TRẺ SINH ĐÔI

TRẺ SINH ĐÔI

“Chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách nhằm đảm bảo niềm vui vĩnh cửu ở đời sau.”

Có một bà mẹ mang thai đôi. Một đứa là gái, đứa kia là trai. Nhiều ngày tháng trôi qua, và chúng lớn dần. Khi càng lớn, chúng càng vui mừng ca hát: “Có được sự sống thật là vĩ đại!”

Cùng nhau chúng thám hiểm lòng mẹ. Khi chúng tìm thấy chiếc nhau của bà mẹ, chúng la lên vui sướng: “Mẹ thương chúng ta biết là chừng nào đến nỗi chia sẻ sự sống cho chúng ta!”

Không bao lâu, hai đứa ngày càng thay đổi đáng kể. Đứa con trai hỏi, “Thế nghĩa là gì?”

“Có nghĩa cuộc sống của chúng ta trong lòng mẹ sẽ chấm dứt,” đứa con gái trả lời.

“Nhưng mình không muốn rời lòng mẹ,” đứa con trai nói. “Mình muốn ở đây mãi.”

Đứa con gái trả lời, “Mình đâu có lựa chọn được. Nhưng mà biết đâu có đời sống sau khi sinh.”

“Làm sao được?” đứa con trai hỏi. “Chúng ta sẽ bị tách khỏi cái nhau của mẹ mình thì làm sao sống nổi? Hơn nữa, trong bụng mẹ có những chứng cớ rõ ràng là có những đứa sống trước mình, và chưa có đứa nào trở lại đây cho mình biết là có sự sống sau khi sinh. Không được đâu, đến đây là chấm dứt.”

Và rồi đứa con trai thấy tuyệt vọng, suy nghĩ. “Nếu đời sống trong bụng mẹ chấm dứt bằng cái chết, thì mục đích của đời sống đó là gì? Ý nghĩa của nó là gì? Có lẽ mình không có mẹ. Có lẽ mình chỉ bịa ra người mẹ để cảm thấy an tâm.”

“Nhưng chúng ta phải có một người mẹ,” đứa con gái nói. “Vì làm thế nào mà chúng ta vào đây được? Làm thế nào chúng ta sống được?”

Và rồi những ngày cuối cùng trong bụng mẹ đầy những thắc mắc và lo sợ.

Sau cùng, giây phút chào đời đã đến. Khi hai đứa mở mắt nhìn, chúng đã khóc vì sung sướng. Những gì chúng thấy còn hơn cả mơ ước.

Dĩ nhiên, câu chuyện trên chỉ là một ngụ ngôn. Nó so sánh đời sống ở thế giới này với đời sống trong lòng mẹ.

Cũng như hai đứa trẻ song sinh tự hỏi về đời sống sau khi sinh giống như thế nào thì chúng ta cũng tự hỏi về đời sống sau khi chết và thế giới ấy giống như gì.

Và cũng như đời sống sau khi sinh vượt quá những mơ ước của hai đứa song sinh thì đời sống sau khi chết cũng vượt quá ước mơ của chúng ta. Theo lời Thánh Phaolô:

Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người” (1 Corinthians 2:9)

Chuyện ngụ ngôn của hai đứa song sinh thích hợp với các bài đọc hôm nay. Vì cả Phúc Âm và bài đọc một đều rõ ràng đối phó với sự sống sau khi chết.

Và vì thế, có lẽ thật thích hợp cho chúng ta để suy nghĩ về đề tài đó.

Một cách cụ thể, chúng ta có thể suy nghĩ về câu hỏi rất thực tế: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Câu hỏi này được đề cập đến trong một cuốn sách của Doris Lee McCoy có tựa đề là Megatraits: Twelve Traits of Successful People. (Vô Số Đặc Điểm: 12 Đặc Điểm của Người Thành Công).

Một trong những người mà cô McCoy phỏng vấn khi thực hiện cuốn sách là ông Peter Coors, chủ tịch ngành bia của công ty Adolph Coors.

Ông Adolph Coors từ nước Đức vào Mỹ dưới dạng hành khách đi tầu lậu vé. Ông đến Hoa Kỳ mà không có giấy thông hành, không một đồng xu, không có gì cả.

Từ một khởi đầu không ai dám nghĩ đến, ông đã sáng lập một trong những công ty thành công và giầu có nhất Hoa Kỳ.

Peter Coors là chắt của Adolph Coors. Khi cô McCoy hỏi ông Peter nghĩ gì về sự thành công, ông trả lời như sau:

“Sự thành công đối với tôi thật căn bản. Thứ nhất, khi cuộc đời tôi chấm dứt, sự thành công sẽ là đứng trước mặt Thiên Chúa, và cảm thấy rằng dù tôi có những lầm lỗi, tôi luôn luôn coi Thiên Chúa như tâm điểm của đời tôi.

“Thứ hai, sự thành công đối với tôi là có được một gia đình tốt đẹp và một hôn nhân tốt đẹp. Đó là một phần rất quan trọng của đời tôi.

“Thứ ba, sự thành công đối với tôi là, sau thời gian làm việc với công ty chấm dứt, tôi có thể nói rằng tôi đã giúp đỡ, không chỉ công ty, nhưng còn các nhân viên nữa.”

Ba nhận xét của ông Peter Coors bao gồm câu trả lời cho thắc mắc của chúng ta: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Thứ nhất, chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách mà sau khi chết, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đoan chắc rằng Thiên Chúa luôn luôn ở tâm điểm của đời sống chúng ta.

Thứ hai, chúng ta phải sống theo một phương cách mà, sau việc yêu mến Thiên Chúa, việc yêu mến gia đình chiếm địa vị ưu tiên trong đời sống.

Sau cùng, chúng ta phải sống ơn gọi của mình theo một phương cách không những tích cực góp phần cho ngành nghề và lãnh vực hoạt động nhưng còn cho những người mà chúng ta cùng làm việc.

Nếu chúng ta có thể thi hành như vậy, quả thật cuộc đời chúng ta đã sống theo một phương cách được cam đoan bởi lời hứa của Thánh Phaolô:

“Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người”

Chúng ta hãy kết thúc với một bài thơ. Bài thơ này là một kết luận thực tế, thích hợp với những gì chúng ta vừa nói. Bài thơ mang tên “Dẫu Vậy.”

Con người thì vô lý, sai lầm, và ích kỷ,
Dẫu vậy hãy cố yêu thương họ!

Nếu bạn làm điều tốt, đời sẽ lên án bạn là vì nhiều ẩn ý.
Dẫu vậy hãy làm tốt cho họ!

Nếu bạn thành công, bạn sẽ có thêm những người giả dối và kẻ thù ghét bạn.
Dẫu vậy hãy thành công!

Những điều tốt bạn làm sẽ rơi vào quên lãng.
Dẫu vậy hãy làm tốt!

Sự thành thật và thẳng thắn khiến bạn dễ bị tổn thương.
Dẫu vậy hãy thành thật và thẳng thắn!

Những người vĩ đại với các tư tưởng vĩ đại có thể bị hạ nhục bởi những người ti tiện.
Dẫu vậy hãy nghĩ đến điều vĩ đại!

Những gì bạn bỏ công xây dựng cả năm có thể bị tiêu hủy sau một đêm.
Dẫu vậy hãy xây dựng!

Người ta thực sự cần được giúp đỡ nhưng họ có thể tấn công bạn nếu bạn giúp đỡ họ.
Dẫu vậy hãy giúp đỡ họ!

Bạn hết sức xây dựng thế giới và chỉ nhận được những đắng cay.
Dẫu vậy hãy hết sức trao ban cho thế giới
!

Cha Mark Link, S.J.

Đời Này và Đời Sau

Đời Này và Đời Sau

Bạn đã làm người được bao nhiêu năm?

Chết hết làm người, bạn dự định sẽ làm gì?

Sống và chết là điều mà mọi người đều nghĩ tới. Và hơn thế nữa, ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời này luôn luôn là điều mà ta hằng quan tâm suy nghĩ. Ngay cả những người vô thần, dù không tin có cuộc sống ở đời sau, vẫn băn khoăn lo lắng cho những gì xảy ra sau khi ta chết: Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ làm gì? Sẽ đi về đâu? Về cõi trường sinh vĩnh phúc, hay nơi trầm luân đời đời?

Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến đời sau, nơi mà con người không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng cần lấy vợ lấy chồng. Sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nhưng đời sau vẫn là một nhiệm mầu, vì chẳng ai tận mắt nhìn thấy đời sau, chẳng ai chụp hình quay phim được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã chết cũng chẳng bao giờ trở lại đời này để kể cho ta nghe về đời sau. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ, cho nên con người bị cuốn hút bởi “tham sân si” của đời này, sống như thể chỉ có đời này, bám dính lấy đời này.

Thế nhưng, đời này được kết thúc bằng cái chết. Mọi người đều phải đi qua sự chết. Cái chết là cánh cửa mở ra cho con người đi vào cuộc sống mới ở đời sau. Nơi đó những người công chính không còn phải chết nữa, nhưng được sống lại, và sống đến muôn muôn đời.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Giáo lý Công giáo khẳng định chỉ có một kiếp người, đó là cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận của ta ở đời sau. Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ đi về đâu? Về nơi trường sinh vĩnh phúc hay cõi trầm luân đời đời?

Chúng ta chỉ đi qua cuộc đời này một lần mà thôi, không có một cơ hội thứ hai để ta làm lại. Chính vì thế ta phải cố gắng nỗ lực sống hết mình trong cuộc đời này, để đời sau ta được sống lại với Thiên Chúa, vì “Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, và đối với Ngài, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Và đó cũng là cơ sở vững chắc cho ta mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Hy vọng vì đời ta sẽ không đi trong bất định, không lạc vào hư vô, nhưng có một cùng đích là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên trong hạnh phúc; hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa, hạnh phúc được chia sẻ sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúng ta tin tưởng vững vàng và hy vọng chắc chắn rằng: Cũng như Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì sau khi chết, người công chính cũng được sống mãi với Đức Kitô Phục sinh và Người sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. (GLHTCG, số 989)

Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp khiến con mải mê, quên mình là lữ khách. Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong lòng con. Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân, như thể con sẽ sống mãi trong cuộc đời này. Xin khơi dậy trong con niềm khát khao những điều cao cả trên trời, và đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường nơi trần thế tạm bợ này. Amen.

Veritas Radio

CUỘC SỐNG MAI HẬU

CUỘC SỐNG MAI HẬU

Giáo lý của Chúa Giêsu dạy có sự sống lại. Tuy nhiên vào thời của Ngài, hai nhóm: nhóm Pharisêu và nhóm Sađucêô luôn đối nghịch nhau về quan điểm, lập trường. Nhóm Pharisêu là nhóm bảo thử, nhóm Sađucêô là nhóm cấp tiến không tin vào sự sống lại. Như thế họ đối nghịch với Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài dạy. Nhóm Sađucêô hầu hết là giới giáo sĩ, giới lãnh đạo về mặt tôn giáo. Họ liên hệ với Chính quyền để hưởng lợi cá nhân.

Nhóm Sađucêô cho rằng chết là hết, ở đời phải tự do hưởng thụ. Sống cứ buông thả, cứ chơi bời và không cần gì phải lập công tích đức. Do đó, để đánh lừa dư luận, để gây khó dễ cho Chúa và để gây hỏa mù, gây niềm tin cho quần chúng, họ đã tự bầy ra một câu chuyện để gây thắc mắc, xin Chúa giải quyết cho họ. Họ dựa vào một điều luật của Môsê gọi là luật Lévirat để phịa ra một câu chuyện giả tưởng, buồn cười nhưng làm cho người khác có thể hiểu lầm. Theo luật Lévirát khi trong gia đình có một người anh em chết tuyệt tự, thì người em phải lấy chị dâu hoặc em dâu làm vợ, để nối dõi tông đường. Và họ hỏi Chúa như thế nếu có bảy anh em chết thì khi sống lại “người đàn bà góa bụa ấy là vợ của ai?”. Câu chuyện giả tưởng, không có thật này lại là dịp, là cơ hội để Chúa Giêsu giải thích cho mọi người về sự sống lại.

Ở đây, chúng ta quan tâm đến hai điểm giáo lý căn bản. Điểm thứ nhất: cuộc sống mai sau là cuộc sống của Thiên Chúa. Con người được sống trước Thánh Nhan Chúa, ca tụng Chúa như các thiên thần. Điểm thứ hai, cuộc sống sau này, cuộc sống mai sau là một cuộc sống hoàn toàn linh thiêng, cuộc sống Phục sinh nghĩa là cuộc sống hoàn toàn được đổi mới, cuộc sống linh thiêng như các thiên thần, cuộc sống như Chúa Phục sinh. Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại vì chính Ngài đã Phục sinh như lời Ngài đã nói trước. Chúa Giêsu xác quyết người sống lại sẽ giống như các thiên thần. Người sống lại ở Thiên Đàng không còn lấy vợ lấy chồng vì họ không còn sống thân xác như trước khi chết. Để trả lời cho các tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã viết như sau : “cũng vậy về sự kiện kẻ chết sống lại : gieo xuống trong hư hoại, sống lại trong bất hoại; gieo xuống trong ô nhục, sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng” (1 Co 15, 42).

Để giải thích cho một số người đặt Môsê như một vị ngôn sứ cao cả, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề và hỏi họ . Thánh Kinh đã cho thấy gì ? Khi Thiên Chúa hiện ra với Ông Môsê trong bụi gai bốc cháy nhưng không tiêu hao, Ngài đã phán : “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp”. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ Ta đâu có phải Thiên Chúa của kẻ chết. Nhóm đó và nhiều người đã im lặng không nói được gì.

Các bài đọc, đặc biệt là bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hay rằng : “Kẻ chết sẽ sống lại”. Chết không phải là hết.Cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ. Chết là đi vào cõi trường sinh, đi vào một cuộc sống mới. Như Chúa chết là để sống lại. Vậy, chúng ta là Kitô hữu, chúng ta chết là để sống lại. Chúng ta tin Ông bà Cha mẹ, những người thân yêu hay chính chúng ta chết là để sống lại. Đây là niềm tin, là niềm cậy trông, niềm hy vọng vì chết là bước vào cõi sống.

Xin mượn lời của Luc Fritz để kết luận bài chia sẻ này : …Bước vào thế giới của Thiên Chúa là đi vào một chiều kích khác.Chiều kích ấy đã thay đổi các điểm mốc : cái chết không còn nữa. Trong đó, thế giới của con người không bị phủ nhận, nhưng nó mang một chiều sâu, một sức sống mới. Sự Phục sinh của Đức kitô củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào sự phục sinh của chính ta. Sự Phục sinh là sự sống viên mãn.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Nhóm Pharisêu là nhóm nào ?

2. Bè Sađucêô có tin sự sống lại ?

3. Chúa Giêsu đã trả lời thế nào với các nhóm ?

4. Chúng ta phải làm gì để củng cố niềm tin vào sự Phục sinh ?

5. Sự sống mai sau sẽ thế nào ?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

ĐỜI SAU KHÁC ĐỜI NÀY

ĐỜI SAU KHÁC ĐỜI NÀY

Ðức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm “Trên đỉnh caoThập Giá” đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Ðịa Ðàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, A-đam vấp phải thân xác bất động của A-ben. A-đam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay E-và. Ông Bà lay gọi nhưng A-ben không đáp trả. Trước đây A-ben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay A-ben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây A-ben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của A-ben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết“.

Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Ðịa Ðàng đã đóng ngõ cài then. Ðau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.

Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết ? Chết là gì ? Ðó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.

Ðối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5, 12; 6, 23). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.

Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giê-su. Họ trích sách Ðệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…

Chúa Giê-su trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.

Ðời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.

Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giê-su sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết (1 Cr 15, 14). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2, 24).

Vì Ðức Giê-su đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Ki-tô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Ki-tô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá (Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa (Rm 6, 10).

Niềm tin vào Ðức Giê-su, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Ki-tô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giê-su. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng.”

Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi (Rm 8, 15).

Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giê-su. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

ĐTC Phanxicô ôm hôn và cầu nguyện cho người bệnh dị dạng

ĐTC Phanxicô ôm hôn và cầu nguyện cho người bệnh dị dạng

POPE FRANCIS' GENERAL AUDIENCE

Đức Thánh Cha Phanxicô , tạm dừng một chút thời gian để cầu nguyện và đặt tay trên một người đàn ông với một chứng bệnh dị dạng . Người đàn ông nhẹ nhàng vùi đầu vào ngực của Đức Giáo Hoàng , nhiều khối u trên khuôn mặt có thể nhìn thấy được.

Cuộc gặp gỡ với người đàn ông ốm yếu xảy ra tại Vatican hôm thứ tư vào cuối buổi tiếp kiến ​​chung , trong đó có khoảng 50,000 người tham dự.

Hình ảnh của vòng tay của Đức Thánh Cha tại quảng trường Thánh Phêrô lan truyền khắp nơi trên phương diện truyền thông xã hội .

Ông Donna Hosie nói trên mạng xã hội rằng:

"Tôi là một người vô thần , nhưng tôi càng nghe về Đức Giáo Hoàng Phanxicô , tôi càng thích Ông ấy, "

Một số người nói Đức Thánh Cha Phanxicô là sống theo những lý tưởng theo tên gọi của mình, Thánh Phanxicô Assisi , một vị Thánh nổi bật, coi mình là một người đầy tớ cho người nghèo và thiếu thốn.

Tại sao vòng tay của Đức Giáo Hoàng là mạnh mẽ như vậy

POPE FRANCIS' GENERAL AUDIENCE

Kể từ khi là người lãnh đạo của 1.2 tỷ người Công Giáo trên thế giới , Đức Thánh Cha đã nêu bật sự cần thiết phải tiếp cận với những người nghèo khổ.

"Lạy Chúa , xin dạy chúng con bước ra ngoài bản thân mình , " đây là lời ĐTC tweet trong tháng Tám. " Xin dạy chúng con đi ra đường phố và biểu hiện tình yêu của chúng con . "

Một tháng sau, ĐTC cũng lập lại như vậy.

"Sự từ thiện chân chính đòi hỏi lòng can đảm: Hãy vượt qua nỗi sợ hãi, dùng bàn tay của mình để giúp đỡ những người đang cần đến ",.

Đức Thánh Cha đã kêu gọi sự tương tác cởi mở với mọi người trong tất cả các tầng lớp xã hội , đặc biệt là người nghèo yếu và dễ bị tổn thương.

Và ông đang thực hành giảng dạy ông những gì .

Người đàn ông Đức Giáo Hoàng an ủi bị mang bệnh neurofibromatosis. Các rối loạn di truyền gây ra đau đớn và hàng ngàn khối u mọc khắp cơ thể. Nó dẫn đến mất thính giác và thị lực , các biến chứng tim mạch , và mất chức năng  từ sự đè nén dây thần kinh do khối u.

Đây là điểm nổi bật mới nhất trong các cuộc gặp gỡ đáng nhớ đối với Đức Giáo Hoàng.

Thái Trọng

 

ĐỨC THÁNH CHA BỔ NHIỆM GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ROCHESTER, NEW YORK

ĐỨC THÁNH CHA BỔ NHIỆM GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ROCHESTER, NEW YORK

bishop salvatore

(Vatican Radio) Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Salvatore Ronald Matano, người đứng đầu giáo phận Rochester, tiểu bang New York. Ông đã phục vụ Giám Mục tại Burlington, Vermont, cùng thời điểm được bổ nhiệm.

Giám mục Matano sinh năm 1946 ở Providence, Rhode Island, thụ phong linh mục vào năm 1971. Ông nhận bằng tiến sĩ trong giáo luật từ Đại học Giáo hoàng Gregorian vào năm 1972, và sau đó phục vụ việc giảng dạy và mục vụ giáo xứ trong giáo phận nhà của Providence, và nhiều nơi trong giáo phận khác nhau, bao gồm như tổng đại diện và điều phối viên của giáo triều. Ông cũng làm việc trong Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Washington, DC.

Thánh lễ nhậm chức sẽ vào ngày 3 tháng 1 năm 2014, và là vị Giám mục thứ 9 của giáo phận Rochester.

Ngài được tấn phong Giám Mục vào năm 2005 và từng là Giám Mục phó của Burlington cho đến tháng mười của năm đó, khi ông bắt đầu làm giám mục. Ông là thành viên của Ủy ban Giáo lý Hoa Hội Đồng Giám Mục Kỳ.

Thái Trọng phỏng dịch

Đức Thánh Cha đề cao vai trò vị bảo hệ tại tòa án hôn phối

Đức Thánh Cha đề cao vai trò vị bảo hệ tại tòa án hôn phối

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 8-11-2013, dành cho các thành viên Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, ĐTC đặc biệt đề cao vai trò của vị bảo hệ (difensor vincoli) trong các tòa án hôn phối của Giáo Hội.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 55 người tham dự khóa họp toàn thể của Tối Cao Pháp viện Tòa Thánh về vai trò của vị bảo hệ, tức là người có nhiệm vụ làm mọi cách để bảo vệ mối dây hôn phối trong các vụ án xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Khóa họp được đặt dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Raymond Burke, người Mỹ, và trong số các tham dự viên có 16 HY và 6 GM thành viên.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao một chức năng của Tối Cao Pháp Viện Tòa Thánh là giúp các tòa án trong toàn thể Giáo Hội chu toàn nhiệm vụ thi hành công lý của Giáo Hội cho các tín hữu. Tòa này cũng giúp đỡ các GM trong việc huấn luyện các chức sắc tư pháp thích hợp, trong đó có vị bảo hệ. Ngài nói:

”Vị bảo hệ chu toàn một chức năng quan trọng, đặc biệt trong các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Điều cần thiết là vị bảo hệ phải chu toàn phận vụ của mình một cách hữu hiệu, để giúp đạt tới sự thật trong phán quyết chung kết, mang lại thiện ích mục vụ cho các phe liên hệ”.

ĐTC nhắc đến Huấn thị ”Dignitas connubii” (Phẩm giá hôn nhân, số 56, 1-2; 279,1) và đặc biệt nhắc đến vai trò của vị bảo hệ trong các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu vì thiếu khả năng tâm lý. Trong một số tòa án, đây là lý do duy nhất thường được nại đến để tuyên bố hôn nhân kết ước bất thành.

Ngài nói: ”Vị bảo hệ nào muốn phục vụ tốt đẹp thì không thể chỉ đọc vội vã các văn kiện trong vụ án, hoặc trả lời cho có lệ theo kiểu bàn giấy và trống trống. Trong công tác tế nhị này, vị bảo hệ được kêu gọi tìm cách hòa hợp những qui định của bộ giáo luật và hoàn cảnh cụ thể của Giáo Hội và xã hội.. Khi trung thành chu toàn trọn vẹn nghĩa vụ của mình, vị bảo hệ không làm tổn thương quyền của vị thẩm phán tòa án Giáo Hội, vì vị thẩm phán là người duy nhất có quyền phán quyết về vụ án. Khi vị bảo hệ thi hành nghĩa vụ kháng án, kể cả tại tòa Thượng thẩm Rota ở Roma, để chống lại một phán quyết mà vị ấy thấy là làm thương tổn chân lý về mối giây hôn phối, nghĩa vụ của vị ấy không làm thương tổn nghĩa vụ của vị thẩm phán. Đúng hơn các thẩm phán có thể tìm được một trợ lực cho hoạt động của mình trong công việc kỹ lưỡng của vị bảo vệ mối giây hôn phối”.

Theo giáo luật số 1445, ngoài việc xét xử những vụ thượng tố chống lại phán quyết hoặc hành động của tòa Thượng Thẩm Rota, Tối Cao Pháp Viện của Tòa Thánh còn cứu xét những tranh tụng phát nguyên từ hành vi của quyền hành chánh trong Giáo Hội; phán xử những tranh tụng hành chánh khác được ĐTC hay cơ quan giáo triều đưa tới, và giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan ấy. Ngoài ra, Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh cũng có chức năng như một bộ tư pháp với nhiệm vụ canh phòng việc điều hành công lý cách đúng đắn, nới rộng thẩm quyền của các tòa án, xúc tiến và phê chuẩn việc thành lập các tòa án đệ nhị cấp (SD 8-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

“Các Bí tích không phải là những nghi thức, chúng là sức mạnh của Đức Kitô.” Đức Phanxicô huấn dụ về những điểm chính yếu của đức tin và sự thực hành trong các Giáo hội Châu Âu

Trong buổi tiếp kiến chung hôm Thứ tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về sức mạnh của các Bí tích, trong khi nhấn mạnh và giải thích một số điểm để thổi sức sống mới vào trong những bản văn được chuẩn bị sẵn. Ngài nói các Bí tích không phải là những nghi thức; chúng là sức mạnh của Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở trong các Bí tích. Khi chúng ta dâng Thánh lễ, chính Chúa Giêsu sống động ở đó trong phép Thánh Thể. Ngài đem chúng ta lại với nhau như một cộng đoàn, để tôn thờ Chúa Cha.

Sau đó đức Bergoglio nhấn mạnh rằng “mọi cuộc gặp gỡ với Đức Kitô trong các Bí tích ban ơn cứu độ cho chúng ta, mời gọi chúng ta “ra đi” và thông truyền cho người khác một ơn cứu độ mà chúng ta có thể nhìn thấy, có thể đụng chạm, gặp gỡ, đón nhận, và điều đó thật sự đáng tin cậy vì nó là tình yêu.” ” Theo cách nầy, các bí tích đưa dẫn chúng ta thành những nhà truyên giáo, và sự dấn thân tông đồ thúc đẩy chúng ta đem tin Mừng đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, ngay cả nơi chống đối nhất, là hoa trái đích thực của một đời sống bí tích chuyên chăm, nó như là sự dự phần vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng muốn trao tặng ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người.”

Đức Thánh Cha đã nói trong một nhận xét ứng khẩu rằng: “Và như thế có được sự hiệp thông là điều rất quan trọng. Quan trọng là trẻ em cần được rửa tội sớm, quan trọng là chúng được xác nhận là thành viên. Tại sao, vì đây là sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta, Ngài giúp đỡ chúng ta. Quan trọng là, khi chúng ta cảm nhận rằng chúng ta đã phạm tội, chúng ta đến với Bí tích Giao hòa. ‘Không, thưa Cha, con sợ lắm, bởi vì linh mục sẽ la mắng con!’ Không, vị linh mục sẽ không la mắng bạn. Bạn có biết bạn sẽ gặp ai trong Bí tích Giao hòa không? Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thứ cho bạn. Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn ở đó, và đây là một bí tích. Nó làm nên toàn thể Giáo Hội.”

Do đó Đức Phanxicô nhấn mạnh vào sự quan trọng của việc rửa tội trẻ em từ sớm và của việc có sự hiệp thông. Đức Bergoglio nhắc lại rằng Giáo Hội cần phải “tạo điều kiện” cho đức tin của người ta chứ không phải ra qui định cho nó. Đức Thánh Cha đã làm một ví dụ bằng việc rửa tội một số người trong các chuyến hành hương của ngài và những ngày lễ các thánh. Ngài luôn ban phép Rửa tội sau các bài giáo lý ngắn gọn.

Trong một cuốn sách phỏng vấn với Francesca Ambrogetti và Sergio Rubin, vị TGM của Buenos Aires hồi đó đã nói: “Có một ngày tôi đã rửa tội cho bảy em bé của cùng một người mẹ, một góa phụ nghèo vốn là một người trông coi việc nhà và đã có con với hai người đàn ông khác nhau. Tôi đã gặp bà năm vừa qua tại Lễ Thánh Cayetano. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con đã phạm một tội thật lớn, con có 7 đứa con nhưng con chưa bao giờ rửa tội cho một đứa nào cả. Đó là vì bà ấy không có tiền để trả cho những người đỡ đầu, họ vốn ở xa, để đến dự phép rửa tội, hoặc để chi tiền cho những lễ mừng sau đó, vì bà ta phải làm việc liên tục… Tôi đề nghị gặp gỡ để nói về chuyện nầy. Chúng tôi đã nói chuyện qua điện thoại, bà ấy đến gặp tôi, bà nói không bao giờ có thể tìm được tất cả những người đỡ đầu và qui tụ họ lại với nhau..Cuối cùng tôi nói với bà ấy: chỉ cần hai người đỡ đầu đại diện cho những người khác. Tất cả bọn họ đã đến đây và sau một bài giáo lý ngắn tôi đã rửa tội đám trẻ trong nhà nguyện của tòa Tổng Giám Mục. Sau nghi lễ có một ít giải khát, ít Coca và ít mì sandwich. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con không thể tưởng tượng được, Cha làm cho con cảm thấy quan trọng… Tôi đã trả lời: thưa bà không phải là tôi, đó là Chúa Giêsu, Đấng làm cho bà nên quan trọng.”

“Sau một bài giáo lý ngắn…” Điều nầy gợi nhớ đến tiến trình khai tâm Kitô giáo trong các Giáo hội Âu châu. Ban bí tích cho trẻ em, thường là một cơ hội tuyệt vời để nhắc nhở các bậc cha mẹ về sứ điệp của Tin Mừng. Có thể hiểu được rằng các khóa học có một khoảng thời gian nhất định. Trong khi các gia đình trì hoãn về phép rửa tội, các giáo phận đang gia tăng trì hoãn sự hiệp thông và xác nhận. Bằng cách làm như thế họ có nguy cơ làm cho phép bí tích có vẻ như là điểm kết thúc, mục tiêu cuối cùng của con đường chuẩn bị nầy. Và rằng nó tùy thuộc vào sự chuẩn bị của người nhận lãnh bí tích. Dĩ nhiên sự chuẩn bị là cần thiết. Nhưng điều quan trọng là đừng làm mất đi điểm nhấn trên “sức mạnh” của bí tích, như Đức Thánh Cha đã thể hiện. Hiệu quả của bí tích không tùy thuộc hoàn toàn vào chiều dài của gian đoạn chuẩn bị của ứng viên.

XT (theo Vatican Insider) – Trích từ Xuân Bích VN

Đức Thánh Cha ấn định đề tài cho 3 Ngày Quốc Tế giới trẻ

Đức Thánh Cha ấn định đề tài cho 3 Ngày Quốc Tế giới trẻ

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã ấn định đề tài cho 3 ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới đây, như 3 giai đoạn của hành trình chuẩn bị tinh thần, đi tới cuộc cử hành Ngày Quốc Tế giới trẻ cấp hoàn cầu vào tháng 7 năm 2016 tại thành phố Cracovia Ba Lan với sự hiện diện của ĐTC.

3 đề tài đó là:
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 29 vào năm 2014: ”Phúc cho những ngừơi có tinh thần thanh bần, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 30 vào năm 2015: ”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8)
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 vào năm 2016: ”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7).
3 đề tài này rút từ các Mối Phúc Thật theo Tin Mừng. Tại Rio de Janeiro, ĐTC Phanxicô đã yêu cầu các bạn trẻ, với tất cả tâm hồn, hãy đọc lại các Mối Phúc Thật để biến nó thành một chương trình sống cụ thể: ”Bạn hãy nhìn, hãy đọc các Mối Phúc Thật mang lại điều tốt lành cho bạn!” (Xc Cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ Argentina tại Nhà Thờ Chính Tòa thánh Sebastian, 25-7-2013)

ĐTC Phanxcicô sẽ tiếp kiến Tổng thống Nga

Một tin khác từ Vatican: Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh xác nhận tin đã được một số báo chí loan đi, đó là chiều ngày 25-11 tới đây, ĐTC Phanxcicô sẽ tiếp kiến Tổng thống Nga, Vladimir Putin.

Báo chí cho biết tổng thống Nga rất muốn có cuộc gặp gỡ với ĐTC Phanxicô; các nhà ngoại giao Nga đã hoạt động trong vài tuần qua theo chiều hướng này và Tòa Thánh đã mau lẹ chấp nhận.

Trong dịp hội nghị thượng đỉnh mới đây của khối 20 cường quốc kinh tế ở thành phố San Pietroburgo, ĐTC đã viết thư cho tổng thống Putin, để kêu gọi các vị nguyên thủ khối G-20 tìm giải pháp cho những cuộc xung đột và giải quyết các cuộc khủng hoảng ở một số miền trên thế giới.

Lần cuối trước đây khi một Tổng thống Nga được ĐGH tiếp kiến tại Vatican là hồi tháng 2-2011: tổng thống Dimitri Medvedev được ĐGH Biển Đức 16 tiếp kiến lần thứ 2. Về phần Ông Vladimir Putin, ông đã được ĐGH Biển Đức tiếp kiến hồi tháng 3-20-7. (SD 7-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn và biến chúng trở thành các niềm vui và khổ đau của chính mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 6-11-2013.

Trong buổi tiếp kiến, đã có hàng trăm người tàn tật trong đó có rất đông các trẻ em. Đức Thánh Cha đã dành ra hơn một giờ đồng hồ để chào thăm, hôn, vuốt ve và an ủi họ. Cũng có một phái đoàn trong sắc phục thời trung cổ rất đẹp với trống và cờ giàn hàng chào danh dự rước Đức Thánh Cha lên khán đài.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển khía cạnh thứ hai của sự hiệp thông trong Giáo Hội: đó là sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là các thiện ích thiêng liêng. Hai khía cạnh gắn liền nhau, thật vậy sự hiệp thông giữa các kitô hữu lớn lên nhờ việc tham dự vào các thiện ích thiêng liêng. Một cách đặc biệt, Đức Thánh Cha nói, chúng ta duyệt xét các Bí Tích, các đặc sủng và tình bác ái (x. GLGHCG ss. 949-953). Chúng ta lớn lên trong sự hiệp nhất, trong sự hiệp thông với các Bí tích, với các đặc sủng mà mỗi người có bởi vì Chúa Thánh Thần đã ban chúng cho họ với tình bác ái.

Trước hết là sự hiệp thông với các Bí Tích. Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Các Bí Tích diễn tả và thực hiện một sự hiệp thông hữu hiệu và sâu xa giữa chúng ta, bởi vì trong các Bí Tích chúng ta gặp Chúa Kitô Cứu Thế, và qua Người, gặp gỡ các anh em khác trong đức tin. Các Bí tích không phải là các vẻ bề ngoài, không phải là các nghi thức. Các Bi Tích là sức mạnh của Chúa Kitô, có Chúa Giêsu Kitô trong các Bí Tích. Khi chúng ta cử hành Thánh Lễ, trong Bí Tích Thánh Thể có Chúa Giêsu sống động, chính Ngài sống động quy tụ chúng ta, làm cho chúng ta trở thành cộng đoàn, làm cho chúng ta thờ phượng Thiên Chúa Cha.

Mỗi người trong chúng ta, qua các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, được tháp nhập vào Chúa Kitô và hiệp nhất với toàn cộng đoàn các tín hữu. Vì thế nếu một đàng Giáo Hội ”làm ra” các Bí Tích, đàng khác chính các Bí Tích ”làm ra” Giáo Hội, xây dựng Giáo Hội, bằng cách sinh ra các con cái mới, kết hiệp họ với dân thánh của Thiên Chúa, bằng cách củng cố sự tùy thuộc của họ.

Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong các Bí tích trao ban cho chúng ta ơn cứu rỗi, mời gọi chúng ta ”ra đi”, và thông truyền cho người khác một sự cứu rỗi mà chúng ta đã có thể trông thấy, sờ mó được, gặp gỡ, tiếp đón; và nó thật là đáng tin cậy, bởi vì là tình yêu. Trong cách thế đó, các Bí Tích thúc đẩy chúng ta trở thành thừa sai, và dấn thân tông đồ đem Tin Mừng vào trong mọi môi trường, cả những môi trường thù nghịch nhất, làm thành hoa trái đích thật nhất của một cuộc sống kiên trì lãnh nhận các Bí Tích, trong việc tham dự vào sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, là Đấng muốn ban tặng ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ơn thánh của các Bí Tích dưỡng nuôi trong chúng ta một đức tin mạnh mẽ và tươi vui, một đức tin biết kinh ngạc trước các ”sự kỳ diệu” của Thiên Chúa và biết chống trả lại các ngẫu tượng của thế giới.
Khía cạnh thứ hai là sự hiệp thông của các đặc sủng. Đức Thánh Cha nói:

Chúa Thánh Thần phân phát cho các tín hữu nhiều quà tặng và ơn thánh thiêng liêng. Sự phong phú ”tuyệt vời” này trong các ơn của Chúa Thánh Thần có mục đích xây dựng Giáo Hội. ”Đặc sủng” là một từ hơi khó. Các đặc sủng là các món qùa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta: người thì được món qùa là như vậy, hay có tài khéo này hoặc khả năng khác… Nhưng chúng là các món qùa, mà Người ban cho chúng ta không để bị cất dấu đi: Người ban cho chúng ta để chia sẻ với các ngươi khác.

Chúng không được ban cho lợi ích của người nhận chúng, nhưng cho lợi ích của dân Chúa. Trái lại, nếu một ơn, một trong các món qùa này dùng để tự khẳng định chính mình, thì cần phải nghi ngờ rằng đây là một đặc sủng đích thực hay được sống một cách trung thành. Thật ra, các đặc sủng là các ơn thánh đặc biệt, các gợi hứng và các thúc đẩy nội tâm, nảy sinh trong lương tâm và trong kinh nghiệm của các người nhất định, được mời gọi dùng các ơn đó để phục vụ cộng đoàn. Một cách đặc biệt các ơn thiêng liêng này là để mưu ích cho sự thánh thiện của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo Hội. Tất cả đều được mời gọi tôn trọng các đặc sủng ấy nơi chúng ta và nơi người khác, tiếp nhận chúng như các khích lệ ích lợi cho sự hiện diện và công việc phong phú của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã cảnh cáo: ”Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1 Tx 5,19). Đừng dập tắt Thần Khí, Đấng ban cho chúng ta các món qùa đó, các tài khéo, các nhân đức, các điều xinh đẹp biết bao khiến cho Giáo Hội lớn lên.

Rồi Đức Thánh Cha nêu lên vài câu hỏi như sau: Đâu là thái độ của chúng ta trước các ơn này của Chúa Thánh Thần? Chúng ta có ý thức được rằng Thần Khí Chúa tự do ban chúng như Người muốn không? Chúng ta có coi các đặc sủng ấy như là một sự trợ giúp thiêng liêng, qua đó Chúa nâng đỡ đức tin của chúng ta, củng cố nó và cũng củng cố sứ mệnh của chúng ta trong thế giới hay không?

Khía cạnh thứ ba của sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là sự hiệp thông của tình bác ái. Sự hiệp nhất giữa chúng ta làm ra tình bác ái là tình yêu. Khi trông thấy các kitô hữu tiên khởi, các người ngoại giáo nói: ”Mà những người này yêu nhau biết chừng nào! Họ không ghét nhau, không bép xép người này chống người kia. Thật là tốt đẹp! Tình bác ái đó là tình yêu của Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta trong con tim.

Các đặc sủng quan trọng trong cuộc sống của cộng đoàn kitô, nhưng chúng luôn luôn là các phương thế giúp lớn lên trong tình bác ái, trong tình yêu, mà thánh Phaolô đặt lên trên tất cả mọi đặc sủng (x. 1 Cr 13,1-13). Thật vậy, không có tình yêu thì cả các ơn ngoại thường nhất cũng là hư vô. Nhưng người này chữa lành dân chúng, có đặc tính này, có nhân đức này chữa lành dân chúng. Nhưng ông ta có tình yêu trong con tim không? Có tình bác ái không? Nếu có thì tiến lên, nhưng nếu không, thì không phục vụ Giáo Hội. Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Và tôi xin hỏi anh chị em nhé: nếu tất cả chúng ta đều ích kỷ, chỉ ích kỷ, thì có thể sống trong hòa bình được không? Có thể sống trong hòa bình không, nếu mọi người chúng ta là một người ích kỷ? Có thể hay không có thể? Người ta trả lời là không. Không thể được. Vì thế, cần có tình yêu để hiệp nhất chúng ta, cần có tình bác aí. Cử chỉ bé nhỏ nhất của tình yêu thương có các hiệu qủa tốt cho mọi người. Và Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Vì vậy sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn. Tình liên đới huynh đệ này không phải là một hình ảnh hùng biện, một kiểu nói, nhưng là phần toàn vẹn của sự hiệp thông giữa các tín hữu kitô. Nếu chúng ta sống nó, chúng ta sẽ là dấu chỉ trong thế giới, chúng ta là ”bí tích” tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta là bí tích tình yêu cho nhau và cho tất cả mọi người! Đây không chỉ là tình bác ái, cái bác ái tiền lẻ mà chúng ta có thể cống hiến cho nhau, nhưng là cái gì sâu xa hơn: đó là một sự hiệp thông khiến cho chúng ta có khả năng bước vào niềm vui và khổ đau của người khác để biến chúng trở thành niềm vui và khổ đau của chúng ta một cách chân thành.

Đức Thánh Cha nói thêm: Thường khi chúng ta quá khô khan, thờ ơ, xa cách và thay vì thông truyền tình huynh đệ, chúng ta thông truyền sự khó chịu, chúng ta thông truyền sự lạnh lùng, chúng ta thông truyền sự ích kỷ. Và với sự khó chịu, với sự lạnh lùng, với sự ích kỷ có thể làm cho các giáo đoàn lớn lên không? Có thể làm cho toàn Giáo Hội lớn lên không? Không. với sự khó chịu, với sự lạnh lùng với sự ích kỷ Giáo Hội không lớn lên: nó chỉ lớn lên với tình yêu thương, với tình yêu thương đến từ Chúa Thánh Thần. Chúa mời gọi chúng ta rộng mở cho sự hiệp thông với Người trong các Bí Tích và trong tình bác ái, để sống một cách xứng đáng với ơn gọi kitô của chúng ta.

Và bây giờ tôi xin cho phép mình xin anh chị em một cử chỉ bác ái. Anh chị em yên tâm, sẽ không có việc quyên tiền đâu. Một cử chỉ bác ái. Trước khi đến quảng trường tôi đã đi thăm một bé gái một tuổi rưỡi bị bệnh rất nặng. Cha mẹ em cầu nguyện và xin Chúa ban sức khỏe cho bé gái xinh đó. Bé tên là Noemi. Bé cười, thật tội nghiệp. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái. Chúng ta không biết em, nhưng em là một bé gái đã được rửa tội, là một người trong chúng ta, một kitô hữu. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái đối với em, và trong thinh lặng trước hết chúng ta xin Chúa giúp em trong lúc này và ban cho em sức khỏe. Trong thinh lặng, một chút, rồi chúng ta đọc Kinh Kính Mừng. Và bây giờ tất cả chúng ta cầu xin Đức Mẹ cho sức khỏe của Noemi.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cùng mọi người đọc kinh Kính Mừng. Rồi ngài nói: xin cám ơn anh chị em vì cử chỉ bác ái này.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Họp báo chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt

Họp báo chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt

VATICAN. Sáng 5 tháng 11-2013, các chức sắc Thượng HĐGM đã mở cuộc họp báo về tiến trình chuẩn bị Thượng HĐGM thế giới, khóa đặc biệt kỳ III, sẽ tiến hành vào tháng 10 năm tới về đề tài: ”Những thách đố đối với gia đình trong khuôn khổ công cuộc rao giảng Tin Mừng”. Tham dự khóa họp này có khoảng 150 GM thế giới.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh có ĐHY Peter Erdoer người Hungari, Tổng tường trình viên, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt.

Đức TGM Baldisseri cho biết cơ cấu và hướng đi của Thượng HĐGM được thay đổi theo ý muốn rõ rệt của ĐTC để tăng cường việc thực thi đoàn thể tính của hàng GM và tình hiệp thông trong Giáo Hội.

Theo qui chế, các vị đương nhiên có quyền tham dự Thượng HĐGM khóa đặc biệt là: các Chủ tịch HĐGM và Hội đồng của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương, các vị thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh (25), ngoài ra có 3 LM Tổng Quyền do Hiệp Hội các Bề trên tổng quyền dòng nam bầu lên.

Thượng HĐGM về các thách đố của gia đình sẽ tiến hành qua 2 giai đoạn: giai đoạn thứ I là Thượng HĐGM khóa đặc biệt từ mùng 5 đến 19-10 năm 2014 với mục đích xác định tình hình và thu thập chứng từ cũng như những đề nghị của các GM. Giai đoạn thứ II sẽ là một Thượng HĐGM thường kỳ vào năm 2015, để tìm kiếm những đường hướng hoạt động cho việc mục vụ con người trong gia đình”.

Hôm 18-10-2013, Văn Phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM đã gửi đến 136 HĐGM, các Công Nghị của các Giáo Hội Công giáo đông phương và các vị liên hệ khác, một tài liệu đề cương, gọi là Lineamenta, một văn kiện ngắn gọn dài 7 trang gồm 3 phần:

Phần I về gia đình và việc rao giảng Tin Mừng,

Phần II: Giáo Hội và Tin Mừng về gia đình, trong đó lần lượt nói về:

– Kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và Cứu Chuộc

– Giáo huấn của Giáo Hội về Gia đình

Phần III gồm một bản tổng cộng 38 câu hỏi, phân làm 9 tiết mục, với mục đích tham khỏi ý kiến các Giáo Hội địa phương, hầu chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới năm tới.

Vì thời gian gần kề, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM yêu cầu các HĐGM và các cơ quan khác được tham khảo ý kiến gửi các bản trả lời góp ý về Roma trước cuối tháng giêng năm tới, 2014, để dựa vào đó, một Tài liệu làm việc sẽ được soạn thảo ngay trong tháng 2-2014.

Việc tham khảo ý kiến này không phải là một cuộc ”trưng cầu dân ý” hay là thăm dò dư luận, nhưng là trình bày những kinh nghiệm trong đức tin. Các GM giáo phận được yêu cầu soạn một tổng hợp – chứ không phải trình bày ý kiến riêng của các vị – đi từ những tổng hợp do các cha sở thực diện, dựa theo kết quả cuộc điều tra trong các xứ đạo liên hệ. Vì thế, một cách nào đó, cuộc tham khảo ý kiến này cũng đi tới các giáo dân.

Trong cuộc họp báo, Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt nói đến những thách đố gia đình ngày nay đang gặp phải. Ngài nói: ”Ngày nay người ta đang thấy xuất hiện những vấn đề chưa từng có cách đây ít năm, từ sự lan tràn các cặp sống chung không kết hôn, và nhiều khi loại bỏ cả ý tưởng về vấn đề này, cho đến các cặp đồng phái, mà nhiều khi họ cũng được phép nhận con nuôi”. Ngoài ra cũng có nhiều hoàn cảnh đòi Giáo Hội phải đặc biệt quan tâm: từ nền văn hóa không muốn cam kết dấn thân và không chấp nhận tính chất bất khả phân ly của hôn phối, cho tới việc định nghĩa lại gia đình, quan niệm đa nguyên duy tương đối với hôn nhân, và những dự luật làm mất giá trị của sự bền vững và trung thành của giao ước hôn nhân.”

Đức TGM Forte nhận xét rằng ”những thách đố đó có kéo theo những hậu quả quan trọng về mục vụ. Chẳng hạn nếu ta nghĩ tới nguyên sự kiện trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều người trẻ sinh ra từ một hôn phối bất hợp lệ, thì có thể các em sẽ không bao giờ thấy cha mẹ lãnh nhận các bí tích, và từ đó chúng ta hiểu những thách đố cấp thiết dường nào mà tình trạng hiện nay đề ra cho việc loan báo Tin Mừng”.

Đức TGM Forte cho biết trong số nhiều đề nghị được gửi về Tòa Thánh, cũng có một vấn đề rất tế nhị là loạn luân. (SD 5-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thánh lễ và buổi tưởng niệm cố TT Ngô Đình Diệm

Thánh lễ và buổi tưởng niệm cố TT Ngô Đình Diệm



Quang cảnh trước lễ đài trong ngày Tưởng Niệm Cố TT Ngô Đình Diệm hôm thứ Bảy. Gần 50 vòng hoa của các hội đoàn, đoàn thể lần lượt rước lên đặt xung quanh lễ đài. Những bài phát biểu đã nêu cao tinh thần bất khuất của chí sĩ Ngô Đình Diệm.
 
LITTLE SAIGON – Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày cố Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm hy sinh vì độc lập và chủ quyền quốc gia, một thánh lễ cầu hồn cho cố TT được cử hành vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy ngày 2-11-2013 tại thánh đường Saint Barbara, thành phố Santa Ana, và vào lúc 1 giờ 30 chiều cùng ngày, một buổi Tưởng Niệm cố Tổng Thống và các chiến sĩ Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã hy sinh vì lý tưởng quốc gia được tổ chức hết sức trang trọng tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster.
 
Mỗi năm càng có nhiều tổ chức, hội đoàn và cá nhân tham gia Ban Tổ Chức lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Năm nay một Ủy Ban Tổ Chức gồm đại diện: Cộng Đồng: Người Việt Quốc Gia Nam Cali, CĐ Người Việt Tỵ Nạn Los Angeles; CĐ Người Việt Liên Bang Hoa Kỳ; CĐ Người Việt Pomona; CĐ Người Việt San Diego; CĐ Công Giáo Việt Nam và trên 30 Đoàn thể, Hiệp Hội tại miền Nam Cali. Đặc biệt có nhiều hội đoàn trẻ như Tổng Hội Sinh Viên miền Nam Cali, Đoàn Thnah Niên Phan Bội Châu, Giới trẻ Công Giáo, Hội Anh Em Yêu Nước, Đoàn Thanh Thiếu Niên Thủy Quân Lục Chiến, Trường Quân Đội QTD International; Hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền.

 

 

 

 

     Thánh lễ cầu hồn cho cố TT Ngô Đình Diệm tại nhà thờ Saint Barbara.
 

Thánh lễ cầu hồn cho cố TT Ngô Đình Diệm do Linh mục Đỗ Thanh Hà chủ tế, các Linh mục Vũ Ngọc Long, Vũ Hân, Nguyễn Đức Minh, Vũ Đảo cùng và Phó Tế Nguyễn Ánh cùng đồng tế. Trong bài chia sẻ, Linh mục Vũ Đảo đã nhắc lại một chút lịch sử về hai quốc sĩ Công giáo đã làm rạng danh cho Giáo Hội và cho dân tộc Việt Nam, đó là cụ Ngô Đình Khả và ông Nguyễn Hữu Bài.
 
Từ tấm gương của các người cha đó, con cháu sau này là anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã biết noi gương của cha ông, hy sinh bản thân, hết lòng phục vụ, vì dân vì nước. Theo Linh mục, được như vậy là do các ngài đã hấp thụ đức bác ái và giáo lý Công giáo, người cha làm tròn bổn phận người cha, người con làm tròn bổn phận người con.
 
Vì thế, Linh mục khuyên tất cả tín hữu, mỗi người hãy làm tròn bổn phận của mình, sống xứng đáng với vai trò của mình, và luôn luôn hết lòng phục vụ mọi người, đem yêu thương và tha thứ đến với mọi người, đồng thời cầu nguyện cho linh hồn Gioan Baotixita cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, các bào đệ của người và các chiến sĩ QL/VNCH đã hy sinh vì tổ quốc.
 
Cuối thánh lễ, giáo sư Lê Tinh Thông, đại diện Hội Người Việt Quốc Gia, lên cám ơn quý Linh mục, tu sĩ, Hội Columbus, Ca Đoàn Vui Mừng và Hy Vọng, Ban Chấp hành Cộng Đoàn Saint Barbara, anh em cựu chiến sĩ QL/VNCH và đồng hương đã đến tham dự thánh lễ giỗ cố TT hôm nay, Giáo sư Thông cũng nhắc lại câu nói của Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch.
 
Ngay khi được tin TT Ngô Đình Diệm bị sát hại, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã phải thốt lên: “Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề về vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tìm được một người lãnh tụ cao quý như vậy.”
 
Tại tượng Đài Chiến Sĩ: Buổi lễ do Đại Tá Lê Văn Trang chủ tọa. Bên cạnh có Nghị sĩ Lê Châu Lộc cựu Tùy Viên cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tham dự có rất đông cựu sĩ quan từ cấp Đại tá trở xuống và các quân nhân QL/VNCH, CSQG, Cán Bộ XDNT, Ban Tù Ca Xuân Điềm, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Hội Bà Triệu cùng rất nhiều hội đoàn, đoàn thể. Quốc Quân Kỳ, Lệnh kỳ và di ảnh cố Tổng Thống được rước lên lễ đài giữa hai hàng quân thuộc Hải Lục Không Quân, CSQG mặc quân phục chào kính.
 
Về quan khách có Thị Trưởng Tạ Đức trí và các nghị viên thành phố Westminster; ông Michael Võ, Phó Thị Trưởng Fountain Valley; đại diện Nghị Sĩ Lou Correa, đại diện Giám Sát Viên Janet Nguyễn, và đại diện một số dân biểu liên bang cũng như tiểu bang.
 
Sau lời chào mừng của ông Nguyễn Mạnh Chí, Trưởng Ban Tổ Chức, gần 50 vòng hoa của các Hội đoàn, đoàn thể lần lượt rước lên đặt xung quanh lễ đài. Sau đó, Hội Đền Hùng Hải Ngoại làm nghi thức tế lễ cổ truyền.
 
Vị chủ tọa buổi lễ cùng một số quan khách và đại diện giới trẻ phát biểu, nêu cao tinh thần bất khuất của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà ngày nay, các hồ sơ mật đã lần lần phơi bày, cho thấy một số tướng lãnh đã phản bội, đưa đến cái chết bi thảm cho cố Tổng Thống và anh em ông, khiến đất nước đi vào chỗ suy vong như ngày nay.

Các vị phát biểu đều kêu gọi giới trẻ hãy noi gương chí sĩ Ngô Đình Diệm đem tài năng, đức độ của mình để cứu quốc hầu mang lại thanh bình, tự do, no ấm cho dân tộc Việt nam.

Thanh Phong / Viễn Đông

Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

VATICAN CITY (Reuters) – Tòa thánh Vatican đang yêu cầu các giám mục và các linh mục trong giáo xứ trên toàn thế giới tại địa phương quan sát về vấn đề hôn nhân đồng tính , ly dị và ngừa thai trước cho cuộc họp của các Giám mục vào năm tới để thảo luận về Giáo Hội Công Giáo La Mã giáo liên quan đến gia đình.

Trong khi đó, đây là việc thực tế phổ biến để gửi ra các bản thăm dò  trước cuộc họp, thượng hội đồng. Các câu hỏi thăm dò thể hiện sự cảm nhận lớn hơn đến các vấn đề từng được coi là điều cấm kỵ , như làm thế nào để bao gồm các con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính trong Giáo Hội.

Việc này cũng cho thấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang tiếp cận với giáo xứ địa phương và không chỉ dựa vào hệ thống giai cấp Giáo hội về việc triển khai giáo huấn Công giáo.

Các câu hỏi đã được gửi cho các Giám mục vào ngày 18, theo một lá thư từ Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri , Tổng thư ký của cuộc họp Thượng Hội Đồng, các giám mục Công giáo trên toàn thế giới.

Các lá thư và khảo sát câu hỏi đã được đăng trên trang web Công giáo của phóng viên quốc gia vào thứ năm, và xác nhận của Tòa Thánh vào thứ Sáu.

" Mối quan tâm đó là chưa từng có cho đến khi một vài năm trước đây đã xuất hiện hôm nay là kết quả của tình huống khác nhau, từ việc chung sống với nhau … liên hệ của những người đồng tính, không bình thường, cho phép nhận con nuôi "

Cuộc thăm dò không báo hiệu bất kỳ sự thay đổi trong học thuyết Giáo hội đối với hôn nhân đồng tính hay ngừa thai, nhưng cho thấy bằng chứng Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn tiếp cận với những người Công giáo bình thường về các vấn đề liên quan đến gia đình hiện đại .

Trong một cuộc phỏng vấn được công bố trong tháng Chín, Đức Thánh Cha nói Giáo Hội phải thoát khỏi nỗi ám ảnh với việc phá thai, ngừa thai và đồng tính luyến ái và trở thành xót thương hơn, hoặc có nguy cơ sụp đổ của toàn bộ đạo đức.

Các câu hỏi cho một mối quan tâm về cách thức tốt hơn để chuẩn bị người trẻ để kết hôn, hiệu quả của phương pháp ngừa thai tự nhiên, và làm thế nào để hỗ trợ các " hành trình đức tin " của ly dị và tái hôn với những người bị loại ra khỏi các bí tích.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tuần trước Vatican xác nhận rằng người Công giáo, những người đã tái hôn sau khi ly hôn đang bị ngăn chận không được phép rước lễ.

Cuộc điều tra hỏi những gì " chú ý mục vụ " có thể được trao cho những người đã chọn một sự kết hợp đồng tính, và " trong trường hợp của các đoàn thể của người cùng giới đã thông qua trẻ em, những gì có thể được thực hiện về mục vụ trong ánh sáng của truyền đức tin ? "

Ở Anh, các giám mục đã đăng các khảo sát trực tuyến để bất cứ ai , kể cả giáo dân và cha mẹ Công giáo, có thể vào website. ( http://r.reuters.com/vyh44v )

Các kết quả thăm dò ý kiến ​​sẽ được đưa vào một bài báo làm việc cho một cuộc họp bất thường của Thượng Hội Đồng các giám mục tiếp theo tháng Mười.


( Tường trình của Steve Scherer và Philip Pullella ; Viết bởi Steve Scherer ; Editing by Robin Pomeroy )

Thái Trọng phỏng dịch

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn tại Quận Cam

 

Một cụ ông thắp nhang và đặt hoa tưởng nhớ người thân trong khi hàng ngàn tín hữu tham dự thánh lễ cầu hồn tại Nghĩa trang Chúa Chiên Lành trưa thứ Bảy.

HUNTINGTON BEACH, Quận Cam – Hàng năm vào ngày 1 tháng 11, Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cử hành trọng thể lễ kính Các Thánh Nam Nữ. Sau đó vào ngày mùng 2 Giáo Hội cử hành lễ Cầu Hồn. Đối với tín hữu Công Giáo, đây là hai ngày lễ rất quan trọng vì các thánh nam nữ hay linh hồn các người đã qua đời có thể là ông bà, cha mẹ, con, cháu, thân bằng quyến thuộc hoặc bạn hữu xa gần.

Ngày mùng 1-11, giáo dân đến tham dự thánh lễ để tôn vinh các thánh, học hỏi, noi gương các Ngài mà ăn ở cho phải đạo làm người, làm con cái Thiên Chúa. Ngày mùng 2-11, giáo dân đến nhà thờ hay nghĩa trang tham dự thánh lễ, cầu nguyện cho linh hồn các người đã ra đi được về quê thật trên Trời, nơi những người khi còn sống đã vững lòng tin tưởng và cầu xin.

Vào lúc 12 giờ trưa ngày 02.11.2013 hàng ngàn tín hữu Công giáo đã đến nghĩa trang Chúa Chiên Lành (The Good Sheperd) góc Talbert và Beach Blvd, Huntington Beach để tham dự thánh lễ, viếng các phần mộ tại nghĩa trang. Thánh lễ do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange tổ chức. Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Orange chủ tế và một số Linh mục đồng tế.

Trong bài giảng, Đức Cha Mai Thanh Lương cũng nhắc đến vai trò của các vị Thánh, làm sao nên thánh? Và khuyên nhủ giáo dân, cuộc sống trên trần gian chỉ là chốn tạm, sau khi chết, Thiên Đàng mới là quê thật, nên khi còn sống phải sống cho xứng đáng, ăn ở thuận hòa, yêu thương và giúp đỡ mọi người như Chúa đã dạy trong 8 mối phúc thật để được vào Thiên Đàng hưởng phúc vĩnh cửu.

Trước khi thánh lễ kết thúc, Đại diện ban tổ chức ngỏ lời cám ơn Đức Giám mục, quý Linh mục, tu sĩ nam nữ cùng toàn thể cộng đồng dân Chúa đã sốt sắng tham dự thánh lễ để cầu nguyện, xin Thiên Chúa cho linh hồn những người thân yêu đã ra đi sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Sau thánh lễ, nhiều người đã đến các phần mộ thắp hương, đọc kinh cầu nguyện cho các người đang an nghỉ tại đây.

Giáo Hội Công Giáo từ rất xa xưa đã chọn tháng 11 hàng năm là Tháng Các Linh Hồn, để nhắc nhở giáo dân nhớ đến những người đã ra đi. Không chỉ trong tháng 11, mỗi ngày khi cử hành Thánh lễ, Linh mục và giáo dân đều cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc và tất cả những linh hồn đã ly trần được hưởng phúc vĩnh cửu trên Thiên quốc. Ngoài thánh lễ hôm nay, vào lúc 10 giờ trưa ngày Chủ Nhật 10 tháng 11.2013 tại nghĩa trang Làng Vĩnh Phúc cũng sẽ có thánh lễ do Hội Việt Nam Tương Tế tổ chức.

Thanh Phong / Viễn Đông

MỖI NĂM CÓ HƠN 3000 TU SĨ RỜI BỎ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

MỖI NĂM CÓ HƠN 3000 TU SĨ RỜI BỎ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Con số được thư ký của Bộ các dòng tu và hội đời sống tông đồ công bố. Theo cha José Rodriguez Caballo, mỗi năm có hơn 3000 tu sĩ nam nữ rời bỏ đời sống thánh hiến. Con số bình quân này đã được xác lập từ con số người rời bỏ từ năm 2008 đến 2012. Những nghiên cứu của cha được đưa ra trong một ngày nghiên cứu diễn ra ở Rôma ngày 29/10/2013 và nhật báo Osservatore Romano đã đăng trích một số đoạn trong bài phát biểu của ngài.

Cha nhấn mạnh: cuộc khủng hoảng ơn gọi tu trì này phần lớn là do nền văn hóa « zapping » (việc thay đổi các kênh bằng điều khiển từ xa).

Hiện tượng lo ngại

Cha khẳng định : « Nếu điều đó tiếp tục, thì sự sống còn của một số dòng tu có thể có nguy cơ hiểm họa ». Theo ngài, đó là một « hiện tượng lo ngại ». « Những cuộc rời bỏ này chắc chắn là triệu chứng của một cuộc khủng hoảng rộng lớn hơn trong đời sống tu trì và thánh hiến ». Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của Giáo Hội đối diện với những vấn đề ngày và không « nhìn nơi khác ».

Trong số các nguyên nhân của sự rời bỏ này, cha Caballo đặc biệt nhấn mạnh đến sự « vắng mặt đời sống thiêng liêng (cầu nguyện cá nhân, cầu nguyện cộng đoàn, đời sống bí tích), vốn dẫn đến một « cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa ». Cộng đoàn tu trì, ngay cả Giáo Hội, lúc đó không còn ý nghĩa nữa đối với người tu sĩ rời bỏ đời sống tu trì của mình.

Khủng hoảng về quyền bính

Cha thư ký cũng nhấn mạnh đến cuộc khủng hoảng về quyền bính ngay giữa các cộng đoàn, cũng như « những vấn đề liên vị, những hiểu lầm, việc thiếu đối thoại và tương giao đích thực ».

Cha cũng nêu lên các vấn đề tình cảm. « Những vi phạm lời khấn khiết tịnh » này có thể mang nhiều hình thức : hôn nhân, nhưng cả « những hành vi đồng tính lặp đi lặp lại » hay những quan hệ khác phái « ít nhiều đều đặn hơn ».

720,000 tu sĩ trên thế giới

Theo niên giám mới nhất của Tòa Thánh (2012), các dòng tu và hội đời sống tông đồ bao gồm 197.136 nam (giám mục, linh mục, phó tế vĩnh viễn, chủng sinh, nam tu sĩ) và 523,654 nữ dấn thân dứt khoát trong dòng của mình (41,036 trong các đan viện tự trị, 466,306 trong các dòng trung ương tập quyền và 16,312 trong các tu hội đời).

Vả lại, mỗi năm khoảng 650 linh mục địa phận đã rời bỏ thiên chức linh mục từ 2006 đến 2011. Niên giám Tòa Thánh không đề cập gì đến sự rời bỏ của linh mục tu sĩ.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo La Croix

Đức Thánh Cha dâng lễ cầu hồn cho các Hồng Y và Giám Mục quá cố, trong đó có 4 GM Việt Nam

Đức Thánh Cha dâng lễ cầu hồn cho các Hồng Y và Giám Mục quá cố, trong đó có 4 GM Việt Nam

VATICAN. Lúc 11 giờ rưỡi sáng 4 tháng 11-2013, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho 9 Hồng Y và 136 GM đã qua đời trong vòng 12 tháng qua trong toàn Giáo Hội, trong số này có 4 GM Việt Nam.

Đó là Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, nguyên GM Vĩnh Long, qua đời ngày 31 tháng 1 năm nay (2013); Đức Cha Phanxicô Xavie Nguyễn Quang Sách, nguyên GM Đà Nẵng, qua đời ngày 7 tháng 7 năm; Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm SDB, GM Bùi Chu và Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân, GM Vĩnh Long, hai vị qua đời cùng ngày 17 tháng 8 vừa qua.

Trong số 9 HY quá cố, có ĐHY Jozef Glemp, Cố giáo chủ Công Giáo Ba Lan, và ĐHY Simon Pimenta, cố TGM Bombay, Ấn độ.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 30 HY trước sự hiện diện 30 GM và hơn một ngàn tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi mọi người tín thác nơi tình thương của Thiên Chúa, noi gương thánh Phaolô Tông Đồ, Người đã viết trong thư gửi tín hữu Roma (8,38-39): “Tôi thâm tín rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ thần, hiện tại hay tương lai, quyền lực, chiều cao hay chiều sâu, không thụ tạo nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta”.

”Thánh Tông Đồ liệt kê những quyền lực đối nghịch và huyền bí có thể đe dọa hành trình đức tin. Nhưng Ngài khẳng định một cách chắc chắn rằng cho dù toàn thể cuộc sống của chúng ta bị những đe dọa vây bủa, không bao giờ một điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu mà Chúa Kitô đã đạt được cho chúng ta, bằng cách hiến thân trọn vẹn.”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Cả những quyền lực của ma quỉ, đố kỵ với con người, cũng dừng lại trước sự kết hiệp yêu thương sâu đậm giữa Chúa Giêsu và người đón nhận Chúa trong đức tin. Thực tại tình thương trung tín của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta giúp chúng ta tiến bước mỗi ngày trong thanh thản và can đảm, hành trình nhiều khi nhanh nhẹn, nhưng đôi khi cũng chậm chạp và vất vả”.

ĐTC nêu nhận xét: ”chỉ có tội lỗi của con người mới có thể phá vỡ mối liên hệ giữa chúng ta và Thiên Chúa,. nhưng cả trong trường hợp ấy, Thiên Chúa luôn tìm kiếm, chạy theo con người để tái lập với họ một tình hiệp thông kéo dài cả sau cái chết, đó là một sự kết hiệp đạt tới tột đỉnh trong cuộc gặp gỡ chung kết với Chúa Cha. Xác tín này mang lại một ý nghĩa mới mẻ và sung mãn cho đời sống trần thế và mở ra cho chúng ta niềm hy vọng cuộc sống sau cái chết”.

ĐTC cũng nhắc đến lời Sách Khôn Ngoan đọc trong thánh lễ, nói về những người công chính ở trong tay Chúa. Ngài nói: ”Bàn tay là dấu hiệu sự đón tiếp và bảo vệ, là dấu chỉ một tương quan tôn trọng và trung thành: giơ tay ra, bắt tay. Này đây các vị mục tử nhiệt thành đã tận hiến cuộc sống để phụng sự Chúa và anh em, họ đang ở trong tay Chúa. Tất cả những gì của các vị được bảo tồn và không bị hao mòn vì sự chết. Ở trong tay Chúa tất cả những ngày đời của họ được dệt bằng những vui mừng và đau khổ, hy vọng và vất vả, trung thành với Tin Mừng và hăng say đối với phần rỗi tinh thần và vật chất của đoàn chiên đã được ủy thác cho các vị”. (SD 4-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải trở về với Ngài. Hãy để cho Chúa Giêsu gọi tên chúng ta. Hãy lắng nghe tiếng của Ngài nói với chúng ta: ”Ngày hôm nay Ta phải dừng lại tại nhà con”, nghĩa là trong tim con, trong cuộc sống con. Và chúng ta hãy tươi vui tiếp đón Ngài! Ngài có thể giải thoát chúng ta khỏi tính ích kỷ và làm cho đời sống chúng ta trở thành một qùa tặng của tình yêu.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 3 tháng 11-2013. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trang Tin Mừng của thánh Luca Chúa Nhật hộm nay cho thấy Chúa Giêsu vào thành Giêricô trên con đường đi về Giêrusalem. ĐÂy là chặng cuối cùng của một chuyến đi tóm tắt ý nghĩa toàn cuộc sống của Chúa Giêsu, được tận hiến cho việc tìm kiếm và cứu rỗi các con chiên lạc của nhà Israel. Nhưng con đường càng đến gần đích điểm bao nhiêu, thì chung quanh Chúa Giêsu chiếc vòng thù nghịch lại càng thắt chặt bấy nhiêu.

Ấy thế mà tại Giêricô xảy ra một trong các biến cố tươi vui nhất được thánh sử Luca kể lại: đó là sự hoán cải của ông Giakêu. Người này là một con chiên đã bị hư mất, bỊ khinh bỉ và ”dứt phép thông công”, bởi vì ông ta là một người thu thuế, còn hơn thế nữa, là thủ lãnh những người thu thuế trong thành phố, bạn của các người Roma xâm lăng, là một tay trộm cướp và là một kẻ khai thác bóc lột.

Bị ngăn cản tới gần Chúa Giêsu, có lẽ vì tiếng xấu của ông, và cũng vì thân hình thấp bé của mình, ông Giakêu trèo lên một cái cây, để có thể trông thấy vị Thầy đi ngang qua. Tuy nhiên cử chỉ bề ngoài hơi tức cười này diễn tả hành động bên trong của người tìm lên cao hơn đám đông để có một tiếp xúc với Chúa Giêsu. Chính ông Giakêu cũng không biết ý nghĩa sây xa cử chỉ này của mình; ông không biết tại sao mình có cử chỉ ấy nhưng ông làm nó; ông cũng chẳng dám hy vọng là có thể vượt thắng được khoảng cách giữa ông và Chúa Giêsu, nên ông chỉ bằng lòng với việc trông thấy Người đi ngang qua thôi. Nhưng Chúa Giêsu khi tới gần cây đó, gọi tên ông: ”Giakêu, hãy xuống ngay, bởi vì hôm nay tôi phải dừng lại trong nhà ông” (Lc 19,5). Và Đức Thánh Cha giải thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Con người có thân mình nhỏ thó đó, bị tất cả mọi người khước từ, và cách xa Chúa Giêsu, như mất hút trong đám đông vô danh, nhưng Chúa Giêsu gọi ông, và tên Giakêu trong tiếng thời đó có một ý nghĩa đẹp tràn đầy các ám chỉ. Thật thế Giakêu có nghĩa là ”Thiên Chúa nhớ tới”.

Và Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, khiến cho tất cả mọi người thành Giêricô chỉ trích, bởi vì thời đó người ta cũng bép xép lắm, và người ta nói: ”Mà làm sao thế? Với biết bao nhiều người tốt lành trong thành phố mà ông ấy lại ở nhà cái tên thu thuế ấy? Phải, bởi vì ông ta đã bị hư mất rồi, và Chúa Giêsu nói: ”Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến cho nhà này, bởi vì cả ông ta cũng là con cái tổ phụ Abraham” (Lc 19,9). Từ ngày đó, niềm vui bước vào trong nhà ộng Giakêu, hòa bình, ơn cứu độ và Chúa Giêsu bước vào nhà ông. Tiếp đến Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đối với con người:

Không có nghề nghiệp nào, không có điều kiện xã hội nào, không có lỗi lầm hay tội phạm thuộc bất cứ loại nào có thể xóa bỏ khỏi ký ức và con tim của Thiên Chúa một người trong các con cái Ngài. Thiên Chúa luôn nhớ, Ngài không quên bất cứ ai Ngài đã tạo dựng. Ngài là cha, luôn luôn tỉnh thức và yêu thương đợi chờ trông thấy tái sinh nơi con tim của người con ước muốn trở về nhà. Và khi Ngài nhận ra ước muốn đó, cả khi nó chỉ đơn sơ được nhắc, và biết bao lần nó hầu như vô thức, thì ngay lập tức Ngài ở bên cạnh, và với ơn tha thứ của Ngài Ngài khiến cho con đường hoán cải và trở về của ông được nhẹ nhàng hơn. Hôm nay chúng ta hãy nhìn ông Giakêu trên cây, cử chỉ của ông là một cử chỉ nực cười, nhưng là một cử chỉ của ơn cứu rỗi. Và tôi nói với bạn, nếu bạn có một gánh nặng trên lương tâm, nếu bạn xấu hổ vì biết bao nhiêu điều đã phạm, hãy dừng lại một chút, đừng hoảng sợ. Hãy nghĩ tới một người nào đó đang chờ đợi bạn, bởi vì Người không ngừng nhớ tới bạn, và người nào đó là chính là Chúa Cha, là Thiên Chúa, là Đấng chờ đợi bạn. Hãy làm như ông Giakêu, hãy trèo lên cây của sự ước muốn được tha thứ, tôi bảo đảm với bạn rằng bạn sẽ không thất vọng. Chúa Giêsu thương xót, và ngài không bao giờ mệt mỏi tha thứ! Hãy nhớ kỹ điều ấy! Chúa Giêsu là như thế.

Anh chị em thân mến, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Giêsu gọi tên chúng ta! Trong sâu thẳm của con tim chúng ta hãy lắng nghe tiếng của Ngài nói với chúng ta: ”Ngày hôm nay Ta phải dừng lại tại nhà con”, nghĩa là trong tim con, trong cuộc sống con. Và chúng ta hãy tươi vui tiếp đón Ngài! Ngài có thể thay đổi chúng ta, biến con tim bằng đá của chúng ta trở thành con tim bằng thịt, Ngài có thể giải thoát chúng ta khỏi tính ích kỷ và làm cho đời sống chúng ta trở thành một qùa tặng của tình yêu. Chúa Giêsu có thể làm đều đó, hãy để Chúa Giêsu nhìn bạn.

Trước khi chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ánh mắt yêu thương

Ánh mắt yêu thương

Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.

Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.

Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.

Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.

Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.

Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.

Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1.    Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?

2.    Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?

3.    Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?

4.    Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: SỰ THÁNH THIỆN DÀNH CHO MỌI NGƯỜI, CÁC THÁNH KHÔNG PHẢI LÀ “SIÊU NHÂN”

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: SỰ THÁNH THIỆN DÀNH CHO MỌI NGƯỜI, CÁC THÁNH KHÔNG PHẢI LÀ “SIÊU NHÂN”

Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng Các Thánh không phải là “siêu nhân” vốn được “sinh ra đã hoàn hảo”, nhưng là những người bình thường đã theo Chúa “với tất cả tâm hồn của họ”.

Đức Thánh Cha đã nói trước khi đọc Kinh Truyền Tin ở quảng trường thánh Phêrô ngày 1 tháng 11 : “Các ngài cũng giống như chúng ta, các ngài giống như mỗi người chúng ta, các ngài là những người trước khi đạt được vinh quang thiên đàng đã sống một cuộc đời bình thường, với những niềm vui và nỗi buồn, những chiến đấu và niềm hy vọng”.

Mỗi vị thánh thay đổi cuộc đời của mình “khi họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, họ theo Ngài với tất cả tâm hồn mình, vô điều kiện và không giả hình.”

Ngài nói: “Họ dành cuộc đời của mình để phục vụ người khác, họ chịu đựng đau khổ và nghịch cảnh mà không thù hận và đáp trả sự dữ với điều tốt lành, trong khi tỏa lan niềm vui và sự bình an”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Sự thánh thiện thật đẹp! Đó là một đường lối tuyệt vời! Các Thánh gởi đến cho chúng ta một sứ điệp. Họ nói với chúng ta: Hãy trung thành với Chúa, vì Chúa không thất hứa! Ngài không bao giờ thất hứa, và Ngài là một người bạn tốt luôn ở bên cạnh chúng ta.”

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng tất cả mọi người đều có thể làm thánh.

“Làm thánh không phải là một đặc quyền của một ít người… Tất cả chúng ta trong phép Rửa Tội đều thừa hưởng khả năng trở thành những vị thánh. Sự thánh thiện là một ơn gọi dành cho mọi người”.

“Tất cả chúng ta được mời gọi để bước đi trên con đường thánh thiện, và con đường nầy có một cái tên, một khuôn mặt: khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô.”

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng lễ Các Thánh “nhắc nhở chúng ta rằng mục đích của cuộc sống chúng ta không phải là cái chết, đó là thiên đàng!”

Ngài nói thêm: “Các thánh, những người bạn của Thiên Chúa, bảo đảm với chúng ta rằng lời hứa nầy không làm thất vọng. Thật vậy, trong cuộc sống trần gian của họ, họ đã sống kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa. Trong những khuôn mặt nhỏ bé nhất và bị khinh miệt nhất của anh em mình, họ đã thấy khuôn mặt của Thiên Chúa, và bây giờ họ được chiêm ngưỡng Ngài diện đối diện trong vẻ tuyệt mỹ rạng ngời của Ngài.”

Ngài nói, Các Thánh cho thấy niềm vui và tình yêu.

“Các Thánh là những người nam và người nữ vốn có niềm vui trong tâm hồn mình và làm tỏa lan nó cho người khác. Không bao giờ thù ghét, nhưng phục vụ người khác, là sự cần thiết lớn lao nhất. Cầu nguyện và sống trong niềm vui: đây là con đường của sự thánh thiện!”

Đức Thánh Cha giải thích, các thánh không “đặt điều kiện” với Chúa. Ngoài ra, họ “không hung bạo nhưng đầy xót thương và tìm cách để trở nên những người kiến tạo hòa giải và hòa bình.”

Ngài nói thêm: “Các Thánh không bao giờ thù ghét. Họ hiểu rõ điều nầy: Tình yêu là của Thiên Chúa, nhưng thù hận đến từ đâu? Hận thù không đến từ Thiên Chúa, mà từ ma quỷ!”

Đức Thánh Cha nói Vương Quốc Nước Trời dành cho những người tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và không đặt sự an toàn của họ vào những thứ vật chất. Nó dành cho những người có sự khiêm tốn và một “tâm hồn đơn sơ”, không xét đoán kẻ khác. Vương Quốc Nước Trời dành cho “những người đau khổ với người đau khổ và vui với người vui.”

Ngài nhận thấy Các Thánh cũng là một nguồn lực kiên cường và hy vọng.

Đức Thánh Cha nói: “Các Thánh khích lệ chúng ta với chứng tá của các ngài để không sợ lội ngược dòng hay sợ bị hiểu lầm và bị chế nhạo khi chúng ta nói về Chúa và về Tin Mừng. Họ cho chúng ta thấy bằng đời sống của họ rằng: người vẫn luôn trung thành với Thiên Chúa và Lời của Ngài thì bây giờ trên trần thế nầy cảm nghiệm được nguồn an ủi của tình yêu Ngài và sau nầy cảm nếm nó ‘gấp trăm lần’ trong cõi đời đời”.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã lên tiếng cầu nguyện cách đặc biệt cho các nạn nhân của bạo lực, đặc biệt những Kitô hữu đã mất mạng sống vì sự bách hại. Ngài cũng cầu nguyện cho những đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã chết vì đói khát.

XT (theo CNA) – Trích từ Xuân Bích VN

CẤM VÀO NHÀ KẺ CÓ TỘI

CẤM VÀO NHÀ KẺ CÓ TỘI

Tháng Mân Côi vừa hết. Bà con Giáo Dân đọc kinh Mân Côi và Kiệu Đức Mẹ đến từng nhà trong Giáo Họ. Thế là Đức Mẹ đã đến thăm và ở lại nhà con cái Mẹ ít là một đêm. Mỗi gia đình chăm chút từng cánh hoa dâng Mẹ. Ông bà, cha mẹ, con cháu sum họp bên Mẹ, kinh nguyện sốt sắng. Ông Trùm Họ tổng kết tháng Mân Côi rành rành rằng: Xóm 1, 28 gia đình, trừ 2 nhà rối; Xóm 2, 24 gia đình, trừ 3 nhà rối, Xóm 3, 27 gia đình, trừ 2 nhà chống đối cha sở, 1 nhà rối; Xóm 4, 16 gia đình, trừ 3 nhà bỏ đạo, 2 nhà có con làm nghề tội lỗi, 2 nhà không đóng niên liễm 3 năm rồi !

Đêm 15 tháng 10, kiệu Đức Mẹ về đến nhà ông bà N, xóm 1. Chị H, bên cạnh nhà ông bà N, biết mình trong tình trạng “rối không gỡ được” đã 12 năm nay, và biết Đức Mẹ sẽ không được người ta cho phép đến nhà mình, nên chị đã sang nhà ông bà N, cầu khẩn: “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”. Ông N trả lời: “Nếu bên trùm họ mà biết thì chết tui !”

Như thế là Đức Mẹ bị… cấm vào nhà kẻ có tội. Tội nghiệp Đức Mẹ ghê ! Nhưng mà ai đã ban lệnh cấm nầy ?

Thật đáng tiếc ! Cho đến hôm nay mà vẫn còn những lệnh cấm không phù hợp với Tin Mừng tí nào ! Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đả phá cái luật bất nhân này rồi, mà sao đến bây giờ, 2013, chúng ta vẫn còn giữ ?

Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật việc Chúa Giêsu chủ động “vào nhà kẻ có tội”. Và chính ý hướng chủ động của Chúa đã làm cho con người tội lỗi ấy hoàn lương, nên công chính.

          Dakêu, một người thu thuế và đứng đầu những người thu thuế trong vùng, bị xem là tội lỗi công khai và bị xã hội ruồng bỏ. Những tưởng ông ta cũng chẳng màng đến chuyện chấp nhận hay loại trừ tương quan xã hội, bởi vì ông có thiếu thốn điều chi trên đời này đâu. Đứng đầu những người thu thuế thì hẳn nhiên là ông có dư giả bạc tiền, tiện nghi, phương tiện, có tất cả, thì cần gì phải bận tâm đến chuyện chấp nhận hay ruồng bỏ ?!?

Nhưng không, ông vẫn cảm thấy thiếu thốn điều gì đó quan trọng hơn của cải, quyền thế của ông. Chính cái “cảm thấy thiếu” nơi ông đã thôi thúc ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Việc ông vượt qua cản trở về ngoại hình thấp bé bằng cách leo lên cây sung cho thấy quyết tâm của ông là phải nhìn xem cho bằng được. Điều đó đã nói lên việc gặp gỡ Đức Giêsu là cần thiết cách tuyệt đối nơi ông.

Có thể đám dân chúng theo Chúa Giêsu dự đoán là Chúa Giêsu sẽ chẳng màng tới ông Dakêu tội lỗi kia. Nhưng không, điều ngược lại đã xảy ra là: Chúa dừng lại, ngước nhìn lên ông đang đeo trên cành sung, và ân cần nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.

Thánh Luca thuật rằng ông Dakêu “vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người”. Hình ảnh rất sống động diễn tả trọn vẹn niềm vui, niềm hạnh phúc của người tội lỗi, người bị thiên hạ tuyệt giao, loại trừ, xua đuổi, nay được Con Thiên Chúa viếng thăm.

Thế là Chúa Giêsu đã “vào nhà người tội lỗi”. Lệnh “cấm vào nhà người tội lỗi” như một bản luật vẫn còn sắc nét trong tâm khảm của dân chúng, nên họ mới xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” Nhưng cách nào đó, Chúa Giêsu đã đả phá công khai, và viết nên một bản luật mới: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”.

Tình thương của Thiên Chúa có sức biến đổi con người từ chỗ bất chính nên công chính, từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ toàn thiện. Cụ thể nhất là biến đổi con người Dakêu hôm nay: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Như thế, cuộc gặp gỡ trực tiếp rất ít lời trò chuyện mà quí hơn biết bao câu nói, biết bao lời nhắn gửi. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Đúng là gặp gỡ Đức Giêsu, biến đổi cuộc đời mình và đón nhận ơn tái sinh.

Rõ ràng là Chúa Giêsu không giữ luật “cấm vào nhà người tội lỗi”, mà còn, ngược lại, Chúa đến với người tội lỗi để người tội lỗi được cứu rỗi.

Thiết tưởng, Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta những thông điệp quí giá:

Thông điệp cho người tội lỗi: Hãy cảm thấy thiếu Chúa Giêsu, cảm thấy cần Chúa Giêsu, khát khao, tìm, và gặp Lời Thiên Chúa, gặp Đức Giêsu cho bằng được.

Thông điệp cho những người cho mình là công chính: Đừng khinh bỉ, loại trừ người tội lỗi, nhưng hãy cảm thông nỗi đau của họ, hãy mở lòng đón nhận họ, hãy tạo điều kiện tốt nhất để mở đường cho họ đến với Chúa Giêsu và để Chúa Giêsu đến với họ…

Thông điệp cho các mục tử: Thường xuyên đến thăm con chiên của mình, nhất là những con chiên đau yếu, bệnh tật, nguội lạnh, rối rắm, tội lỗi… Một lần thăm của các mục tử có giá trị biết bao đối với con chiên. Ước gì không có con chiên nào phàn nàn về việc mục tử ở với chiên vài ba năm rồi mà chưa hề thăm một nhà ai cả, huống chi nhà người tội lỗi !

Trở lại với câu chuyện của chị H trên đây, ước gì mọi người hiểu và cảm thông cho chị cũng như cho những người như chị. “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát Chúa, biết cần có Chúa, biết tìm và gặp Chúa cho bằng được, để chúng con được ơn biến đổi và tái sinh.

Xin cho chúng con biết cảm thông và xoa dịu nỗi đau của những người khát khao nên công chính. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 31.10.2013