Kitô giáo và Hồi giáo phải chống lại bạo lực, chia rẽ và chiến tranh

Kitô giáo và Hồi giáo phải chống lại bạo lực, chia rẽ và chiến tranh

Đã đến lúc Kitô giáo và Hồi giáo phải cùng nhau làm chứng tá chân thành và cương quyết chống lại các chia rẽ, bạo lực và chiến tranh.

Đức Thánh Cha Biển Đc XVI đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương năm chậu tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần của Đức Thánh Cha trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 19-9-2012. Trong số các tín hữu hành hương Việt Nam cũng có một đoàn 52 người từ Na Uy do Đức Ông Huỳnh Tấn Hải hướng dẫn. Ngoài ra còn có một số người đến từ Việt Nam và Pháp.

Như qúy vị và các bạn đã biết Đức Thánh Cha mới công du mục vụ Libăng về tối Chúa Nhật 16-9-2012, nên trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu một số cảm tưởng và kinh nghiệm của ngài. Đức Thánh Cha nói đây đã là chuyến viếng thăm mà ngài rất muốn, mặc dù có các hoàn cảnh khó khăn, vì một người cha thì phải luôn luôn gần gũi các con cái của mình, khi chúng gặp các khó khăn nghiêm trọng. Khẩu hiệu chuyến viếng thăm mục vụ là lời Chúa Giêsu phục sinh nói với các môn đệ: ”Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy” (Ga 14,27). Mục đích chính của chuyến viêng thăm là để ký Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông.

Đó đã là một biến cố giáo hội cảm động, đồng thời cũng là dịp sống sự đối thoại trong một quốc gia phức tạp, biểu tượng cho toàn vùng vì truyền thống chung sống và cộng tác giữa các thành phần tôn giáo và xã hội khác nhau. Đề cập tới các khổ đau và thảm cảnh của các dân tộc vùng Trung Đông Đức Thánh Cha nói:

Trước các khổ đau và các thảm cảnh còn kéo dài trong vùng Trung Đông, tôi đã bầy tỏ sự gần gũi của tôi với các ngưỡng vọng của các dân tộc thân yêu, bằng cách đem đến cho họ một sứ điệp khích lệ và hòa bình. Tôi đặc biệt nghĩ tới cuộc xung đột kinh khủng đang gây ra buồn thương não nề cho Siria, khiến cho hàng ngàn người chết, gây ra làn sóng người tị nạn đi tìm an ninh và tương lai. Và tôi cũng không quên tình hình khó khăn tại Irak. Trong chuyến viếng thăm của tôi, người dân Libăng và vùng Trung Đông, công giáo, đại diện của các Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội, cũng như của các cộng đoàn hồi giáo đã sống một kinh nghiệm tôn trọng lẫn nhau, thông cảm và huynh đệ, một cách hăng say và trong bầu khí thanh thản và xây dựng. Nó là một dấu chỉ hy vọng cho toàn nhân loại. Nhưng nhất là cuộc gặp gỡ với các tín hữu công giáo Libăng và vùng Trung Đông, với hàng ngàn người hiện diện đã khơi dậy trong tâm hồn tôi một tâm tình biết ơn sâu xa đối với đức tin sốt mến và chứng tá của họ.

Đức Thánh Cha đã cảm tạ Thiên Chúa vì ơn qúy báu này trao ban hy vọng cho tương lai của Giáo Hội trong các vùng đất này: giới trẻ, người lớn các gia đình được linh hoạt bởi ước mong kiên trì làm cho cuộc sống đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô, gắn chặt vào Tin Mừng, và cùng tiến bước trong Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã cám ơn tất cả những ai góp phần chuẩn bị chuyến viếng thăm của ngài: các Thượng Phụ, các Giám Mục Libăng và các cộng sự viên, Ban tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, cũng như tổng thống, giới lãnh đạo chính quyền các cấp, các cơ cấu và tổ chức, các thiện nguyện viên, và tất cả những ai đã cầu nguyện cho chuyến viếng thăm này. Sự đón tiếp đã rất là nồng hậu theo tinh thần hiếu khách nổi tiếng của dân tộc Libăng.

Đề cập tới sự tiếp đón của anh em hồi giáo Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em hồi giáo đã tiếp đón tôi với lòng tôn trọng lớn và trân qúy chân thành. Sự hiện diện và tham dự liên tục của họ đã cho phép tôi gióng lên một sứ điệp của sự đối thoại và cộng tác giữa Kitô giáo và Hồi giáo: Xem ra đã đến lúc phải cùng nhau làm chứng tá chân thành và cương quyết chống lại các chia rẽ, bạo lực và chiến tranh. Các tín hữu công giáo, đến từ các nước lân cận, đã bầy tỏ lòng yêu mến sốt sắng đối với Người Kế Vị Thánh Phêrô.

Sau lễ nghi tiếp đón tại phi trường Beirut là lễ nghi ký Tông huấn Giáo Hội tại vùng Trung Đông trong vương cung thánh đường Melkít Hy lạp Thánh Phaolô tại Harissa. Trong dịp này tôi đã mời gọi các tín hữu công giáo Trung Đông hướng cái nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đanh, để tìm ra sức mạnh cử hành chiến thắng của tình yêu trên hận thù, tha thứ trên báo oán, hiệp nhất trên chia rẽ, cả trong các bối cảnh khó khăn và đau khổ. Tôi đã bảo đảm với mọi người tình yêu thương, sự gần gũi, liên đới và lời cầu nguyện của Giáo Hội hoàn vũ. Họ không được sợ hãi, Chúa luôn ở với họ, và Giáo Hoàng không quên họ.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: trong ngày thứ hai tôi đã gặp gỡ đại diện các cơ cấu Cộng Hòa và thế giới văn hóa, ngoại giao đoàn và giới lãnh đạo các tôn giáo. Tôi đã đề nghị một con đường giúp tiến tới một tương lai hòa bình và liên đới: đó là hoạt động để các khác biệt văn hóa, xã hội và tôn giáo dẫn tới một tình huynh đệ mới, trong đó điều kết hiệp là ý thức chia sẻ về sự cao cả và phẩm giá của con người, mà sự sống cần phải luôn luôn được bảo vệ và bênh vực. Trong cùng ngày tôi cũng gặp các vị lãnh đạo các cộng đoàn hồi giáo trong tinh thần đối thoại và nhân hậu. Tôi cảm tạ Chúa vì cuộc gặp gỡ đó, thế giới ngày nay cần các dấu chỉ đối thoại và cộng tác, và điều mà Libăng đã và phải tiếp tục là gương mẫu cho các quốc gia A rập và phần còn lại của thế giới.

Vào buổi chiều tại dinh Thượng Phụ Maronít tôi đã được hàng ngàn bạn trẻ Libăng và các nước láng giềng tiếp đón với sự hăng say không thể kìm hãm nỗi. Họ đã tạo ra một buổi lễ hội và cầu nguyện sẽ ghi đậm nét trong con tim nhiều người. Tôi đã nêu bật sự may mắn của họ được sống trong một phần đất của thế giới, mà Chúa Giêsu đã sống, đã chết và đã sống lại để cứu rỗi chúng ta, cững như sự phát triển của Kitô giáo. Tôi đã khuyến khích họ sống trung thành và yêu thương đối với quê hương của họ, mặc dù có các khó khăn do thiếu ổn định và an ninh gây ra. Ngoài ra, tôi cũng khích lệ họ kiên vững trong đức tin, tin tưởng nơi Chúa Kitô, là suối nguồn của niềm vui, và đào sâu tương quan cá nhân với Chúa trong lời cầu nguyện, cũng như cởi mở đối với các lý tưởng cuộc sống, gia đình, tình bạn, và tình liên đới. Khi thấy các người trẻ Kitô và hồi giáo mừng lễ với nhau tôi đã khuyến khích họ cùng nhau xây dựng tương lai của Libăng và vùng Trung Đông và chống lại bạo lực và chiến tranh. Sự hòa hợp và hòa giải phải mạnh mẽ hơn các thúc đẩy của cái chết.

Sáng Chúa Nhật Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ cho tín hữu tại trung tâm Waterfront của thành phố. Trước sự hiện diện đông đảo của các Giám Mục và tín hữu đến từ mọi nước Trung Đông Đức Thánh Cha nói:

Tôi đã muốn khích lệ tất cả mọi người sống đức tin và không sợ hãi làm chứng rằng ơn gọi của tín hữu Kitô và của Giáo Hội là noi gương Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi người không phân biệt ai. Trong môt bối cảnh ghi dấu bởi các xung khắc khốc liệt, tôi đã nhắc tới việc chú ý tới sự cần thiết phục vụ hòa bình và công lý, bằng cách trở thành dụng cụ của hòa giải và là những người xây dựng hiệp thông. Sau thánh lễ tôi đã sung sướng trao Tông huấn thu thập các kết luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông. Qua các Thượng phụ, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, tài liệu này muốn đến với tất cả mọi tín hữu của vùng Trung Đông thân yêu, để nâng đỡ họ trong đức tin và sự hiệp thông, và thúc đẩy họ tiến bước trên con đường tái truyền giảng Tin Mừng. Vào buổi chiều tôi đã đựơc niềm vui có cuộc gặp gỡ đại kết với các Thượng Phụ chính thống, chính thống đông phương và đại diện các Giáo Hội Kitô cũng như các cộng đoàn giáo hội khác.

Đám đông tín hữu đến từ toàn vùng Trung Đông đã có cơ may suy tư, đối thoại, và nhất là cùng nhau cầu nguyện bằng cách canh tân dấn thân đâm rễ sâu đời mình trong Chúa Kitô. Tôi chắc chắn rằng nhân dân Libăng trong hình thái đa dạng tôn giáo và xã hội của nó, sẽ lại biết hăng say làm chứng cho hòa bình đích thực với sự tin tưởng nơi Thiên Chúa. Tôi cầu mong rằng các sứ điệp hòa bình và trân qúy khác nhau, mà tôi đã đưa ra, có thể giúp các giới lãnh đạo trong vùng có các bước quyết định đi tới hòa bình và một sự hiểu biết tốt đẹp hơn trong tương quan giữa các tín hữu Kitô và hồi giáo.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trước khi cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Đại Hội quốc tế các Viện Phụ dòng Biển Đức

Đại Hội quốc tế các Viện Phụ dòng Biển Đức

ROMA. Đại hội quốc tế các Viện Phụ và Bề trên Đan viện Biển Đức trên thế giới đang tiến hành tại Đan viện thánh Anselmo ở Roma từ ngày 17 đến 25-9 tới đây, với sự tham dự của lối 300 người.

Một điểm chính trong những ngày họp là cuộc bầu Đức Thống Phụ mới của Liên hiệp các dòng Biển Đức, kế nhiệm Viện Phụ Notker Wolf người Đức, sắp mãn nhiệm sau 12 năm phục vụ. Ngài người Đức, nguyên là Viện Phụ Tổng quyền của chi dòng Biển Đức St. Ottilien ở miền Bavaria, nam Đức.

Trong số các tham dự viện Đại hội này cũng có 25 đại diện Nữ tu và Nữ Đan sĩ thuộc Liên hiệp quốc tế các Nữ Đan viện Biển Đức, và một số khách mời thuộc Chính Thống Giáo và Tin Lành. Ngoài ra cũng có Viện Phụ và Bề trên của các Đan viện Biển Đức ở Việt Nam.

Hai thuyết trình viên chính của Đại hội là giáo sư Michael Hochschild trình bày một nghiên cứu về sức sinh động của các Đan viện Biển Đức, và Cha Michael Casey, thuộc dòng Xitô Nhặt Phép, quen gọi là dòng Trappiste, trình bày về sự tự trị trong đời sống Biển Đức.

Đại hội có một loạt các cuộc hội luận liên quan đến đời sống Đan tu như căn tính Biển Đức, sự căng thẳng và kiệt sức, các chương trình dành cho các thành viên liên kết, việc quản trị Đan viện, cá nhân chủ nghĩa trong Đan viện, quan hệ với các nữ tu Biển Đức, các hình thức mới trong sự hiện diện của dòng Biển Đức giữa lòng xã hội, phong trào đại kết, mầu nhiệm Phục Sinh trong Phụng Vụ, những đường hướng mới trong việc đối thoại liên đan viện, vai trò của viện phụ, việc huấn luyện các ứng sinh có khuynh hướng bảo thủ, v.v.

Các Viện phụ và Bề trên Biển Đức sẽ hành hương viếng thăm các Đan viện Biển Đức ở Subiano, Montecassino, Norcia và Đan viện Biển Đức Camaldoli ở Italia đang mừng 1 ngàn năm thành lập.

Trong hai ngày liền trước đại hội này, tức là ngày 15 và 16-9-2012, đã có một khóa định hướng cho các tân Viện phụ và tân Bề trên.

Hôm thứ tư, 19-9-2012, nhiều viện phụ và bề trên nam nữ dòng Biển Đức đã tham dự buổi tiếp kiến chung của ĐTC tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican. Ngài đã đặc biệt chào mừng các vị.

Theo niên giám 2012 của Tòa Thánh, tổng số các Đan sĩ Biển Đức trong Giáo Hội hiện nay là 7.528 người, thuộc 357 đan viện, tất cả họp thành 12 chi dòng. Trong số các Đan sĩ vừa nói có 4.008 Linh mục.

4 Đan viện Biển Đức tại Việt Nam – Thiên An, Thiên Hòa, Thiên Bình và Thiên Phước – họp thành một tỉnh dòng thuộc chi dòng Biển Đức Subiaco. Chi dòng này có 64 đan viện tại 5 châu và 45 cộng đoàn nữ. (Web OSB 17-9-2012)

G. Trần Đức Anh OPVietvatican

Lễ Giỗ Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận tại trung tâm Công Giáo Santa Ana, California

Lễ Giỗ Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận tại trung tâm Công Giáo Santa Ana, California

Santa Ana (Bình Sa)- – Vào lúc 6 giờ chiều Thứ Sáu ngày 14 tháng 9 năm 2012 tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, GP. Orange tọa lạc tại số 1538 Century Blvd, Santa Ana CA.92703. Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange và Cardinal Nguyen Van Thuan Foundation đã tổ chức lễ giỗ lần thứ 10 Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận, lễ giỗ do Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange chủ tế thánh lễ và thuyết giảng cùng10 vị Linh mục và 2 thầy Phó Tế đồng tế với Đức Giám Mục. Hơn 500 giáo dân, trong đó có Ban Chấp Hành Cộng Đồng và Ban Chấp Hành 15 Cộng đoàn Công giáo VN tại GP. Orange với một số nữ tu Hội Dòng Mến Thánh Giá LA.

Trước khi Thánh lễ bắt đầu, nhà văn Quyên Di, một người rất thân cận với Đức cố Hồng Y  lên chia sẻ về "Linh Đạo Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một Linh Đạo "Vui Mừng và Hy Vọng – Nhân Ái và Tha Thứ". GS. Quyên Di cũng nhắc lại một số nét đặc biệt về cuộc sống giản dị của Đức cố Hồng Y, mặc dù khi đang đảm nhận vai trò quan trọng trong Giáo triều Roma (Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình), Ngài vẫn sống đơn sơ, khi cần, tự tay nấu ăn đãi khách và luôn luôn phó thác vào Thiên Chúa và Mẹ Maria La Vang. Gia sản Linh đạo của ngài thể hiện mẫu gương hoàn hảo: "Tín thác – Phục vụ – Yêu thương – Vị tha" Trong một hành trình không ngơi nghỉ đó là "Đường Hy Vọng".

Lễ giỗ lần thứ 10 Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Sau lời chia sẻ của GS. Quyên Di, ông Nguyễn Văn Nghi lên hướng dẫn Giờ Khấn Đức Mẹ La Vang qua tâm tình của ĐHY. Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Tiếp theo, Ban tế lễ lên dâng hương trước bàn thờ có đặt di ảnh Đức cố Hồng Y.

Ông Nguyễn Hoàng Vinh   thay mặt Ban Tổ Chức nói lời mở đầu trước khi Đức Giám Mục và Linh Mục đoàn tiến lên bàn thờ: "Đức HY Phanxico Nguyễn Văn Thuận Ngài được Chúa gọi về; nhìn vào  đời sống của Ngài, Ngài  như một hạt lúa mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng đất để rồi chịu biết bao mưa nắng dập vùi, chịu sức mạnh những cơn lốc vật vã, rét buốt thấu da, Ngài đã trải qua những vất vả khó khăn nhất trong đời để rồi như hạt lúa cũ mục nát đi, mặc lấy đời sống mới của cây lúa để rồi trổ sinh muôn vàn bông hạt khác tươi mới, đẹp đẽ…

Tưởng nhớ công ơn Ngài, trong Thánh lễ này, chúng ta hãy noi gương Ngài, biết chấp nhận tất cả,biết tha thứ tất cả, biết yêu mến tất cả. Tất cả mọi sự và mọi người đang ở trong đời, dù gây nên đau khổ cho ta đều là món quà Chúa gửi ban. Tất cả đều là hồng ân của Chúa. Trong tâm tình yêu mến Đức Hồng Y Phanxico, chúng ta hiệp lòng cùng Đức Giám Mục và quý Linh Mục dâng thánh lễ, xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta hãy sống cuộc sống thánh thiện và yêu thương, tha thứ theo gương Đức Cố Hồng Y."

Lễ giỗ lần thứ 10 Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Trong bài giảng, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương nói: "Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội vũ hoàn mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Kito. Như tôi nói trong đầu lễ, đây không phải là sự tình cờ mà là sự an bài của Thiên Chúa, tại vì cuộc sống của Đức Hồng Y là tin tưởng Thánh Giá Chúa Kitô. Thánh Phaolo Tông Đồ trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Corinto có rất nhiều đoạn nói về Thánh Giá. Nhưng tôi xin trích một vài câu rất là ý nghĩa và rất phù hợp với đời sống của Đức Hồng Y. Thánh nhân nói "Người Roma tìm dấu lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan còn chúng tôi tìm Chúa Kito đóng đinh trên Thập Giá. Ngài là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Câu nói đó, thưa qúy ông bà anh chị em có thể áp dụng từng chữ một vào cuộc sống của Đức Cố Hồng Y. Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ với Ngài, và nhất là cầu nguyện cho việc phong Á Thánh của Ngài sớm được thực hiện…" Sau đó, Đức GM. Mai Thanh Lương kể lại một số câu chuyện xẩy ra giữa ngài và đức cố Hồng Y tại Roma cũng như tại Hoa Kỳ cho thấy con người hết sức đặc biệt, thánh thiện, hồn nhiên và luôn hy vọng. Đức GM cũng nhắc đến cuốn "Đường Hy Vọng" do Đức cố Hồng Y viết và Ngài ao ước tương lai mọi giáo dân được nhận "Free" Sau cùng ông Nguyễn Văn Liêm, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam lên cám ơn Đức Giám Mục, quý Linh Mục, Phó Tế, nam nữ tu sĩ, ca đoàn cùng tòan thể tín hữu đã đến tham dự lễ giỗ cho Đức cố Hồng Y. Sau thánh lễ, ông mời mọi người đến dự buổi tiệc gây quỹ tại nhà hàng Seafood Palace ở 6731 Westminster Blvd, Westminster,  yểm trợ việc phong Chân Phước cho đức Cố Hồng Y.

Đức cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận sinh ngày 17.4.1928 tại Phủ Cam, Huế. Gia nhập Tiểu Chủng viện An Ninh tại Quảng Trị năm 1940. Thụ phong Linh Mục ngày 11.6.1953. Tiến sĩ Giáo Luật, Giám Đốc Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện, Huế, Tổng Đại diện GP. Huế năm 1964. Ngày 24.6.1964 được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục tiên khởi GP. Nha Trang với khẩu hiệu "Vui Mừng và Hy Vọng". Ngày 23.4.1975 được cử làm Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị Tổng GP. Saigon. Ngày 15.8.1975 bị  nhà cầm quyền CS bắt đi tù biệt giam 13 năm không bản án. Năm 1991 xin qua Roma chữa bệnh. Bị Cộng sản VN từ chối không cho trở về nước. Ngày 24.11.1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cử làm Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý Hòa Bình. Ngày 24.6.1998 được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban này. Ngày 21.2.2001 nhận mũ Hồng Y do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo Đệ II trao. Năm 2002 lâm trọng bệnh và qua đời ngày 16.9.2002 tại Roma. Ngày 16.9.2007 được Giáo Hội tôn phong lên hàng "Tôi Tớ Chúa" và ngày 22.10.2010 Roma khởi sự Án Phong Chân Phước cho đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn Văn Thuận.

Nguồn: Việt Báo

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tại Beirut, Liban

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tại Beirut, Liban

BEIRUT. Trong thánh lễ trước hàng trăm ngàn tín hữu sáng chúa nhật 16 tháng 9-2012 tại thủ đô Beirut, ĐTC đã kêu gọi quốc tế, nhất là các nước Arập giúp tìm một giải pháp hòa bình cho chiến cuộc tại Siria.

Khi vực hành lễ gọi là Waterfront, bờ biển, tọa lạc giữa bến tàu du lịch và trung tâm thành phố Beirut. Cũng tại nơi đây, Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 đã cử hành thánh lễ cho hàng trăm ngàn tín hữu vào ngày 11-5 cách đây 15 năm. Tại đây có bố trí nhiều màn hình khổng lồ để các tín hữu có thể tham dự thánh lễ, dù ở xa lễ đài.

Đến nơi vào lúc 10 giờ, ĐTC đã được ông đô trưởng Beirut đón tiếp và trao tặng ngài chía khóa thành phố. Ngài dùng xe bọc kính tiến qua các lối đi để chào thăm hàng trăm ngàn tín hữu hiện diện. Số người được ước lượng từ 400 đến 500 ngàn người, mặc dù thoạt đầu ban tổ chức chỉ hy vọng có khoảng 75 ngàn người đến dự lễ.
Tại đây cũng có tổng thống Michel Sleiman và Phu nhân, cùng với nhiều vị lãnh đạo trong chính quyền. Nhiều phái đoàn tín hữu từ các nước Trung Đông cũng đến đây tham dự thánh lễ cùng với các vị chủ chăn liên hệ dưới bầu trời nắng. Cha Shamir Khalil Shamir dòng Tên, nhận định rằng đây là buổi lễ đông đảo chưa từng có tại Liban.
Đồng tế với ĐTC có 300 GM Trung Đông và hàng trăm LM trong áo chùng thâm với giây stola màu trắng ngồi trước lễ đài.

Đầu thánh lễ, Đức Thượng Phụ Béchara Rai, Giáo Chủ Công Giáo Maronit, đã đại diện mọi người chào mừng và gọi cuộc viếng thăm của ĐTC là một biến cố diễn ra dưới dấu hiệu hòa bình, một nền hòa bình mà mọi người mong ước, nhất là tại Trung Đông này. Đức Thượng Phụ cũng gọi Thượng HĐGM Trung Đông với Tông Huấn sau đó dẫn đưa Giáo Hội tại đây vào một ”Mùa xuân tinh thần của Kitô giáo”, như báo trước và chuẩn bị cho Mùa xuân Arập mà mọi người mong ước.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: Người ta bảo Thầy là ai? và thánh Phêrô đã tuyên xưng ”Thầy là Đức Kitô”. Và Chúa loan báo trước việc ngài sẽ chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Chúa đã khiển tránh Phêrô vì đã chống lại ý định này của Chúa. ĐTC cũng mời gọi toàn thể Giáo hội và từng tín hữu hãy dấn thân phục vụ hòa bình và hòa giải. Ngài nói:

”Bước theo Chúa Giêsu là vác thập giá của mình để tháp tùng Chúa trên con đường của Ngài, một con đường cam go, không phải là con đường của quyền lực hoặc vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhất thiết dẫn tới sự từ bỏ bản thân, mất mạng sống mình vì Chúa Kitô và Tin Mừng, để cứu mạng sống ấy. Vì chúng ta được cam kết rằng con đường ấy dẫn đến sự phục sinh, đến sự sống đích thực và chung kết với Thiên Chúa. Quyết định tháp tùng Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên người Tôi Tớ của người, đòi phải sống ngày càng thân mật hơn với Ngài, chăm chú lắng nghe Lời Ngài để kín múc sự soi sáng cho các hành động của chúng ta. Khi tuyên bố Năm Đức Tin sẽ bắt đầu vào ngày 11-10 tới đây, tôi đã muốn rằng mỗi tín hữu có thể dấn thân một cách mới mẻ trên con đường hoán cải tâm hồn. Vì thế, trọn năm Đức Tin, tôi nồng nhiệt khuyến khích anh chị em hãy đào sâu suy tư về đức tin để làm cho đức tin có ý thức hơn để củng cố lòng gắn bó của anh chị em với Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người”.
Anh chị em thân mến, con đường mà Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta đi là con đường hy vọng cho tất cả mọi người. Vinh quang của Chúa Kitô được tỏ hiện chính vào lúc mà, trong nhân tính, Ngài tỏ ra yếu đuối nhất, đặc biệt là khi nhập thể và trên thập giá. Chính qua đó Thiên Chúa biểu lộ tình thương của ngài, khi trở nên người tôi tớ, khi hiến thân cho chúng ta. Đó chẳng phải là một mầu nhiệm lạ thường, nhiều khi khó chấp nhận sao? Chính thánh Phêrô cũng chỉ hiểu được điều đó về sau.

Dấn thân cho công lý và hòa bình

ĐTC cũng nhắc đến bài đọc thứ hai trích từ thư thánh Giacôbê, theo đó việc theo Chúa Giêsu đòi phải có những hành động cụ thể ”vì qua các hành vi tôi chứng tỏ cho bạn đức tin của tôi” (Gc 2,18). Từ đó ĐTC khẳng định rằng:
”Một đòi hỏi khẩn thiết đối với Giáo Hội là phục vụ và, đối với các tín hữu Kitô, là phải trở thành những người phục vụ đích thực theo hình ảnh Chúa Giêsu. Phục vụ là một yếu tố nền tảng trong căn tính các môn đệ của Chúa Kitô (Xc Ga 13,15-17). Ơn gọi của Giáo Hội và của Kitô hữu là phục vụ, như chính Chúa đã làm, một cách nhưng không và cho tất cả mọi người, không phân biệt ai. Vì thế, phục vụ công lý và hòa bình, trong một thế giới không ngừng gia tăng chết chóc và tàn phá, là một điều cấp thiết để dấn thân cho một xã hội huynh đệ hơn, để kiến tạo tình hiệp thông!

”Anh chị em thân mến, tôi đặc biệt cầu xin Chúa ban cho vùng Trung Đông những người phục vụ hòa bình và hòa giải để tất cả mọi người có thể sống an bình và trong phẩm giá. Đó là một chứng tá thiết yếu mà các tín hữu Kitô phải làm ở đây, trong sự cộng tác với tất cả mọi người thiện chí. Tôi kêu gọi tất cả anh chị em hãy hoạt động cho hòa bình. Mỗi người theo cấp độ và tại nơi mình đang sống.

”Việc phục vụ cũng phải ở trọng tâm đời sống của chính cộng đoàn Kitô. Mọi thừa tác vụ, mọi trách vụ trong Giáo Hội, trước tiên là phục vụ Thiên Chúa và anh chị em mình! Chính tinh thần ấy phải linh hoạt mọi tín hữu đối với nhau, nhất là qua sự dấn thân thực sự nâng đỡ những người nghèo nhất, những người bị gạt ra ngoài lề, những người đau khổ, để phẩm giá bất khả nhượng của mỗi người được bảo tồn”.

”Anh chị em là những người đang chịu đau khổ trong thân xác hoặc trong tâm hồn, sự đau khổ của anh chị em không phải là vô ích! Chúa Kitô người tôi tớ đã trở nên gần gũi mọi người đau khổ. Người hiện diện cạnh anh chị em. Ước gì anh chị em tìm được trên đường những người anh em, chị em, biểu lộ cụ thể sự hiện diện yêu thương của Chúa, không thể bỏ rơi anh chị em! Anh chị em hãy tràn đầy hy vọng vì Chúa Kitô!
”Và tất cả anh chị em là những người đến dự thánh lễ này, hãy cố gắng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên người tôi tớ của mọi người để thế giới được sống. Xin Thiên Chúa chúc lành cho Liban, chúc lành cho tất cả mọi dân tộc tại vùng Trung Đông yêu quí và ban cho miền này được ơn an bình của Chúa.

Phần lời nguyện giáo dân được xướng lên bằng nhiều thứ tiếng: Pháp, Arập, Anh, Arméni và Hy lạp, cầu cho ĐTC, cho các tín hữu, các nhu cầu của Giáo Hội, nhất là công lý, hòa bình và sự hòa giải.

Trao Tông Huấn

Cuối thánh lễ, Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã cảm ơn ĐTC và xin ngài trao Tông Huấn cho các vị Thượng Phụ Công Giáo Đông Phương, cùng với các vị Chủ tịch HĐGM Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, Chủ tịch HĐGM Bắc Phi, và hàng chục đại diện giáo dân nam nữ.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC cám ơn tất cả các nghị phụ đã góp phần vào Thượng HĐGM Trung Đông với chủ đề ”Giáo Hội Công Giáo tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tá. Đông đảo những người trở thành tín hữu đồng tâm hiệp ý với nhau” (Cv 4,32). Ngài nói:

”Với việc trao Tông Huấn này, bắt đầu công việc học hỏi và hấp thụ của tất cả mọi người giữ vai chính trong Giáo Hội, các vị mục tử, những người thánh hiến và giáo dân, để mỗi người tìm được niềm vui mới mẻ theo đuổi sứ mạng của mình, được khích lệ và củng cố để thi hành sứ điệp hiệp thông và chứng tá, theo những khía cạnh khác nhau: nhân bản, đạo lý, Giáo Hội, linh đạo và mục vụ được trình bày trong Tông Huấn này. Tôi cầu chúc Tông Huấn là cuốn chỉ nam để tiến bước trên những nẻo đường đa dạng và phức tạp mà Chúa Kitô đã đi trước anh chị em.”

ĐTC cũng cầu chúc cho Giáo Hội tại Trung Đông tiến bước theo cha ông của mình trong đức tin, những người đã mở ra con đường của nhân loại đáp lại mạc khải của Thiên Chúa qua sự kiên trì và trung thành của các ngài. Ngài mời gọi Giáo Hội tại đây tìm được trong sự khác biệt huy hoàng của các thánh đã tươi nở tại đây những tấm gương và những vị chuyển cầu, soi sáng cho Giáo Hội địa phương đáp lại tiếng gọi của Chúa tiến bước về Jerusalem thiên quốc, nơi Chúa sẽ lau sạch mọi nước mắt của chúng ta (Kh 21,4).

Kinh Truyền Tin và kêu gọi hòa bình cho Siria

Sau khi trao bản Tông Huấn cho các vị Đại diện hàng giáo phẩm và giáo dân, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin, dâng lên Đức Mẹ Liban vốn được cả các tín hữu Kitô và Hồi giáo tôn kính. Ngài nói:

”Chúng ta hãy cầu xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta với Chúa Con, đặc biệt là cho dân chúng tại Siria và các nước láng giềng đang cầu khẩn ơn hòa bình. Anh chị em biết rõ thảm trạng xung đột và bạo lực đang gây ra bao nhiêu đau khổ. Đáng tiếc thay tiếng súng đạn vẫn tiếp tục, cũng như tiếng kêu của các góa phụ và cô nhi! Bạo lực và oán thù xâm chiếm cuộc sống, và các phụ nữ, trẻ em là những nạn nhân đầu tiên. Tại sao bao nhiêu kinh hoàng như thế? Tại sao bao nhiêu chết chóc như vậy? Tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế! Tôi kêu gọi các nước Arập, trong tư cách là các nước anh em, hãy đề nghị những giải pháp có thể thi hành được, tôn trọng phẩm giá của mỗi người, các quyền và tôn giáo của họ! Ai muốn kiến tạo hòa bình thì phải ngưng coi tha nhân như một sự ác phải loại trừ. Thật không dễ coi người khác như một người cần tôn trọng và yêu thương, nhưng phải làm như thế nếu ta muốn kiến tạo hòa bình, nếu muốn tình huynh đệ (Xc 1 Ga 2,10-11; a Pr 3,8-12). Xin Chúa ban cho đất nước của anh chị em, cho Siria và Trung Đông hồng ân an bình của các tâm hồn, cho tiếng súng đạn im bặt và chấm dứt mọi bạo lực! Ước gì con người hiểu rằng mọi người là anh chị em với nhau! Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, hiểu những lo âu và nhu cầu của chúng ta. Cùng với các vị Thượng Phụ và GM hiện diện, tôi đặt Trung Đông dưới sự bảo vệ từ mẫu (Xc Prop.44). Với ơn phù trợ của Chúa, ước gì chúng ta có thể hăng say làm việc cho sự thiết lập hòa bình cần thiết cho một cuộc sống hòa hợp giữa anh chị em với nhau, bất luận họ thuộc gốc gác và theo xác tín tôn giáo nào.
Thánh lễ kết thúc lúc qua 12 giờ trưa, giờ địa phương, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa cách đó 30 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp gỡ giới trẻ Liban

Đức Thánh Cha gặp gỡ giới trẻ Liban

BKERKÉ. Lúc 6 giờ chiều thứ bẩy, 15 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã gặp gỡ hơn 25 ngàn bạn trẻ Liban, trong bầu không khí tưng bừng và nồng nhiệt. Ngài mời gọi họ dấn thân xây dựng tương lai đất nước và Giáo Hội trong niềm hy vọng.

Các bạn trẻ đã tụ họp thành hình vòng cung tại Quảng trường trước Tòa Thượng Phụ Công Giáo Maronite ở Bkerké, cùng với hàng trăm GM và LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh. lại cho giới trẻ nước này. Bay trên lễ đài, có một xâu chuỗi mân côi bằng bong bóng bay với những hạt kinh Kính Mừng mầu xanh da trời và những bóng màu vàng chỉ kinh sáng danh. Tổng thống Sleiman cũng đến tham dự biến cố này mặc dù sự hiện diện của ông không có trong chương trình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa và được mở đầu với cuộc rước Sách Phúc Âm và ảnh Đức Mẹ Liban cùng với Thánh Giá giới trẻ tiến lên lễ đài.

Sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Béchara Rai, Giáo Chủ Công Giáo Maronite, và phần giới thiệu của Đức Cha Elie Haddad, TGM giáo phận Saida của Giáo Hội Melkite, trong tư cách là Phó chủ tịch Hội đồng tông đồ giáo dân Liban, 2 bạn trẻ một nam một nữ đã trình bày chứng từ. Tất cả đều nhắc đến những vấn đề của người trẻ Liban và Trung Đông trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, họ cảm thấy như bất lực và cảm thấy cần đến sự giúp đỡ hơn bao giờ hết của Giáo Hội. Câu nói của thiếu nữ như tóm gọm tâm tình của nhiều người: ”Kính thưa Đức Thánh Cha, sự hiện diện của ngài tại Liban này, mặc dù tình hình của chúng con, là một thách đố đối với chiến tranh và tuyệt vọng. Đó là một dấu hiệu an bình và hy vọng”.

Huấn từ của Đức Thánh Cha

Ngỏ lời với mọi người sau bài Tin Mừng, ngài đi từ các bạn trẻ để tha thiết kêu gọi chấm dứt mọi cuộc chiến và xây dựng một tương lai hòa bình cho toàn vùng Trung Đông. Ngài khích lệ các trẻ Liban hãy xác tín mình là hy vọng và tương lai của đất nước:

”Tôi biết những khó khăn của các bạn trong đời sống thường nhật, vì tình trạng thiếu ổn định và an ninh, vì khó tìm được công ăn việc làm hoặc vì cảm tưởng cô độc và bị gạt ra ngoài lề. Trong một thế giới liên tục biến chuyển, các bạn phải đương đầu với nhiều thách đố trầm trọng. Nhưng cả nạn thất nghiệp và tình trạng bấp bênh như thế không được thúc đẩy các bạn nếm ”mật đắng” là sự di cư ra nước ngoài để tìm một tương lai không chắc chắn, hành động này kéo theo sự mất gốc rễ và chia cách. Điều hệ trọng ở đây là làm sao để các bạn trở thành những tác nhân xây dựng tương lai đất nước của các bạn, chu toàn vai trò của mình trong xã hội và trong Giáo Hội.”
”Các bạn có một chỗ đứng ưu tiên trong tâm hồn tôi và trong toàn thể Giáo Hội vì Giáo Hội luôn luôn trẻ trung! Giáo Hội tin tưởng nơi các bạn. Giáo Hội hy vọng nơi các bạn. Hãy là những người trẻ trong Giáo Hội! Giáo Hội đang cần sự hăng say và óc sáng tạo của các bạn! Tuổi trẻ là lúc người ta mong ước những lý tưởng cao cả, và là thời kỳ các bạn học hỏi để chuẩn bị một nghề nghiệp và một tương lai. Đó là điều quan trọng và đòi thời gian. Các bạn hãy tìm kiếm những gì là đẹp đẽ và yêu thích làm điều thiện! Hãy chứng tỏ sự cao cả và phẩm giá thân xác của các bạn, ”thân xác này là để phụng sự Chúa” (1 Cr 6,13). Các bạn hãy có một con tim tế nhị và ngay thẳng! Theo Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2, tôi cũng lập lại với các bạn rằng: ”Các bạn đừng sợ, hãy mở toang cánh cửa tâm trí của các bạn cho Chúa Kitô!”. Cuộc gặp gỡ với Chúa ”mang lại cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi quyết định” (Deus caritas es, 1). Nơi Ngài, các bạn sẽ tìm được sức mạnh và can đảm để tiến bước trên đường đời của các bạn, vượt thắng những khó khăn và đau khổ. Trong Chúa, các bạn sẽ tìm được nguồn mạch vui mừng..”

ĐTC nói thêm rằng: ”Những bất mãn thất vọng hiện nay không được làm cho các bạn chạy trốn vào trong những thế giới song song, như thế giới của ma túy đủ loại, hoặc thế giới của sầu muộn và dâm ô. Về những mạng xã hội, chúng hay ho nhưng cũng có thể dễ dàng lôi kéo các bạn vào tình trạng lệ thuộc và lẫn lộn giữa thực tế và tiềm thể. Hãy tìm kiếm và sống những quan hệ phong phú của tình bạn chân thành và cao thượng. Hãy có những sáng kiến mang lại ý nghĩa và căn cội cho cuộc sống của các bạn bằng cách chiến đấu chống lại sự hời hợt và sự tiêu thụ dễ dàng! Các bạn cũng bị một thứ cám dỗ khác, đó là cám dỗ của tiền bạc, thứ thần tượng bạo chúa này làm mù quáng đến độ bóp nghẹt nhân vị và con tim. Những thí dụ xung quanh các bạn không luôn luôn là những điều tốt đẹp nhất. Nhiều người quên lời Chúa Kitô dạy: không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài (Xc Lc 16,13). Hãy tìm kiếm những bậc thầy tốt, những bậc tôn sư linh đạo, biết chỉ cho các bạn con đường trưởng thành, loại bỏ những gì là ảo tưởng, chỉ có cái vẻ bề ngoài và gian dối.

”Các bạn hãy trở thành những người mang tình yêu của Chúa Kitô, bằng cách qui hướng không chút dè dặt về Thiên Chúa, là Cha của Đức Kitô, là mẫu mực những gì là công chính, là chân thực và tốt lành. Hãy suy niệm Lời Chúa! Hãy quan tâm tìm hiểu và khám phá tính chất thời sự của Tin Mừng. Hãy cầu nguyện! kinh nguyện, các bí tích là những phương thế chắc chắn và hiệu nghiệm để là Kitô hữu và sống ”ăn rễ sâu và được xây dựng trong Chúa Kitô, được củng cố trong đức tin” (Cl 2,7). Năm Đức Tin sắp bắt đầu sẽ là dịp để khám phá kho tàng đức tin đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Các bạn có thể đào sâu nội dung đức tin nhờ học hỏi Sách Giáo Lý để đức tin của bạn được sinh động và sống thực. Như thế các bạn sẽ trở thành những chứng nhân về tình yêu của Chúa Kitô cho tha nhân. Nơi Ngài, mọi người trở thành anh chị em với nhau. Tình huynh đệ đại đồng mà Chúa Kitô đã khai mào trên Thánh Giá làm cho cuộc cách mạng tình yêu được ánh sáng rạng ngời và có những đòi hỏi. ”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Đó chính là di chúc của Chúa Giêsu và là huy hiệu của Kitô hữu. Đó là cuộc cách mạng tình yêu đích thực!”

”Vì thế, Chúa Kitô mời gọi các bạn hãy làm như ngài, đón nhận tha nhân không chút dè dặt, dù họ thuộc nền văn hóa, tôn giáo và quốc gia khác. Dành chỗ cho họ, tôn trọng họ và nhân từ với họ, ngày càng gia tăng tình người và được vững mạnh nhờ an bình của Chúa. Tôi biết nhiều người trong các bạn tham gia những hoạt động khác nhau do các giáo xứ, trường học, phong trào và hội đoàn đề xướng. Thật là đẹp khi dấn thân với và cho tha nhân. Việc cùng nhau sống những giờ phút thân hữu và vui mừng sẽ giúp chống lại những mầm mống chia rẽ, vốn là điều luôn luôn phải bài trừ. Tình huynh đệ là điều báo trước trời cao và ơn gọi làm môn đệ của Chúa Kitô là làm men trong bột như thánh Phaolô đã quả quyết: ”Một chút men làm dậy cả đấu bột” (Gl 5,9). Hãy trở thành những sứ giả Tin Mừng sự sống và những giá trị sự sống. Hãy can đảm chống lại tất cả những gì chối bỏ sự sống như phá thai, bạo lực, phủ nhận và khinh rẻ tha nhân, bất công, chiến tranh. Như thế các bạn làm cho hòa bình lan tỏa xung quanh các bạn… Khám phá nơi chân lý sự tha thứ và lòng từ bi của Thiên Chúa là điều luôn luôn giúp tái khởi hành để sống một đời mới. Thật không dễ tha thứ, nhưng sự tha thứ của Thiên Chúa trao ban sức mạnh để hoán cải và niềm vui tha thứ. Tha thứ và hòa giải là những con đường hòa bình và mở ra tương lai.

Đáp lại tiếng Chúa gọi

Tiếp tục bài huấn dụ trong buổi gặp gỡ, ĐTC nói với các bạn trẻ Liban rằng:
“Các bạn thân mến, chắc chắn nhiều người trong các bạn tự hỏi một cách hơn kém ý thức: Chúa mong đợi gì nơi tôi? Đâu là dự phóng của Ngài dành cho tôi? Phải chăng tôi không muốn loan báo cho thế giới tình yêu cao cả của Chúa qua chức linh mục, đời sống thánh hiến hoặc cuộc sống hôn nhân? Phải chăng Chúa Kitô không kêu gọi tôi theo sát Ngài? Các bạn hãy tin tưởng đón nhận những câu hỏi ấy. Hãy dành thời gian để suy tư và cầu xin ánh sáng. Hãy đáp lại lời mọi bằng cách mỗi ngày dâng hiến bản thân cho Đấng đã kêu gọi các bạn trở thành bạn hữu của Ngài. Hãy tìm cách theo Chúa Kitô với trọn tâm hồn và với lòng quảng đại, Chúa là Đấng đã cứu chuộc chúng ta vì yêu thương và hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Các bạn sẽ được niềm vui và được sự sung mãn chắc chắc. Đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô dành cho ta, chính là bí quyết an bình đích thực.”

Trong phần kết luận, ĐTC cũng chào thăm những bạn trẻ Hồi giáo có mặt tại buổi gặp gỡ và cám ơn họ vì sự hiện diện rất quan trọng như thế. Ngài nói: ”Cùng với các bạn trẻ Kitô, các bạn là tương lai của đất nước tuyệt vời này và của toàn vùng Trung Đông. Hãy cùng nhau kiến tạo tương lai ấy! Khi các bạn trở thành người lớn, hãy tiếp tục sống hòa hợp trong tình đoàn kết với các tín hữu Kitô. Vì vẻ đẹp của Liban ở nơi sự liên kết đẹp đẽ ấy. Toàn Trung Đôgn cần nhìn các bạn và hiểu rằng người Hồi giáo và Kitô, Hồi giáo và Kitô giáo, có thể sống chung với nhau không chút oán ghét, trong niềm tôn trọng tín ngưỡng của mội người, để cùng nhau xây dựng một xã hội tự do và nhân bản”.

”Tôi được biết trong số các bạn cũng có những người trẻ đến từ Siria. Tôi muốn nói với các bạn rằng tôi ngưỡng mộ lòng can đảm của các bạn. Xin hãy nói với những người thân, với gia đình và bạn hữu của các bạn rằng Giáo Hoàng không quên các bạn. Hãy nói cho những người quanh các bạn rằng Giáo Hoàng đau buồn vì những đau khổ và tang tóc của các bạn. Người không quên Siria trong kinh nguyện và quan tâm. Người không quên những người Trung Đông đang chịu đau khổ. Đã đến lúc người Hồi giáo và Kitô liên kết với nhau để chấm dứt bạo lực và chiến tranh.”

Sau buổi gặp gỡ giới trẻ, ĐTC còn hội kiến với 7 vị Thượng Phụ Công Giáo tại nhà nguyện Đức Mẹ Lên Trời trong tòa Thượng Phụ Công Giáo Maronite, trước khi trở về tòa Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa tối và qua đêm.

G. Trần Đức Anh OP

ĐỨC TIN SỐNG

ĐỨC TIN SỐNG
 

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (16/09/2012)
[Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35]

Được gọi là tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin” vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong Thiên Chúa”.

Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế, Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 17).Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG, Đức Tin phải có việc làm.
 
Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
 
1. Tuyên xưng Đức Tin: .
 
Tuyên xưng Đức Tin  vào Chúa Giê-su không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết rõ Đức Giê-su Ki-tô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ có lòng mến thực thà, chân thành.
 
Trong khi các tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phê-rô, người đánh cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”, sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8, 29),hiểu là “Đấng đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
 
2.Từ bỏ mình:
 
Việc làm cụ thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giê-su nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình" (Mc 8, 34-35).
 
Từ bỏ mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống mai sau.
 
Nhiều người đã tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giê-su. Bởi thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”. Một đòi hỏi thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau.
 
Hãy cảm phục những lời tuyên xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Ki-tô hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
 
3. Làm việc bác ái:
 
Tuyên xưng Đức tin vào Chúa Giê-su mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Gia-cô-bê giải thích việc làm của Đức Tin là việc Bác Ái: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2, 15-16).
 
Có những tín hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Ki-tô Giáo.
 
4. Hiên ngang sống công chính:
 
Thánh vịnh Đáp ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
 
Hiên ngang sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như tiên tri Isaia khẳng định:“Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?” (Is 50, 5-9a).
 
Vâng, Từ bỏ mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi” (x. Tv 114, 1-9).
 
Người Công Giáo Việt Nam hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài nhạo cười phỉ báng. Các Ki-tô hữu Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô đích thực là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
 
 
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô, là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với mọi người và  anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. A men.

 
PM. Cao Huy Hoàng

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

 TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (16/09/2012)
[Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35]

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do-thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Dư luận về Người kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, ít nhất cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Người, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác. Vì thế, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: "Thầy là Ðức Ki-tô".
 
Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.” Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì "giờ" của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
 
Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
 
Thực ra, không chỉ mình Phê-rô, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ. Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lới thực hiện. Và đó chính là mạc khải vậy.
 
Cũng chỉ vì con người khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó này, chịu sự cực kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định. Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải làm ra việc này việc khác… Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin (xưng – xưng ra) ấy trong cuộc sống của anh.
 
Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 26).
 
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới TUYÊN chớ chưa XƯNG ra được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình. Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen. 

 
JM. Lam Thy ĐVD.

TUẦN TIN GIÁO HỘI (Từ 10 đến 16 tháng 09- 2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI (Từ 10 đến 16 tháng 09- 2012)

Trích từ Xuân Bích VN

 

NHỮNG GIÁO HỘI TRẺ TRUNG ĐỂ CÓ MỘT GIÁO HỘI HOÀN VŨ MẠNH.

-Trả tự do cho Rimsha Masih – Dịp tốt khuyến khích việc xét lại luật về báng bổ.

Đức Thánh Cha quan ngại  tự do tôn giáo đang bị hạn chề thành tự do tín ngưỡng.

Đại học Dòng Tên mua dinh thự của Đức Tổng giám mục Philadelphia.

Tên nó là Sarajevo.

Các nhà lãnh đạo Kitô giáo kêu gọi bảo vệ Luật Hôn nhân.

Kỷ niệm năm thứ 10 ngày mất của ĐHY Văn-Thuận.

Bổ nhiệm mới.

Các nhà thần học suy tư về các vấn đề đạo đức luân lý của Ấn Độ.

Tổng trưởng Vatican chỉ trích mạnh mẽ “lối giải thích không liên tục”.

-Giáo phẩm Iraq phàn nàn “Hồi giáo chính trị”, kêu gọi thần học Kitô giáo Ả Rập.

Đồng tính là nhân tố chính trong những vụ bê bối lạm dụng tình dục.

Đức Thánh Cha có vấn đề về hình ảnh trên trang mạng.

Các nhà lãnh đạo Hồi giáo Liban chào mừng cuộc thăm viếng của Đức Thánh Cha.

Nhà thờ chính toà mới được cung hiến cho Kazakhstan hậu Xô viết.

« Sứ mệnh truyền giáo Madrid » : một sáng kiến canh tân đức tin các tín hữu.

Sứ mệnh rao giảng Phúc Âm ở Châu Phi.

Kitô hữu có thể phải chọn giữa đức tin và việc làm.

Bách hại giết chết 150,000 Kitô hữu hằng năm.

Rước đuốc ngày 11 tháng 10 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

 (Xem chi tiết . . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI (Từ 10 đến 16 tháng 09-2012) )

 

Tường thuật ngày thứ hai Đức Thánh Cha viếng thăm Libăng (2/3)

Tường thuật ngày thứ hai Đức Thánh Cha viếng thăm Libăng (2/3)

Thứ bẩy 15 tháng 9-2012 là ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm Libăng, Đức Thánh Cha Biển Đức XVi đã có bốn sinh hoạt chính. Sau khi thăm xã giao tổng thống Libăng tại dinh Baabda, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ hàng lãnh đạo các tôn giáo trong phòng khánh tiết của dinh. Tiếp đến ngài nói chuyện các thành phần chính quyền, các đại diện các cơ cấu tổ chức quốc gia Libăng, cũng như giới lãnh đạo các tôn giáo và đại diện thế giới văn hóa. Vào ban chiều ngài gặp gỡ giới trẻ Libăng và toàn vùng Trung Đông tại quảng trường gần Tòa Thượng Phụ Maronít Bkerké.

Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của Đức Thánh Cha. Ban sáng Đức Thánh Cha đã dâng thánh lễ riêng trong nhà nguyện Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa. Lúc 9 giờ 20 phút ngài đã đi xe hơi tới dinh tổng thống cách đó 30 cây số dể thăm xã giao tổng thống Cộng hòa Libăng Tướng Michel Sleiman. Đoàn xe cận vệ của tổng thống đã tháp tùng xe Đức Thánh Cha. Hai bên đường đã có rất đông người cầm cờ Libăng và cờ Tòa Thánh vẫy chào Đức Thánh Cha. Họ tung hoa và ném gạo về phía xe Đức Thánh Cha, cũng có nhiểu người múa nhảy biểu lộ niềm vui của họ trước vị thượng khách của đất nước Libăng.

Tổng thống Sleiman sinh năm 1948 tại Amchit gần Byblos. Năm 1967 ông theo binh nghiệp, và năm 1998 trở thành đại tướng chỉ huy quân đội. Năm 2008 ông đựơc bầu làm vị tổng thống thứ 12 của Libăng với nhiệm kỳ 6 năm. Tổng thống là tín hữu công giáo Maronít, có vợ và ba con.

Sau khi đàm đạo riêng với Đức Thánh Cha, tổng thống đã giới thiệu phu nhân và các con rồi chụp hình lưu niệm với Đức Thánh Cha. Sau đó Đức Thánh Cha cũng gặp gỡ riêng ông Nabih Berri, Chủ tịch Quốc hội, và ông Nagib Mikati, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng. Ông Nabih Berri sinh năm 1938 tại Freetown bên Sierra Leone trong một gia đình di dân Libăng. Sau khi đậu tiến sĩ luật năm 1963, ông đã hành nghề trạng sư trong một thời gian ngắn trước khi bước sang hoạt động chính trị và trở thành lãnh tụ lực lượng Sciít ”Amal” từ năm 1980 cho tới hết cuộc nội chiến năm 1990. Ông đã là thành phần của nhiều chính quyền cho tới năm 1992 khi được bầu làm Chủ tịch Quốc Hội, và đã được tái nhiệm 5 lần.

Thủ tướng Nagib Mikati sinh năm 1955, và đã theo học ngành quản trị tại đại học Mỹ ở Beirut, rồi lấy bằng tiến sĩ tại đại học Havard. Là nhà kinh doanh trong ngành viễn thông quốc tế. Ông đã bắt đầu sinh hoạt chính trị như là Bộ trưởng vận chuyển năm 1998, rồi được bầu vào Quốc hội năm 2000, và trở thành Thủ tướng năm 2005.

Lúc gần 11 giờ Đức Thánh Cha đã chào giới lãnh ãnh đạo các cộng đoàn Hồi giáo Sunnít, Sciít Druse và Alawit. Cùng hiện diện trong buổi gặp gỡ cũng có Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Thượng Phụ Maronít, Đức Hồng Y Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Libăng.

Tiếp đến lúc 11 giờ Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các thành phần chính quyền, giới lãnh đạo chính trị, các cơ cấu quốc gia, cùng với ngoại giao đoàn, các vị lãnh đạo tôn giáo và đại diện thế giới văn hóa, tất cả chừng 500 người. Trước đó tổng thống Sleiman đã vào Phòng tiếp các đại sứ để tháp tùng Đức Thánh Cha ra vườn dinh tổng thống trồng một cây trắc bá Libăng lưu niệm. Đức Thánh Cha đã cầm bình tưới nước cho cây trắc bá. Sau đó cả hai vị đã vào ”Phòng 25 tháng 5”, gọi là phòng 25 tháng 5 vì kỷ niệm ngày quân đội Israel rút lui khỏi miền nam Libăng hồi năm 2005, bị họ chiếm đóng từ năm 1978.

Đáp lời tổng thống Đức Thánh Cha dùng lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ ”Thầy ban bình an của Thầy cho các con” bằng tiếng A Rập để chào mọi người hiện diện. Trong diễn văn ngài đã mời gọi mọi người chung sức xây dựng hòa bình, thăng tiến gia đình, xã hội, tôn trọng phẩm giá và các quyền con người, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo, cũng như thăng tiến đối thoại, cộng tác và hòa hợp giữa các tín hữu kitô và hồi giáo toàn vùng Trung Đông.

Nhắc đến sự kiện ngài đã cùng tổng thống vừa trồng cây trắc bá trong vườn của dinh tổng thống trước đó, Đức Thánh Cha nói:

Khi nhìn cái cây bé nhỏ này và các săn sóc mà nó sẽ cần đến để lớn mạnh cho tới khi có các cành to lớn, tôi đã nghĩ tới đất nước của anh chị em và số phận của nó, tôi đã nghĩ tới các người dân Libăng và các niềm hy vọng của họ, tôi đã nghĩ tới tất cả những người của vùng này xem ra phải gánh chịu các khổ đau bất tận. Và khi đó tôi đã xin Chúa chúc lành cho anh chị em, chúc lành cho đất nước Libăng, và tất cả dân chúng toàn vùng đã trông thấy các tôn giáo và các nền văn hóa cao quý nảy sinh. Thiên Chúa đã chọn vùng này để nó là gương mẫu làm chứng trước cho thế giới thấy khả năng của con người có thể sống ước vọng hòa bình và hòa giải một cách cụ thể. Ngưỡng vọng đó Thiên Chúa đã in sâu trong trái tim con người.

Một đất nước phong phú trước hết là nhờ các người sống trong đó. Tương lai và khả năng dấn thân cho hòa bình của nó tùy thuộc từng người và tất cả mọi người. Một dấn thân như thế chỉ có thể trong một xã hội hiệp nhất. Nhưng sự hiệp nhất không phải là sự đống loạt. Sự gắn bó của xã hội được bảo đảm bởi việc liên lỉ tôn trọng phẩm giá của mỗi người, và sự tham dự có trách nhiệm của từng người, tùy theo các khả năng của mình, bằng cách dấn thân đóng góp những gì tốt đẹp nhất của mình… Phẩm giá của con người không thể tách rời khỏi tính cách thánh thiêng của sự sống, mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho. Trong chương trình của Thiên Chúa mỗi người là duy nhất và không thể thay thế được. Con người bước vào thế giới trong một gia đình, là nơi đầu tiên của việc nhân bản hóa và là người giáo dục hòa bình đầu tiên. Vì thế, để xây dựng hòa bình chúng ta phải chú ý tới gia đình và tạo thuận lợi cho nhiệm vụ của nó, để nâng đỡ và thăng tiến khắp nơi một nền văn hóa sự sống. Sự hữu hiệu của dấn thân cho hòa bình tùy thuộc ý niệm, mà thế giới có thể có đối sự sống con người. Nếu chúng ta muốn hòa bình, hãy bênh vực sự sống. Cái luận lý này không chỉ loại trừ chiến tranh và các hành động khủng bố, nhưng cũng loại trừ mọi xúc phạm đến sự sống con người, là thụ tao của Thiên Chúa. Sự thờ ơ hay khước từ đối với những gì làm thành bản chất đích thạt của con người ngăn cản sự tôn trọng văn phạm này, là luật tự nhiên được khắc ghi trong trái tim con người (Sứ điệp cho Ngày hòa bình thế giới 2007, s. 3). Như thế, việc thừa nhận vô điều kiện phẩm giá của tất cả mọi người, của từng người trong chúng ta, và việc thừa nhận tính chất thánh thiêng của sự sống bao gồm trách nhiệm của tất cả mọi người trước mặt Thiên Chúa. Vì thế chúng ta phải hiệp lực phát triển một nền nhân chủng học duy trì sự hiệp nhất của con người. Không có nó, sẽ không thể xây dựng nền hòa bình đích thực.

Tiếp tục diễn văn Đức Thánh Cha đi vào thực tế và tố cáo các tệ nạn xã hội như sau:

Mặc dù chúng hiển nhiên hơn trong các nước có các xung khắc vũ trang, nhưng các cuộc chiến đầy phù phiếm và kinh hoàng này, các xúc phạm đến sự toàn vẹn và sự sống con người cũng có tại các quốc gia khác. Thất nghiệp, nghèo đói, gian tham hối lộ, các tùy thuộc khác nhau, khai thác bóc lột, các vụ buôn bán thuộc mọi loại, và nạn khủng bố kéo theo sự suy yếu khả năng nhân bản, cùng với các khổ đau không thể chấp nhận được của các nạn nhân. Cái luận lý kinh tế tài chánh không ngừng muốn áp đặt trên chúng ta cái ách của nó, và làm cho của cải đứng trước nhân phẩm. Nhưng sự mất mát của mỗi sự sống con người là một mất mát cho toàn nhân loại, là một đại gia đình, mà chúng ta tất cả đều có trách nhiệm.

Một vài ý thức hệ đặt lại vấn đề, một cách trực tiếp hay gián tiếp hay cả hợp pháp nữa, liên quan giá trị bất khả nhượng của mọi người và nền tảng tự nhiên của gia đình, tàn phá các nền tảng của xã hội. Cần phải ý thức về điều đó, và liên đới với nhau để khước từ tất cả những gì ngăn cản việc tôn trọng con người, liên đới để ủng hộ các đường lối chính trị và các sáng kiến hiệp nhất các dân tộc một cách liêm chính và công bắng. Thật là khích lệ, khi thấy có sự cộng tác đối thoại giúp xây dựng cuộc sống chung ấy. Một phẩm chất tốt hơn của cuộc sống và việc phát triển toàn diện là điều chỉ có thể trong việc chia sẻ các của cải tài nguyên và các hiểu biết chuyên môn, trong sự tôn trọng căn tính của người khác. Nhưng điều này chỉ có thể, khi tin tưởng nhau. Ngày nay các khác biệt văn hóa, xã hội và tôn giáo phải tiến đến việc sống một tình huynh đệ mới. Đó chính là con đường hòa bình.

Để mở ra cho các thế hệ ngày mai một tương lai hòa bình, nhiệm vụ đầu tiên là giáo dục hòa bình để xây dựng hòa bình. Giáo dục trong gia đình và ở học đường trước hết phải là giáo dục các giá trị tinh thần, trao ban cho việc thông truyền sự hiểu biết và các truyền thống của một nền văn hóa ý nghĩa và sức mạnh của chúng. Trí khôn con người yêu thích chân, thiên, mỹ: đó là dấu ấn Thiên Chúa in nơi con người. Vì thế nhiệm vụ của nền giáo dục là đồng hành với sự trưởng thành của khả năng có các lựa chọn tự do và đúng đắn, có thể đi ngựơc dòng với các ý kiến phổ biến, các thời trang, các ý thức hệ chính trị và tôn giáo. Cần phải loại bỏ bạo lực bằng lời nói và hành động. Vì nó luôn luôn là một tấn kích phẩm giá con người. Đức Thánh Cha nhấn mạnh hiệu qủa của việc giáo dục hòa bình như sau:

Như thế, việc giáo dục hòa bình sẽ đào tạo ra các con người nam nữ quảng đại và ngay chính, biết chú ý tới mọi người đặc biệt là những người yếu đuối nhất. Các tư tưởng hòa bình, các lời nói hòa bình và các cử chỉ hòa bình tạo ra một bầu khí tôn trọng, liêm chính và thân ái, trong đó các lỗi lầm và các xúc phạm có thể được nhận biết trong sự thật để cùng nhau tiến tới hòa giải. Ước chi các giới chức chính quyền và các vị hữu trách tôn giáo suy tư về các điều đó!

Chúng ta phải ý thức rằng sự dữ, ma qủy hoạt động qua con người bằng cách sử dụng sự tự do của chúng ta. Vì thế khi đã xúc phạm điều răn thứ nhất là tình yêu của Thiên Chúa, nó đến và làm hư hỏng điều răn thứ hai là tình yêu đối với tha nhân. Với nó tình yệu tha nhân biến mất để làm lợi cho dối trả và ước muốn, thù hận và cái chết. Nhưng có thể đừng để cho sự dữ chiến thắng, và chiến thắng sự dữ bởi sự thiện (x. Rm 132,21). Và chúng ta được mời gọi hoán cải con tim. Không có sự hoán cải, các giải phóng mà con người ước mong, gây vỡ mộng, vì chúng di chuyển trong cái chật hẹp của trí óc con người, trong sự cứng nhắc, trong các bất khoan nhượng, các đặc ân, các ước muốn trả thù và sự chết chóc. Việc thay đổi sâu xa tâm trí cần thiết để tìm lại sự sáng suốt và không thiên vị nào đó, cũng như tìm lại ý thức sâu xa về công lý và thiện ích chung… Phải khước từ sự báo thú, nhận biết các sai lầm của mình, chấp nhận các lời xin lỗi mà không tìm kiếm chúng, và sau cùng là tha thứ. Rồi Đức Thánh Cha đã nhắc tới sự thật tuyệt tuyêt diệu sau đây của dân nước Libăng:

Tại Libăng Kitô giáo và Hồi giáo sống chung trong cùng một không gian từ bao thế kỷ nay. Không là điều hiếm có, khi trong một gia đình có hai tôn giáo. Nếu trong cùng một gia đình có thể có hai tôn giáo, thì tại sao điều đó lại không có thể trên bình diện chung của xã hội? Đặc tính của vùng Trung Đông di chuyển trong sự trộn lẫn ngàn đời giữa các thành phần khác nhau. Dĩ nhiên, rất tiếc chúng cũng đã đánh chống lại nhau. Một xã hội chỉ hiện hữu nhờ tôn trọng lẫn nhau, nhờ ước muốn biết người khác. và đối thoại liên tục. Việc đối thoại đó chỉ có thể trong ý thức có các giá trị chung đối với mọi nền văn hóa lớn, vì chúng đâm rễ sâu trong bản tính con người… Trong việc khẳng định các giá trị đó, các tôn giáo có phần đóng góp định đoạt. Chúng ta đừng quên rằng tự do tôn giáo là quyền căn bản, mà nhiều quyền khác tùy thuộc. Bất cứ ai đều phải có thể tuyên xưng và sống một cách tự do tôn giáo của mình, mà không gặp nguy hiểm cho sự sống và tự do. Viêc mất đi hay sự suy yếu sự tự do này lấy mất đi của con người quyền thánh thiêng có được cuộc sống toàn vẹn trên bình diện tinh thần. Tự do tôn giáo có có chiếu kích xã hội và chính trị cần thiết cho hòa bình. Nó thăng tiến sự sống chung hòa hợp, cho phép dấn thân phục vụ các lý tưởng cao quý, qua việc tìm kiếm sự thật, không phải bằng việc áp đặt bạo lực, nhưng bằng chính sức mạnh của sự thật. Sự thật đó là Thiên Chúa. Bởi vì tín ngưỡng được sống dẫn đưa tới tình yêu. Tín ngưỡng đích thật không thể dẫn đưa tới cái chết.

Sau khi từ giã mọi người, Đức Thánh Cha đã trở về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, rồi đến Tòa Thượng Phụ công giáo Armeni để dùng bữa trưa với các Thượng Phụ và các Giám Mục Libăng, cũng như các thành viên Hội đồng đặc biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục cho vùng Trung Đông, và đoàn tùy tùng.

Đức Thượng Phụ công giáo Armeni Nerses Bédros IX Tarmouni sinh tại Cairo thủ đô Ai Cập năm 1940, thụ phong linh mục năm 1965, được bầu làm Giám Mục năm 1989 và tấn phong năm 1990, rồi đựơc bầu làm Thượng Phụ năm 1999.

Đức Thánh Cha đã làm phép bức tượng đan sĩ Hagop gọi là ”Méghabarde người tội lỗi”, là vị đã soạn cuốn sách đầu tiên in bằng tiếng Armeni tại Venezia năm 1512. Tiếp đến ngài đã dùng bữa trưa với 100 khách mời.

Ngỏ lời trong dịp này Đức Thánh Cha đã cảm tạ Thiên Chúa về cuộc găp gỡ trong tu viện Bzommar, biểu tượng đối với Giáo Hội Công Giáo Armeni. Vị sáng lập tu viện là đan sĩ Hagop, gọi là Méghabarde người tội lỗi, là mẫu gương cho chúng ta về đời cầu nguyện, không dính bén tới của cải vật chất và trung thành với Chúa Cứu Thế. Cách đậy 500 năm người đã thăng tiến việc in cuốn ”Sách ngày Thứ Sáu” và tạo thành cây cầu nói liền Đông Phương và Tây Phương Kitô. Nơi trường của người, chúng ta có thể học ý thức về truyền giáo, lòng can đảm của sự thật, và giá trị của tình huynh đệ trong sự hiệp nhất. Trong khi sắp dùng bữa ăn, được chuẩn bị với nhiều tình yêu quảng đại này, đan sĩ Hagop nhắc cho chúng ta biết luôn có trong tim cái khát tinh thần và việc tìm kiếm cuộc sống mai sau, vì con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa nữa.

Sau bữa trưa Đức Thánh Cha đã trở lại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa để nghỉ ngơi trước khi đến Tòa Thượng Phụ Maronít ở Bkerké để gặp gỡ giới trẻ Libăng và toàn vùng Trung Đông lúc 6 giờ chiều.

Từ năm 1823 Bkerké là trụ sở mùa đông của Tòa Thượng Phụ Maronít Antiokia và toàn Đông Phương, trong khi dinh mùa hè ở Dimane, ở mạn bắc Libăng. Dinh Thượng Phụ nằm trên sườn đồi Harissa, có đền thánh Đức Bà Libăng nhìn bao quát vịnh và thành phố cảng du lịch Jounieh. Quảng trường có chỗ cho hơn 20.000 người.

Giáo Hội Maronít, xuất phát từ tên của thánh Maron, là tu sĩ khổ hạnh sống tại Antiokia và qua đời năm 410, là Giáo Hội đông phương duy nhất hoàn toàn hiệp thông với Tòa Thánh Roma. Vì thế tín hữu Maronít đã bị các tín hữu kitô khác kỳ thị và bách hại lâu dài trong lịch sử, trong đó có các tín hữu chỉ chấp nhận thiên tính của Chúa Kitô, người Bisantin, người Mammeluc và đế quốc hồi Ottoman. Vị Thượng Phụ Antiokia đầu tiên là thánh Jean Maron (685-707), Đức Thượng Phụ hiện nay là Bécharai Boutros Rai, sinh tại Himlaya năm 1940, thụ phong linh mục năm 1967, tấn phong Giám Mục năm 1986, cai quản giáo phận Jbeil năm 1990, và được bầu làm Thượng Phụ năm 2011.

Hơn 20.000 bạn trẻ cùng với hàng chục ngàn tín hữu khác đã tụ tập rất sớm tại đây để suy tư, cầu nguyện và hát thánh ca trong khi chờ đợi Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ tường thuật các chi tiết buổi gặp gỡ này của Đức Thánh Cha với các bạn trẻ và tín hữu Libăng cũng như các bạn trẻ đại diện toàn vùng Trung Đông trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

Đức Thánh Cha ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

HARISSA. Chiều ngày 14 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã ký Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông” đúc kết thành quả Công nghị các GM Trung Đông hồi tháng 10-2012 và chứa đựng chương trình hoạt động cho Giáo Hội trong những năm tới đây.

Buổi ký Tông Huấn diễn ra lúc 6 giờ chiều tại Vương cung thánh đường thánh Phaolô của Giáo Hội Công Giáo Melkite ở Harissa, phía bắc thủ đô Beirut, và chỉ cách tòa Sứ Thần Tòa Thánh lối 5 cây số.

Thánh đường này được xây cất theo kiểu Đền thờ Santa Sofia ở Istanbul, Thổ Nhĩ kỳ, với 5 mái vòm và chứa được 450 người. Khi đến đây ĐTC đã được Đức Thượng Phụ Gregorio, cùng với Cha Bề trên Cộng đoàn tiếp đón và rước vào bên trong thánh đường. Hiện diện tại đây cũng có tổng thống Cộng hòa Liban, và phu nhân, các Thượng Phụ và GM Công Giáo cũng như các HY GM thuộc Hội đồng của Thượng HĐGM Trung Đông. Ngoài ra cũng có các phái đoàn của các Giáo Hội Chính Thống, và các Cộng đoàn Hồi giáo, cũng như đại diện giới văn hóa và xã hội dân sự.
Sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Gregorio, Đức TGM Tổng thư ký Thượng HĐGM, Nikola Eterovic, đã gợi lại vắn tắt tiến trình Thượng HĐGM Trung Đông nhóm tại Roma từ ngày 10 đến 24 tháng 10 năm 2010. Ngài nói: ”Đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần 2 ngàn năm của Giáo Hội, ĐGH triệu tập tại Roma tất cả các GM Trung Đông, các GM chính tòa và hiệu tòa, cả một số vị về hưu. Các vị tham dự Thượng HĐGM về đề tài ”Giáo Hội Công Giáo tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tà. Đông đảo các tín hữu đồng tâm hiệp ý với nhau” Cv 4,32)…

”Nay trong dịp trọng thể này, họp nhau trong Vương cung thánh đường thánh Phaolô của Giáo Hội Công Giáo Hy lạp Melkite cổ kính này, con cảm thấy có nhiệm vụ cám ơn tất cả các nghị phụ đã đóng góp đầy uy tín và giá trị vào suy tư về tình hình Giáo Hội và xã hội tại Trung Đông. Từ sự hiệp thông và công việc của Thượng HĐGM, người ta đã có thể làm nổi bật sự nảy sinh một bình minh mới đầy hy vọng cho các tín hữu Kitô, giữa những khó khăn.

Huấn từ của ĐTC
Về phần ĐTC, ngỏ lời với mọi người sau bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan (12, 20-32) nói về những dấu chỉ vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện, ngài nhận định rằng thật là một điều Chúa quan phòng khi biến cố ký Tông Huấn này diễn ra vào ngày lễ Thánh Giá Vinh Hiển, một lễ được khai sinh tại Đông Phương vào năm 335, sau lễ Thánh Hiến Đền thờ Phục Sinh trên đồi Golgotha và Mộ Thánh do Hoàng đế Constantino. ĐTC nói:
”Tôi thấy Tông Huấn hậu Thượng HĐGM Trung Đông này có thể được đọc và giải thích dưới ánh sáng lễ Thánh Giá Vinh Hiện, đặc biệt là dưới ánh sáng của hai chữ đầu của từ Cristos. Việc đọc như thế giúp tái khám phá căn tính đích thực của tín hữu đã chịu phép rửa và của Giáo Hội, đồng thời như một lời mời gọi làm chứng tá trong và qua tình hiệp thông. Hiệp thông và chứng tá Kitô đồng qui trong Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm chịu đóng đanh, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô, và tìm được sự viên mãn trong đó. Nếu không có quan hệ như thế, thì việc suy tôn Thánh Giá chỉ là biện minh cho đau khổ và chết chóc. Đối với Kitô hữu, tuyên dương Thánh Giá có nghĩa là hiệp thông hoàn toàn với tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tuyên dương thánh giá trong viễn tượng Phục Sinh.”

ĐTC cũng nhận xét rằng khi nghĩ đến tình trạng Giáo Hội hiện nay tại Trung Đông, các nghị phụ đã suy tư về những vui mừng và đau khổ, lo sợ và hy vọng của các môn đệ Chúa Kitô sống tại miền này. Toàn thể Giáo Hội đã có thể nghe những tiếng kêu lo âu và cảm thấy cái nhìn tuyệt vọng của bao nhiêu người nam nữ ở trong tình trạng cam go về mặt con người và vật chất, sống những căng thẳng mạnh mẽ trong lo sợ, Họ là những người muốn theo Chúa Kitô là Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ, nhưng nhiều khi họ bị ngăn cản. Vì thế, tôi đã muốn cho Thư thứ I của thánh Phêrô được coi như nền của Tông Huấn này. Đồng thời Giáo Hội có thể chiêm ngưỡng những gì là đẹp, và cao trọng trong các Giáo Hội tại Trung Đông.

ĐTC nhận xét rằng Tông huấn Giáo Hội tại Trung Đông giúp suy nghĩ lại hiện tại để hoạch định tương lai với cùng cái nhìn của Chúa Kitô. Qua những hướng đi Kinh thánh và mục vụ, qua lời mời gọi đào sâu về linh đạo và Giáo Hội học, qua sự canh tân phụng vụ và huấn giáo, qua những lời kêu gọi đối thoại, Tông Huấn muốn vạch ra một con đường để tim lại điều thiết yếu, đó là theo Chúa Kitô, trong một bối cảnh khó khăn, nhiều khi đau thương, một bối cảnh có thể làm nảy sinh cám dỗ cố tình không biết đến hoặc quên đi Thánh Giá vinh hiển.”

Sau bài huấn từ, ĐTC đã ký vào Văn bản Tông Huấn, một văn kiện dài hơn 100 trang sẽ được ngài chính thức trao cho các Đại diện của các Giáo Hội Công Giáo ở Trung Đông trong thánh lễ sáng chúa nhật 16 tháng 9-2012.
Giã từ Vương cung thánh đường thánh Phaolô vào lúc quá 7 giờ chiều, ĐTC đãi về Tòa Sứ thần Tòa Thánh gần đó để dùng bữa tối và qua đêm.

Sứ quán của Tòa Thánh trước kia thủ đô Beirut cho đến khi xảy ra chiến tranh hồi năm 1975, vì khu vực này liên tục bị pháo kích, nên vị đại diện Tòa Thánh phải hai lần thay đổi trụ sở trước khi di chuyển chung kết vào năm 1983 đến dinh thự mùa hè ở Harissa, chỉ cách Đền thánh Đức Mẹ Liban 300 mét.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Nội dung Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

Nội dung Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”

HARISSA. Tông huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông”, được ấn hành bằng các thứ tiếng chính, và đặc biệt bằng tiếng Arập và Do thái, ngoài phần Lời tựa, Nhập đề, và kết luận, còn có 3 phần.

Văn kiện này được soạn thảo dựa trên 44 đề nghị chung kết của Thượng HĐGM và mời gọi Giáo Hội Công Giáo tại Trung Đông làm cho tình hiệp thông trong nội bộ của mình được sinh động, cởi mở đối với với người Do thái và Hồi giáo. Đây là một tình hiệp thông, hiệp nhất, cần đạt tới trong những bối cảnh khác biệt về địa lý, tôn giáo, văn hóa, xã hội chính trị ở Trung Đông. Đồng thời ĐTC tái kêu gọi bảo tồn và thăng tiến các nghi lễ của các Giáo Hội Đông phương, vốn là gia sản của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô.

– Phần thứ I của Tông huấn đề cập đến bối cảnh các tín hữu Kitô tại Trung Đông, trong đó nhiều người bị thiệt mạng, nạn nhân của sự mù quáng của con người, sống trong lo sợ và tủi nhục. Dường như không có những gì cản ngăn được tội ác của Cain. Tông huấn nhắc lại lập trường của Tòa Thánh về các cuộc xung đột trong vùng, về thành Jerusalem và các nơi thánh. Văn kiện tái kêu gọi hoàn cải, và hòa bình: hòa bình này không phải là vắng bóng xung đột, nhưng là an bình nội tâm và gắn liền với công lý, vượt thắng mọi sự phân biệt chủng tộc, phái tính và giai cấp; sống tinh thần tha thứ trong lãnh vực riêng tư và cộng đồng.

Phần I của Tông huấn cũng đề cập đến đời sống Kitô và phong trào đại kết, việc đối thoại liên tôn với người Do thái và Hồi giáo, lên án việc lạm dụng tôn giáo vào những cuộc xung đột không thể biện minh được đối với một tín hữu chân chính. Văn kiện khuyến khích các tín hữu Kitô quí chuộng Hồi giáo là tôn giáo đa số trong vùng, nhưng đồng thời cũng than phiền rằng cả hai bên đã sử dụng những khác biệt đạo lý như cái cớ để biện minh, nhân danh tôn giáo, cho những hành vi bất bao dung, kỳ thị, gạt ra ngoài lề, thậm chí cả những hành vi bách hại. ĐTC cũng kêu gọi các xã hội Arập đi xa hơn sự bao dung để tiến tới tự do tôn giáo.

Văn kiện này nhắc đến hai thực tại: trước tiên là đặc tính đời với những hình thức nhiều khi có tính chất cực đoan, tiếp đến là trào lưu cực đoan bạo động có liên hệ tới tôn giáo. Tông huấn cổ võ đặc tính đời, sự trung lập của nhà nước về tôn giáo một cách lành mạnh, chấp nhận sự cộng tác giữa chính trị và tôn giáo trong sự tôn trọng lẫn nhau. Tông huấn chống lại chủ nghĩa tôn giáo cực đoan, dùng võ lực để cướp chính quyền và không am hiểu tôn giáo của người khác, chà đạp lương tâm và tôn giáo của tha nhân, vì lý do chính trị. Vì thế, ĐTC tha thiết kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo ở Trung Đông, qua gương sáng và giáo huấn, hãy làm tất cả những gì có thể để loại trừ đe dọa bạo lực dựa trên tôn giáo gây chết chóc cho tín đồ các tôn giáo.

Tông huấn phê bình một khía cạnh khác trong thực tại xã hội ở Trung Đông, tố giác nhiều hình thức kỳ thị phụ nữ. ĐTC viết: ”Trong khi nhìn nhận huynh hướng bẩm sinh của nữ giới là yêu thương và bảo vệ sự sống con người, và trong khi ca ngợi sự đóng góp đặc thù của nữ giới cho nền giáo dục, săn sóc sức khỏe, các hoạt động từ thiện và tông đồ, tôi tin rằng phụ nữ phải nắm giữ và phải được để cho nắm giữ vai trò lớn hơn trong đời sống công cộng và Giáo Hội”.
Tông huấn cũng đề cập đến vấn đề các tín hữu Kitô xuất cư khỏi Trung Đông. Một Trung Đông không còn hoặc chỉ còn rất ít Kitô hữu thì không còn là Trung Đông nữa. Vì thế, ĐTC kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo tránh những chính sách hoặc chiến lược biến Trung Đông thành một mầu sắc, không còn phản ánh thực tại con người và lịch sử nữa.

ĐTC cũng mời gọi các vị chủ chăn của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương giúp các LM và tín hữu của mình ở hải ngoại hãy giữ liên lạc với gia đình và Giáo Hội nguyên gốc của họ. Ngoài ra ngài kêu gọi các vị chủ chăn của các giáo phận đón nhận các tín hữu Công Giáo Đông phương hãy cho họ được cư hội cử hành phụng vụ theo truyền thống của họ.

– Phần thứ II của Tông huấn ngỏ lời với một số thành phần chủ yếu của Giáo Hội Công Giáo, từ các vị Thượng Phụ các Giáo Hội Công Giáo tự quản, cho đến các GM, LM và chủng sinh, những người sống đời thánh hiến và giáo dân, các gia đình, người trẻ và trẻ em. Ngài gửi đến họ những lời nhắn nhủ thích hợp với hoàn cảnh hiện nay.

– Trong Phần thứ III, Tông huấn đề cập đến những chủ đề như:
. Lời Chúa là linh hồn và là nguồn mạch hiệp thông và chứng tá
. Phụng vụ và đời sống bí tích
. Cầu nguyện và hành hương
. Rao giảng Tin Mừng và bác ái: sứ mạng của Giáo Hội
. sau cùng là việc huấn giáo và đào tạo theo tinh thần Kitô.

– Trong phần kết luận Tông Huấn, nhân danh Thiên Chúa, ĐTC kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo không những thoa dịu nỗi đau khổ của tất cả những người đang sống tại Trung Đông, nhưng còn loại trừ những nguyên nhân gây ra những đau khổ ấy, làm tất cả những gì có thể để đạt tới hòa bình. Đồng thời, các tín hữu Công Giáo cũng được nhắn nhủ củng cố và sống tình hiệp thông với nhau, mang lại sức sinh động cho việc mục vụ. Thái độ thờ ơ nguội lạnh là điều làm phật lòng Thiên Chúa”, vì thế, các tín hữu Kitô tại Trung Đông, Công Giáo và các hệ phái khác, hãy đoàn kết và can đảm làm chứng về Chúa Kitô. Chứng tá này không phải là dễ dàng, nhưng là điều mang lại sự phấn khởi”.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Liban

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Liban

BEIRUT. Chiều ngày 14 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến Beirut, thủ đô Liban, để bắt đầu chuyến viếng thăm gần 60 tiếng đồng hồ tại nước này, cho đến chiều chúa nhật 16 tháng 9-2012.

Cơ hội chính cho cuộc viếng thăm của ĐTC đương kim tại Liban là việc ký và công bố Tông Huấn ”Giáo Hội tại Trung Đông” đúc kết thành quả Thượng HĐGM đặc biệt về Trung Đông, nhóm tại Roma hồi tháng 10 năm 2010. Cuộc viếng thăm này diễn ra trong bối cảnh căng thẳng của vùng Trung Đông, với mùa xuân Arập đang có nguy cơ biến thành mùa đông, và nhất là với cuộc xung đột đẫm máu tại Siria từ bao tháng nay làm cho hơn 27 ngàn người thiệt mạng, 250 ngàn người tị nạn, và có nguy cơ lan sang cả Liban. Trong bối cảnh đó, chủ đề chuyến viếng thăm của ĐTC là câu nói của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ ”Thầy ban bình an cho các con” (Ga 14,27).

Liban, quốc gia bé nhỏ, chỉ rộng gần 10,500 cây số vuống, một phần 30 nước Việt Nam, với dân số chỉ có hơn 4 triệu người, trong đó gần 60% theo Hồi giáo và phần còn lại 40% là tín hữu Kitô và 1,3% thuộc các tôn giáo khác. Tổng cộng Liban hiện có 18 cộng đoàn tôn giáo khác nhau, trong đó có 5 cộng đoàn Hồi giáo, và 1 cộng đoàn Do thái giáo, 12 cộng đoàn Kitô, trong số này có 6 cộng đoàn Công Giáo gồm 6 nghi lễ khác nhau. Tổng cộng với 6 nghi lễ, Giáo Hội Công Giáo tại Liban có 53 GM, 1543 LM triều và dòng, 2.650 nữ tu và gần 150 tu huynh, 390 đại chủng sinh.

Phỏng vấn

Trên chuyến bay, ĐTC đã dành một khoảng thời gian để trả lời 4 câu hỏi do các ký giả tháp tùng nêu lên. Chẳng hạn, ĐTC cho biết là tuy tình hình Trung Đông và Liban khó khăn, nhưng ngài không hề nghĩ đến việc từ bỏ cuộc viếng thăm này, vì hễ tình hình càng phức tạp thì càng cần mang lại một dấu hiệu huynh đệ, khích lệ và liên đới. Mục đích cuộc viếng thăm của ngài tại Liban là để mời gọi đối thoại, kiến tạo hòa bình chống lại bạo lực, cùng nhau tìm giải pháp cho các vấn đề.
Trả lời một câu hỏi khác về trào lưu tôn giáo cực đoan ĐTC nhận định rằng trào lưu này luôn luôn là một sự giả tạo hóa, làm biến thái tôn giáo, và đi ngược với ý nghĩa tôn giáo, vốn là một lời mời gọi phổ biến an bình của Thiên Chúa trên thế giới. Vì thế, nghĩa vụ của Giáo Hội và các tông iáo là thanh tẩy chống lại những cám dỗ ấy, soi sáng lương tâm, và làm sao để mỗi người có ý niệm rõ ràng về Thiên Chúa.

Tiếp đón

Sau hơn 3 giờ bay, ĐTC và đoàn tùy tùng đã tới phi trường Rafiq Hariri của thủ đô Beirut vào lúc gần 2 giờ chiều giờ địa phương.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được Tổng thống Liban là tướng Michel Sleiman, một tín hữu Công giáo Maronit, cùng với phu nhân, cùng với các vị chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các vị Thượng Phụ, GM tiếp đón nồng nhiệt. Hàng trăm học sinh và tín hữu cầm cờ Tòa Thánh và Liban hiện diện tại Phi trường cũng reo hò vui mừng và hô tên của ĐTC: Benedicto! Benedicto!

Trong khi đó 21 phát đại bác nổ vang trước khi quốc thiều Vatican và Liban được trổi lên.

Trong lời chào mừng ĐTC, tổng thống Sleiman đã gợi lại những đóng góp quan trọng của đất nước và nhân dân Liban, qua dòng lịch sử, cho nền văn hóa của thế giới. Ông cũng nói đến sự kiện sự cởi mở và hiếu khách của Liban nhiều khi bị lợi dụng, và đất nước này nhiều khi cũng bị xâm lăng và tấn công, nhưng Liban luôn biết kháng cự và chống lại các cuộc tấn kích ấy.

Diễn văn ca Đức Thánh Cha

Trong lời đáp từ tổng thống Liban, ĐTC nhấn mạnh lý do cuộc viếng thăm của ngài:

”Một lý do khác trong cuộc viếng thăm của tôi là để ký và trao Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Trung Đông, Ecclesia in Medio Oriente, Giáo Hội tại Trung Đông. Đó là một biến cố quan trọng của Giáo Hội. Tôi cám ơn tất cả các Thượng Phụ Công Giáo đã đến đây và đặc viết là Đức Cựu Thượng Phụ HY quí mến Nasrallah Boutros Sfeir và người kế vị là Đức Thượng Phụ Béchara Rai. Tôi chào thăm trong tinh thần huynh đệ tất cả các GM Liban, cũng như những người đã đến đây để cầu nguyện với tôi và nhận lãnh từ chính tay Giáo Hoàng Văn kiện này. Qua họ tôi chào thăm như hiền phụ tất cả các tin hữu KItô Trung Đông. Tông huấn này được gửi tới toàn thế giới, và là một chương trình hành động trong những năm tới đây. Tôi cũng vui mừng vì được gặp gỡ trong những ngày này nhiều đại diện của các cộng đoàn Công Giáo tại đất nước anh em, cử hành và cầu nguyện chung với họ. Sự hiện diện, sự dấn thân và chứng tá của họ là một đóng góp được nhìn nhận và đánh giá cao trong đời sống thường nhật của mọi người dân nơi đất nước yêu quí của anh em.

”Tôi cũng kính chào các Thượng Phụ và GM Chính Thống đến đón chào tôi cũng như đại diện của các cộng đoàn tôn giáo khác nhau của Liban. Các bạn thân mến, sự hiện diện của các bạn chứng tỏ sự quí chuộng và cộng tác mà các bạn mong muốn thăng tiến giữa mọi người trong niềm tôn trọng nhau. Tôi cám ơn các bị vì những cố gắng ấy và tôi chức chắn rằng các bạn sẽ tiếp tục tìm kiếm những con đường hiệp nhất và hòa hợp. Tôi không quên những biến cố đau thương đã gây sầu khổ cho đất nước tươi đẹp của các bạn trong những năm dài. Sự sống chung hòa họp đặc biệt của Liban phải chứng tỏ cho toàn Trung Đông và thế giới thế rằng trong mỗi nước có thể có sự sộpng tác giữa các Giáo Hội khác nhau, tất cả đều là thành phần của một Giáo Hội Công Giáo duy nhất, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ với các tín hữu Kitô khác, và đồng thời, có sự sống chung và đối thoại trân trọng giữa các tín hữu Kitô và những anh chị em thuộc các tôn giáo khác. Cũng như tôi, Anh chị em đều biết rằng sự quân bình ấy rất tế nhị, tuy nó được trình bày ở các nơi như một mẫu gương. Đôi khi nó bị đe dọa tan võ khi ở trong tình trạng căng thẳng như cây cung, hoặc phải chịu những sức ép quá nhiều khi có tính chất phe phái, thậm chí là do vụ lợi, trái ngược, xa lạ với sự hòa hợp và dịu dàng của Liban. Chính trong những trường hợp như thế cần tỏ ra thực sự phải ôn hòa và rất khôn ngoan. Và lý trí phải trổi vượt trên sự đam mê một chiều để tạo điều kiện cho ích chung của mọi người. Đại vương Salomon đã quen biết Hiram, Vua miền Tyro, đã chẳng coi đức khôn ngoan là nhân đức tối cao sao? Vì thế, ngài đã nài nỉ xin Chúa ơn khôn ngoan và Chúa đã ban cho Vua một tâm hồn khôn ngoan và thông minh (Xc 1 V 3,9-12).

ĐTC nói thêm rằng:
”Tôi đến đây cũng để nói lên rằng sự hiện diện của Thiên Chúa thật là quan trọng trong đời sống của mỗi người và cách sống chung, điều mà đất nước anh chị em muốn chứng tỏ, chỉ có thể trở nên sâu xa nếu nó được xây dựng trên một cái nhìn chào đón và thái độ tử tế vối với tha nhân, nếu nó ăn rễ sâu nơi Thiên Chúa, là Đấng muốn cho mọi người trở nên anh chị em với nhau. Sự quân bình nổi tiếng của Liban muốn tiếp tục là một thực tại, có thể kéo dài nhờ thiện chí và sự dấn thân của mọi người Liban. Chỉ như thế, sự quân bình ấy mới là mẫu gương cho người dân của toàn vùng và thế giới. Đây không phải chỉ là một công trình của con người, nhưng còn là một hồng ân của Thiên Chúa mà ta phải nài nỉ cầu xin, kiên trì với bất kỳ giá nào, và quyết tâm củng cố”.

”Thưa tổng thống và các bạn, mối liên hệ giữa Liban và người kế vị thánh Phêrô có tính chất lịch sử và sâu xa. Tôi đến Liban như người lữ hành hòa bình, như một người bạn của Thiên Chúa và như một người bạn của con người. Chúa Kitô đã nói: ”Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Đi xa hơn đất nước của anh chi em, ngày hôm nay tôi cũng đến tượng trưng nơi tất cả các nước Trung Đông, như một người lữ hành hòa bình, như một người bạn của Thiên Chúa và là bạn của mọi người dân của mọi nước trong vùng, không phân biệt tín ngưỡng. Chúa Kitô cũng nói với họ ”Thầy ban bình an cho các con”. Những vui mừng và cơ cực của anh chị em cũng liên tục hiện diện trong kinh nguyện của Giáo Hoàng và tôi cầu xin Chúa tháp tùng, an ủi anh chị em. Tôi có thể cam đoan với anh chị em rằng tôi đặc biệt cầu nguyện cho tất cả những người đang chịu đau khổ tại vùng này và họ thật là đông đảo. Tượng thánh Maron nhắc nhở cho tôi về những gì anh chị em đang sống và chịu đựng”.

Sau bài diễn văn của ĐTC, một đoàn quân danh dự đã diễn hành trước ĐTC, Tổng thống và các quan khách, rồi phái đoàn chính phủ Liban được giới thiệu lên ngài và phái đoàn Tòa Thánh cũng được giới thiệu với Tổng thống Liban. Tiếp đến, ĐTC còn hội kiến với tổng thống và 2 vị chủ tịch quốc hội và Hội đồng bộ trưởng Liban, cũng với các phu nhân liên hệ tại Phòng khánh tiết của Phi trường.

Tòa Sứ Thần Tòa Thánh
Rời Phi trường thủ đô Beirut, ĐTC về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa trên miền núi phía bắc cách đó 37 cây số.
Đây là một làng nhỏ ở trên đỉnh đồi cao 550 mét so nhìn xuống bờ biển và vịnh Jounieh. Harissa nổi tiếng với Đền thánh Đức Mẹ Liban được kiến thiết hồi năm 1904 nhân dịp kỷ niệm 50 năm tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội do Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 10 tuyên tín. Lễ khánh thành Đền thánh vào chúa nhật đầu tháng 5 năm 1908, và từ đó trở thành ngày lễ hàng năm kính Đức Mẹ Liban.

Pho tượng Đức Mẹ màu trắng được đúc bằng đồng tại Lyon bên Pháp cao 8 mét rưỡi và nặng 15 tấn, được đặt trên một bệ tháp bằng đá đẽo hình nón cao 21 mét, có thang xoáy ốc dẫn từ dưới lên tới tượng. Các tín hữu hành hương vẫn thường đi chân không hoặc đi bằng đầu gối leo lên các bậc thang này tới tượng Đức Mẹ ở trên đỉnh.

Ngày nay, Đền thánh Đức Mẹ quan trọng nhất ở Trung Đông này được ủy thác cho các tu sĩ dòng Thừa Sai Liban coi sóc. Mỗi ngày có 3 thánh lễ được cử hành tại đây và chúa nhật có tới 10 thánh lễ, để đáp ứng nhu cầu của các tín hữu hành hương. Họ đến đây quanh năm, nhưng nhất là trong thánh 5 kính Đức Mẹ, với những cuộc rước ban đêm khởi hành từ bờ biển lên tới Đền thánh vào lúc bình minh. Các tín hữu tay cầm đuốc sáng, vừa đi vừa hát thánh ca và cầu nguyện. Cả người Hồi giáo cũng đến hành hương tại đây để tôn kính Đức Mẹ, đặc biệt vào những ngày chúa nhật.

Cách đây gần 20 năm, vào tháng 7-1993, một Vương cung thánh đường mới được xây cất cạnh tháp bệ của Đền thánh, và có hình như một mũi tàu của người Phenici. Bên trong thánh đường có bản sao tượng Đức Mẹ Lộ Đức do ĐTC Gioan Phaolô 2 làm phép ngày 22-3 năm 1992 trong thánh lễ cho các bệnh nhân ở Đền thờ Thánh Phêrô và được Cơ quan hành hương của Giáo Phận Roma đưa tới đây. Thánh đường mới có thể chứa được 7 ngàn người, và chính tại tiền đường Đền thờ này ngày 10-5 năm 1997 ĐTC Gioan Phaolô 2 đã gặp gỡ các bạn trẻ Liban.

Đến Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Harissa vào lúc gần 3 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã nghỉ ngơi trong vòng 2 tiếng rưỡi trước khi bắt đầu hoạt động đầu tiên của ngài là ký Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Trung Đông.

G. Trần Đức Anh OP-  Vietvatican
 

 

Đức Cha Mario Toso cử hành lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Đức Cha Mario Toso cử hành lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Lúc 10 giờ sáng ngày 14 tháng 9-2012, Đức Cha Mario Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho Vị Tôi Tớ Chúa, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, nhân dịp kỷ niệm 10 năm Người qua đời.

Hiện diện đầy Nhà Thờ Đức Mẹ Scala (Cầu Thang) của dòng Camêlô Nhặt Phép ở Roma, nơi có mộ của Đức Cố HY, có gần 30 LM đồng tế và hơn 70 tu sĩ nam nữ, giáo dân Việt Nam và nước ngoài.

Đức Cha Toso, dòng Don Bosco, cho biết ĐHY Chủ Tịch Peter Turkson rất muốn chủ sự thánh lễ này, nhưng vì đang bận công vụ bên Congo, Phi châu, nên ngài không thể hiện diện được.

Trong bài giảng, dựa vào ý nghĩa lễ Suy Tôn Thánh Giá, Đức Cha Toso đã nêu bật tấm gương của Đức Cố HY Nguyễn Văn Thuận như chứng nhân của Thập Giá của Kitô. Ngài nói: Vị Tôi Tớ Chúa Nguyễn Văn Thuận, trong những năm ngục tù cơ cực, đã kín múc sức mạnh từ lòng yêu mến Chúa Kitô chịu đóng đanh… Người đã muốn diễn tả tình yêu chịu đau khổ bằng cách dùng từng mảnh gỗ nhỏ, liên kết thành một thánh giá đeo ngực, và sau khi được trả tự do, Người thường đeo thánh giá ấy ở cổ, tỏ cho mọi người, nhất là những người đồng hương tị nạn hay di dân, như dấu chỉ hy vọng. Trong các bài giảng, ĐHY thường trích dân lời kinh phụng vụ: Kính chào Thánh Giá là niềm hy vọng duy nhất của chúng con”.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Chủ Tế và mọi người đã cùng đọc kinh ĐHY Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa ban ơn lành nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi Tớ Chúa và xin cho án phong thánh của Người sớm được hoàn thành tốt đẹp.

Nguyên văn bài giảng của Đức Cha Mario Toso
Đức Hồng Y Văn Thuận chứng nhân của Thánh Giá
Anh chị em thân mến,

Chúng ta còn nhớ rõ lễ cải táng cho Vị Tôi Tớ Chúa quí mến, ĐHY Văn Thuận, tại nhà thờ Đức Mẹ Cầu Thang này cách đây vài tháng. Nay lễ giỗ 10 năm của Người được cử hành với Thánh Lễ này, trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá. Tiếp đến, Thượng Hội đồng Giám Mục về việc tái truyền giảng Tin Mừng và lễ khai mạc Năm Đức Tin nay đang đến gần.

Vì thế, chúng ta không thể không nhìn nhận rằng năm nay, lễ giỗ ĐHY Văn Thuận mang sắc thái liên hệ tới những biến cố Giáo Hội và mục vụ đầy ý nghĩa như vậy.

Đặc biệt Lễ Suy Tôn Thánh Giá cho chúng ta nhớ đến ĐHY Văn Thuận như chứng nhân anh dũng của tình yêu Chúa Giêsu Kitô, tình yêu trọn vẹn và trung thành đã dẫn đưa Chúa đến độ chịu đựng những cực hình vốn dành cho những người nô lệ.

Thánh Giá chính là nơi Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho thấy chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và nhân loại.

Nhờ tình yêu vô biên ấy, vượt quá mọi tri thức, Chúa đã chu toàn thánh ý Chúa Cha và đã cứu chuộc nhân loại, làm cho con người có khả năng yêu yến Thiên Chúa.

Vị Tôi Tớ Chúa Văn Thuận, trong những năm chịu ngục tù cam go, đã kín múc sức mạnh từ lòng yêu mến Chúa Kitô chịu đóng đanh. Người chìm đắm trong tình yêu ấy khi cử hành Thánh Lễ một cách đơn giản tối đa, được một đức tin nồng nhiệt thúc đẩy. Người đã muốn diễn tả tình yêu chịu đau khổ ấy bằng cách dùng từng mảnh gỗ, kiến tạo một Thánh Giá đeo ngực, Thánh Giá này, sau khi được trả tự do, Người thường đeo ở cổ, tỏ cho mọi người, nhất là những người đồng hương tị nạn hoặc di dân, như dấu chỉ hy vọng.

Trong các bài giảng, Người thường trích dẫn kinh nguyện phụng vụ: O Crux Ave, spes unica: Kính Chào Thánh Giá, là nguồn hy vọng duy nhất của chúng con.

Thánh Giá, hay đúng hơn, là tình yêu tột đỉnh của Chúa Giêsu Kitô được diễn tả trên Thánh Giá, chính là niềm hy vọng của thế giới. Chỉ tình yêu ấy mới cứu chuộc và làm con người được hiển dung, mang lại sự phong phú trọn vẹn cho các dân tộc. Chỉ tình yêu trọn vẹn của Chúa Kitô đối với Chúa Cha và nhân loại, được đón nhận và sống thực, mới có thể làm tái sinh về phương diện luân lý và thiết lập đời sống xã hội trên tình yêu tha nhân, thay vì trên oán thù hoặc sợ hãi đồng loại. Trong khi làm việc tại Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Vị Tôi Tớ Chúa ĐHY Văn Thuận đã tiếp tục coi tình yêu Chúa Kitô chịu đóng đanh như một nguồn mạch đầu tiên để đổi mới, để nhân đạo hóa và giải thoát văn hóa, chính trị, kinh tế, tài chánh, gia đình các dân nước, các phương tiện truyền thông.

Tất cả chúng ta đều biết rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng chỉ được chu toàn nhờ cộng đoàn hoặc nhờ những tín hữu giáo dân sống đức tin nồng nhiệt. Một niềm tin như thế sẽ tạo nên một nền văn hóa mới, một lối sống mới, nếu được đón nhận trọn vẹn, được suy tư hoàn toàn, được sống trung thành, được cử hành với một lòng yêu mến say mê đối với Chúa Giêsu Kitô.

Một công trình tái truyền giảng Tin Mừng dẫn vào và tháp tùng các tín hữu trong một đời sống mới của tình yêu mà Chúa Giêsu Kitô chứng tỏ và thực hiện dưới hình thức tột cùng trên Thánh Giá, để trở thành những người loan báo và làm chứng về tình yêu ấy.

Vì thế, có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tái truyền giảng Tin Mừng và Thập Giá Chúa Kitô. Công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng nhắm làm cho gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, sống bằng Ngài, sống tình yêu chịu đóng đanh của Ngài, một tình yêu trung tín với Thiên Chúa và con người.

Thế giới ngày nay, đặc biệt là Âu Châu, đang có những dấu hiệu xa lìa Kitô giáo và có đức tin yếu ớt, đang cần được tái truyền giảng Tin Mừng, cần nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô để được chữa lành, như những người Israel xưa kia bị rắn lửa cắn, khi nhìn lên con rắn đồng do Môisê dựng trên cột, thì được chữa lành.

Khi kín múc nơi tình yêu Chúa Kitô chịu chết trên Thánh Giá, ta có thể chiến thắng nọc độc ác hại của những con ”rắn lửa”, trên bình diện đời sống nội tâm và thiêng liêng, những con rắn này là: coi mình là chủ nhân tuyệt đối của chân lý, ý muốn thống trị người khác, thiếu tình huynh đệ, oán ghét; và trên bình diện các ý thức hệ mới, chúng là: chủ thuyết duy vật duy tiêu thụ, chủ nghĩa thủ lợi, sự tôn thờ kỹ thuật.

Nhờ tình yêu dâng hiến của Chúa Kitô chịu đóng đanh là tình yêu trọn vẹn đối với chân lý, như ĐGH Biển Đức XVI đã dạy trong Thông điệp Caritas in veritate, Kitô giáo sẽ chứng tỏ trọn vẹn thiên tài của mình, chứng tỏ sức mạnh gợi lên nền luân lý và văn minh mới mẻ, và không bị coi là một kho dự trữ những tình cảm tốt lành mà thôi.
Khi tham dự Thánh Lễ hôm nay, lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta hãy để cho mình được lôi kéo vào trong năng động siêu việt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng đã trở nên như ”tôi tớ” Thiên Chúa và loài người khi hiến thân trọn vẹn để không một ai bị hư mất. Chúng ta hãy nhìn tấm gương của ĐHY Văn Thuận, Người đã trở thành chứng nhân trổi vượt về tình yêu ấy. Xin Thánh Giá trên đó Chúa Giêsu đã giang hai cánh tay liên kết người Do thái với dân ngoại thành một dân tộc duy nhất, giúp chúng con trở thành những người loan báo sự hiệp nhất và an bình, như Vị Tôi Tớ Chúa Văn Thuận.

O Crux ave, spes unica! Kính chào Thánh Giá, niềm hy vọng duy nhất của chúng con!

+ Mario Toso, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình.

(G. Trần Đức Anh O.P chuyển ý)  – VietVatican
 

 

Lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám mục Huế

Lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám mục Huế

Tân tổng Giám mục chụp hình lưu niệm sau Thánh lễ

Nhiều giám mục và linh mục đã tham dự Thánh lễ nhậm chức của Đức cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tân tổng giám mục Huế.

Hôm qua, Đức Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng đã nhậm chức Tổng Giám mục Huế tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam và Đức cha Têphanô Nguyễn Như Thể cựu Tổng Giám mục Huế đã chủ tế thánh lễ.

Thánh lễ còn có sự hiện diện của 13 hồng y, tổng giám mục và giám mục cùng hơn 160 linh mục đến từ sáu giáo phận trực thuộc giáo tỉnh miền Trung và khoảng 2.000 giáo dân kể cả 10 vị đại diện Phật Giáo và Cao Đài.

Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli thay mặt Đức Thánh cha nhắc lại sứ vụ của tổng giám mục là can đảm theo gương Vị Mục Tử nhân lành rao giảng Tin mừng, bảo vệ kho tàng Đức tin và bảo vệ người cô thế.

“Giám mục không phải là người tầm thường của thế gian này nhưng là người luôn tỉnh thức, khiêm tốn và đứng về phía Thiên Chúa, dẫn dắt tín hữu”– Đức Tổng Leopoldo Girelli nói.

“Đức cha Hồng là con người ít nói và khôn ngoan, tôi đã cầu xin Chúa Thánh Thần tiếp tục ban sức mạnh và ơn khôn ngoan cho ngài”, bà Lucia Võ Thị Hiệp, một giáo dân nói với ucanews.com sau Thánh lễ.

Đức cha Hồng được Tòa Thánh bổ nhiệm làm tổng giám mục Huế hôm 18-8, kế nhiệm Đức Tổng giám mục Têphanô Nguyễn Như Thể, người đến tuổi về hưu.

Tổng giáo phận Huế cai quản hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế, có 140 linh mục, 696 tu sĩ, 74 chủng sinh và 755 giáo lý viên phục vụ 68.910 giáo dân trong tổng số 2,3 triệu dân.

UCANVIETNAM

BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

Vì tội nguyên tổ, con người bị án phạt là phải chết muôn đời. Nhưng con người được Cứu Chuộc nhờ Tình Yêu của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su nói: “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. (x. Ga 3, 13-17)
Thánh Giá, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, là cách mà Thiên Chúa yêu thương và Cứu Chuộc loài người. Không có cách nào khác.
Chúa Giêsu, thân phận là Thiên Chúa, nhưng phải làm “thân phận tôi đòi” của một người phàm, và hơn thế nữa, một người phàm sinh ra tầm thường nhất, nhận một án tử hình nhục nhã nhất trong nhân loại: chết trên thập giá… “Chúa Ki-tô, vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. (x. Pl 2, 6-11) Đó là cách cứu chuộc. Không có cách nào khác!

Và nếu chỉ có cách ấy mà không có cách nào nhẹ nhàng hơn, thì phía người được cứu, được chuộc hẳn phải ngộ ra rằng tội lỗi của mình nặng nề là chừng nào. Vì rõ ràng là, cái giá để được chuộc lại không phải là một đôi năm đọa đày nô lệ, mà là một kiếp người, cái giá cứu chuộc càng không phải là một vài tấn vàng, nhưng là một sinh mạng, không phải là sinh mạng của con người kiếp bụi phong trần mà là sinh mạng Con Thiên Chúa Làm Người.

Ai đã hy sinh mạng sống mà cứu cho bạn được sống, hẳn bạn phải tri ân họ biết chừng nào. Ai đã cứu bạn, vợ chồng con cái bạn khỏi chết ngạt, khỏi chết nước, khỏi chết cháy, khỏi cảnh nghèo khổ, nợ nần, khỏi cảnh làm thuê đày đọa, khỏi bị cảnh buôn bán người sang Trung Quốc, Hàn Quốc, khỏi cảnh tù đày, nô lệ, vong thân… hẳn là phải biết ơn và đền ơn họ đến muôn đời. Có người họa hình, tạc tượng người cứu sống mình và đặt ở nơi xứng đáng mà ghi ơn, nhớ tưởng như một vị đại ân nhân, vị đại thánh. Cũng đã có người nguyện làm kiếp tôi tớ phục vụ hầu hạ người thi ân suốt đời để đền ơn.

Vẫn còn lòng biết ơn nơi mỗi con người chúng ta đấy chứ! Nhưng cũng còn có cả những lòng biết ơn thật chua chát: Chúng ta vẫn thấy những nhang hương đèn khói, những cái sấp mình cúi lạy trước những bia tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Chẳng biết cái sấp nào giả hình, cái cúi nào thật tình và cũng không biết đó có phải là cách tỏ bày lòng biết ơn đích thực không. Bởi vì, cũng có người biết ơn vì ‘nhờ những những người nằm trong bia mộ kia mà nay tôi được làm ông kia bà nọ, lương tuy ít, nhưng bỗng nhiều, không tham lam không nhũng nhiễu nhưng tự nhiên mà thiên hạ cứ đút vào túi tôi bạc tỷ!’. Hoặc phải biết ơn vì ‘nhờ các ông mà nay tôi có cái để xài, có cả cái để dành và nhất là có cái để bán cho có thêm tiền thêm vàng gửi ngân hàng nước ngoài nước trong!’ Ôi! chuyện thế gian! Thật là tồi tệ! Người ta đang biết ơn những người hy sinh xương máu, mạng sống để cho họ được cái lợi, cái lộc ở đời này hơn là biết ơn những người hy sinh chiến đấu cho một nền hòa bình công chính! Ai đã nằm xuống cho lý tưởng hòa bình công chính sẽ không được ca tụng bằng người nằm xuống để họ có cơ hội giàu có và thao túng quyền lực! Họ chẳng cần biết chung cuộc đời họ sẽ ra sao!

Cũng bởi vì nghĩ đến cái lợi trước mắt ở trần gian mà trong chúng ta cũng có người không khác người duy vật kia bao nhiêu: không bao giờ biết ơn Đấng đã cứu chuộc chúng ta ra khỏi những điều tội lỗi, ra khỏi sự chết trầm luân muôn đời, dẫn đưa chúng ta đến đời sống công chính hôm nay trên trần gian, và đời sống vĩnh cửu mai sau trên thiên quốc.

Lễ Suy tôn Thánh Giá nhắc nhớ chúng ta suy tôn và biết ơn Tình Yêu của Thiên Chúa: Tình Yêu Cứu Chuộc. “Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian”.

Quả thực, nếu không có Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô, không có ơn cứu chuộc, thì cả và nhân loại này sẽ mãi mãi trầm luân trong cuộc sống giả trá điêu ngoa, bất công và hủy diệt muôn đời. Cũng vậy, ai không tin và biết ơn, đền ơn Chúa cứu chuộc cũng sẽ nhận một án phạt bị hủy diệt muôn đời. Còn số phận của những người chà đạp Thánh Giá Chúa, hẳn nhiên thật là bi đát, họ sẽ chết muôn đời với lũ Satan, con rắn độc cắn người, con rắn bại trận!

Ước gì những người đã xem thường Thánh Giá Chúa, xúc phạm đến Thánh Giá Chúa ngộ ra tội lỗi mình mà đến cùng Hội Thánh như dân xưa đã đến cùng Môi-sê và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. (x. Ds 21, 4-9).

Lạy Chúa Giê-su, chúng con là những người bị án tử hình, mà Chúa đã vì yêu thương đến nhận thay án tử hình ấy cho chúng con bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để chúng con được sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, mến yêu Thánh Giá Chúa, biết ơn Tình Yêu Chúa và đền đáp ơn ấy bằng cách nguyện suốt đời phục vụ Chúa. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 12-9-2012

 

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Không có các lời cầu nguyên thừa thãi, vô ích. Không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả. Tuy có các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, tất cả mọi lời nguyện của chúng ta đu được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolo VI sáng thứ tư 12 tháng 9-2012. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, trong phần đầu của sách Khải Huyền lời cầu nguyện hướng tới cuộc sống bên trong Giáo Hội, trong phần hai của sách sự chú ý hướng tới toàn thế giới. Thật vậy, Giáo Hội bước đi trong lịch sử, là phần của lịch sử theo chương trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp đã khám phá ra nhiệm vụ của mình là cộng tác vào sự phát triển của Nước Chúa như ”các tư tế của Thiên Chúa và Chúa Kitô” (Kh 20,6; x. 1,5; 5,10). Giờ đây nó rộng mở cho thế giới loài người. Có hai kiểu sống trái nghịch nhau: kiểu thứ nhất là ”hệ thống của Thiên Chúa” mà cộng đoàn tùy thuộc, và kiểu thứ hai là ”hệ thống trần thế chống lại Nước Chúa và chống giao ước dưới ảnh hưởng của Kẻ Dữ”, là tên lừa dối con người, và muốn thực hiện một thế giới trái nghịch với thế giới mà Chúa Kitô và Thiên Chúa muốn.

Trong phần đầu của sách Khải Huyền Chúa Kitô đã bẩy lần nói: ”Ai có tai thì nghe điều Thần Khí nói với các Giáo Hội” (Kh 2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn được mời lên trời để nhìn xem thực tại với con mắt của Thiên Chúa và ở đây chúng ta tìm thấy ba biểu tượng tham chiếu giúp đọc hiểu lịch sử.

Biểu tượng thứ nhất là chiếc ngai trên đó có Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa toàn năng không đóng kín trên trời, nhưng đã đến gần con người, bước vào trong giao ước với con người. Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm thấy Ngài trong lịch sử một cách nhiệm mầu nhưng thực sự, tiếng Ngài được biểu tượng bằng sấm sét. Chung quanh ngai có 24 Bô lão và 4 con vật, không ngừng chúc tụng Chúa của lịch sử.

Biểu tượng thứ hai là cuốn sách chứa đựng chương trình của Thiên Chúa liên quan tới các biến cố. Nó được đóng với 7 dấu ấn và không có ai có thể đọc được. Sự không có khả năng đó của con người khiến cho Gioan rất buồn bã. Nhưng có một người nào đó có thể mở và minh giải cuốn sách.

Biểu tượng thứ ba là Chúa Kitô Chiên Con bị sát tế trong Hy lễ của Thập Giá, nhưng đứng thẳng biểu tượng cho sự Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh sẽ từ từ mở các đấu ấn, vén mở chương trình của Thiên Chúa và ý nghĩa sâu xa của lịch sử.

Các biểu tượng này nhắc cho chúng ta biết đâu là con đường giúp đọc hiểu các sự kiện của lịch sử và của cuộc sống chúng ta. Khi ngước mắt nhìn Trời của Thiên Chúa, trong tương quan liên lỉ với Chúa Kitô, khi mở rộng tâm trí chúng ta cho Người trong lời cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn, chúng ta học nhìn các sự vật một cách mới mẻ và tiếp nhận được ý nghĩa đích thật của chúng. Lời cầu nguyện như là một cửa sổ mở, cho phép chúng ta hướng cái nhìn về Thiên Chúa, để nhớ tới đích điểm chúng ta đang đi tới, cũng như để cho thánh ý Chúa soi sáng con đường đời của chúng ta và sống nó với nhiều dấn thân và mạnh mẽ hơn.

Thiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô đọc hiểu lịch sử một cách sâu xa hơn, trước hết bằng cách mời gọi nó nhìn hiện tại đang sống một cách thực tế hơn. Khi đó Chiên Con mở bốn dấu ấn đầu tiên cho thấy một thế giới với các yếu tố tiêu cực khác nhau. Trong thế giới đó có các sự dữ mà con người gây ra như bạo lực, nảy sinh từ ước muốn chiếm đoạt và trổi vượt hơn người khác, đi tới chỗ giết người (dấu ấn thứ hai); hay bất công, bởi vì con người không tôn trọng các luật lệ đã được ban cho mình (dấu ấn thứ ba). Thêm vào đó là các sự dữ con người phải gánh chịu như cái chết, đói khát, bệnh tật (dấu ấn thư tư). Trước các thực tại thường thê thảm này cộng đoàn giáo hội được mời gọi không bao giờ đánh mất đi niềm hy vọng, tin tưởng vững mạnh rằng cái toàn năng bề ngoài ấy của Kẻ dữ đụng độ với sự toàn năng đích thật của Thiên Chúa. Và dấu ấn thứ nhất mà Chiên Con mở ra chứa đựng sứ điệp này. Thánh Gioan kể: ”Tôi thấy, kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi như người thắng trận, để chiến thắng” (Kh 6,2).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ như sau: Sức mạnh của Thiên Chúa đã bước vào trong lịch sử con người. Sức mạnh ấy không chỉ có thể chống lại sự dữ, mà còn có thể chiến thắng nó nữa. Mầu trắng gợi nhớ sự Phục Sinh: Thiên Chúa gần gũi với chúng ta, tới độ xuống trong sự đen tối của cái chết để chiếu sáng nó với ánh quang sự sống thiên linh của Người. Người đã nhận lấy trên mình sự dữ của thế giới để thanh tẩy nó với lửa tình yêu của Người.

Tín hữu có thể trưởng thành khi đọc thực tại này. Vì sách Khải Huyền nói với chúng ta rằng lời cầu nguyện dưỡng nuôi nơi mỗi người và trong các cộng đoàn của chúng ta thị kiến ánh sáng và niềm hy vọng sâu xa này: nó mời gọi chúng ta đừng để cho sự dữ chiến thắng nhưng chiến thắng sự dữ với sự thiện, nhìn lên Chúa Kitô Bị Đóng Đanh và Phục Sinh, là Đấng kết hiệp chúng ta vào chiến thắng của Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Giáo Hội sống trong lịch sử, không đóng kín trong chính mình, nhưng can đảm đối đầu với con đường của mình giữa các khó khăn và khổ đau, bằng cách mạnh mẽ khẳng định rằng sự dữ không chiến thắng sự thiện, bóng tối không che mờ ánh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là điều quan trọng đối với chúng ta. Như là Kitô hữu chúng ta không bao giờ bi quan; chúng ta biết chắc rằng trên con đường cuộc sống, chúng ta thường gặp bạo lực, dối trá, thù hận, bách hại, nhưng điều này không khiến cho chúng ta nản lòng. Nhất là lời cầu nguyện giúp chúng ta trông thấy các dấu chỉ của Thiên Chúa, sự hiện diện và hành động của Người; còn hơn thế nữa chính chúng ta trở thành ánh sáng sự thiện, tỏa lan niềm hy vọng và chỉ cho thấy chiến thắng là của Thiên Chúa.

Viễn tượng này đưa tới chỗ dâng lên Thiên Chúa và Chiên Con lời cám tạ và chúc tụng: 24 bô lão và 4 con vật cùng hát ”bài ca mới” cử hành công trình của Chúa Kitô Chiên Con, Đấng làm mới mọi sự” (Kh 21,5). Nhưng sự đổi mới này là một ơn cần phải nài xin. Và ở đây chúng ta thấy một yếu tố khác nữa của lời cầu nguyện: đó là kiên trì khẩn nài Chúa cho Nước Chúa trị đến, cho con người có trái tim ngoan ngoãn đối với quyền bính của Chúa, cho ý Chúa hướng dẫn và định hướng cuộc sống chúng ta và cuộc sống thế giới. Trong thị kiến sách Khải Huyền lời cầu xin nài van này được 24 bô lão và 4 con vật cầm trong tay cùng với ”đàm cầm và các chén vàng đầy hương thơm” (Kh 5,8a). Chúng là ”các lời cầu nguyện của các thánh”, nghĩa là của những người đã đạt tới Thiên Chúa, nhưng cũng là của tất cả mọi người đang tiến bước. Và chúng ta thấy trước ngai Thiên Chúa có thiên thần cầm bình hương vàng liên tục bỏ vào đó các hạt hương, tỏa hương thơm dịu dàng được dâng lên Chúa cùng với các lời cầu nguyện (Kh 8,1-4).

Đó là biểu tượng để nói rằng tất cả mọi lời cầu của chúng ta, tuy có các các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, hầu như được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải chắc chắn rằng không có các lời cầu nguyên thừa thãi vô ích; không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả… Hình ảnh thiên thần cầm bình hương bỏ đầy lửa lấy từ bàn thờ và ném xuống đất liền có tiếng sấm sét ánh chớp và động đất (Kh 8,5) có nghĩa là Thiên Chúa không vô cảm trước các lời khẩn nài của chúng ta, Người can thiệp và cho thấy quyền năng và tiếng nói của Người trên trái đất. Người làm cho hệ thống của Kẻ Dữ run rẩy và đảo lộn. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Thường khi trước sự dữ người ta có cảm tưởng không làm gì được nữa, nhưng chính lời cầu nguyện của chúng ta là câu trả lời thứ nhất và hữu hiệu nhất mà chúng ta có thể cho, và nó khiến cho dấn thần hằng ngày của chúng ta trong việc phổ biến sự thiện được mạnh mẽ hơn. Quyền năng của Thiên Chúa làm cho sự yếu đuối của chúng ta trở nên phong phú (x, Rm 8,25-27)…

Tuy có các biểu tượng phức tạp, nhưng sách Khải Huyền lôi cuốn chúng ta vào trong một lời cầu nguyện rất phong phú, qua đó chúng ta lắng nghe, chúc tụng, cảm tạ, chiêm ngưỡng Chúa, và xin lỗi Người. Cấu trúc của lời cầu nguyện phụng vụ lớn lao của nó mời gọi chúng ta tái khám phá ra sức mạnh biến đổi ngoại thường của bí tích Thánh Thể. Tôi đặc biệt mạnh mẽ mời gọi anh chị em trung thành với Thánh Lễ Chúa Nhật trong ngày của Chúa, là trung tâm đích thật của tuần sống.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài xin mọi người giúp lời cầu nguyện cho chuyến viếng thăm Libăng của ngài diễn ra tốt đẹp. Sau cùng Đức Thánh Cha cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình và hòa hợp cho Liban

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình và hòa hợp cho Liban

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi tất cả các tín hữu Kitô Liban và Trung Đông dấn thân xây dựng hòa bình và hòa giải.

Ngỏ lời với hàng ngàn tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư, 12 tháng 9-2012, tại Vatican, ĐTC nói:

”Các tín hữu hành hương thân mến, trong 2 ngày nữa, vào giờ này, tôi đang bay đến Liban. Tôi vui mừng vì cuộc tông du này. Nó cho tôi được gặp gỡ niều thành phần trong xã hội Liban: các vị lãnh đạo dân sự và Giáo Hội, các tín hữu Công Giáo thuộc nhiều lễ nghi khác nhau và các tín hữu Kitô khác, những người Hồi giáo và người Druze thuộc vùng này. Tôi cảm tạ Chúa vì sự phong phú này, một sự phong phú chỉ có thể kéo dài nếu sống trong hòa bình và hòa giải trường kỳ. Vì thế, tôi nhắn nhủ mọi tín hữu Kitô Trung Đông, dù là dân bản địa hay là những người mới đến, hãy trở thành những người xây dựng hòa bình và hòa giải. Chúng ta cầu xin Chúa củng cố đức tin của các tín hữu Kitô Liban và Trung Đông, cho họ được tràn đầy hy vọng. Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì sự hiện diện của họ và khích lệ toàn thể Giáo Hội hãy liên đới để họ có thể tiếp tục làm chứng về Chúa Kitô trên những phần đất được chúc phúc ấy, qua sự tìm kiếm hiệp thông trong hiệp nhất. Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người và các tổ chức đang giúp đỡ họ trong chiều hướng ấy bằng nhiều cách. Lịch sử Trung Đông dạy chúng ta về vai trò quan trọng và nhiều khi là vai trò hàng đầu của các cộng đoàn Kitô khác nhau trong việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho vùng này của thế giới được hòa bình hằng mong ước, trong niềm tôn trọng những khác biệt hợp pháp. Xin Chúa chúc lành cho Liban và Trung Đông! Xin Chúa chúc lành cho toàn thể anh chị em! (SD 12-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican
 

 

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh chống xúc phạm tôn giáo

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh chống xúc phạm tôn giáo

VATICAN. Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, Cha Lombardi kêu gọi tôn trọng tín ngưỡng, các nhân vật và biểu tượng tôn giáo, sau vụ lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Lybia bị tấn công.

Đại Sứ Hoa Kỳ Chris Stevens và công dân Mỹ đã bị thiệt mạng trong vụ người Hồi giáo tấn công và đốt phá lãnh sự quán Mỹ ở thành phố Bengasi ở miền đông Lybia tối ngày 11 tháng 9 vừa qua. Một số người Libia cũng bị thiệt mạng. Vụ tấn công này có liên hệ tới việc trình chiếu tại Mỹ cuốn phim tựa đề ”Sự vô tội của những người Hồi giáo” mô tả ngôn sứ Mohammed như kẻ sách nhiễu tình dục trẻ em, yểu điểu như phụ nữ và giết người tàn ác. Phim này cũng tạo nên các vụ phản đối trước sứ quán Mỹ tại Ai cập.

Trong thông cáo công bố hôm 12 tháng 9 vừa qua, Cha Lombardi khẳng định rằng:

”Sự tôn trọng sâu xa đối với tín ngưỡng, các văn bản đạo, các đại nhân vật và biểu tượng của các tôn giáo khác nhau là một tiền đề thiết yếu để có sự sống chung hòa bình của các dân tộc. Những hậu quả rất trầm trọng của những vụ xúc phạm và gây hấn vô lối đối với sự nhạy cảm của các tín hữu Hồi giáo, một lần nữa là điều hiển nhiên trong những ngày này, qua những phản ứng mà chúng tạo nên, kể cả với những hậu quả bi thảm, những hậu quả này lại càng gia tăng căng thẳng và oán thù, gây ra tình trạng bạo lực không thể chấp nhận được.
”Sứ điệp đối thoại, và tôn trọng đối với tất cả các tín hữu thuộc các tôn giáo khác nhau mà ĐTC sắp mang đến trong cuộc viếng thăm sắp tới tại Liban chỉ cho thấy con đường mà mọi người phải đi theo để cùng nhau kiến tạo sự sống chung giữa các tôn giáo và các dân tộc trong hòa bình” (SD 12-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Chính phủ Liban tuyên bố lễ nghỉ để chào đón Đức Thánh Cha

Chính phủ Liban tuyên bố lễ nghỉ để chào đón Đức Thánh Cha

BEIRUT. Chính phủ Liban tuyên bố: thứ bẩy 15-9 tới đây là lễ nghỉ toàn quốc tại nước này, nhân dịp cuộc viếng thăm chính thức của ĐTC.

Thủ tướng Hajib Mikati quyết định rằng các công sở, trường học và đại học công cũng như tư sẽ đóng cửa. Ông cho biết quyết định này là để các thành phần khác nhau trong dân chúng có thể chào đón Đức Giáo Hoàng.
Hàng trăm ngàn người sẽ đón mừng ngày tại Harissa, ở Kesrouan khi ngài đến đây vào thứ sáu 14-9 sắp tới.
Mặt khác, ĐHY Kurt Koch, người Thụy sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, bày tỏ hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban sẽ đẩy mạnh công trình đại kết Kitô, đối thoại liên tôn cũng như góp phần mang lại hòa bình cho Trung Đông.

ĐHY Koch nói với hãng tin Công Giáo Đức KNA rằng: ”Cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban trong tình trạng căng thẳng hiện nay là một dấu chỉ hy vọng lớn”.

ĐHY Kurt Koch sẽ tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm sắp tới. Ngài cho biết ĐTC không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, và trong cuộc viếng thăm Liban, ĐTC không đề ra những giải pháp chính trị cụ thể. Nhưng dân chúng chờ đợi nơi cuộc viếng thăm của ngài một sứ điệp rõ ràng, một dấu chỉ hòa giải và hòa bình. Chắc chắn Ngài sẽ kêu gọi gia tăng sự sống tác để kiến tạo một tương lai chung cho con người ở Trung Đông, cũng như từ bỏ chiến tranh”.

ĐHY Koch cho biết ngài cũng mong đợi có những tuyên bố rõ ràng của ĐTC về đại kết và cuộc đối thoại với Hồi giáo. Nhiều vấn đề mà các tín hữu Kitô ở Trung Đông đang gặp phải chỉ có thể được họ cùng nhau giải quyết.
Đồng thời, ĐHY cũng kêu gọi có những sáng kiến cụ thể và mạnh mẽ để ngăn chặn làng sóng xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông. Ngài nói ”Một điều tuyệt đối cần thiết là các tín hữu Kitô tiếp tục ở lại trong vùng này và chống lại cám dỗ xuất cư.. Qua cuộc viếng thăm này, ĐTC muốn củng cố cộng đoàn Kitô trong vùng”.
ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô đánh giá tích cực lời tuyên bố của những người Hồi giáo nói rằng Trung Đông mà không có các tín hữu Kitô thì chắc chắn sẽ thiếu một điều gì đó. ”Nếu mọi người đều đồng ý các tín hữu Kitô phải ở lại tại những nước nguyên thủy của Kitô giáo, thì chắc chắn người ta sẽ tìm ra những con đường để làm cho điều ấy có thể thực hiện được”.

Sau cùng, ĐHY Koch hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban sẽ không bị lợi dụng về chính trị và người ta có thể hiểu đúng sứ điệp của ĐTC (KNA 8-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Thánh Lễ Giỗ lần thứ 10 của Vị Tôi Tớ Chúa, ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, sẽ được Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lúc 10 giờ sáng thứ sáu, 14 tháng 9-2012, tại Nhà Thờ Đức Mẹ Scala ở Roma, cũng là Nhà Thờ hiệu tòa của Đức Cố Hồng Y.

ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, qua đời lúc 6 giờ chiều ngày thứ hai, 16 tháng 9-2002, tại Nhà thương Piô 11 ở Roma, hưởng thọ 74 tuổi, sau 49 năm linh mục, 35 năm Giám Mục và 1 năm rưỡi làm Hồng Y. Ngài được an táng tại nghĩa trang Campo Verano ở Roma, trong khu mộ của Kinh Sĩ Đoàn Đền Thờ Thánh Phêrô.

Sáng ngày 8-6 năm nay, Đức Cố Hồng Y đã được cải táng về Nhà Thờ Đức Mẹ Scala của các cha Dòng Camêlô nhặt phép ở khu vực Trastevere, trong một buổi lễ đơn sơ do ĐHY Peter Turkson, người Ghana, đương kim Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, chủ sự trước sự hiện diện của một số HY, GM, và gần 100 người gồm các nhân viên của Hội đồng, Liên tu sĩ Việt Nam ở Roma.

Hôm 6 tháng 9-2012, Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã thông báo và xin Ban Chấp Hành Hội Liên Tu Sĩ Việt Nam ở Roma, đứng đầu là Cha Giuse Nguyễn Tất Thắng O.P, cộng tác vào việc tổ chức thánh lễ Giỗ Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie (NTòa Thánh. Địa Chỉ nhà thờ: Santa Maria della Scala: Piazza della Scala, 53, 00153 Roma)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican