốt cho mọi suy tư đến sau về thần học, cũng như tu đức và mục vụ, với sự quân bình giữa lý lẽ thần học và tâm tình mộ mến. Giờ đây việc tiếp tục suy tư là nhiệm vụ của các thần học gia và chuyên viên thánh mẫu học (SD 8-9-2012)

Linh Tiến Khải

BUỔI CANH THỨC CẦU NGUYỆN KITÔ HỒI GIÁO TẠI BEIRUT

BUỔI CANH THỨC CẦU NGUYỆN KITÔ HỒI GIÁO TẠI BEIRUT

BEIRUT: Chiều ngày 12 tháng 9 tới đây các tín hữu Kitô và hồi giáo sẽ tham dư buổi canh thức trong thủ đô Beirut, để cầu xin Thiên Chúa và Đức Maria che chở chuyến viếng thăm Libăng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

Buổi canh thức, do nhiều nhóm đối thoại kitô và hồi giáo tổ chức, có đề tài là ”Cùng nhau trong hòa bình, tình yêu, tự do và an ninh” sẽ diễn ra tại ”Vườn của Đức Maria” gần quảng trường viện bảo tàng quốc gia Beirut. Bốn đoàn bạn trẻ cầm nến sáng và cờ Libăng sẽ xuất phát từ bốn hướng trong thủ đô và sẽ gặp nhau lúc 8 giờ tối tại Vườn của Đức Maria. Chương trình buổi canh thức cầu nguyện bao gồm các bài đọc cũng như các lời cầu xin cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI được tất cả mọi người đón nhận như một phúc lành của Chúa trên dân nước Libăng. Linh Mục Antoine Dapu, Thư ký Ủy ban đối thoại với Hồi giáo của Hội Đồng Giám Mục Leban, cho biết buổi canh thức cầu nguyện cũng nhắm mục đích chứng minh cho thế giới thấy trong thời điểm lịch sử này, Leban có thể là một quốc gia của sự chung sống giữa các tín hữu kitô và hồi giáo.

Tham dự buổi canh thức cùng với các tín hữu kitô và hồi giáo cũng sẽ có đại diện của chính quyền và đại diện của tất cả mọi cộng đoàn tôn giáo khác trong nước.

Trong các ngày qua trong mọi giáo phận toàn Leban đã có hàng trăm buổi cầu nguyện suy tư được tổ chức để giúp mọi người chuẩn bị tinh thần đón tiếp Đức Thánh Cha. Cha Dapu nói: Tất cả mọi người dân Libăng, và tất cả mọi giới Lãnh đạo chính trị, xã hội và tôn giáo, kể cả lực lượng Hezbollah, người Druse và các vị lãnh dạo chính trị Sunnít, đều chờ đợi chuyến viếng của Đức Thánh Cha, và coi đây như là một ơn lành cho đất nước Libăng, giúp vượt thắng mọi chia rẽ.

Cha Marwan Tabet, người phối hợp chuyến công du của Đức Thánh Cha, cho biết cách đây hai tháng người ta đoán Đức Thánh Cha sẽ không thực hiện chuyến viếng thăm này. Nhưng khi cha Lombardi, giám đốc Phòng báo chi Tòa thánh chính thức tái xác nhận, thì Giáo Hội và các giới chức chính quyền đã tích cực duyệt xét lại mọi chi tiết. Tuy viếng thăm Leban, nhưng Đức Thánh Cha viếng thăm toàn vùng Trung Đông. Các hãng máy bay đã quyết định cung cấp các chuyến bay đặc biệt để chở tín hữu từ các nước Giordania, Ai Cập, Iraq và Syria đến Leban.

Đức Cha Kyrillos William, Giám Mục công giáo copte Assiut, cho biết tín hữu hân hoan chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha. Sự hiện diện của ngài tại Leban có ý nghĩa rất lớn đối với toàn vùng Trung Đông. Nó cho thấy Giáo Hội toàn thế giới gần gũi với các kitô hữu Trung Đông. Tuy các kitô hữu chỉ là một thiểu số, nhưng chứng tá tình yêu thương huynh đệ của họ rất được qúy chuộng. Các cơ sở giáo dục và bác ái xã hội của các kitô hữu phục vụ tất cả mọi người không phân biệt ai. Vì thế hy vọng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ giúp củng cố tự do tôn giáo và đối thoại liên tôn. Tổng thỗng Leban đã tuyên bố ngày 15 tháng 9 là quốc lễ (FIDES 7-9-2012; SD 7.8-9-2012)

Linh Tiến Khải

GIÁO HỘI PERU KHÍCH LỆ ĐỐI THOẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ TRANH CHẤP TẠI CAJAMARCA

GIÁO HỘI PERU KHÍCH LỆ ĐỐI THOẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ TRANH CHẤP TẠI CAJAMARCA

CAJAMARCA: Đức Cha Miguel Cabrejos Vidarle, Tổng Giám Mục Trujillo bên Perù, bầy tỏ vui mừng trước quyết định của chính quyền thu hồi lệnh giới nghiêm trong vùng Cajamarca, và ngài khích lệ các phe liên hệ đối thoại để giải quyết các tranh chấp.

Từ nhiều tháng qua dân chúng vùng Cajamarca đã kịch liệt chống lại chương trình khai thác một loạt các quặng mỏ của hàng Mỹ Conga trong vùng, vì họ sợ chúng làm ô nhiễm các nguồn nước và môi sinh. Các vụ đụng độ giữa dân chúng và các lực lượng an ninh đã khiến cho nhiều người bị chết và bị thương. Tình hình căng thẳng đã khiến cho chính quyền ra lệnh giới nghiêm.

Trong một thông cáo công bố những ngày vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Cabrejos mời gọi mọi phe liên hệ trong vụ nay cố gắng tiếp tục cuộc đối thoại để phân tích các vấn đề còn tồn động liên quan tới sự tiến bộ và hạnh phúc của người dân toàn vùng Cajamarca. Tin địa phương hco biết ngày 12 tháng 9 này dân chúng toàn vùng sẽ tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống chính quyền. Hiện nay cảnh sát chống bạo động vẫn trấn ngữ nhiều nơi trong thành phố Cajamarca (FIDES 7-9-2012).

Linh Tiến Khải VietVatican

GIÁO HỘI BOLIVIA CỬ HÀNH NGÀY DI CƯ TỊ NẠN

GIÁO HỘI BOLIVIA CỬ HÀNH NGÀY DI CƯ TỊ NẠN

SANTA CRUZ: Chúa nhật 9 tháng 9 hôm nay Giáo Hội Bolivia cử hành Ngày di cư tị nạn với đề tài ”Di cư và tái truyền giảng Tin Mừng”. Đức Hồng Y Julio Terrazaz TGM Santa Cruz sẽ chủ sự thánh lế bế mạc vào ban chiều, theo sau là hội chợ do Văn phòng mục vụ cho người di động tổ chức.

Bà Maria Videla, đặc trách văn phòng mục vụ toàn quốc cho người di cư, cho biết tín hữu Bolivia đi tới đâu cũng xem theo đức tin, lòng đạo đức và các giá trị văn hóa tôn giáo tới đó. Hiện nay có ít nhất hơn 3 triệu người Bolivia sống tại hải ngoại, đông nhất là bên Argentina với 1,2 triệu, Brasil, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ 600.000. Ngoài ra cũmg có người di cư Bolivia sống tại các nước Thụy Điển, Phần Lan, và Hòa Lan.

Trong các ngày này tại Santa Cruz cũng diễn ra đại hội quốc tế lần thứ 4 về nạn buôn bán người, với sự tham dự của nhiều chuyên viên quốc tế đến từ nhiều nước khác nhau. Mục đích của đại hội là đề ra các đường lối trợ giúp các nạn nhân và ngăn chặn nạn buôn người tại Bolivia (FIDES 7-9-2012).

Linh Tiến Khải

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải là lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn ca Chúa Giêsu Kitô Đng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 5 tháng 9-2012. Ngài đã tiếp tục loạt bài giáo lý về đề tài cầu nguyện. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay tôi muốn nói về lời cầu nguyện trong sách Khải Huyền, như anh chị em biết, là cuốn sách cuối cùng của Thánh Kinh Tân Ước. Đây là một cuốn sách khó, nhưng chứa đựng một sự phong phú rất lớn. Nó đặt để chúng ta trong sự tiếp cận với lời nguyện sống động của cộng đoàn Kitô, tụ tập nhau trong ngày của Chúa (Kh 1,10).

Một đọc viên giới thiệu với cộng đoàn sứ điệp Chúa trao phó cho thánh sử Gioan. Đọc viên và cộng đoàn tạo thành hai tác nhân sự phát triển của sách. Từ sự đối thoại liên lỉ của họ, dâng lên một bản hòa âm cầu nguyện phát triển với các hình thái khác nhau cho tới lúc kết thúc.

Khi lắng nghe đọc viên giới thiệu sứ điệp, lắng nghe và quan sát cộng đoàn phản ứng, lời cầu nguyện của họ hướng tới chỗ trở thành lời cầu nguyện của chúng ta.

Phần đầu của sách Khải Huyền (1,4-3,22) gồm ba phần tiếp nối nhau. Phần một (1,4-8) là cuộc đối thoại giữa cộng đoàn vừa tụ họp nhau lại, và đọc viên chúc họ ”ân sủng và bình an”. Lời cầu chúc ấy tới từ Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và Đức Giêsu Kitô, cùng đấn thân trong việc làm cho chương trình tạo dựng và cứu độ đối với nhân loại được tiến triển. Cộng đoàn lắng nghe, và khi nghe xướng tên Chúa Giêsu Kitô, họ đã nhảy mừng và hăng hái trả lời bằng một lời cầu chúc tụng: ”Cho Đấng yêu mến chúng ta và đã giải thoát chúng ta với Máu của Người, Đấng đã làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thủơ muôn đời Amen” (Kh 1,5-6a).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Cộng đoàn được bao bọc bởi tình yêu của Chúa Kitô cảm thấy được giải thoát khỏi các ràng buộc của tội lỗi, và tự tuyên bố là ”vương quốc” của Chúa Giêsu Kitô, hoàn toàn thuộc về Người. Nó nhìn nhận sứ mệnh lớn lao đã được giao phó với bí tích Rửa Tội là đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào lòng thế giới. Cộng đoàn nhìn lên Chúa Giêsu, và với lòng hăng say gia tăng, nó thừa nhận “vinh quang và uy quyền cứu thoát thế giới của Người. Mấy câu đầu chứa đựng một sự phong phú lớn, vì cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta. Bị chìm ngập trong biết bao nhiêu lời nói, chúng ta ít có thói quen lắng nghe, nhất là đặt để mình trong tư thế nội tâm và bề ngoài để chú ý tới những điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta. Ngoài ra, các câu này còn dậy cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Người đọc lại nhắc nhở cộng đoàn dấn thân tiếp đón sự hiện diện tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc sống: ”Kìa Người ngự giữa đám mây, ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người” (Kh 1,7a). Sau khi đã lên trời trong một ”đám mây”, biểu tượng của sự siêu việt (x. Cv 1,9), Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại như đã lên trời (x. Cv 1,11b). Khi đó mọi dân tộc sẽ nhận biết và ”sẽ hướng nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu (Ga 19,37). Họ sẽ nghĩ đến các tội lỗi của mình, là lý do của việc đóng đinh Người, và như những người đã trực tiếp chứng kiến cảnh đóng đanh trên đồi Calvê, ”họ sẽ đấm ngực” (x, Lc 23,48), xin Người tha thứ, để theo Người trong cuộc sống, và như thế chuẩn bị cho sự hiệp thông trọn vẹn với Người, sau cuộc trở lại sau hết của Người. Cộng đoàn suy tư về sứ điệp ấy và trả lời ”Amen” (Kh 1,7b). Nó diễn tả việc tiếp nhận tràn đầy những gì được chyển đạt với tiếng ”Có”, và xin cho điều đó trở thành thực tại. Đó là lời cầu nguyện của cộng đoàn suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa, được tỏ lộ ra một cách cao vời trên Thập giá, và xin được sống trung thực như môn đệ của Chúa Kitô. Và Thiên Chúa trả lời: ”Ta là Alpha và Omega, Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8).

Thiên Chúa tự mạc khải như là sự khởi đầu và kết thúc của lịch sử, Người chấp nhận và chú ý tới lời xin của cộng đoàn. Với tình yêu Người đã, đang và sẽ hiện diện tich cực trong các biến cố của loài người cho tới ngày sau hết. Lời cầu nguyện thức tỉnh trong chúng ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống và trong lịch sử; và sự hiện diện của Chúa đỡ nâng, hướng dẫn và trao ban hy vọng cho chúng ta, cả giữa sự tối tăm của vài biến cố nhân loại. Ngoài ra, mỗi một lời cầu nguyện, cả lời cầu nguyện trong thanh vắng triệt để nhất, cũng không bao giờ lẻ loi và cằn cỗi, mà là nhựa sống dưỡng nuôi cuộc đời Kitô ngày càng dấn thân và trung thực hơn.

Phần hai lời cầu nguyện của cộng đoàn (Kh 1,9-22) đào sâu tương quan với Chúa Giêsu Kitô: Chúa cho thấy Người, nói, hành động; và cộng đoàn luôn gần gũi Người hơn lắng nghe, phản ứng và tiếp nhận. Thánh Gioan chia sẻ với cộng đoàn kinh nghiệm riêng của mình đang ở đảo Patmos, vì rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu. Đó là vào Ngày của Chúa, tức Chúa Nhật, ngày cử hành sự phục sinh. Thánh nhân được Thánh Thần nắm lấy, thấm nhuần, canh tân, và làm nở khả năng tiếp nhận Chúa Giêsu mời thánh nhân viết. Lời cầu nguyện của cộng đoàn từ từ trở thành một thái độ chiêm niệm, được đánh nhịp bởi các động từ ”trông thấy”, ”nhìn”, ”chiêm niệm”, nghĩa là nội tâm hóa và biến thành của mình những gì đọc viên đề nghị.

Thánh Gioan nghe một tiếng lớn như tiếng kèn, sai gửi sứ điệp cho bẩy Giáo Hội tại Tiểu Á, và qua các Giáo Hội ấy gửi cho tất cả mọi Giáo Hội và các chủ chăn. Tiếng kèn nhắc nhớ tới cảnh Thiên Chúa hiện ra với ông Môshê trên núi Sinai trong sách Xuất Hành (Xh 20,18), và ám chỉ tiếng Thiên Chúa nói từ Trời, từ sự siêu việt của Người; ở đây nó được áp dụng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh nói với cộng đoàn đang cầu nguyện từ vinh quang của Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan trông thấy bảy cây đèn vàng với nến cháy sáng, ở giữa có một người giống như Con Người, là từ ám chỉ chính Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha giải thích hình ảnh bẩy cây đèn vàng cháy sáng như sau:

Các cây đèn vàng có nến cháy sáng ám chỉ Giáo Hội thuộc mọi thời đại trong thái độ cầu nguyện trong Phụng vụ: Chúa Giêsu Phục Sinh, ”Con Người” ở giữa Giáo Hội và mặc phẩm phục Thượng tế của Cựu Ước đang chu toàn nhiệm vụ tư tế trung gian gần Thiên Chúa Cha. Trong sứ điệp của Gioan có sự biểu lộ sáng láng của Chúa Kitô Phục Sinh với các đặc tính của Thiên Chúa. ”Tóc trắng như tuyết” (Kh 1,14) biểu tượng cho sự vĩnh cửu của Thiên Chúa (Dn 7,9) và sự Phục Sinh. Lửa trong Cựu Ước thường được gán cho Thiên Chúa biểu tượng cho hai đặc tính: thứ nhất là sức mạnh sự ghen tương tình yêu của Người linh hoạt giao ước của Người với nhân loại (x. Đnl 4,24). Người ta có thể đọc đựơc chính sức mạnh cháy nóng tình yêu ấy trong cái nhìn của Chúa Giêsu Phục Sinh: ”mắt Người như ngọn lửa hồng” (Kh 1,14a). Đặc tính thứ hai là khả năng chiến thắng sự dữ ”như lửa thiêu rụi” không thể kìm hãm được (Đnl 9,3). Chân của Chúa Giêsu tiến lên phá hủy sự dữ cũng thế, giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò (Kh 1,15). Tiếng nói của Chúa Giêsu Kitô ”giống như tiếng nước lũ” (Kh 1,15c), như tiếng ”vinh quang của Thiên Chúa tiến về Giêrusalem” mà ngôn sứ Edekiel nói tới (Ed 43,2).

Tiếp theo đó ba yếu tố biểu tượng khác nữa cho thấy điều Chúa Giêsu Phục Sinh đang làm cho Giáo Hội: Người cầm Giáo Hội vững chắc trong tay phải, nói với Giáo Hội với sức mạnh của một thanh gươm sắc nhọn, và chỉ cho Giáo Hội thấy ánh quang thiên tính của Người: ”mặt Người tỏa sáng như mặt trời chói lọi” (Kh 1,16). Kinh nghiệm tuyệt vời ấy khiến cho thánh Gioan đuối sức và ngã vật xuống như chết. Thánh nhân có Chúa Giêsu ở trước mặt đang nói với thánh nhân, trấn an và đặt tay trên đầu thánh nhân, tỏ lộ căn tính là Đấng bị đóng đanh Phục Sinh và giao cho thánh nhân nhiệm vụ viết một sứ điệp cho các Giáo Hội (Kh 1,17-18). Cộng đoàn cũng chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ hằng ngày với Chúa Giêsu, và nhận ra sự phong phú của việc tiếp xúc ấy với Chúa, là Đấng làm tràn đầy mọi không gian của cuộc sống.

Phần thứ ba là hai chương 2-3 của sách Khải Huyền, gồm sứ điệp gửi cho bẩy Giáo Hội Tiểu Á ở chung quanh Ephêx0, trong đó Chúa Giêsu ngỏ lời ở ngôi thứ nhất. Chúa khởi hành từ tình trạng sống đặc biệt của từng Giáo Hội để trải đài ra các Giáo Hội thuộc mọi thời đại. Chúa cho thấy các ánh sáng và bóng tối của từng Giáo Hội và cấp thiết mời gọi ”Hãy hoán cải” (Kh 2,5.16; 3,19c); ”Hãy nắm vững điều ngươi đang có” (3, 11); ”Hãy làm các việc thủơ ban đầu” (2,5); ”Hãy nồng nhiệt và hoản cải” (3,19b)… Các lời này của Chúa Giêsu, nếu được lắng nghe với đức tin thì bắt đầu hữu hiệu ngay. Giáo Hội đang cầu nguyện tiếp nhận Lời Chúa được biến đổi. Mọi Giáo Hội đều phải lắng nghe Chúa và rộng mở cho Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu liên tục đòi hỏi: ”Ai có tai thì lắng nghe lời Thần Khí nói với các Giáo Hội” (2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp nhận được sự khích lệ để sám hối, hoán cải, kiên trì, lớn lên trong tình yêu và định hướng lộ trình của mình.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đc Thánh Cha đã cất Kinh Lạy cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Liên Phi châu Giáo dân Công Giáo

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Liên Phi châu Giáo dân Công Giáo

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi Giáo Hội tại Phi châu tiếp tục hy vọng, mặc dù những hoàn cảnh khó khăn và đen tối, đồng thời hăng say thông truyền Tin Mừng hy vọng cho tha nhân.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong sứ điệp gửi đến hơn 300 đại biểu của hàng giáo dân và đại diện các HĐGM đang tham dự Hội nghị giáo dân Công Giáo Phi châu tiến hành tại Yaoundé, thủ đô Camerun, từ ngày 4 đến 9-9-2012 về đề tài: ”Chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô tại Phi châu ngày nay. Muối đất.. Ánh sáng thế gian” (Mt 5.13.14).

Trong Sứ điệp, ĐTC đề cao tầm quan trọng của Hội nghị giáo dân Phi châu và gọi đây là một giai đoạn đầy ý nghĩa để thực hiện điều mà Chúa Thánh Linh soi sáng cho các nghị phụ Thượng HĐGM Phi châu kỳ 2 nhóm tại Roma hồi năm 2009. Ngài cũng nhận xét rằng những vấn đề của Phi châu thoạt nhìn có vẻ rất trầm trọng và không dễ giải quyết, với bao nhiêu chướng ngại tinh thần và luân lý đối với Giáo Hội, các giá trị truyền thống vững chắc của văn hóa Phi châu bị đe dọa vì nạn tục hóa.. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, nơi tâm hồn của người dân Phi châu, chúng ta khám phá thấy một nguồn tài nguyên tinh thần rất phong phú, rất quí giá đối với thời nay như lòng yêu mến sự sống và gia đình, cảm thức vui tươi và chia sẻ, lòng nhiệt thành sống niềm tin nơi Chúa.

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Anh chị em đừng bao giờ để cho não trạng đen tối của thuyết duy tương đối và hư vô ảnh hưởng tiêu cực trên thực tại của anh chị em; hãy đón nhận và hăng say truyền bá sứ điệp vui mừng và hy vọng mà Chúa Giêsu mang đến”.

ĐTC đặc biệt nhắc đến tấm gương của thánh nữ Giuseppina Bakhita, cựu nô lệ người Sudan, đã chứng tỏ rằng cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô có khả năng biến đổi sâu đậm nơi mỗi người, cả trong những hoàn cảnh nghèo khổ nhất.. Sự khám phá niềm hy vọng Kitô đã khơi lên nơi thánh Bakhita một ước muốn mới mẻ, không thể cầm hãm nổi: đó là thông truyền sự giải thoát mà thánh nữ đã nhận được từ Chúa Kitô.. Niềm hy vọng đã nảy sinh và cứu chuộc thánh nữ, Người không thể giữ riêng cho mình, và niềm hy vọng này phải được đi tới nhiều người, tới tất cả mọi người”.

Từ mẫu gương đó, ĐTC nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo tại Phi châu hăng say tham gia công trình loan báo Tin Mừng: 'nơi nào đức tin đưa tới sự loan báo, thì việc loan báo Tin Mừng cũng củng cố đức tin'. Ngài nói: ”Những người nam nữ, già trẻ, các gia đình và toàn thể xã hội Phi châu ngày nay đang chờ đợi các ”sứ giả” Tin Mừng, chờ đợi các tín hữu giáo dân đến từ các giáo xứ, các cộng đồng Giáo Hội sinh động, các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội, yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội, đầy lòng vui mừng và biết ơn vì phép rửa đã nhận lãnh, những người can cảm kiến tạo hòa bình và loan báo niềm hy vọng đích thực”.

Hội nghị giáo dân Công Giáo tại Yaoundé do Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tổ chức. ĐHY Stanislaw Rylko, Chủ tịch của Hội đồng này cho biết: Hội nghị này muốn khơi dậy nơi giáo dân tinh thần đồng trách nhiệm và dấn thân trong sứ mạng rao giảng Chúa Kitô, làm chứng về đức tin tại Phi châu vì đây là điều thuộc về chính căn tính của Kitô hữu. (SD 5-9-2012).


G. Trần Đức Anh OPVietVatican

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ CÔNG BỐ THÔNG CÁO CHO NGÀY LAO ĐỘNG 3 THÁNG 9

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ CÔNG BỐ THÔNG CÁO CHO NGÀY LAO ĐỘNG 3 THÁNG 9

WASHINGTON: Ngày 13 tháng 8-2012 Ủy ban Công Lý và Phát triển nhân bản của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã công bố thông cáo cho Ngày Lao Động 3-9, khẳng định rằng tôn trọng lao động và các công nhân là chìa khóa của một nền kinh tế được canh tân.

Thông cáo mang chữ ký của Đức Cha Stephen Blaire, Chủ tỉch Ủy ban, có tựa đề là ”Đặt để việc làm và công nhân vào trung tâm cuộc sống kinh tế”. Trong đó các Giám mục Hoa Kỳ nhận định rằng có ”hàng triệu người Mỹ đau khổ vì thất nghiệp, thiếu việc làm, nghèo túng và điều này là một thất bại kinh tế vá luân lý trầm trọng của quốc gia chúng ta”. Nhắc lại sự kiện 12 triệu người không có công ăn việc làm và biết bao nhiêu người có đồng lương qúa thấp hay đã bỏ không kiếm việc làm nữa, 10 triệu gia đình các công nhân nghèo, và 46 triệu người trong đó có 16 triệu trẻ em sống trong bần cùng, Đức Cha Blaire định nghĩa nền kinh tế Hoa Kỳ là ”một nền kinh tế thất bại”. Trích Thông điệp ”Bác ái trong chân lý” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Đức Cha Blaire nhắc lại rằng ”nghèo túng thường khi là hậu qủa của một sự vi phạm phẩm gía công việc làm của con người, hoặc là vì thiếu cơ may có việc làm, hoặc là vì cho rằng công việc làm và các quyền phát xuất từ đó ít gía trị” (CV 63). Chính vì thế mới xảy ra con người phải trả các giá mắc mỏ kinh khủng, hậu qủa của một nền kinh tế thất bại, hay cảnh các công nhân bị khai thác bóc lột, bị đối xử tàn tệ, bị trả lương thấp, khiến cho các gia đình bị căng thẳng”.

Trước cảnh đó nhiều công nhân tranh đấu để có được đồng lương công bằng, một việc làm chắc chắn, một tiếng nói trong thế giới kinh tế, vì họ không thể mua các sản phẩm mà họ đã sản xuất ra, đến ở trong các khách sạn mà họ lau chùi quét dọn, ăn thực phẩm mà họ gặt hái, chuẩn bị và phục vụ”. Và Đức Cha Blaire viết thêm rằng ”chính vì thế một nền kinh tế cho phép kiểu khai thác bóc lột và các lạm dụng này đòi hỏi sự chú ý và hành động của chúng ta”. Tiếp đến Đức Cha nhắc tới dấn thân của Giáo Hội đối với các công nhân bị khai thác bóc lột, được trợ giúp qua văn phòng phục vụ các người di cư và tị nạn và Chiến dịch Giáo Hôi công giáo phát động để thăng tiến nhân bản cho họ. Sau cùng các Giám Muc Hoa Ky kêu gọi ”mọi người và mọi cơ cấu xã hội, các hãng xưởng, chính quyền, các nghiệp đoàn và tổ chức tư nhân cộng tác với nhau trong việc nâng đỡ các công nhân viên và tạo ra một hệ thống kinh tế phục vụ con người hơn là chống lại con người. Các vị cũng xin mọi ngươi cầu nguyện cho tất cả các anh chị em công nhân nhất là những ngừơi khÔng có một công viêc làm xứng đáng, làm sao để tái lập một nền kinh tế công bắng vinh danh phẩm giá lao động và các quyền của giới công nhân” (SD 14-8-2012)

Linh Tiến Khải

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 08-27 đến 09-02-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 08-27 đến 09-02-2012)

Trích từ Xuân Bich VN

-Đại hội truyền thông Công giáo lần đầu ở Biélorussie.

Ngôn ngữ mới và dễ hiểu để làm cho nhận biết Chúa Kitô.

Hãy trả tự do cho Rimsha Masih.

-Bổ nhiệm mới.

-Thêm 20 người bị nghi ngờ trong vụ Vatileaks

Vị giáo phẩm Ái Nhĩ Lan hứa đấu tranh quyết liệt chống hợp pháp hoá nạo phá thai.

-Đức Thánh Cha phải đối mặt với thách đố ngoại giao khi thăm viếng Liban

Những sự việc thú vị từ cuốn niên giám Vatican.

Một tổ chức sẽ đi 5 tiểu bang Hoa Kỳ bằng xe bus để phản đối nạo phá thai.

Pháp luật nước Anh từ chối “quyền được chết”.

Tôn phong Chân Phước cho Đức Gioan-Phaolô I trong 3 hoặc 4 năm?

Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (WYD) bắt đầu cho đăng ký ngày 28 tháng 08.

60 năm các nữ tu Dòng Camille hiện  diện  ở Đài Loan phục vụ người tàn tật.

Các Kitô hữu trốn chạy dựng nhà thờ từ cành cây trong rừng.

Thư mục vụ của ĐGM Lucas Li :”Suy tư về đức tin trong khuôn khổ Năm Đức Tin”.

Hôn phối Nhà Thờ sụt giảm.

Các cựu sinh viên [nhóm] Ratzinger thảo luận về phong trào đại kết.

Chuyện lẫn lộn sau Công Đồng Vatican II vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội.

Cầu nguyện là nguồn can đảm tốt nhất để đương đầu với thế giới thù nghịch.

Lọ nhỏ đựng máu Đức Gioan-Phaolô II tìm lại được sau khi bị trộm.

Kitô hữu Syria đối mặt với đe doạ khủng bố ngày càng tăng.

Chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Liban là cho cả toàn vùng.

Đối thoại đại kết giữa tín đồ Anh giáo và tín hữu Công giáo La Mã.

Sau 10 năm, Đấng Đáng Kính Allegra được phong Chân Phước.

Trang mạng Giáo Hoàng nhằm giúp tín hữu Công giao toàn cầu.

Trang mạng Giáo Hoàng nhằm giúp tín hữu Công giao toàn cầu.

Các Giám Mục Bỉ công bố một thư mục vụ: “Làm Kitô hữu ngày nay”

-Các giám mục Columbia ủng hộ các đàm phán giữa chính phủ và phe nổi loạn.

Nhà nghiên cứu các hộ gia đình đồng tính được minh oan.

 (Xem tiếp . . .   TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (08-28 đến 09-02-2012 )

 

Đức Hồng Y Carlo Maria Martini S.J qua đời

Đức Hồng Y Carlo Maria Martini S.J qua đời

MILANO. ĐHY Carlo Maria Martini S.J., nguyên TGM giáo phận Milano, đã qua đời chiều ngày 31-8-2012, hưởng thọ 85 tuổi.

ĐHY Carlo Maria Martini thuộc dòng Tên, sinh tại Torino bắc Italia năm 1927, gia nhập dòng năm 17 tuổi và thụ phong LM năm 1952. Ngài vốn một chuyên gia nổi tiếng về Kinh Thánh, từng làm Viện trưởng Giáo Hoàng Học Viện Kinh Thánh rồi làm Viện trưởng Đại học Giáo Hoàng Gregoriana, trước khi được ĐGH Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm làm TGM Milano ngày 29-12-1979, là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu với gần 4 triệu 900 ngàn tín hữu Công Giáo.
Tháng 11 năm 1980 ngài thành lập ”Trường Lời Chúa” tại Milano với mục đích giúp dân Chúa đến gần Kinh Thánh theo phương pháp lectio divina.

ĐHY Martini từng làm Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu từ 1987 đến 1993, được trao tặng nhiều văn bằng tiến sĩ danh dự và các giải thưởng.

Sau hơn 22 năm coi sóc giáo phận, ĐHY về hưu ngày 11-7-2002 và trong những năm gần đây ngài bị bệnh Parkinson.

Hôm 31-8-2012, Bác sĩ Gianni Pezzoli, chuyên về thần kinh học và từ lâu vẫn chữa trị cho ĐHY Martini, cho biết bệnh trạng của ĐHY đã vào giai đoạn chót. Sau vụ lên cơn lần cuối hồi giữa tháng 8 vừa qua, ĐHY không thể nuốt được đồ ăn, đặc cũng như lỏng, nữa, nhưng ngài vẫn tỉnh táo và từ chối mọi hình thức miệt mài trị liệu.
Cha Ciro Benedettini, Phó Giám Đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ĐTC đã được thông báo về bệnh trạng của ĐHY Martini trở nên trầm trọng và ngài theo dõi bệnh trạng của ĐHY.

Chiều ngày 30-8-2012, ĐHY Angelo Scola, đương kim TGM Milno, kêu gọi các tín hữu trong giáo phận và những người quí mến ĐHY Martini đặc biệt cầu nguyện, cũng như bày tỏ lòng quí mến và sự gần gũi với Người trong giờ phút khó khăn này.

Chiều ngày 31-8-2012, tòa TGM Milano thông báo: ĐHY Martini đã từ trần lúc 15.45 tại Gallarate.

Nhận định của cha Federico Lombardi, S.J

Cha Lombardi, Giám đốc Đài Phát Thanh Vatican kiêm Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã viết một bài nhận định:

“Sự qua đời của ĐHY Carlo Maria Martini là một biến cố gây xúc động vượt ra ngoài ranh giới của Tổng giáo phận Milano rất rộng lớn, nơi ngài đã cai quản trong 22 năm. Thực vậy, ngài là một Giám Mục, bằng lời nói và rất nhiều tác phẩm, với những sáng kiến mục vụ đổi mới, đã biết làm chứng và truyền giảng hữu hiệu đức tin cho con người thời đại, được sự quí mến và tôn trọng của những người gần xa, gợi hứng cho bao nhiêu anh em của ngài trong hàng GM trên thế giới về việc thi hành sứ vụ.

”Sự huấn luyện và nhân cách của ĐhY Martini là sự huấn luyện và nhân cách của một tu sĩ dòng Tên nghiên cứu Kinh Thánh. Lời Chúa chính là điểm khởi hành và là nền tảng đường lối tiếp cận đối với mỗi khía cạnh của thực tại và mỗi sự can thiệp của ngài, những cuộc Linh Thao theo tinh thần thánh Ignaxiô Loyola, là khuôn mẫu cho linh đạo và đường lối sư phạm tu đức của ngài, quan hệ liên tục, trực tiếp và cụ thể, giữa việc đọc Lời Chúa và cuộc sống, sự phân định về tinh thần và quyết định dưới ánh sáng Tin Mừng”.

”Thật là một trực giác can đảm của Đức Gioan Phaolô 2 khi dùng sự phong phú về văn hóa và tinh thần của một người cho đến bấy giờ là một học giả, Viện trưởng Học viện Thánh Kinh rồi Viện trưởng Đại học Gregoriana, để phục vụ cho việc cai quản một trong những giáo phận lớn nhất thế giới. Đường lối cai quản của ĐHY thật là đặc biệt. Trong cuốn sách nhỏ cuối cùng của ngài tựa đề ”Giám Mục” (Il Vescovo), ĐHY Martini viết: ”Bạn đừng nghĩ Giám Mục có thể hướng dẫn dân chúng được ủy thác cho mình một cách hữu hiệu bằng cách gia tăng các qui định và các sắc lệnh, với những cấm đoán và những phán đoán tiêu cực. Trái lại, hãy nhắm tới sự huấn luyện nội tâm, về sự nếm hưởng và sức thu hút của Kinh Thánh, hãy trình bày những động lực tích cực thúc đẩy chúng ta hành động theo Tin Mừng. Như thế, bạn sẽ đạt được nhiều thành quả hơn là bằng những lời nhắc nhở cứng nhắc về sự tuân giữ các qui luật”.

”Đó thực là một gia sản quí giả, cần suy tư nghiêm túc khi chúng ta tìm kiếm những con đường để tái truyền giảng Tin Mừng”.

Sau khi ĐHY Martini qua đời, Hồng y đoàn còn 206 vị, trong đó có 118 Hồng y cử tri (dưới 80 tuổi). Các Hồng y người Ý còn 51 vị, trong đó có 30 Hồng y cử tri. Dòng Tên còn 6 Hồng y trong đó có 2 HY cử tri.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

LUẬT VỊ TÂM

 LUẬT VỊ TÂM

Chuyện kể rằng: Một ngày nọ, Đức Giám Mục địa phận cho mời vị mục tử trẻ đang chăm sóc họ đạo đến để gặp gỡ. Sau những lời chào hỏi xã giao, Đức giám mục ôn tồn nói:
 
– “Tôi nghe bà con giáo dân phản ảnh qua thư từ, cũng như lời nói về cha rằng: “Cha thường xuyên tiếp xúc với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ và đẹp, cha nghĩ sao về điều này? Vị mục tử thưa với Đức Giám Mục:
 
– “Thưa Đức Cha tất cả những gì họ nói về con đều đúng. Nhưng con thiết nghĩ, khi con đứng trước người phụ nữ mà tâm trí con luôn hướng về Chúa thì vẫn tốt hơn là con đứng trước thánh nhan Chúa mà lòng trí con lại hướng về người phụ nữ phải không thưa Đức Cha?!”
 
Vâng! Theo lẽ thường, người đời thường xét đoán, nghi kỵ lẫn nhau qua dáng vẻ và những hành vi bên ngoài như những người biệt phái trong bản văn Tin Mừng mà thánh sử Máccô trình thuật cho ta hôm nay, khi họ chất vấn Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7,5).
 
Có thể nói, những người biệt phái, họ có biệt tài nhớ và tuân giữ giới luật Mô sê một cách rất triệt để trong cách sống của họ, nhưng có điều họ nhớ và giữ luật không để tôn kính và làm đẹp lòng Thiên Chúa, những việc họ làm, nói với mục đích cho người đời biết và ca tụng…Qua hình thức giữ luật họ mưu lợi danh vọng và tiền của cho riêng mình. Cách giữ luật của họ theo hình thức bề ngoài, hình thức vụ lợi đã bị Đức Giêsu lên tiếng quở trách: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7, 6).
 
Lời Chúa hôm nay cũng chất vấn và gợi mở cho ta nhìn lại cách sống đạo và giữ đạo, nhất là việc thi hành những giới luật của Chúa và Hội Thánh. Để rồi nhờ ơn Chúa soi sáng ta đặt ra cho mình những câu hỏi:
 
– Tôi tham dự thánh lễ ngày thường, ngày Chúa Nhật vì luật, vì sợ người đời và gia đình lên án tôi… Hay vì lòng yêu mến Chúa, vì khát khao được sống kết hiệp mật thiết với Chúa qua thánh lễ và những muốn đáp trả tình yêu mà Chúa đã dành và ban tặng cho tôi một cách nhưng không?
 
– Tôi thực thi việc bác ái vì giới luật yêu thương, vì muốn tô bóng cho cái tôi của mình… Hay vì tôi nhận ra những gì tôi đang sở hữu từ sức khỏe, tri thức, gia đình, tài sản…đều do Chúa trao ban, tôi chỉ là người đầy tớ quản lý và có trách nhiệm chia sẻ những quà tặng Chúa ban cho những anh em kém may mắn hơn mình?
 
– Tôi tuân giữ 10 điều răn của Chúa, 6 điều răn của Hội Thánh vì sợ phạm tội trọng, sợ phải xuống hỏa ngục… Hay vì lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh, những muốn đáp trả lại những gì mà Chúa và Hội Thánh dành tặng cho tôi, giúp tôi ngày càng hoàn thiện hơn, giúp tôi ngày càng sống đúng với danh nghĩa Kitô hữu và nhất là giúp tôi trở thành chứng nhân Tin Mừng qua cách sống hằng ngày?
 
– Tôi tham gia, cộng tác vào các công việc xây dựng gia đình, xã hội và Giáo Hội qua việc hiến thân, dấn thân và phục vụ vì sợ bị khiển trách, sợ người đời cho là thiếu tinh thần trách nhiệm, vì những tiếng khen, những tiếng vỗ tay… Hay vì tôi yêu mến Chúa, yêu gia đình, xã hội và Giáo Hội, những muốn cộng tác vào chương trình sáng tạo mà Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi tôi cộng tác với Ngài?
 
“Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7, 6). Lời khiển trách của Đức Giêsu với những người biệt phái năm xưa, cũng là lời khiển trách đối với ta khi ta xét đoán và nghi kỵ người anh em của mình qua những hình thức bên ngoài, nhất là việc ta giữ luật của Chúa và Hội Thánh không khởi đi từ một lòng mến vô vị lợi.
 
Vâng! Nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Giả như tôi có nói, làm những việc lớn lao cả thể mà không có lòng mến thì tôi chẳng khác nào thanh la phèn phèn, chũm chọe xoang xoảng” (x.1Cr.13, 1-13). Nếu trong cách sống đạo và giữ đạo của tôi, tôi tuân giữ giới luật của Thiên Chúa, của Hội Thánh như lòng Chúa mong ước thì không những tôi được chính Thiên Chúa yêu thương, khen tặng, ngay cả người đời cũng sẽ khen ngợi tôi là người thông minh và khôn ngoan, như lời răn dạy của Môsê: “Anh em phải tuân giữ giới luật của Chúa và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi nghe được tất cả những thánh chỉ, giới luật của Thiên Chúa, họ sẽ nói chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh” (Đnl 4,6).
 
Giữa thời đại hôm nay, nhân loại đang coi thường, khước từ giới luật của Thiên Chúa, của Giáo Hội và xã hội. Chính vì thế đã đưa đến một xã hội luôn đầy ắp những bạo lực, giả dối và điêu ngoa tạo nên cho con người những lo sợ và mất bình an. Tệ hơn nữa, con người dần chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, tự cho mình là Thiên Chúa qua việc áp đặt lên nhau những gánh nặng, những khổ đau tinh thần lẫn thể xác. Điều đáng sợ nhất là con người tự cho mình có quyền làm chủ mạng sống của nhau qua việc khủng bố, phá thai, gieo rắc cái chết trắng (ma túy)…..
 
Là người Kitô hữu ta được Thiên Chúa mời gọi, qua Giáo Hội không chỉ giữ giới luật của Ngài với lòng yêu mến, qua việc yêu mến, tuân giữ và thi hành giới luật của Thiên Chúa, Giáo Hội mà nhiều người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng nhân thế, để rồi qua cách sống đạo và giữ đạo nhất là việc tuân giữ giới luật Thiên Chúa, với tấm lòng đơn sơ mà nhiều người phải thốt lên như lời trình thuật của sách Đệ nhị luật: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7).
 
Là những phàm nhân yêu đuối mang trong thân phận những lỗi lầm, thiếu xót, vô ơn…. đối với tình yêu của Thiên Chúa, làm sao ta có thể sống và thực thi Lời Chúa mời gọi chúng ta? Thánh Giacôbê đã khai mở cho chúng ta một tia hy vọng: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú….Người đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1,17-18). Vì thế, để nên hoàn thiện trong bổn phận làm con cái Chúa, con cái Giáo Hội và là anh em tốt của nhau, thiết nghĩ không có con đường nào khác ngoài con đường tiếp cận ân sủng của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu Kitô như lời Ngài đã minh định: “Không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga 15,5).
 
Xin mượn lời Thánh vịnh thay cho lời cầu nguyện:
             
           “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Thánh chỉ,
            con nguyện đi theo mãi đến cùng.
            Xin cho con được trí thông minh
            để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ
            Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,
            vì con ưa thích đường lối đó……
 
            Xin đừng cất khỏi miệng con lời chân lý,
            vì quyết định của Ngài con vẫn cậy trông…..
 
            Thánh chỉ của Ngài là khúc nhạc của con,
            giữa cảnh đời tha hương lữ thứ.
 
            Lạy Chúa, con đã nói:
            Phần của con là tuân giữ lời Ngài.
            Con hết lòng xin Chúa bao dung,
            xót phận con như lời Ngài đã hứa…
 
            Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng,
            xin mở trí cho con học biết mệnh lệnh Ngài.
            Kẻ kính sợ Ngài thấy con mà hoan hỷ,
            vì con trông cậy ở Lời Ngài” (Tv 119, 33-74).
 

            Antôn Lương Văn Liêm
(Saigon 31 tháng 8, 2012)

THỰC THÀ VỚI CHÚA

 THỰC THÀ VỚI CHÚA

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (02/09.2012)
[Đnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23]

Noi gương Ông Giosuê, bắt chước Thánh Phêrô, tuần trước, chúng ta cùng thưa với Chúa rằng: Chúng con quyết không bỏ Chúa, gia đình chúng con tôn thờ Thiên Chúa và trung tín với Chúa. Tuần này, Lời Chúa dạy chúng ta cách tôn thờ Thiên Chúa thế nào cho đúng với ý Chúa muốn, và còn phải biết “dạy cho con cháu” cách sống đạo cho nên (x. Đnl 4, 1-2. 6-8).
 
Tôi bỗng nhớ câu chuyện của mẹ tôi. Trước lúc cha tôi mất, Người chỉ để lại một di ngôn ngắn lắm: “Sống đẹp lòng Chúa”. Mẹ tôi ôm ấp di ngôn của cha và hay nhắc bảo anh em chúng tôi. Mười năm sau, trước lúc mẹ mất, di ngôn của mẹ có ba điều:
 
“Các con hãy:
1. Đoàn kết thương yêu nhau.
2. Làm lành lánh dữ.
3. Giáo dục con cái biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên”.
 
Vào những ngày Giỗ, Chạp, Tết nhất hay những lúc sum họp gia đình, anh em tôi thường lặp lại Di Ngôn của cha mẹ. Có lần, chú em tôi cảm động quá, khóc và thưa với mẹ rằng:Cảm ơn mẹ đã chú giải di ngôn của cha, cho chúng con biết thế nào là sống đẹp lòng Chúa”.
 
Cô Út chợt nhận ra điều gì, nói: “Sau này, Chúa sẽ không hỏi em rằng em đã làm gì cho Chúa, nhưng chắc chắc Chúa sẽ hỏi em có tin tưởng, yêu mến và phó thác vào Chúa không ? Vậy mà có lần em cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tin tưởng, yêu mến, và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa. Xin Chúa ban cho con thoát khỏi cảnh nợ nần, nghèo khổ hôm nay”. Em tự thấy mình có điều gì gian dối. Đã tin, yêu, cậy trông mà làm như Chúa hổng biết gì về mình vậy, còn thưa lảm nhảm hoài: con khổ quá Chúa ơi! Như vậy “tin yêu mến” của em chắc là “đầu môi chót lưỡi” rồi. Đúng không?
 
Cả nhà không ai dám giải thích gì. Vì có lẽ ai cũng không khác cô út bao nhiêu! Sống thành thật với nhau đã là khó. Sống thành thật với Chúa còn khó biết bao. Người đời có thể lầm cách sống đạo của tôi, của bạn, nhưng chắc chắn Chúa không lầm. Chúa biết rõ chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa tới mức nào.
 
Ở đời, mà nhất là đời nay, thời buổi này, trong toàn cảnh Việt Nam hôm nay, thì sự dối trá càng rõ hơn. Dối khắp nơi, chỗ nào cũng dối. Dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Dối tứ phía. Tình gian dối. Tiền gian dối. Quyền lực gian dối. Tài sản gian dối. Ngay cả việc tôn kính lãnh tụ cũng chẳng có gì là thật lòng. Khóc gian dối. Cười gian dối. Và nếu chỗ nào cũng dối, người nào cũng cũng dối, thì có thể nói đó là một thách thức lớn cho Tin Mừng Sự Thật.
 
Thánh Giacôbê bảo: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác”. Thiết nghĩ, thứ nhơ bẩn ấy chính là sự dối trá trong lòng. Chúa Giêsu thì vạch mặt sự dối trá của những thầy thông luật, những kinh sư, những Pharisêu giả hình khi họ bắt bẻ các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn cho sạch sẽ theo tập tục cha ông của họ: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người".
 
Lời trách mắng của Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến hầu như tất cả chúng ta. Gọi là “tất cả”, bởi vì, mỗi người trong chúng ta, không ai tránh khỏi ảnh hưởng sự dối trá, cách sống dối trá do hậu quả của tội nguyên tổ: Không tuân phục Thiên Chúa, lừa dối Thiên Chúa.
 
Trong khi Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống chân thành để chúng ta trưởng thành về mặt Đức Tin hơn, thì ma quỷ cùng thế lực chống Thiên Chúa lại xúi quẩy chúng ta sống giả dối, cách sống ấu trĩ của ma quỷ:
Chúng ta đang biến việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi phụng tự thành lễ hội. Hình thức tổ chức lễ có vẻ được quan tâm hơn là chuẩn bị tấm lòng yêu mến tôn kính cách chân thực.
 
Càng có nhiều lễ hội tôn giáo càng chứng tỏ ra rằng đất nước ấy tự do tôn giáo, một thứ tôn giáo hời hợt bên ngoài, thứ tôn giáo giả hình. Từ lễ hội linh đình của các cấp Giáo Hội lớn, đến nhỏ hơn, và xuống đến nhỏ hơn nữa là gia đình, là cá nhân… ai cũng làm bộ có đạo, làm bộ đạo đức, mà quên rằng chúng ta đang thực sự lừa dối Thiên Chúa, cũng chẳng khác nào quân Pharisêu thờ kính Chúa ngoài môi miệng, bằng băng-rôn biểu ngữ, bằng rêu rao tự do, bằng xây cất cho hoành tráng, bằng lễ lớn lạc lớn, bằng tham gia đủ thứ hội đoàn, bằng chức danh ông kia bà nọ, bằng áo mão chỉnh tề, bằng xuất hiện công khai cách long trọng, bằng bảng vàng dâng cúng, bằng con số, bằng báo cáo thành tích, bằng toàn bộ hình thức bên ngoài và giả dối bên trong khi có thể.
 
Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta phải trở về với nội tâm sâu xa của lòng yêu mến chân thành. Lòng yêu mến Chúa thúc đẩy chúng ta thực hiện lề luật của Chúa và truyền dạy cho con cháu thực hiện lề luật ấy cách chân thành.
 
Thánh Vịnh đáp ca chỉ rõ mấy việc cần làm ngay của người có đạo: “Sống thanh liêm và thực thi công chính”, “trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống”, “không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”,  “không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương” (Tv 14, 2 – 3ab .  3cd – 4ab . 4c – 5 ).
 
Phải sống thành thực, không sống giả dối, bởi vì, theo Thánh Giacôbê: “Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật”. Ngài khuyên chúng ta tránh xa sự gian dối: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Và đó là “lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền”(Gc 1, 17 – 18 . 21b – 22 . 27).
 
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Thánh vì là Sự Thật của Thiên Chúa, nhờ Máu Chúa, chúng con đã được tẩy rửa sự gian ác trong lòng chúng con. Xin cho chúng con giữ được lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền ấy trước những cám dỗ dối trá của cuộc đời. Amen.

 
PM. Cao Huy Hoàng

Nhà thờ Saint Patrick Proto-Catheral tại San Jose, California bốc cháy

Nhà thờ Saint Patrick Proto-Catheral tại San Jose, California bốc cháy

Courtesy pic from NBC Bayarea

 

San Jose– Được biết sáng thứ Năm ngày 30 tháng 8 năm 2012, một trận hỏa hoạn đã xảy ra tại nhà thờ Saint Patrick vào khoảng 11 giờ sáng. Ngọn lửa xuất phát từ nơi thờ trang nghiêm, gần phía cuối nhà thờ. Nhà thờ tọa lạc tại số 389 E. Santa Clara street, San Jose. Sau đó ngọn lửa đã được dập tắt lúc 12:05 pm.

Trong trận chửa lửa này, một nhân viên cứu hỏa tên Francis Ryan, 44 tuổi đã bị ngã quỵ vì bị đau tim trước cửa nhà thờ. Rất may ông được cứu sống bởi các nhân viên cứu hỏa đồng nghiệp trước khi mang đến bệnh viện cấp cứu.

Đây là trận hỏa hoạn thứ ba liên tiếp trong 3 ngày, đầu tiên là khuya ngày thứ tư, hủy hoại hoàn toàn Summer Winds Nursery, kế đó là làm thiệt hại các cửa hàng tại khu Capital Commerce Center.

Các nhân chứng cho biết ngọn lửa đã làm vở các gương, cửa kính nhà thờ, rơi đầy trên mặt đất. Khói bay mịt mù tại trung tâm thành phố San Jose.

Giáo xứ Saint Patrick cũng có một trường học, nhưng được cách bởi một bải đậu xe, nên trường học vẫn an toàn. Các học sinh đã được bảo vệ và đưa ra ngoài sân.

Giáo xứ Thánh Patrick là của công giáo La Mã, phụ thuộc giáo phận San Jose chủ yếu để phụng vụ cho cộng đồng người Việt Nam. Giáo xứ đã được thành lập từ năm 1872 và là cổ xưa thứ hai sau nhà thờ Catheral Basillica of Joseph tại trung tâm thành phố San Jose là cổ xưa nhất.

Mai Hương

Trích dịch từ NBC

Sống trung thành với Tin Mừng là tử đạo mỗi ngày

Sống trung thành với Tin Mừng là tử đạo mỗi ngày

Cuộc sống kitô đòi hỏi sự ”tử đạo” của lòng trung thành hằng ngày với Tin Mừng, nghĩa là lòng can đảm để cho Chúa Kitô lớn lên trong chúng ta và để chính Người hướng dẫn tư tưởng và các hành động của chúng ta.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với khoảng 5,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại Castel Gandolfo sáng thứ tư 29 tháng 8-2012. Trước hết Đức Thánh Cha đã ban huấn dụ cho 3,000 tín hữu tụ tập tại quảng trường trước nhà nghỉ mát, sau đó ngài chào 2,000 trẻ em giúp lễ Pháp ở trong sân nhà nghỉ mát. Hiện diện trong buổi tiếp kiến có 20 Giám Muc bạn của Phong trào Tổ Ấm, 5 Giám Mục Pháp hướng dẫn các trẻ em giúp lễ hành hương Roma, và Đức Tổng Giám Mục Piero Parolin, Sứ Thần Tòa Thánh tại Venezuela.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc tới lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, mà Giáo Hội cử hành ngày 29 tháng 8 hôm qua. Trong lịch phụng vụ Roma thánh nhân là vị thánh duy nhất có sinh nhật được mừng kính ngày 24 tháng 6. Đức Thánh Cha nói về nguốn gốc lễ này như sau:

Ngày lễ nhở hôm nay bắt nguồn từ việc dâng kính một hầm nhà thờ tại Sebaste ở Samaria, nơi thủ cấp thánh Gioan Tẩy Giả đã được tôn kính vào giữa thế kỷ thứ IV. Việc tôn sùng sau đó lan tới Giêrusalem, trong các Giáo Hội Đông Phương và Roma, với tước hiệu lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu. Trong Tử đạo thư Roma người ta cũng nói tới việc tìm ra thánh tích của thánh nhân được mang về nhà thờ thánh Silvestro tại Campo Marzo ở Roma.

Các quy chiếu lịch sử nho nhỏ này giúp chúng ta hiểu việc tôn kính thánh Gioan Tẫy Giả cổ xưa và sâu xa chừng nào. Trong các Phúc Âm nổi bật lên vai trò của thánh nhân trong việc quy chiếu về Chúa Giêsu. Một cách đặc biệt thánh Luca thuật lại việc sinh ra, cuộc sống trong sa mạc, việc rao giảng của thánh nhân, và trong tin Mừng hôm nay thánh sử Mạccô nói về cài chết thê thảm của người.

Thánh Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng dưới thời hoàng đế Tiberio vào năm 27-28 sau Chúa Kitô; và lời mời gọi rõ ràng, mà thánh nhân hướng tới dân chúng chạy tới nghe người, là lời mời gọi dọn đường để tiếp đón Chúa, uốn thắng các con lộ cong queo của cuộc sống, bằng cách triệt để hoán cải con tim (x. Lc 3, 4). Tuy nhiên, thánh nhân không chỉ giới hạn trong việc rao giảng sự sám hối, hoán cải, mà còn nhận biết Đức Giêsu là Chiên Con của Thiên Chúa đến xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Và với lòng khiếm nhường sâu xa người chỉ cho thấy Đức Giêsu là Đấng thiên sai thật, người tự xóa mình đi để cho Chúa Kitô có thể lớn lên, được lắng nghe và đi theo. Như là cử chỉ cuối cùng thánh Gioan Tẩy Giả lấy máu mình làm chứng cho lòng trung thành với các giới răn của Thiên Chúa, mà không nhượng bộ hay tháo lui, bằng cách chu toàn cho tới cùng sứ mệnh của mình. Trong các bài giảng thánh Beda, một đan sĩ thuộc thế kỷ thứ IX, đã nói như sau: ”Thánh Gioan hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô, cả khi người không bị ra lệnh chối bỏ Chúa Giêsu Kitô, nhưng chỉ đừng nói lên sự thật. Và người đã không im lặng, vì thế đã chết cho Chúa Kitô là chân lý” (Om. 23: CCL 122,354). Chính tình yêu đối với sự thật, không hạ mình xuống các giàn xếp lằt léo với các kẻ quyền thế và khộng sợ hãi nói các lời mạnh mẽ đối với những ai đã lạc xa đường lối của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Bây giờ chúng ta hãy xem gương mặt vĩ đại này, sức mạnh này trong cuộc khổ nạn và sự kháng cự các kẻ cường quyền. Chúng hãy hỏi từ đâu mà nảy sinh ra cuôc sống này, nội tâm mạnh mẽ, ngay thẳng và trung thực, xả thân hoàn toàn cho Thiên Chúa và để dọn đường cho Chúa Giêsu như thế? Câu trả lời thật đơn sơ: nó phát xuất từ tương quan với Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện, là sợi chỉ dẫn đường toàn cuộc sống của thánh nhân. Thánh Gioan là ơn của Thiên Chúa, mà song thân của người là ông Dakharia và bà Elizabeth đã khẩn nài lâu năm (x. Lc 1,13), một ơn lớn lao, không thể nghĩ tới trên bình diện nhân loại, bởi vi cả hai người đã cao tuổi và bà Elizabeth hiếm muộn (x. Lc 1,7). Nhưng không có gì là không thể đối với Thiên Chúa (x. Lc 1,36).

Việc loan báo Gioan sinh ra xảy ra chính trong nơi cầu nguyện, trong đền thờ Giêrusalem, còn hơn thế nữa trong khi ông Dakharia được đặc ân vào trong nơi thánh thiện nhất của đền thờ để dâng hương cho Chúa (x. Lc 1,8-20). Cả việc sinh ra của thánh Gioan cũng được ghi dấu bởi lời cầu nguyện: đó là thánh thi của niềm vui, của lời tụng và tạ ơn, mà ông Dakhara đã cất lên cho Chúa, và chúng ta đọc lại mỗi ngày trong Kinh Sáng, đó là bài ”Benedictus” chúc tụng hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và nói tiên tri về sứ mệnh của Gioan con ông là đi trước Con Thiên Chúa và dọn đường cho Người (x. Lc 1,67-79).

Đức Thánh Cha định nghĩa cuộc sống của thánh Gioan Tẩy Giả như sau: Toàn cuộc sống Vị Tiền Hô của Chúa Giêsu được dưỡng nuôi bởi tương quan với Thiên Chúa, đặc biệt trong thời gian sống trong các vùng sa mạc (x. Lc 1,80), là nơi của thử thách, nhưng cũng là nơi trong đó con người cảm thấy sự nghèo nàn của mình, bởi vì thiếu các yểm trợ và các an ninh vật chất; và con người hiểu rằng điểm quy chiếu duy nhất vững vàng là chính Thiên Chúa. Nhưng thánh Gioan Tẩy Gỉa không chỉ là con người của cầu nguyện, mà cũng là một vị hướng đạo trong tương quan với Thiên Chúa nữa. Khi kể lại lời Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, thánh sử Luca ghi nhận lời các môn đệ xin như thế này: ”Lay Chúa, xin dậy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dậy các môn đệ của ông” (x. Lc 11,1).

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, cử hành cuộc tử đạo của thánh Gioan Tẩy Giả cũng nhắc nhớ cho chúng ta, là các kitô của thời đại ngày nay, rằng không thể xuống nước giàn xếp với tình yêu đối với Chúa Kitô, đối với Lời Người và với Chân Lý. Để nói rằng cuộc sống kitô đòi hỏi sự ”tử đạo” của lòng trung thành hằng ngày với Tin Mừng, đòi hỏi lòng can đảm, nghĩa là để cho Chúa Kitô lớn lên trong chúng ta và chính Người hướng dẫn tư tưởng và các hành động của chúng ta. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra trong cuộc sống chúng ta, nếu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa vững chắc. Cầu nguyện không phải là mất thời giờ, cũng không phải là ăn cắp không gian của các hoạt động, kể cả các hoạt động tông đồ, nhưng trái lại: chỉ khi chúng ta có một cuộc sống cầu nguyện trung thành, liên lỉ, tin cậy, thì chính Chúa mới sẽ ban cho chúng ta khả năng và sức mạnh để sống một cách hạnh phúc và bình an, thắng vượt các khó khăn và làm chứng cho Chúa với lòng can đảm. Xin thánh Gioan Tẫy Giả bầu cử cho chúng ta, để chúng ta biết luôn duy trì quyền ưu tiên của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trước khi cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Tiếp đến ngài đã vào trong sân nhà nghỉ mát để chào 2.000 trẻ em giúp lễ được 5 Giám Mục và nhiều linh mục hướng dẫn hành hương Roma. Ngài nói: Các con thân mến, việc phục vụ mà các con trung thành chu toàn cho phép các con gần gũi Chúa Giêsu Kitô trong Thánh Thể một cách đặc biệt. Các con có đặc ân vĩ đại được ở gần bàn thờ, được ở gần Chúa. Hãy ý thức về tầm quan trọng của việc phục vụ ấy đối với Giáo Hội và với chính các con. Ước chi nó là dịp làm lớn lên một tình bạn, một tương quan cá nhân với Chúa Giêsu. Đừng sợ hãi hăng say thông truyền chung quanh các con niềm vui mà các con nhận được từ sự hiện diện của Chúa. Ước chi toàn cuộc sống của các con rạng ngời hạnh phúc của sự gần gũi với Chúa Giêsu. Và nếu một ngày nào đó các con cảm thấy tiếng Chúa gọi theo Người trên con đường của chức linh mục hay đời tu sĩ, thì hãy quảng đại đáp trả lại lời mời gọi đó. Cha chúc các con một cuộc hành hương tốt lành nơi mộ của hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

Linh Tiến Khải