Đức Thánh Cha viếng thăm các nạn nhân động đất tại bắc Italia

Đức Thánh Cha viếng thăm các nn nhân đng đất tại bắc Italia

EMILIA. Sáng ngày 26-6-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến viếng thăm các nạn nhân bị động đất tại miền Emilia Romagna, bắc Italia, bày tỏ tình liên đới và kêu gọi gia tăng cứu trợ các nạn nhân.

Hai trận động đất hồi cuối tháng 5 vừa qua tại miền này, đặc biệt tại giáo phận Carpi phía bắc thành phố Modena, đã làm cho 27 người thiệt mạng, hàng trăm người bị thương, 305 thánh đường trong số 45 ngàn nhà bị hư hại ở cấp độ khác nhau, chỉ có 4.700 căn nhà được xác nhận là có thể tiếp tục ở được.

Từ Vatican, ĐTC đã đáp trực thăng bay đến làng San Marino di Carpi, thuộc tỉnh Modena, lúc quá 10 giờ 15. Tại đây ngài được chính quyền địa phương, cùng với Đức GM sở tại Francesco Cavina và ông Franco Gabrielli, giám đốc cơ ban bảo vệ dân chúng, cùng với nhiều người dân đón tiếp. Liền đó ngài đến Nhà thờ thánh nữ Caterina Alessandria ở làng Roverteto di Novi, nơi cha sở Ivan Martini đã bị thiệt mạng, vì nhà thờ sụp trong lúc cha tìm cách cứu vãn tượng Đức Mẹ trong thánh đường. Khi đến trước thánh đường, ĐTC đã cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Trên cửa nhà thờ có treo hình cha sở bị tử nạn.

Cuộc gặp gỡ của ĐTC với hàng ngàn nạn nhân, trong đó có ĐHY Caffara, TGM giáo phận Bologna, Chủ tịch HĐGM miền Emilia Romagna, cùng với hàng chục GM khác trong vùng, cũng như chính quyền địa phương, đã diễn ra lúc 11 giờ trước một lễ đài rất đơn sơ, chỉ có mái che nắng.

Lên tiếng sau lời chào mừng của ông chủ tịch miền Emilia Romanga của ĐHY Caffara, ĐTC kêu gọi mọi người hãy đặt trọn niềm tín thác nơi Chúa, như lời thánh vịnh 46: ”Thiên Chúa là nơi con nương ẩn, là thành lũy bảo vệ, là sự phù trợ chắc chắn trong lo âu. Vì thế chúng ta không sợ khi đất rung chuyển, khi núi đồi lảo đảo nơi đáy biển cả” (Tv 46,2-3)

ĐTC nói: ”Những lời này của Thánh Vịnh không những gây ấn tượng mạnh nơi tôi vì hình ảnh động đất được dùng, nhưng nhất là vì điều mà Thánh Vịnh khẳng định về thái độ nội tâm của chúng ta những trước những đảo lộn của thiên nhiên: một thái độ an toàn vững mạnh, dựa trên đá tảng vững bền, không lay chuyển là Thiên Chúa”.
ĐTC giải thích rằng sự an toàn mà Thánh Vịnh nói đến chính là an toàn của Đức tin, qua đó có thể là ta cũng có sợ hãi và lo âu, như Chúa Giêsu cũng đã trải qua, nhưng nhất là chúng ta có niềm xác tín rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, như một trẻ em biết mình luôn luôn có thể cậy trông vào cha mẹ, vì em cảm thấy được mến yêu, dù bất cứ điều gì xảy ra”.

ĐTC mời gọi dân chúng hãy tái thiết trên nền tảng hy vọng vững chắc ấy, như Italia đã từng xây dựng lại sau thời hậu chiến trên những đổ vỡ. Ngài nhắc đến tình liên đới của nhân dân Italia đối với các nạn nhân. Sau cùng ngài nói thêm rằng:

”Từ nơi này, tôi muốn mạnh mẽ kêu gọi các tổ chức chính quyền, và mỗi công dân, tuy ở trong tình cảnh khó khăn hiện nay, nhưng như người Samaritano nhân lành trong Phúc Âm, quí vị đừng bước đi lãnh đạm trước người đang túng thiếu và cần được giúp đỡ, trái lại, với tình yêu thương, cúi mình, cứu giúp và ở gần, đảm nhận tận tình những nhu cầu của tha nhân (Lc 10,29-37). Giáo Hội đang và sẽ gần gũi với anh chị em, với kinh nguyện và những giúp đỡ cụ thể qua các tổ chức của Giáo Hội, đặc biệt là Caritas, sẽ dấn thân cả trong việc tái thiết các cơ cấu cộng đoàn của các giáo xứ”.

Sau bài diễn văn, ĐTC còn bắt tay chào thăm lối 50 người thuộc các tầng lấp khác nhau trong dân chúng, trước khi đáp trực thăng trở về đến Vatican lúc 13.30 cùng ngày (SD 26-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Một số bố nhiệm tại Tòa Thánh

Một số bổ nhiệm tại Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 26-6-2012, ĐTC đã nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Ennio Antonelli, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, và bổ nhiệm người kế nhiệm là Đức Cha Vincenzo Paglia.

ĐHY Antonelli người Italia, năm nay 76 tuổi (1936) nguyên là TGM giáo phận Firenze, trước khi được ĐTC bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình cách đây 4 năm. ĐHY đã điều động tốt đẹp việc tổ chức Đại hội kỳ 7 các gia đình Công Giáo thế giới ở Milano hồi cuối tháng 5 đầu tháng 6 vừa qua.

Đức Cha Vincenzo Paglia, người Italia, năm nay 67 tuổi (1945) nguyên là đồng sáng lập kiêm tuyên úy cộng đồng thánh Egidio ở Roma, và được Tòa Thánh bổ nhiệm làm GM giáo phận Terni hồi năm 2000. Giáo phận này có gần 150 ngàn tín hữu và cách Roma lối 100 cây số. Cùng với việc bổ nhiệm trên đây, ĐTC đã thăng Đức Cha Paglia lên hàng TGM.

Cũng ngày hôm qua, ĐTC đã bổ nhiệm Đức TGM Jean Louis Bruguès O.P, người Pháp, tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo, làm tân Thư viện trưởng của Tòa Thánh, thay thế ĐHY Raffaele Farina, dòng Don Bosco, về hưu.
Đức TGM Bruguès, 69 tuổi (1943) nguyên làm GM giáo phận Angers bên Pháp trước khi được thăng TGM Tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo hồi tháng 11-2007.

Đức TGM Joseph Augustine Di Noia, dòng Đa Minh người Mỹ, cho đến nay là Tổng thư ký Bộ phụng tự và kỷ luật bí tích, được ĐTC bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Ủy ban Ecclesia Dei, Giáo Hội của Thiên Chúa, và Đức Cha Arthur Roche, người Anh, GM giáo phận Leeds, được thăng TGM Tổng thư ký Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích.

ĐTC cũng bổ nhiệm Đức Cha Protase Rugambwa, 52 tuổi (1960), GM giáo phận Kogoma bên Tanzania, làm TGM Đồng Tổng thư ký Bộ truyền giáo, thay thế Đức TGM Piergiuseppe Vacchelli, về hưu. Với chức vụ này, Đức TGM Rugambwa là Chủ tịch các Hội Giáo Hoàng truyền giáo. (SD 26-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Ngày quốc tế chống nạn tra tấn

Ngày quốc tế chống nạn tra tấn

Thứ ba 26-6-2012 là Ngày quốc tế chống nạn tra tấn. Ngày này đã do Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1987, tức cách đây 25 năm, để gây ý thức cho người dân thế giới đối với một tệ nạn kinh khủng vẫn còn được duy trì tại nhiều nước, mặc dù đã có luật cấm. Mục đích của ngày này cũng là để tỏ tình liên đới với hàng chục triệu nạn nhân bị tra tấn, hay bị đối xử tàn ác vô nhân và hạ nhục phẩm giá con người. Ngoài ra, Ngày quốc tế chống nạn tra tấn đã được Liên Hiệp Quốc thành lập để tái khẳng định quyền bình đẳng và các quyền bất khả xâm phạm của con người, là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới.

Tra tấn là một tội phạm chống lại nhân loại và nền dân chủ, vì nó xúc phạm tới các quyền con người và tàn ác không tha ai, kể cả các trẻ em, như các biến cố xảy ra mới đây bên Siria đã minh chứng. Nó là một tội phạm xảy ra tại các nước đang bị xâu xé vì chiến tranh xung khắc, hay bị cai trị bởi các chế độ độc tài, và cả trong các nước viện cớ ”an ninh quốc gia” để duy trì hay dung thứ cho tội tra tấn. ”An ninh quốc gia” là cớ được các chính quyền độc tài thường xuyên đưa ra để bắt bớ và bách hại các người bất đồng chính kiến, hay để tiêu diệt bất cứ ai mà họ coi là nguy hiểm cho quyền lực độc tài của họ. Tội danh rất mơ hồ của các nạn nhân luôn luôn là ”vi phạm luật lệ an ninh quốc gia, gây rối loạn và phá hoại tình đoàn kết dân tộc”. Mơ hồ nhưng qúa dư đủ để bị kết án và nhốt tù hàng chục năm, mặc dù họ chẳng có tội vạ gì. Điển hình như trong trường hợp của các nước còn đang bị chế độ cộng sản cai trị như Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Trong các chế độc tài đảng trị này, nhà nước không chỉ tra tấn các tù nhân, mà ”tra tấn nhân dân toàn nước” với chính sách gian dối, lừa đảo ”nói một đàng làm một nẻo”, quanh năm ngày tháng từ trung ương tới địa phương; với chủ trương ngu dân, nhồi sọ, lèo lái độc quyền huy động toàn lực truyền thông bóp méo sự thật. Không chỉ bằng lòng với việc ”nô lệ hóa toàn dân” bằng cách tước đoạt hết mọi quyền tự do của họ, với các báo đài và truyền hình nô lệ một chiều nhà nước liên lỉ ”tra tấn tinh thần và tâm lý nhân dân toàn nước”, hết thập niên này sang thập niên khác.

Thống kê năm 2011 của tổ chức Ân xá quốc tế cho biết trên thế giới vẫn còn có 101 quốc gia thi hành tra tấn, và trong nhiều trường hợp là chống lại những ai tham gia các cuộc biểu tình chống chính quyền. Điều 1 của Tuyên ngôn chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc công bố năm 1984 nhắc cho mọi người biết đây là ”một hành động, qua đó người ta cố ý gây ra đau đớn hay khổ sở mạnh mẽ thể lý hay tâm thần cho một người, nhằm lấy tin tức hay các lời khai thú để trừng phạt hay đe dọa họ”. Đã có 145 nước phê chuẩn tuyên ngôn này trong đó có Italia, nhưng cho tới nay 21 năm sau khi ký nhận chính quyền Italia vẫn chưa đưa ra luật chống nạn tra tấn.

Một số đông các nạn nhân của tra tấn là người tị nạn. Thống kê của Ủy ban Italia đặc trách người tị nạn, từ 16 năm qua chuyên phối hợp các dự án tiếp đón và săn sóc người tị nạn, cho biết cứ 4 người tị nạn thì có một người là nạn nhân của tra tấn. Nhân Ngày quốc tế chống nạn tra tấn, chiều 25-6-2012 Ủy ban đã tổ chức một buổi trình diễn kịch nghệ do các người tị nạn đảm trách tại rạp hát Quirino ở Roma. Cũng đã có các cuộc đốt đuốc biểu tình tại nhiều nơi.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn mốt số nhận định của ba Fiorella Rathaus, đặc trách Ủy ban Italia về người tị nạn, về các dự án trợ giúp các nạn nhân của tệ nạn tra tấn.

Hỏi: Thưa bà, xin bà cho biết một vài nhận định và kinh nghiệm của bà đối với các nạn nhân của tệ nạn tra tấn.

Đáp: Người bị tra tấn thường là một người đã bị đánh đập trên thân xác, nhưng cũng rất thường khi bị đánh đập trong tâm thần nữa, vì thế chúng tôi thích nói tới các ”vết thương vô bình”. Đó là một người đã bị đánh đập để khai thác tin tức và bị bắt buộc phải cộng tác, nhưng cũng nhiều khi là để cho nạn nhân hay cộng đoàn mà nạn nhân là thành phần phải thinh lặng. Vì thế chúng ta có thể nói rằng tra tấn là một phương thế, qua đó người ta tìm cách bịt miệng bất cứ ai chống đối quyền bính đang cai trị bằng bất cứ cách nào. Tra tấn là cái gì nhắm hủy diệt căn tính sâu xa của người bị tra tấn. Và rất tiếc nó là điều cũng được thi hành tại các nước mà chúng ta cho là dân chủ nữa. Tuyệt đối nó không phải chỉ là một hiện tượng xảy ra trong những trường hợp qúa quắt, hay trong các chế độ độc tài; và trong các năm trở lại đây chúng đã chứng minh cho thấy một cách tỏ tường như vậy.

Hỏi: Thưa ba, nạn tra tấn cũng là tệ nạn liên quan tới phái tính. Trong số các nạn nhân cũng có nhiều phụ nữ, có đúng thế không?

Đáp: Đúng vậy. Và trên nữ giới thì nạn tra tấn luôn luôn được thi hành qua việc hãm hiếp họ. Các sự kiện đã xảy ra tại cựu Yugoslavi đã đậy cho chúng ta biềt rằng hãm hiếp phụ nữ là một ”dụng cụ chiến tranh đích thực”. Trên thân thể của người đàn bà người ta gây chiến giữa nam giới, trong một cách thức nào đó. Đây là một tệ nạn thê thảm không chỉ xảy ra tại cựu Yugoslavi, mà cũng đã xảy ra tại Rwuanda trên các phụ nữ Tutsi. Cho tới nay chúng ta đã đề cập tới sự kiện phụ nữ bị sử dụng để tấn công cộng đoàn nam giới, nhưng thật ra nó cũng liên quan tới phụ nữ dấn thân trong lãnh vực chính trị hay trong các lãnh vực khác. Trong các trường hợp này phụ nữ bị bách hại bởi các lý do khác, và tra tấn luôn luôn và cần thiết là hình thức hãm hiếp.

Hỏi: Các nạn nhân mà Ủy ban của qúy vị trợ giúp đến từ các nước nào trên thế giới thưa bà?

Đáp: Ủy ban Italia đặc trách người tị nạn thường gặp gỡ các nạn nhân đến từ Phi châu. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng tai Italia chẳng hạn, các người đến từ châu Mỹ Latinh xin tị nạn khá hiếm. Vì thế tôi không muốn đưa

ra một kết luận chung thực sự chú ý tới tình hình xảy ra trên thế giới. Chúng ta biết rằng tại hơn 100 quốc gia nạn tra tấn rất là phổ biến, và đó là điều khiến cho chúng tôi lo lắng. Nạn tra tấn cũng được sử dụng tại các nước nổi tiếng là ”dân chủ”, vì thế tôi tránh định nghĩa các quốc gia tốt các quốc gia xấu. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, chúng tôi có nhiều nạn nhân đến từ các nước như Ivory Coast, Cộng hòa dân chủ Congo, là quốc gia bị nội chiến tàn phá từ bao nhiêu năm nay, và là nơi đã xảy ra các vụ tra tấn và bạo lực vượt ngoài mọi tiêu chuẩn và quy chiếu có thể có. Thề rồi cũng có các kinh nghiệm tột cùng của các nạn nhân đến từ các nước như Afghanistan, một quốc gia bị chiến tranh tàn phá. Rồi cũng còn có Somalia nữa. Thật khó mà chỉ cho thấy đâu là đầu và đâu là cuối của danh sách. Mới đây chúng tôi đã tiếp nhận nhiều người đến từ Eritrea, họ đã bị tra tấn tại quê hương đất nước của họ, và cũng bị tra tấn trong cuộc hành trình, rồi trong thời gian sống trong các trại giam bên Libya nữa.

Hỏi: Thưa bà Rathaus, có yếu tố nào chung cho tất cả các nạn nhân qua tới Italia không: họ hoàn toàn bị tàn phá, hay căn tính của họ bị hủy hoại?

Đáp: Vâng, tuyệt đối là như thế. Điều xảy ra như phản ứng từ con người của họ bộc lộ ra ngoài là sự ”bùng nổ tâm linh”. Và đấy là mục đích mà nạn tra tấn nhắm tới: đó là hủy diệt căn tính sâu xa của con người họ. Chúng tôi từng trông thấy những người gặp các khó khăn cùng cực. Nhìn thấy sự dữ một cách cận kề như vậy, sự dữ nhập thể, sự dữ mà một người cố ý làm cho một người khác, là một kinh nghiệm tuyệt đối không thể nào tả nổi. Tôi phải nói rằng đó là một kinh nghiệm, mà đối với cả chúng tôi là những người nghe kể lại các chuyện khác nhau, nó cũng tàn phá và không thể kể được. Thật ra, chúng ta thử tìm các từ của con người để bước vào trong một lãnh vực không còn tí gì là nhân bản nữa, mà chỉ còn là vô nhân thuần túy mà thôi.

Hỏi: Trong các năm qua, tức từ hơn 15 năm qua, y ban Italia đc trách người tị nạn đã đề ra một loạt các hoạt động nhằm nâng đỡ các anh chị em nạn nhân của tra tấn: từ trợ giúp pháp lý cho tới trợ giúp tâm lý vv… Thế thì có khả thế phục hồi nào cho các nạn nhân hay không thưa bà?

Đáp: Tại những nơi việc trợ giúp được thực hiện sớm, thì chắc chắn có các khả thể phục hồi. Tra tấn nhắm tàn phá căn tính sâu xa của bản vị con người. Nhiệm vụ của chúng tôi là tái lập cho bản vị của họ tất cả những gì có thể giúp họ hồi phục các mảnh căn tính đã bị xé rách và hủy diệt đó, tất cả những gì có thể giúp các nạn nhân nối kết lại các mảnh căn tính bị gẫy vụn ấy. Tại những nơi có thể can thiệp một cách mau chóng trong việc săn sóc y tế và tâm lý, thì có sự thành công đối với các khả năng hồi phục một cách rõ ràng. Chúng là các vết thương bên trong, bị chôn vùi đâu đó trong tâm trí, và nguy cơ đó là chúng có thể tái xuất hiện. Mặc đầu vậy, có thể thành công trong việc đạt tới một mức độ sống đứng đắn nào đó, và chúng tôi phải nhắm tới việc đạt mức độ ấy. Nói đến chuyện lành hoàn toàn là điều hơi lý thuyết. Nhưng chắc chắn là chúng tôi trợ giúp các nạn nhân trong các lộ trình hồi phục khiến cho chúng tôi phải nín thở, sau 15 năm hoạt động; và cũng rất may là chúng trao trả cho chúng tôi các cảm xúc nền tảng sâu đậm của con người.

(RG 25-6-2012)

Linh Tiến Khải

Công bố Văn kiện của Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc mục vụ ơn gọi linh mục

Công bố Văn kiện của Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc mục vụ ơn gọi linh mục

VATICAN. Sáng 25-6-2012, Bộ giáo dục Công Giáo đã công bố văn kiện mới, tựa đề ”Những đường hướng mục vụ ơn gọi linh mục”.

Văn kiện dài lối 30 trang, soạn thảo trong vòng 7 năm qua, được ĐTC cho phép công bố ngày 25-3 năm nay và đã được ĐHY Tổng trưởng Zenon Grocholewski, Đức TGM Jean Louis Bruguès Tổng thư ký và Đức Ông Phó tổng thư ký Vencenzo Zani, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Ba phần của Văn kiện lần lượt trình bày ”Việc mục vụ ơn gọi trong thế giới ngày nay” (I); ”Ơn gọi và căn tính của chức linh mục thừa tác” (II) và sau cùng là ”Các đề nghị cụ thể cho việc mục vụ ơn gọi LM” (III).

Tài liệu này chủ yếu nói về tình trạng tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu đang bị khan hiếm ơn gọi LM một cách trầm trọng; trong số những nguyên nhân góp phần gây ra tình trạng này, có tình trạng giảm sút dân số và cuộc khủng hoảng gia đình, hiện tượng tục hóa, gương mù lạm dụng tính dục do một số LM, những ý tưởng sai lầm trong nội bộ Giáo Hội đưa tới sự coi rẻ đoàn sủng và sự chọn lựa độc thân, v.v. Nhiều cha mẹ, với những mong đợi về tương lai của con cái, nên ít quan tâm đến sự kiện con cái có thể được ơn gọi làm linh mục”. Cản trở ơn gọi LM, cũng có thể là chính đời sống LM bị thu hút vào sự miệt mài làm việc, với hậu quả là bị các hoạt động mục vụ đè bẹp, làm lu mờ và suy yếu kinh nghiệm sáng ngời về linh mục”.

Trong số những đề nghị cụ thể, Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo nhấn mạnh đến chứng tá vui tươi và trung thành của linh mục trong sứ vụ, đây có thể là một hình ảnh thu hút mạnh mẽ nơi giới trẻ về chức linh mục; ngoài ra có kinh nghiệm về thiện nguyện; học đường như một môi trường quan tâm đến sự huấn luyện con người toàn diện..

Họp báo

Trong cuộc họp báo, ba vị lãnh đạo của Bộ Công Giáo lần lượt giới thiệu nội dung 3 phần của Văn Kiện:

1. ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, đã giới thiệu lai lịch văn kiện và nội dung phần thứ I. Ngài cho biết tiến trình soạn Văn kiện đã diễn ra trong 7 năm, qua các Đại hội của Bộ giáo dục Công Giáo. Đại hội năm 2005 với sự tham dự của các HY và GM thành viên, đã thảo luận về ơn gọi LM và yêu cầu đào sâu vấn đề để chuẩn bị một văn kiện về việc cổ võ ơn gọi LM. Đại hội cũng đề ra một số tiêu chuẩn hướng dẫn việc soạn văn kiện, ví dụ:
– Mời gọi toàn thể cộng đoàn Giáo Hội tái ý thức về trách nhiệm giáo dục và mục vụ trong việc cổ võ ơn gọi LM;
– Cống hiến một ý tưởng rõ ràng về hình ảnh chức linh mục thừa tác và sự cần thiết cũng như vai trò của chức LM trong Giáo Hội.
– Khuyến khích mọi phần tử của Giáo Hội, đặc biệt là các nhóm, hội đoàn và phong trào, nâng đỡ các sáng kiến và tiến trình ơn gọi.
– Cung cấp những chỉ dẫn và gợi ý hành động rất cụ thể và rõ ràng để việc mục vụ được hữu hiệu.
– Soạn thảo một văn kiện ngắn và xúc tích.
Đường hướng trên đây đã được đào sâu trong Đại hội năm 2008 của Bộ giáo dục Công Giáo, trong khi đó, một cuộc tham khảo sâu rộng được thực hiện nơi các HĐGM, qua một bản câu hỏi được chuẩn bị kỹ lưỡng, với mục đích thu thập các đề nghị cho việc soạn thảo văn kiện. Các bản trả lời từ các nơi gửi về thật phong phú và dồi dào. Đại hội kế tiếp của Bộ đã cứu xét và phê chuẩn văn kiện này và ngày 25-3-2012, nhân kỷ niệm 25 năm Tông huấn ”Thầy sẽ ban cho các con những vị mục tử” (Pastores dabo vobis), ĐTC Biển Đức 16 đã cho phép công bố Văn kiện này.
ĐHY Grocholewski cho biết chìa khóa để đọc Văn kiện ”Những đường hướng mục vụ ơn gọi LM”, nhất là phần thứ I là ”Sự chăm sóc ơn gọi linh mục là một thách đố trường kỳ đối với Giáo Hội”. Điều này có nghĩa là Giáo Hội có nghĩa vụ liên lỷ phải đề nghị, phân định, bảo tồn và thăng tiến ơn gọi LM; tiếp đến việc săn sóc ơn gọi LM là một thách đố liên lỷ được gửi đến cộng đoàn Giáo Hội. Thực vậy hoa quả phong phú và dồi dào của Thánh Linh trong lãnh vực này là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để nhận ra và đo lường sức sinh động của một giáo phận, chất lượng đức tin và chứng tá Tin Mừng của giáo phận ấy, giá trị và đặc tính sâu xa của giáo phận ấy trong sự gắn bó theo Chúa Kitô.
Theo chiều hướng đó, Văn kiện ”Đường hướng mục vụ ơn gọi” liên hệ đặc biệt tới các Giáo Hội có truyền truyền kỳ cựu, trong đó sự dửng dưng đối với tôn giáo, cùng với sự yếu kém trong việc làm chứng tá Kitô, khiến cho ơn gọi trở nên khan hiếm và khô cằn. Ví dụ trường hợp của Âu Châu từ nhiều năm nay đang chịu đau khổ nhiều nhất vì thiếu ơn gọi linh mục.
Cũng trong phần thứ I, Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo nêu lên 3 lý do chính cản trở việc mục vụ ơn gọi tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, đó là:
– Sự giảm sút dân số và cuộc khủng hoảng gia đình làm cho con số các trẻ nam và người trẻ giảm bớt và khiến cho đời sống của họ, kể cả về phương diện đức tin, trở nên khó khăn và họ lo sợ trước một hiện tại bị phân tán và đe dọa, và trước một tương lai bấp bênh.
– Tiếp đến là sự lan tràn não trạng tục hóa và hậu quả là nhiều tín hữu từ bỏ đời sống Kitô. Tình trạng này càng làm cho họ khó thực hiện những chọn lựa quyết liệt và lâu dài trong thời gian, vì một bối cảnh văn hóa duy tương đối hơn, ảnh hưởng tiêu cực tới sự đào tạo các ơn gọi vững chắc và ổn định hơn.
– Thứ ba là tình cảnh khó khăn trong cuộc sống và sứ vụ của linh mục, phải chịu những biến đổi sâu đậm trong Giáo Hội và xã hội; hiện tượng đó thường làm cho LM, một đàng bị gạt ra ngoài lề và không còn quan trọng nữa, và đàng khác người ta có nguy cơ coi sứ vụ LM chỉ là một trong bao nhiêu nghề khác mà thôi. Những hiện tượng đó, thật rõ ràng tại nhiều nơi trên thế giới, có thể làm cho một số LM nản chí và sa xút về tinh thần.
Đứng trước tình trạng ấy, Phần thứ I trong Văn kiện mới của Bộ giáo dục Công Giáo liệt kê những điều kiện cần thiết để ơn gọi tìm được một mảnh đất phì nhiêu trong Giáo Hội và sự cởi mở của người trẻ đối với ơn gọi LM. Chẳng hạn:
– Cần kiến tạo một môi trường phong phú cho đời sống Kitô trong cộng đoàn Giáo Hội;
– Vai trò không thể thiếu được của việc cầu nguyện, xin Chủ mùa gặt sai nhiều trợ đến làm việc trong mùa gặt của Ngài;
– Giá trị của việc mục vụ toàn diện, thực thi một sự phối hợp, đồng qui các chương trình và đề nghị giữa các vị hữu trách khác nhau về giáo dục Công Giáo.
– Cần có một đà tái truyền giảng Tin Mừng và truyền giáo, khơi lên nơi người trẻ lòng hăng say mạnh mẽ đối với Tin Mừng
– Chức năng chủ yếu và không thể thay thế được của gia đình.
– Chứng tá cuộc sống vui tươi của các LM, sống phù hợp với niềm tin và ơn gọi của mình.
– Giá trị của trường học và đại học trong đó cần du nhận những cơ hội gặp gỡ và đào sâu ơn gọi Kitô.

2. Đức TGM Jean Louis Bruguès, OP
Phần thứ II của Văn kiện đã được vị Tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo là Đức TGM Jean Louis Bruguès, dòng Đa Minh, trình bày, nói về ”ơn gọi và căn tính của chức LM thừa tác”.
Phần này phê bình xu hướng dần dần biến chức linh mục thành một nghề, như thể đời sống trong sứ vụ LM có thể thu hẹp vào một loạt những điều cần phải làm theo khả năng nghề nghiệp chuyên môn. Thêm vào đó có những nguy hiểm thường gặp thấy trong kinh nghiệm đời sống LM như thái độ miệt mài làm việc thái quá, xu hướng cá nhân chủ nghĩa ngày càng gia tăng, nhiều khi khép kín linh mục trong sự cô độc tiêu tực và làm cho xuống tinh thần; sự lẫn lộn các vai trò trong Giáo Hội.
Đứng trước những tình trạng như thế, Phần II Văn kiện Bộ giáo dục Công Giáo đề nghị một số điểm suy tư, chẳng hạn ơn gọi LM luôn ở trong lãnh vực cuộc đối thoại yêu thương giữa Thiên Chúa và con người (n.5); tiếp đến, đạo lý thần học về ấn tích linh mục (n.6) đề ra một điều mới mẻ trong đời sống, đòi người được gọi phải đặc biệt chăm sóc quan hệ sinh động và liên lỷ với Chúa Kitô, dành trọn thời gian cần thiết cho Chúa và tiếp tục vun trồng, đào sâu quan hệ ấy mỗi ngày, như thể chạy đến cùng Chúa (Pl 3,12-14).
Trong các đoạn số từ 8 đến 10, Văn kiện Bộ giáo dục Công Giáo nhắc đến một loạt những hệ luận về cách thức khơi dậy, phân định và làm tăng trưởng ơn gọi LM. Ví dụ, để huấn luyện về sứ vụ LM, cần có một kinh nghiệm sâu xa về đời sống cộng đoàn để tránh những hình thức mới của xu hướng duy giáo sĩ, tập trung mục vụ, những dịch vụ mục vụ bán thời gian hoặc theo nhu cầu cá nhân; Cần có một sự hội nhập và trưởng thành đầy đủ về tình cảm, tránh những đề nghị ơn gọi cho những người có nhân cách mong manh; cần có một sự tham gia rộng rãi và ngoan ngoãn đối với bối cảnh Giáo hội, yêu thương cụ thể đối với giáo phận của mình đồng thời quảng đại cởi mở đối với chiều kích hoàn vũ của sứ vụ.

3. Đức Ông Vincenzo Zani
Phần thứ III là phần dài nhất của Văn kiện mang tựa đề ”Những đề nghị cho việc mục vụ ơn gọi LM” và do Đức Ông Vincenzo Zani, Phó tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo trình bày.
Đức Ông Zani đã cung cấp một vài con số về tình hình ơn gọi LM trong Giáo Hội: tại Âu Châu trong 10 năm qua, số chủng sinh giảm mất gần 6 ngàn thầy, từ 27 ngàn trong năm 2000 xuống còn 21 ngàn trong năm 2010; tại Bắc Mỹ số chủng sinh hầu như đứng yên với 5.500 thầy; tại Nam Mỹ có phần giảm: từ 22 ngàn trong năm 2006 xuống còn 21 ngàn trong năm 2010; trong khi đó số chủng sinh tại Á và Phi châu tiếp tục gia tăng: từ 20 ngàn trong năm 2000 lên 27 ngàn chủng sinh tại Phi châu; từ 25 ngàn trong năm 2000 lên 33 ngàn trong năm 2010 tại Á châu.
Phần III của Văn kiện chứa đựng một loạt những chỉ dẫn cụ thể do các HĐGM được hỏi ý kiến gửi về. Văn kiện nhấn mạnh tầm quan trọng không thể thiếu được của việc cầu nguyện cho ơn gọi, đồng thời nhận xét rằng mặc dù có những cơ quan và tổ chức chuyên về ơn gọi LM ở cấp hoàn vũ, quốc gia và giáo phận, nhưng các cơ quan này không thể thay thế cho các thành phần khác nhau trong cộng đoàn Kitô: bắt đầu từ gia đình Công Giáo vốn được Công đồng chung Vatican 2 gọi là ”chủng viện đầu tiên” (OT 2): gia đình phải có thể cống hiến những điều kiện thuận lợi cho sự nảy sinh ơn gọi. Điều này có nghĩa là không bao giờ có thể quan niệm việc mục vụ gia đình và mục vụ ơn gọi, cũng như mục vụ giới trẻ và mục vụ học đường, như thể chúng là những lãnh vực độc lập và xa lạ với nhau.
Văn kiện trình bày một loạt nhận xét về giáo xứ, vai trò của các LM, tu sĩ, giáo lý viên và những ngừơui linh hoạt mục vụ giáo xứ.
Đoạn số 15 nhấn mạnh trách nhiệm đặc thù của chủng sinh đối với ơn gọi. Trong thời gian thụ huấn các chủng sinh cũng phải được huấn luyện về khả năng làm chứng tá và đề nghị cho người khác kinh nghiệm của họ trong việc đáp lại ơn gọi.
Văn kiện Tòa Thánh đặc biệt đề cao vai trò của các hội đoàn và phong trào của Giáo Hội trong việc khơi dậy và nuôi dưỡng ơn gọi LM. Văn kiện không quên vai trò của các nhóm lễ sinh, tức là những người giúp lễ, trong đề nghị ơn gọi linh mục. Thời gian phục vụ của họ có thể coi như một trường thực hành về sự cầu nguyện và phục vụ Giáo Hội.
Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo kết luận rằng:
”Môi trường phì nhiêu đối với hạt giống ơn gọi LM chính là một cộng đoàn Kitô cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bằng phụng vụ và làm chứng tá bác ái; Bộ giáo dục Công Giáo khuyến khích toàn thể Giáo Hội, với lòng tín thác, hãy tái đảm trách quyết tâm giáo dục của mình để đón nhận tiếng Chúa gọi đi vào sứ vụ LM; tiếng Chúa gọi ngày nay vẫn dồi dào và thích ứng với nhu cầu của Giáo Hội cũng như nhu cầu rao giảng Tin Mừng trên thế giới.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 40.000 tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 24-6-2012, lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả.

Trong các đoàn hành hương có một ban nhạc và một nhóm dân ca vũ Bolivia mặc sắc phục rực rỡ nhiều mầu rất đẹp. Chúa Nhật hôm qua tại Italia cũng là Ngày Bác ái của Đức Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha đã cám ơn tín hữu nước này như sau:

Anh chị em thân mến, tại Italia hôm nay là Ngày Bác Aí của Giáo Hoàng. Tôi cám ơn tất cả các cộng đoàn giáo xứ, các gia đình và các tín hữu riệng biệt vì sự yểm trợ liên tục và quảng đại nhằm trợ giúp các anh chị em găp khó khăn. Nhân dịp này tôi cũng nhắc nhớ rằng ngày mốt, nếu đẹp lòng Chúa, tôi sẽ làm một cuộc viếng thăm ngắn trong các vùng bị động đất mới đây tại miền Bắc Italia. Tôi muốn rằng nó là một dấu chỉ tình liên đới của toàn thể Giáo Hội với các anh chị em nạn nhân, vì thế tôi mời gọi tất cả mọi người đồng hành với tôi trong lời cầu nguyện.

Trước đó, trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về lễ kính thánh Gioan Tiền Hô như sau:

Hôm nay 24 tháng 6 chúng ta cử hành lễ trọng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Trừ Đức Trinh Nữ Maria ra, Gioan Tẩy Giả là vị thánh duy nhất mà phụng vụ mừng ngày sinh và Giáo Hội mừng sinh nhật thánh nhân vì nó gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Thật thế, từ trong lòng mẹ Gioan là tiền hô của Đức Giêsu: việc thụ thai ông cách lạ lùng đã được thiên thần báo cho Đức Maria biết như dấu chỉ ”không có gì là không thể được đối với Thiên Chúa” (Lc 1,37), sáu tháng trước khi xảy ra biến cố lạ lùng trao ban cho chúng ta sự cứu rỗi, sự kết hiệp của Thiên Chúa với con người bởi công trình của Chúa Thánh Thần. Bốn Phúc Âm nêu bật gương mặt của Gioan Tẩy Giả, là vị ngôn sứ kết thúc thời Cựu Ước và khai mào thời Tân ước, bằng cách cho chỉ cho thấy Đấng Cứu Thế nơi Đức Giêsu thành Nazareth, Đấng Được Thánh Hiến của Chúa. Thật vậy, chính Đức Giêsu đẽ nói về Gioan như sau: ”Chính ông là người Thánh Kinh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,10-11).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: cha của Gioan, ông Dakharia, chồng bà Elisabeth, bà con của Đức Maria, đã là tư tế của phụng tự do thái. Ông đã không tin ngay lập tức vào lời loan báo chức làm cha đã không được chờ đợi nữa, vì thế ông bị câm cho tới ngày con trẻ được cắt bì, mà ông và vợ đặt tên cho như Thiên Chúa đã chỉ định, là Gioan, có nghĩa là ”Chúa thương xót”. Được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, ông Dakharia đã nói về sứ mệnh của con minh: ”Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu của Đấng Tối Cao; con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết moi tội khiên” (Lc 1,76-77).

Đức Thánh cha nói thêm trong bài huấn dụ:
Tất cả những điều này được tỏ lộ ba mươi năm sau đó, khi Gioan bắt đầu ban phép rửa trong sông Jordan, bằng cách kêu gọi người ta chuẩn bị, với cử chỉ sám hối, cho biến cố đến gần của Đấng Cứu Thế, mà Thiên Chúa đã mạc khải trong khi ông sống trong sa mạc Giuđêa. Vì thế ông được gọi là ”Tẩy Giả”, nghĩa là ”Người thanh tẩy” (x, Mt 3,1-6). Một ngày kia, khi từ Nazareth, chính Đức Giêsu đến để được thanh tẩy; ban đầu Giaon từ chối, nhưng rồi ông đồng ý, và ông trông thấy Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu và nghe tiếng của Thiên Chúa Cha trên trời công bố Người là Con của Ngài (x. Mt 3,13-17). Nhưng sứ mệnh của ông Gioan đã chưa được thành toàn: ít lâu sau đó, ông được yêu cầu đi trước Đức Giêsu cả trong cái chết bạo lưc nữa; Gioan đã bị chém đầu trong ngục của vua Hếrôđê, và như hế ông đã làm chứng tá tràn đầy cho Chiên Con của Thiên Chúa, mà ông đã là người đầu tiên nhận biết và chỉ cho thấy một cách công khai.

Các bạn thân mếm, Đức Trinh Nữ Maria đã trợ giúp người bà con Elisabeth cao niên kết thúc thời kỳ mang thai Gioan. Xin Mẹ giúp tất cả bước theo Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, mà ông Tẩy Giả đã loan báo với lòng khiêm tốn lớn lao và nhiệt huyết ngôn sứ.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan và Ý. Trong tiếng Pháp Đức Thánh Cha nói gương của thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta hoán cải, làm chứng cho Chúa Kitô và loan báo Người trong lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện, là tiếng kêu trong sa mạc giống như thánh nhân cho đến chỗ hiến dâng mạng sống mình.

Chào các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha nói ngài hiệp ý với tổng giáo phận Poznan, các cha dòng Oratoriani, và tín hữu hành hương Đền thánh Mẹ Thiên Chúa Gostyn, nhân dịp mừng kỷ niệm 500 năm thành lập đền thánh. Ngài cảm tạ Chúa vì các ơn Chúa đã rộng ban cho các thế hệ nhờ lời bầu cử của Mẹ và ngài xin sự chở che của Mẹ đồng hành với mọi người.

Trong tiếng Ý ngài chào các thành viên của Hiệp hội thiện nguyện Pro Loco Italia, chúc mừng 50 năm thành lập hội và cầu chúc mọi may lành cho công tác của hội phục vụ gia tài văn hóa của Italia.

Linh Tiến Khải

ĐÂU RỒI GIOAN TIỀN HÔ 2012?

ĐÂU RỒI GIOAN TIỀN HÔ 2012?

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN NĂM B (24/06/2012)
LỄ SINH NHẬT THÁNH GIO-AN TẨY GIẢ
[Is 49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80]

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tiền Hô nhắc cho chúng ta yêu quí hơn, trân trọng hơn, tạ ơn Chúa nhiều hơn vì “sự hình thành, sinh ra, và hiện diện” của chúng ta trên đời, và nhất là tạ ơn Chúa bằng cách đặt mình vào kế hoạch, vào công cuộc của Thiên Chúa, làm chứng cho Thiên Chúa. Quả vậy, sự hình thành một thai nhi trong lòng mẹ, việc được sinh ra và sự hiện diện của bạn, của tôi, của mỗi một con người trên cuộc đời này, là một điều kỳ diệu đến mức khoa học chân chính chỉ còn cách chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa và ca tụng quyền năng vô biên của Ngài.
 
Hình thành thai nhi của Thánh Gioan càng đặc biệt hơn, vì Dacaria và Elisabeth đã già nua mà vẫn còn son sẻ. Ông bà vẫn khẩn nài Thiên Chúa ban cho một mụn con để nối dõi tông đường. Và Thiên Chúa đã nhậm lời: “Đang khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng  bên phải hương án làm ông hoảng sợ.  Sứ thần trấn an ông và bảo: “Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Elisabéth, vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời” (Lc 1, 10-15).
 
Như vậy, chính Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời Gioan:
 
– Can thiệp vào sự hình thành phôi thai của thánh Gioan  (Lc 1,10-15).
 
– Can thiệp vào cả việc đặt tên được giấu kín cho đến ngày Gioan sinh nở: “Phải đặt tên là Gioan” “Tên cậu ấy là Gioan” (Lc 1, 59-65).
 
– Can thiệp vào sứ mạng làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa của Gioan ngay khi còn trong bụng mẹ khi sứ thần minh họa cho Mẹ Maria trong biến cố Truyền tin rằng “Kìa bà Elisabeth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1, 36-37).
 
– Can thiệp vào ý muốn của Dacaria, Ngài không làm cho ông toại nguyện có Gioan để nối dõi tông đường của mình, nhưng lại là để thực hiện chương trình của Thiên Chúa: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan.  Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”(Ga 1, 6-7 ; Lc 1, 17 ).
 
– Can thiệp vào việc hình thành nhân cách đơn sơ, bản tính cương trực và ý thức được sai đến: “ăn chấu chấu uống mật ong rừng, mặc áo lông, đi dép da thú, sống trong sa mạc…” mà không phải là con người lập dị, nhưng là con người đơn giản sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa, chuẩn bị cho sứ mạng Chúa giao phó; “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa” “Hãy bạt núi đồi, hãy lấp hố sâu” mà không sợ người ủng hộ “đồi núi quyền bính” hay kẻ chủ trương “hố trụy lạc” kết án; “Người đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi”“Người phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại” vì ý thức được sai đến để chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến. Thiên Chúa đã can thiệp để hình thành một con người cho công cuộc cứu rỗi của Ngài.
 
– Can thiệp vào ơn cứu độ của thánh Gioan bằng chính cái chết anh dũng của Người để làm chứng cho công lý của Thiên Chúa. Mẫu người được hình thành theo kế hoạch của Thiên Chúa, là mẫu người khiêm nhượng đặt mình vào trong chương trình của Ngài. Có thể nói từ các tổ phụ, các ngôn sứ đến vị ngôn sứ tiền hô gần nhất của Thiên Chúa Giáng Sinh, tất cả đều là những mẫu người khiêm nhượng, như Thiên Chúa là Đấng khiêm nhượng vô cùng.
 
Thế giới hôm nay đang có những con người kiêu căng, nghĩ mình có thể “sáng chế” ra một con người theo cách của Thiên Chúa, cho ngang bằng quyền năng của Thiên Chúa. Cũng lại có những người xem thường sự sống của con người, đến nỗi tự mình quyết định số phận của những con người được sinh ra, một cách vô ơn, một cách vô thần. Một đất nước mang tiếng là mất tự do cổ xúy việc phá thai đã đành, một đất nước nổi tiếng là văn minh nhất thế giới cũng đưa việc phá thai thành đạo luật, thì thế giới này đã quá rõ rằng lương tâm con người không còn nhìn nhận công trình kỳ diệu của Thiên Chúa nữa, nếu không nói là đang toa rập nhau chống lại Thiên Chúa.
 
Còn chúng ta, thiết tưởng Gioan Tiền Hô phải là hình ảnh người mẫu của Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta. Chúng ta cũng được hình thành cách lạ lùng qua sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hun đúc huấn luyện nhờ sự kết hiệp với Thiên Chúa trong sa mạc thiêng liêng của tâm hồn. Chúng ta cũng nhận lãnh sứ mệnh loan báo cho Nước Thiên Chúa đang đến, và nhất là làm chứng cho Tin Mừng, cho Công Lý của Thiên Chúa trên dặm trường hành hương về Đất Nước của Thiên Chúa, của chúng ta.
 
Ai không quí trọng sự sống của mình và của người khác, không biết ơn Chúa về sự hiện diện của mình trên đời, không ý thức sứ mệnh loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa đến cho mọi người, thì thiết tưởng, người ấy đang sống một cuộc sống vô nghĩa nhất, vô vị nhất.
 
Nhưng để thực hiện được ơn loan báo Tin Mừng, “làm tiếng kêu trong hoang địa”, làm công việc “dọn đường cho Chúa đến”, và làm chứng cho Tin Mừng và Công Lý của Thiên Chúa, hẳn phải là người khiêm nhượng nhất, chịu nghe tiếng Chúa, chịu kết hiệp mật thiết với Chúa trong thinh vắng, bằng lòng buông bỏ cái tôi kiêu ngạo to lớn của mình đi, bằng lòng thu nhỏ mình lại và đặt mình vào trong kế hoạch của Thiên Chúa như Thánh Gioan vậy.
 
Thế giới đang cần, xã hội đang cần, đất nước đang cần những chứng nhân anh dũng như Gioan Tiền Hô, những chứng nhân dám công khai lên tiếng chỉ ra những hành vi gian tà ám muội, chỉ ra những cách sống buông thả thối nát của những quan quyền, chỉ ra những tội lỗi tày trời của những kẻ chống lại Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, có vẻ như chúng ta còn đang ngó nhau chờ nhau hay cả nể sợ sệt hoặc trông đợi một Gioan Baotixita nào khác, mà không phải mỗi chúng ta!
 
Tại sao mỗi người chúng ta không thể là một Gioan Tiền Hô ngay trong cuộc sống của mình, ngay trong thời đại của mình, ngay lúc này? Có phải vì chúng ta chưa thông hiệp với Thiên Chúa và chưa thông hiệp với nhau? Có phải vì ma quỷ làm cho chúng ta suy yếu đi vì đã cắt đứt sự thông hiệp thánh thiện ấy? Hoặc tệ hơn nữa là chúng ta đã không đặt mình vào chương trình của Chúa lại còn vui vẻ đặt cuộc đời mình vào trong kế hoạch của ma quỷ chăng?
 
Kinh nghiệm mấy chục năm gần đây cho thấy bất cứ ai bắt tay thỏa hiệp với ma quỷ đều làm được nhiều việc cho sáng danh mình, nghĩa là “Tôi thì lớn lên mà Thiên Chúa thì nhỏ lại”. Thật đáng tiếc! Và tiếc nhất trong ngày sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, người đã nêu gương sống một đời “Tôi thì nhỏ lại, để Thiên Chúa được lớn lên”.
 
Lạy Chúa, mỗi chúng con cần phải xét mình lại về cách trân trọng ơn gọi làm người, và làm chứng cho Thiên Chúa. Nguyện xin Thánh Gioan Tiền Hô cầu thay nguyện giúp, và xin Chúa cho chúng con noi gương Ngài trong cuộc sống hôm nay để sống khiêm cung, đơn giản, kết hiệp với Chúa, đặt mình trong chương trình của Chúa và cương trực làm chứng cho Thiên Chúa. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả

Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả

Pt. Phêrô Đặng Phi Hùng

Từ thế kỷ thứ IV cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin (Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.” Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.

Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;

Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.

Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:

1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.

Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.

2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:

theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giêsu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.” (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian….Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài.” (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giêsu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: “Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai.” Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giêsu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: “Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống.” (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).

3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:

Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giêsu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herođê cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?” Chúa Giesu đáp: “Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng…” (Lk. 7:19)

Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:

1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođê hãm hại.

2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: “Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống.” Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm “tổng đại lý” của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.

3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.

Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.

Đức Thánh Cha gặp các Hồng y về vụ Vatileaks

Đức Thánh Cha gặp các Hồng y về vụ Vatileaks

VATICAN. Lúc 10 giờ sáng ngày 23-6-2012, ĐTC đã nhóm họp các vị HY Tổng trưởng và TGM Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Tham dự cuộc họp cũng có ĐHY Quốc vụ khanh, Đức TGM Phụ tá và Đức TGM ngoại trưởng của Tòa Thánh. Cuộc họp này, thông thường diễn ra 2 lần một năm.

Ngoài ra, lúc 6 giờ chiều cùng ngày (23-6-2012), ĐTC nhóm họp với các vị HY, trong đó có ĐHY George Pell, TGM giáo phận Sydney bên Úc, ĐHY Marc Ouellet, người Canada, Tổng trưởng Bộ GM, ĐHY Jean Louis Tauran, người Pháp, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, ĐHY Camillo Ruini, người Ý, nguyên Giám quản Roma và ĐHY Jozef Tomko, người Slovak, nguyên Tổng trưởng Bộ truyền giáo.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết: ”Trong bối cảnh tình trạng xảy ra sau vụ thất thoát và phổ biến các tài liệu mật, ĐTC đào sâu suy tư qua việc đối thoại liên tục với những người cùng chia sẻ trách nhiệm với ngài trong việc cai quản Giáo Hội. Như đã biết, thứ bẩy 16-6 vừa qua, ngài đã được Ủy ban 3 HY điều tra thông báo rộng rãi hơn về diễn tiến việc điều tra, do ĐHY Julian Herraz người Tây Ban Nha hướng dẫn.”

Cha Lombardi cũng nói rằng ”cuộc họp của ĐTC với các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, như thường lệ, bàn về việc phối hợp hoạt động của Giáo triều Roma cho tốt đẹp. Việc phối hợp này ngày nay đặc biệt quan trọng và cấp thiết để chứng tỏ một cách hữu hiệu tinh thần hiệp nhất vốn linh hoạt Giáo Triều.

Cha Lombardi giải thích rằng: ”Ban chiều, ĐTC quyết định gặp một số vị Hồng Y, vốn có nhiều kinh nghiệm khác nhau trong việc phục vụ Giáo Hội, không những ở Roma, nhưng cả trong lãnh vực quốc tế, các vị có thể trao đổi với ngài những nhận xét và đề nghị hữu ích để góp phần tái lập bầu không khí thanh thản và tín nhiệm đối với công việc phục vụ của các cơ quan trung ương Tòa Thánh.”

Dĩ nhiên, trong những ngày tới đây, ĐTC tiếp tục các cuộc nói chuyện và suy tư của ngài, lợi dụng sự kiện có nhiều vị Mục Tử đến Roma nhân dịp lễ Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, là cơ hội đặc biệt để cộng đoàn Giáo Hội hoàn vũ cảm thấy hiệp nhất với ngài trong kinh nguyện, trong việc phục vụ và làm chứng về đức tin cho nhân loại ngày nay” (SD 23-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (06-18 đến 06-24-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (06-18 đến 06-24-2012)

Xuân Bích Việt Nam

Trung Quốc : Các nữ tu mở cửa mời gọi “mở lòng đón nhận tình yêu Chúa”

Brasil : Hướng tới Đại Hội truyền giáo lần III

Chủ tịch Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thăm viếng Vatican.

Toà Thánh thiết lập Giáo hạt tòng nhân Úc cho các cựu tín đồ Anh giáo

“Vatileaks” : Đức Thánh Cha tiếp Uỷ Ban Hồng Y.

Hàn Quốc : Darwin bọ khai trừ khỏi sách giáo khoa.

Một số nghĩ rằng các tân giám mục ở Ái Nhĩ Lan nên không phải người Ái Nhĩ Lan.

Bế mạc Đại Hội Thánh Thể lần thứ 50 và thông báo ĐHTT lần thứ 51.

Các nhà lãnh đạo Giáo Hội nói thẳng chống lại hôn nhân đồng tính.

Hình thức Thánh Lễ lần nữa làm bùng lên chống đối bên trong Giáo Hội.

Ấn-Độ : Làn sóng bài Kitô giáo mới ở Orissa.

Các lãnh đạo LCWR : Cuộc gặp gỡ ở Vatican cởi mở, nhưng khó khăn.

Thăm dò nước Anh: ủng hộ thầp đối với hôn nhân đồng tính.

-“Con Trai Hamas” làm phim trình bày Hồi giáo..

Nigeria : Bọn khủng bố Hồi giáo tấn công ba nhà thờ, giết nhiều người.

Các nhà khoa học xác nhận các xương cốt có thể là của Thánh Gioan Tẩy Giả.

Thủ tường Lettonia viềng thăm Vatican.

Hàng giáo dân là câu trả lời cho cuộc khủng hoảng ơn gọi.

Truyền chức linh mục có thể tăng gấp đôi vào năm 2013 tại Anh và xứ Wales.

Báo cáo sơ bộ về đấu tranh chống lại lại giáo sĩ dụng tình dục đã sẵn sàng.

MacCulloch tiên đoán ly khai Công giáo.

-Đức Thánh Cha đưa ra lời kêu gọi “khẩn thiết và đau đớn”về Syria,

 

( Xem tiếp . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO số 08 (06-18 đến 06-24-2012)

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia giúp các tín hữu đừng đi theo giáo phái

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia giúp các tín hữu đng đi theo giáo phái

VATICAN. Sáng 22-6-2012, ĐTC khuyến khích các GM Colombia tìm phương thức hữu hiệu giúp các tín hữu đừng rời bỏ Giáo Hội Công Giáo để đi theo các giáo phái.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 37 GM thuộc HĐGM Colombia vừa kết thúc cuộc hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

ĐTC nói với các GM rằng: ”Tình trạng đa tôn giáo đang gia tăng là một nhân tố đòi phải nghiêm túc cứu xét. Sự hiện diện ngày càng tích cực của các cộng đoàn Pentecostal và Tin Lành, không những ở Colombia nhưng còn tại nhiều miền khác ở Mỹ châu la tinh, là điều không thể không biết tới hoặc coi nhẹ. Theo chiều hướng này, điều hiển nhiên là Dân Chúa đang được kêu gọi thanh tẩy và làm cho đức tin được sinh động, bằng cách để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn, hầu mang lại một động lực mới trong việc mục vụ, vì nhiều khi những người chân thành rời bỏi Giáo Hội chúng ta không phải vì những tín lý của các nhóm không Công Giáo, nhưng chủ yếu vì những gì các nhóm này sống; không phải vì những lý do đạo lý, nhưng vì những lý do hiện sinh; không phải vì những vấn đề thần học, nhưng là vì những phương pháp của Giáo Hội chúng ta” (Văn kiện chung kết, Đại hội kỳ 5 của hàng GM Mỹ la tinh và Caraibí, n.225). Vì thế vấn đề ở đây là trở thành những tín hữu tốt hơn, đạo đức, hòa nhã và hiếu khách hơn trong các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, để không ai cảm thấy xa lạ hoặc bị loại trừ”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Cần phải tăng cường việc huấn giáo, đặc biệt quan tâm đến giới trẻ và người lớn, chuẩn bị kỹ lưỡng các bài giảng, cũng như thăng tiến việc giảng dạy giáo lý Công Giáo tại các học đường và đại học. Tất cả đều nhắm giúp các tín hữu đã chịu phép rửa cảm thấy họ thuộc về Giáo Hội và tái khám phá ước muốn chia sẻ với tha nhân niềm vui được theo Chúa Kitô và là thành phần nhiệm thể của Chúa. Điều quan trọng là nhắc đến thuyền thống của Giáo Hội, gia tăng linh đạo Maria và vun trồng các việc sùng mộ. Tạo điều kiện cho sự trao đổi thanh thản và cởi mở với các tín hữu Kitô khác, nhưng không đánh mất căn tính của mình, đó là điều cũng có thể giúp cải tiến quan hệ với họ và vượt thắng sự nghi kỵ và đụng độ không cần thiết”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC khuyến khích các GM Colombia tiếp tục phát triển các chương trình tháp tùng và giúp đỡ những ngừơi bị thử thách, đặc biệt là các nạn nhân thiên tai, những người nghèo khổ nhất, các nông dân, người yếu đau và sầu khổ, gia tăng các sáng kiến liên đới và các hoạt động từ thiện giúp đỡ họ. (SD 22-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Tòa Thánh kêu gọi giúp các bà mẹ và con bị Aids (Sida)

Quốc vụ khanh Tòa Thánh kêu gọi giúp các bà mẹ và con bị Aids (Sida)

ROMA. ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc biệt trợ giúp các bà mẹ và các trẻ em bị bệnh Aids (Sida).

ĐHY Bertone đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài phát biểu sáng 22-6-2012, tại Hội nghị quốc tế kỳ 8 về bệnh Aids nhóm tại Viện Thánh Gallicano, thuộc khu Trastevera ở Roma với sự tham dự của Phu nhân tổng thống nước Guinea và 20 vị bộ trưởng y tế các nước Phi châu, cũng như ông Andrea Riccardi, Bộ trưởng cộng tác quốc tế thuộc chính phủ Italia, cùng với nhiều giới chức chính quyền về y khoa cũng như của Tổ chức WHO (OMS) (Sức khỏe thế giới). Hội nghị này diễn ra trong khuôn khổ chương trình gọi là DREAM do Cộng đồng thánh Egidio phát động và lần này có chủ đề là ”Hoan hô các bà mẹ! Hoan hô các trẻ em! Giảm bớt sự tử vong của các bà mẹ và làm giúp các trẻ em lớn lên mà không bị Aids”.

Trong bài phát biểu, ĐHY Quốc vụ khanh xác quyết sự dấn thân mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo trong việc phòng chống Aids: hiện nay 30% các trung tâm săn sóc người bị HIV-Aids trên thế giới do các tín hữu Công Giáo đảm trách. Đặc biệt tại Phi châu, hoạt động trợ giúp y tế của Giáo Hội Công Giáo thường cung cấp sự hỗ trợ cơ bản cho những người bị Aids sống ngoài khu vực thành thị và tại miền quê.

ĐHY cũng cám ơn Cộng đồng thánh Egidio với chương trình Dream gồm 33 trung tâm tại 10 nước Phi châu, tạo nên một kiểu mẫu hữu hiệu về kết quả, và nói lên sự dấn thân của Kitô hữu, với khả năng tháp tùng những người đau khổ, coi mỗi bệnh nhân như nhân vị, không bao giờ thu hẹp cá nhân vào bệnh tật.

ĐHY Bertone long trọng nói rằng: ”Trước sự hiện diện của bao nhiêu vị bộ trưởng và các vị đặc trách về sức khỏe, tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế, các quốc gia và các ân nhân: chúng ta hãy mau lẹ cung cấp cho các bệnh nhân Aids một sự săn sóc miễn phí và hữu hiệu! Ước gì mọi bệnh nhân được săn sóc chữa trị! Chúng ta hãy thi hành điều đó, bắt đầu từ các bà mẹ và các trẻ em. Tại nơi đây, nhân danh ĐTC, tôi lên tiếng thay cho bao nhiêu người đau khổ, bao nhiêu bệnh nhân không có tiếng nói. Chúng ta đừng mất thời giờ và hãy đầu tư mọi năng lực cần thiết cho công trình này!”.

ĐHY Quốc vụ khanh nói thêm rằng: Tại Phi châu cũng như Âu Châu chúng ta có nghĩa vụ đi tới mỗi phụ nữ bị HIV trong lúc thai nghén, cung cấp thuốc chữa trị cho họ, để họ sinh con không bị nhiễm Aids và để người con được lớn lên với sự tháp tùng của người mẹ.” (SD 22-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tái bày tỏ tình liên đới với các tín hữu và nhân dân Syria đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế nỗ lực đưa đất nước này ra khỏi tình trạng bạo lực và khủng hoảng hiện nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-6-2012 dành cho 80 tham dự viên khóa họp của Tổ chức Roaco gồm đại diện các cơ quan bác ái Công Giáo trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ này. Trong số các tham dự viên có một số GM thủ lãnh các Giáo Hội Công Giáo Đông phương và 2 vị TGM Đại diện Tòa Thánh tại Thánh Địa và Syria.

ĐTC nói ”Đây là cơ hội để tôi tái bày tỏ sự gần gũi với những đau khổ lớn lao của anh chị em tại Syria, đặc biệt là những trẻ em vô tội và những người yếu thế nhất. Ước gì kinh nguyện, sự dấn thân và tình huynh đệ cụ thể của chúng ta trong Chúa Kitô, như dầu an ủi, giúp họ khỏi đánh mất ánh sáng hy vọng trong những lúc đen tối này và xin Chúa ban ơn khôn ngoan cho những ai có trách nhiệm, để chấm dứt mọi cảnh đổ máu và bạo lực chỉ gây ra đau thương và chết chóc, và thay vào đó là sự hòa giải, thuận hòa và an bình. Ước gì cộng đồng quốc tế không từ nan một cố gắng nào để đưa Syria ra khỏi tình trạng bạo lực và khủng hoảng hiện nay, vốn đã kéo dài quá lâu và có nguy cơ trở thành một cuộc xung đột lan rộng, với những hậu quả rất tiêu cực cho đất nước Syria và cho toàn vùng. Tôi cũng khẩn thiết và đau đớn kêu gọi đảm bảo sự cứu trợ nhân đạo đứng trước tình trạng cùng cực của dân chúng, cũng như trợ giúp nhiều người phải bỏ gia cư, và một số phải tị nạn sang các nước láng giềng: giá trị sinh mạng con người là một thiện ích quí giá luôn luôn phải bảo tồn”.

Cũng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi hoạt động của Tổ chức Roacao, biểu tượng chứng tá về điều Kinh Thánh đã nói với chúng ta 'đức tin không có việc làm thì tắt lịm và chết đi' (Xc Gc 2,17). Ngài nói: ”Anh chị em hãy luôn luôn là những dấu chỉ hùng hồn về đức bác ái phát sinh từ con tim Chúa Kitô và trình bày cho thế giới thấy Giáo Hội trong căn tính và sứ mạng chân thực nhất, phụng sự Thiên Chúa là Tình Thương”.

Trước đó, trong phần đầu của bài Huấn dụ, ĐTC cũng nhắc đến cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới, ảnh hưởng tai hại tới nhiều miền của trái đất, nhất là những vùng bị thiệt thòi, đe dọa nghiêm trọng tương lai của con người. Trung Đông, là tổ quốc của các truyền thống Kitô kỳ cựu, bị thương tổn đặc biệt trong tiến trình này, nó gây ra sự bất an và bấp bênh, trên bình diện Giáo Hội, cũng như trong lãnh vực đại kết và liên tôn”.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là những yếu tố nuôi dưỡng những vết thương kinh niên của lịch sử và góp phần làm cho cuộc đối thoại, an bình và sự sống chung giữa các dân tộc trở nên mong manh hơn, cũng như sự tôn trọng thực sự đối với các quyền con người, cách riêng là quyền tự do tôn giáo của cá nhân và cộng đoàn. Quyền này phải được bảo vệ trong việc tuyên xưng công khai chứ không phải chỉ về phương diện phụng tự mà thôi, nhưng bao gồm cả các phương diện mục vụ, giáo dục, từ thiện và xã hội, tất cả các khía cạnh đó đều không thể thiếu được đối với việc thi hành thực sự quyền tự do tôn giáo” (SD 21-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Công bố chương trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma

Công bố chương trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma

VATICAN. Sáng 21-6-2012, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, đã mở cuộc họp báo để giới thiệu lịch trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma, từ ngày 11-10 năm nay đến 24-11 năm tới, 2013.

Đức TGM Fisichella đã liệt kê 21 sinh hoạt do ĐTC chủ sự trong Năm Đức Tin, trong đó có lễ khai mạc, lễ bế mạc, lễ tôn phong 6 hiển thánh tử đạo và hiển tu vào chúa nhật 21-10 năm nay, ngày 25-1 năm tới cùng tuyên xưng đức tin với các anh em Kitô khác; ngày 2-2 lễ tuyên xưng đức tin của giới thánh hiến; Chúa nhật lễ lá 24-3, ngày Quốc tế giới trẻ; Chúa nhật 28-4, ĐTC sẽ chủ sự lễ ban phép thêm sức cho một số bạn trẻ; chúa nhật 5-5 cử hành đức tin trong truyền thống đạo đức bình dân; áp lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống 18-5, được dành cho tất cả các phong trào cũ và mới của Giáo Hội, hành hương tại Mộ Thánh Phêrô;

Chúa nhật 16-6 được dành cho chứng tá Tin Mừng sự sống; Chúa nhật 7-7, kết thúc cuộc hành hương tại Roma của các chủng sinh, tập sinh nam nữ và những người đang ở trong hành trình ơn gọi; từ ngày 23 đến 28-7-2013 là Ngày Quốc Tế giới trẻ với sự hiện diện của ĐTC tại Rio de Janeiro, Brazil; ngày 29-9 được dành cho các giáo lý viên, đây cũng là dịp kỷ niệm 20 năm công bố sách giáo lý chung của hội Thánh Công Giáo.

Đức TGM Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng cũng giới thiệu cổng thông tin trên Internet với địa chỉ: www.annusfidei.va, qua đó, độc giả có thể biết chương trình các buổi lễ do ĐTC chủ sự trong Năm Đức Tin, các biến cố quan trọng của các HĐGM, các giáo phận, phong trào và hội đoàn. Mạng này bắt đầu với tiếng Ý và Anh, sau đó sẽ thêm các thứ tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Ba Lan.

Ngoài ra cũng có huy hiệu và thánh ca Năm Đức Tin. Huy hiệu Năm Đức Tin sẽ được trưng trong các sinh hoạt của Năm này có hình con thuyền, tượng trưng Giáo Hội, đang ở trên các đợt sóng. Thân cây lớn ở giữa là Thánh Giá có cánh buồn được kéo lên trên đó, có ghi chữ viết tắt IHS: Chúa Kitô Đấng Cứu Nhân. Cánh buồm có hình tròn mặt trời, gợi lại Thánh Thể.

Đầu tháng 9 tới đây sẽ có những tài liệu mục vụ giúp sống Năm Đức Tin dành cho các giáo xứ. (SD 21-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Lời cầu nguyện đem ánh sáng vào trong thế giới tối tăm

Lời cầu nguyện đem ánh sáng vào trong thế giới tối tăm

Lời cầu nguyện là kiểu làm quen ở với Thiên Chúa sinh ra các người nam nữ, được linh hoạt không phải bởi sự ích kỷ, ước muốn chiếm hữu, khát khao quyền bính, nhưng bởi sự nhưng không, bởi ước muốn yêu thương, khát khao phục vụ, nghĩa là được linh hoạt bởi Thiên Chúa. Và chỉ như thế mới có thể đem ánh sáng vào trong cái tối tăm của thế giới này.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 20-6-2012.

Các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu; từ Á châu như Indonesia, Nhật Bản, Pakistan và Philippines; từ Úc châu như Australia; và từ châu Mỹ Latinh như Honduras, Colombia, Argentina, Chile và Mexico và Brasil.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục các bài giáo lý về lời cầu nguyện trong thư của Thánh Phaolô. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin trợ giúp trong các nhu cầu cần thiết. Nó cũng thường tình đối với con người, bởi vì chúng ta cần trợ giúp, cần người khác, cần Thiên Chúa. Vì thế xin Thiên Chúa điều gì đó, tìm sự trợ giúp từ Thiên Chúa thật là bình thường. Và chúng ta phải chú ý rằng Kinh Lạy Cha, lời cầu Chúa dậy chúng ta, là một lời cầu xin, qua đó Chúa dạy chúng ta biết các ưu tiên của lời cầu nguyện. Nó rửa sạch, nó thanh tẩy các ước mong của chúng ta, và như thế nó rửa sạch và thanh tẩy con tim chúng ta. Vì thế nên nếu trong lời cầu nguyện chúng ta xin điều gì đó là chuyện bình thường, thì lời cầu nguyện không được duy nhất như thế, mà cũng phải là lời tạ ơn nữa. Nếu chú ý một chút, chúng ta thấy rằng chúng ta đã nhận đưởc biết bao nhiêu điều tốt lành từ Thiên Chúa. Người tốt lành với chúng ta tới độ cần phải cảm ơn Người. Lời cầu nguyện cũng còn phải là lời chúc tụng nữa. Nếu con tim chúng ta rộng mở, thì mặc dù có tất cả mọi vấn đề chúng ta cũng thấy cả vẻ đẹp của thụ tạo và sự tốt lành trong đó nữa. Vì vậy chúng ta không được xin mà thôi, mà cũng phải chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa nữa. Chỉ như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới đầy đủ. Trong các thư của thánh Phaolô có các lời cầu xin, nhưng cũng có các lời nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa vì những gì Người đã làm và thực hiện trong lịch sử nhân loại nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích lời cầu chúc tụng mở đầu chương 1 thư gửi tín hữu Êphêxô. Nó là một bài thánh thi chúc tụng, diễn tả lời cảm ơn và niềm vui. Thánh Phaolô chúc tụng Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, vì nơi Người Ngài đã làm cho chúng ta được ”biết mầu nhiệm ý muốn của Ngài” (Ep 1,9). Mầu nhiệm ”mysterion” là từ hay gặp trong Thánh Kinh và Phụng vụ. Đối với các tín hữu ”mầu nhiệm” không phải là cái không biết, cho bằng ý muốn xỏt thương của Thiên Chúa, chương trình tình yêu được biểu lộ nơi Chúa Giêsu Kitô, và cống hiến cho chúng ta khả năng hiểu biết cùng tất cả các thánh đâu là kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình yêu của Chúa Kitô” (Ep 3,18-10). Mầu nhiệm không được biết của Thiên Chúa đã được vén mở lên: đó là Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay từ đầu, từ đời đời.

Ở đây thánh Phaolô dùng từ ”euloghein” thường dịch từ do thái ”barak” tức là chúc tụng, vinh danh cảm tạ Thiên Chúa Cha như suối nguồn các ơn ích cứu độ, như là Đấng ”đã chúc phúc cho chúng ta với mọi phúc lành tinh thần trên trời nơi Chúa Kitô”. Và thánh Phaolô kể ra các lý do thúc đẩy thánh nhân chúc tụng Thiên Chúa. Trước hết là vì ”Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” (c. 4), rồi kêu gọi chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Từ đời đời chúng ta đã ở trong chương trình, trong tư tưởng của Người. Với ngôn sứ Giêrêmia chúng ta cũng có thể khẳng định rằng Chúa đã biết chúng ta trước khi tạo thành chúng ta trong dạ mẹ (Gr 1,5), và Người đã yêu thương chúng ta. Ơn gọi nên thánh, nghĩa là bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, thuộc chương trình đời đời của Chúa, một chương trình trải dài trong lịch sử và bao gồm mọi người nam nữ trên thế giới này, vì nó là một ơn gọi đại đồng. Thiên Chúa không loại trừ ai hết, chương trình của Người chỉ là tình yêu. Thánh Gioan Kim Khẩu khẳng định rằng: ”Chính Thiên Chúa đã khiến cho chúng ta nên thánh, nhưng chúng ta được mời gọi sống thánh thiện. Người thánh là người sống trong đức tin” (Omelie sulla Lettera agi Efesini, 1,1,4).

Một lý do khác nữa của lời chúc tụng đó là ”Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử của Người nhờ Đức Giêsu Kitô” (c.5). Thánh Phaolô nhấn mạnh sự nhưng không của chương trình tuyệt diệu Thiên Chúa có đối với nhận loại. Thiên Chúa là sự tốt lành, và Người muốn trải đài, thông truyền sự tốt lành ấy cho chúng ta để làm cho chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trung tâm lời cầu chúc tụng minh giải phương thế Thiên Chúa Cha thực hiện chương trình cứu độ nơi Đức Kitô Con yêu dấu của Người. Thánh Phaolô viết: ”Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” (c. 7). Hiến tế thập giá của Chúa Kitô là biến cố duy nhất không thể lập lại được, qua đó Thiên Chúa Cha đã cho thấy tình yêu của Người đối với chúng ta một cách sáng ngời, không phải chỉ trong lời nói mà một cách cụ thể. Thiên Chúa cụ thể và tình yêu của Người được cụ thể hóa tới độ bước vào trong lịch sử, làm người để cảm được nó là gì, sống trong thế giới thụ tạo này ra sao, và chấp nhận con đường khổ đau của cuộc khổ nạn bằng cách chịu chết. Tình yêu của Thiên Chúa cụ thể đến độ Người không chỉ chia sẻ kiếp người, mà chia sẻ cả khổ đau và cái chết của chúng ta nữa.

Hiến tế thập giá khiến cho chúng ta trở thành sở hữu của Thiên Chúa, bởi vì máu Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, rửa sạch chúng ta khỏi sự dữ, giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và cái chết. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta duyệt xét sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa đã biến đổi thánh nhân từ một người bách hại các kitô hữu trở thành Tông Đồ không mệt mỏi của Tin Mừng. Và không gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu ấy (Rm 8,31-32-38-39).

Sau cùng lời cầu chúc tụng kết thúc với việc nêu bật vai trò của Chúa Thánh Thần, đã được đổ tràn đầy trong tim chúng ta. Người là dấu ấn ”là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (c. 14). Kitô hữu vẫn còn đang bước đi trên con đường hướng tới ơn cứu độ vĩnh viễn, hướng tới sự giải thoát tràn đầy của các con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ thành toàn chương trình cứu độ của Người, khi Người sẽ ”quy tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền thủ lãnh là Đức Kitô” (c. 10).

Đức Thánh Cha tón tắt sứ điệp thần học của bài thánh thi như sau:
Viễn tượng mà thánh Phaolô trình bầy với chúng ta trong lời cầu chúc tụng vĩ đại này đã dẫn chúng ta chiêm ngưỡng hành động của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh: Chúa Cha đã chọn chúng ta, trước khi tạo thành vũ trụ Người đã nghĩ tới và yêu thương chúng ta; Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta qua máu của Người, và Chúa Thánh Thần là bảo chứng ơn cứu độ của chúng ta và của vinh quang tương lai. Trong lời cầu nguyện chúng ta rộng mở cho sự chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại là chương trình tình yêu của Thiên Chúa trong lịch sử loài người, trong lịch sử cá nhân của chúng ta. Trong lời cầu nguyện liên lỉ, trong tương quan hàng ngày của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta cũng học biết như thánh Phaolô, nhận ra ngày càng rõ ràng hơn các dấu chỉ của chương trình và hoạt động ấy, trong vẻ đẹp của Đấng Tạo Hóa nổi bật lên từ các thụ tạo của Người…

Trong lời cầu nguyện chúng ta học biết trông thấy các dấu chỉ của chương trình thương xót ấy trên con đường của Giáo Hội, và như thế chúng ta lớn lên trong tình yêu của Thiên Chúa và rộng mở cho Thiên Chúa Ba Ngôi…

Đừc Thánh Cha đã kết thúc bài huấn dụ như sau:

Lời cầu nguyện như kiểu làm quen ở với Thiên Chúa sinh ra các người nam nữ, được linh hoạt không phải bởi sự ích kỷ, ước muốn chiếm hữu, khát khao quyền bính, nhưng bởi sự nhưng không, bởi ước muốn yêu thương, khát khao phục vụ, nghĩa là được linh hoạt bởi Thiên Chúa. Và chỉ như thế mới có thể đem ánh sáng vào trong cái tối tăm của thế giới này.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Đồ Đào Nha, Ba Lan, Croatia, Tiệp Khắc, Slovac và Hung Gia Lợi. Trong tiếng Ý ngài chào tín hữu giáo phận Saluzzo do Đức Cha Giuseppe Guerrini hướng dẫn về Roma hành hương nhân dịp mừng kỷ niện 500 thành lập giáo phận; các trẻ em mới rước lễ lần đầu của giáo phận Castellaneta; các thành viên gia đình đại kết Taddeide và cám ơn họ đã tặng ngài một qủa chuông.

Ngỏ lời với giới trẻ các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi nhớ tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài khuyến khích các bạn trẻ hãy tập yêu mến theo trường học của Thánh Tâm Chúa. Ngài xin các anh chị em đau yếu kết hiệp khổ đau của họ với khổ đau của Con Thiên Chúa, và nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới kín múc nơi suối nguồn tình yêu trong khi bắt đầu xây dựng cuộc sống chung của họ.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt bạo lực khủng bố tại Nigeria

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt bạo lực khủng bố tại Nigeria

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi chấm dứt khủng bố và bạo lực tại Nigeria.

Ngỏ lời với các tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 20-6-2012, ĐTC nói: ”Tôi rất lo âu theo dõi các tin tức đến từ Nigeria, nơi đây vẫn tiếp tục những cuộc tấn công khủng bố, chủ yếu nhắm chống lại các tín hữu Kitô. Trong khi tôi dâng lời cầu nguyện cho các nạn nhân và những người đang chịu đau khổ, tôi kêu gọi những người trách nhiệm gây ra bạo lực, hãy ngưng tức khắc cuộc đổ máu bao nhiêu người vô tội. Ngoài ra, tôi cầu mong có sự cộng tác trọn vẹn giữa tất cả các thành phần xã hội ở Nigeria, để khỏi theo đuổi con đường trả thù, nhưng mọi công dân cộng tác vào việc xây dựng một xã hội an bình và hòa giải, trong đó quyền tự do tuyên xưng niềm tin của mình được bảo vệ trọn vẹn”.

Các vụ khủng bố mới nhất chống lại các thánh đường Kitô xảy ra hôm Chúa nhật 17-6 vừa qua, tại 3 nhà thờ Kitô giáo ở bang Kaduna, làm cho 45 người thiệt mạng và 150 người bị thương. Trong số những người bị thiệt mạng, có những người llà nạn nhân của các vụ trả đũa sau đó của các thanh niên Kitô ở miền nam Nigeria. (SD 20-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

VATICAN. Sáng 19-6-2012, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã mở cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh để giới thiệu Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 7 đến 28-10 năm nay về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”.

Tài liệu làm việc dài lối 80 trang, được ấn hành bằng các thứ tiếng la tinh, Ý, Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha và Ba Lan. Văn kiện được dùng làm căn bản cho các cuộc thảo luận tại công nghị các GM thế giới.
Hiện diện tại cuộc họp báo cũng có Đức Ông Fortunato Frezza, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM.

Tài liệu Làm việc được soạn thảo dựa trên các bản trả lời từ các nơi trên thế giới gửi về, theo 71 câu hỏi gợi ý trình bày trong Tài liệu Đề cương, (Lineamenta) công bố hồi tháng 2 năm ngoái.

Đức TGM Eterovic người Croát nói: ”Dưới sự hướng dẫn của ĐTC Biển Đức 16 là chủ tịch của Thượng HĐGM, các đại diện hàng GM toàn thế giới, trong một bầu không khí cầu nguyện, đối thoại và hiệp thông huynh đệ, sẽ suy tư về việc thông truyền đức tin Kitô. Đây là một trong những thách đố lớn của Giáo Hội, được đào sâu trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng. Vì thế hai khía cạnh của đề tài Thượng HĐGM có liên hệ mật thiết với nhau và bổ túc cho nhau. Mục đích việc tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin Kitô. Nghĩa vụ cấp thiết thông truyền cho các thế hệ trẻ Tin Mừng của Chúa Kitô – không làm gián đoạn tiến trình thông truyền đức tin – được diễn ra trong lãnh vực tái truyền giảng Tin Mừng”.

Suy tư của Thượng HĐGM được phong phú hơn nữa nhờ liên hệ với Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11-10 năm nay, trong lúc tiến hành Thượng HĐGM, theo quyết định của ĐTC qua Tông thư Tự Sắc ”Cánh cửa đức tin” (Porte fidei), nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và kỷ niệm 20 năm công bố sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc, là chương trình nghị sự của Thượng HĐGM, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc chuẩn bị công nghị. Đây là kết quả các bản trả lời tài liệu đề cương, một văn kiện suy tư về chủ đề của Thượng HĐGM được công bố ngày 2-2-2011. Tài liệu Đề cương đó đã được gửi tới 13 Công nghị các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương tự quản, 114 HĐGM, 26 cơ quan trung ương Tòa Thánh và Hiệp hội các Bề trên tổng quyền dòng nam. Tất cả các cơ quan này đã gửi bản trả lời góp ý về Văn phòng Tổng thư ký Thượng. Văn phòng này cũng nhận được đóng góp của một số tổ chức và cá nhân tín hữu. Với sự trợ giúp của Hội đồng của Thượng HĐGM, Văn phòng Tổng thư ký cùng với một số chuyên gia đã soạn ra Tài liệu làm việc này. Đặc biệt cũng cần phải nói đến sự đóng góp của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Cấu trúc Tài Liệu Làm Việc

Trong Văn kiện này, ngoài lời tựa, nhập đề và kết luận Tài liệu được chia làm 4 chương lần lượt bàn về: Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người (I), Thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng (II), tiếp đến là ”Thông truyền đức tin” và chương sau cùng là ”Khơi dậy hoạt động mục vụ”.

Trong phần nhập đ có trình bày về cơ cấu Tài liệu làm việc, giải thích ý nghĩa chủ đề Thượng HĐGM kỳ thứ 13, những điểm tham chiếu và những mong đợi từ phía các Giáo Hội địa phương, theo những bản trả lời được gửi về Roma.
Qua việc ấn định Năm Đức Tin, ĐTC Biển Đức 16 nhấn mạnh tầm quan trọng của Công đồng chung Vatican 2 đối với đời sống của Giáo Hội và công việc của Công nghị GM sắp tới. Vì thế, phần nhập đề cũng nêu bật tầm quan trọng của các Văn kiện Công đồng, được coi là điểm tham chiếu cho các GM Roma trong việc áp dụng các hướng đi và chỉ dẫn trong các thập niên sau đó, và rồi được cô đọng trong Sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc thường nhắc đến Tông huấn của Đức Phaolô 6 về việc truyền giảng Tin Mừng (Evangelii nuntiandi), những giáo huấn của Chân phước Gioan Phaolô 2, và đặc biệt là Thông Điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc” (Redemptoris missio) và Tông thư ”Ngàn năm mới đang tới” (Novo millennio inneunte). Văn kiện cũng trích dẫn nhiều tuyên bố của ĐTC Biển Đức 16, nhất là Tông thư ”Cánh cửa đức tin” (Porta fidei) và nhấn mạnh đến sự giải thích việc cải tổ, canh tân trong sự liên tục, khi đọc và đón nhận Công đồng, về Công đồng thực sự trở thành ”Một sức mạnh lớn lao cho sự canh tân luôn luôn cần thiết của Giáo Hội” (N.14).
Qua các câu trả lời của hàng GM, người ta thấy có những mong đợi Thượng HĐGM này mang lại những nghị lực mới cho các cộng đoàn Kitô và cống hiến những câu trả lời cụ thể cho những vấn nạn về việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới ngày nay. Người ta cảm thấy cần có những phương thế mới và những kiểu diễn tả mới để làm cho Lời Chúa dễ hiểu trong các môi trường sống của con người ngày nay. Thượng HĐGM phải là cơ hội để đối chiếu và chia sẻ cũng như phân tích và trình bày những mẫu gương hoạt động để giới thiệu cho nhau, với mục đích khích lệ các vị Mục Tử và các Giáo Hội địa phương. Các bản trả lời mong ước rằng công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng giúp tái khám niềm vui đức tin và giúp tìm lại niềm hăng say phấn khỏi trong việc thông truyền đức tin.

Chương thứ I của Tài liệu làm việc mang tựa đề ”Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người”.
Đón nhận những đề nghị trong nhiều bản trả lời, Tài liệu làm việc tái khẳng định nòng cốt đức tin Kitô mà nhiều tín hữu không biết tới. Đồng thời Tài liệu trình bày Tin Mừng của Chúa Kitô cũng là Tin mừng cho con người thời nay.
Tài liệu tái khẳng định ơn gọi nền tảng của Giáo Hội là loan báo cho con người Tin Mừng đã nhận lãnh và đang sống. Đức tin Kitô trước tiên là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Giêsu trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, là hoạt động của Chúa Thánh Linh, biến đổi cuộc sống của các tín hữu, làm cho họ được tham gia đời sống thần linh. ”Đối với Chúa Giêsu, việc rao giảng Tin Mừng nhắm mục đích đưa con người vào trong liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh” (N.22). Việc rao giảng Tin Mừng tự nhiên dẫn con người đến kinh nghiệm hoán cải, là giai đoạn không thể thiếu được trên con đường nên thánh. ”Giáo Hội loan báo và thông truyền đức tin, bắt chước hoạt động của chính Thiên Chúa, Đấng thông ban chính mình cho nhân loại bằng cách trao ban Con của Ngài, đổ tràn Thánh Linh trên con người để tái sinh họ như con cái Thiên Chúa” (N.36)

Chương thứ hai của Tài Liệu Làm Việc bàn về thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng, cụ thể là những thách đố hiện nay được đề ra cho việc rao giảng Tin Mừng. Chương này cũng mô tả việc tái truyền giảng Tin Mừng.
Việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, vẫn luôn giống nhau, nhưng ngày nay đang phải đương đầu với một số hoàn cảnh xã hội mới mẻ, gọi hỏi Giáo Hội và đòi Giáo Hội những câu trả lời thích hợp để nêu rõ lý do tại sao Giáo Hội hy vọng (Xc 1 Pr 3,15). Đây là những thách đố mới mẻ đối với công cuộc rao giảng Tin Mừng trong thế giới hiện nay, được mô tả qua những bối cảnh khác nhau.

Giáo Hội được kêu gọi phân định trong những bối cảnh ấy “để biến chúng thành những nơi loan báo Tin Mừng và cảm nghiệm về Giáo Hội” (N.51). Những bối cảnh ấy đã được trình bày trong Tài liệu đề cương, Lineamenta, nhưng câu trả lời của hàng GM đã góp phần làm cho chúng được diễn tả đầy đủ hơn. Đó là những bối cảnh khác nhau về văn hóa bị tục hóa, hiện tượng di dân, kinh tế, chính trị, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trong đời sống của các Giáo Hội địa phương, người ta cũng nói đến những bối cảnh về truyền thông và tôn giáo. Nhiều bản trả lời nêu bật tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là nền văn hóa truyền thông và kỹ thuật số để phổ biến Tin Mừng. Về bối cảnh tôn giáo, người ta đào sâu cuộc đối thoại đại kết và liên tôn. Cảm tạ Chúa Quan phòng, vì có nhiều tiến bộ quan trọng trong cuộc đối thoại của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội và cộng đồng Kitô khác, nhưng người ta cũng nói đến những chướng ngại, kể cả trong thời gian gần đây trên con đường do Chúa Giêsu đề ra trong lời nguyện của Ngài ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21).. Về việc đối thoại liên tôn, Tài liệu nhấn mạnh tính chất thời sự của cuộc đối thoại với Hồi giáo và các tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhắc đến những khía cạnh tích cực, nhưng không quên những khó khăn, nhất là tại những nước trong đó các tín hữu Kitô chỉ là thiểu số.

Thông điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc”, ở đoạn số 33, đã tìm cách nêu rõ đặc tính của việc tái truyền giảng Tin Mừng. Về vấn đề này, thông điệp phân biệt việc rao giảng Tin Mừng nói chung, như hoạt động trường kỳ của Giáo Hội mà thời nay phải được đổi mới và sinh động hơn; rồi thông điệp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc việc giáo cho dân ngoại, nghĩa vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô cho những ngừơi chưa nhận biết Ngài, và sau cùng Thông điệp nói về việc tái truyền giảng Tin Mừng cho những người đã được rửa tội, nhưng không được rao giảng Tin Mừng đầy đủ và cho những người xa lìa Giáo Hội, không thực hành đạo nữa. Sự phân biệt như thế được Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Phi châu Africae munus lấy lại. Việc phân biệt này cũng được nhắc đến trong Văn kiện đạo lý về một số khía cạnh của việc rao giảng Tin Mừng do Bộ giáo lý đức tin công bố ngày 3-12-2007. Cả Tài liệu làm việc này cũng lấy lại quan niệm về 3 lớp trong tiến trình duy nhất của việc truyền giảng Tin Mừng: 3 khía cạch quyện vào nhau và bổ túc cho nhau (Lời tựa NN.85-8).

Trong công trình tái truyền giảng Tin Mừng, người ta mong ước một sự canh tân mục vụ thông thường trong các Giáo Hội địa phương, đồng thời cầu mong có một sự nhạy cảm mới mẻ, đòi hỏi một tinh thần sáng tạo và táo bạo theo tinh thần Tin Mừng, đối với những người đã xa lìa Giáo Hội. Trong tiến trình này, một chỗ đứng đặc biệt được dành cho các giáo xứ, ”được coi là cánh cửa sâu rộng nhất dẫn vào đức tin Kitô và kinh nghiệm về Giáo Hội” (N.81). Giáo xứ phải trở thành trung tâm lan tỏa truyền giáo và chứng tá về kinh nghiệm Kitô, cả khả năng đón nhận những người có những nhu cầu về tinh thần và vật chất. Để thực hiện được điều này, mọi phần tử của Dân Chúa đều có trách nhiệm và nhất là các linh mục. Về vấn đề này, hầu hết các câu trả lời đều nói đến tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và đời sống thánh thiên, và yêu cầu một nền mục vụ vững mạnh về ơn gọi.

Chương thứ ba của Tài liệu làm việc bàn về việc thông truyền đức tin: Mục đích của công trình tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin. Giáo Hội thông truyền đức tin mà chính mình đang sống. Tất cả các tín hữu Kitô đều được kêu gọi góp phần vào công trình này.

Chương th mang tựa đề: Khơi dậy hoạt động mục vụ: Việc thông truyền đức tin trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng tái đề nghị những phương thế đã chín mùi trong Truyền thống và đặc biệt là trong việc rao giảng đầu tiên, việc khai tâm Kitô giáo và giáo dục, tìm cách thích ứng chúng với những hoàn cảnh văn hóa và xã hội ngày nay.
Trong Phần kết luận: Tài liệu làm việc khẳng định rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng phải cổ võ một đà tiến tông đồ mới mẻ, thành quả của một Lễ Hiện Xuống mới, làm cho hoạt động truyền giảng Tin Mừng thông thường của Giáo Hội trở nên năng động hơn, có khả năng thu hút cả những người đã xa lìa Giáo Hội và mang lại một động lực mới cho việc truyền giáo cho dân ngoại.

Tài liệu tái đề cao tầm quan trọng của Thánh Linh đối với công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Việc truyền giáo đầu tiên đã khởi sự vào ngày Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Các Tông đồ đã nhận Thánh Linh trong lúc hội họp cầu nguyện tại Nhà Tiệc Ly với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô. Từ lúc đó, Mẹ Maria, Đấng đầy ơn phúc (Lc 1,28), hiện diện trên mọi nẻo đường truyền giáo, kể cả thời nay khi Giáo Hội cầu xin một lễ Hiện Xuống mới. Vì thế, Mẹ Thiên Chúa được kêu cầu với danh hiệu ”Ngôi Sao hướng dẫn công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng”.
Tái truyền giảng Tin Mừng không có nghĩa là ”Tin Mừng mới” vì Chúa Giêsu vẫn là một, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13,8) (N.164). Theo lời Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, truyền giáo mới hay tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”khơi dậy trong chúng ta đà tiến của thời kỳ đầu, để cho chúng ta được tràn ngập lòng nhiệt thành rao giảng của các tông đồ sau lễ Hiện Xuống” (Ngàn năm mới đang đến 40 in N.165). Tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”nêu lý do tại sao chúng ta tin, thông truyền Lời Hy vọng cho thế giới đang khao khát ơn cứu độ” (N. 167). Trong hành trình ấy cần tái khởi hành từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang lại hy vọng và ban an vui cho những người rao giảng Tin Mừng để, với lòng nhiệt thành, được đổi mới và không chút sợ hãi, họ loan báo cho toàn thế giới Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa” để loài người tin” (N. 169)

Một vài ý tưởng nổi bật trong Tài Liệu làm việc:

Văn kiện phác họa một khung cảnh có phần ”đen tối” vì khủng hoảng đức tin tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, tuy cũng có những dấu hiệu khích lệ cho tương lai.
Trong số các vấn đề được tài liệu nói tới có cả hiện tượng bàn giấy thái quá của Giáo Hội tại một số nơi, hiện tượng tục hóa, cử hành các nghi lễ phụng vụ vì thói quen. Chúng cản trở việc rao giảng Tin Mừng. Văn kiện chào mừng sự triển nở của các nhóm canh tân trong Thánh Linh, khuyến khích sử dụng các phương tiện truyền thông mới.
– Sự bội giáo âm thầm: nhiều tín hữu Công Giáo không thực hành đạo nữa. Đó thực là một sự ”bội giáo thầm lặng” thực sự (n.69)
– Bệnh bàn giấy: Một sự bàn giấy hóa thái quá trong các cơ cấu của Giáo hội là điều đáng trách, các cơ cấu này bị coi như xa lạ với người thường và các mối quan tâm hiện sinh của họ (69)
– Các giáo lý viên: là những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Tin Mừng không thể thay thế được, họ là lực lượng căn bản của các cộng đồng Kitô. Thượng HĐGM phải đặt câu hỏi xem có thể biến công việc của giáo lý viên thành một thừa tác vụ bền vững và được thiết lập trong Giáo hội hay không (108).
– Canh tân trong Thánh Linh: trong những thập niên gần đây có sự triển nở các nhóm và phong trào dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng. Đây thực là một hồng ân của Chúa Quan Phòng cho Giáo Hội (115)
– Giáo Hội học: Hơn một Giáo Hội địa phương xin Thượng Hội đồng GM kiểm chứng xem việc truyền giảng Tin Mừng ngày nay và việc huấn giáo không có kết quả, phải chăng trước tiên đó là một vấn đề Giáo hội học và tu đức? Người ta suy tư về khả năng của Giáo Hội thiết lập cơ cấu của mình thành một cộng đồng đích thực, trong tình huynh đệ thực sự, như một thân thể chứ không phải như một xí nghiệp (39)
– Các Giáo Hội bị bách hại: chứng tá đức tin, sự kiên trì, khả năng kháng cự, niềm hy vọng vững chắc, trực giác của họ về một số phương thức mục vụ là một hồng ân cần được chia sẻ với những cộng đoàn Kitô, tuy đã có những quá khứ vinh hiển, nhưng đang sống hiện tại với nhiều khó khăn và bị phân tán (75)
– Phụng vụ: nhiều người lấy làm tiếc vì các buổi cử hành phụng vụ hình thức và những lễ nghi lập đi lập lại hầu như vì thói quen, không có cảm nghiệm tinh thần sâu xa, làm cho người ta xa lìa thay vì thu hút họ (69)
– Gương mù: ngoài sự phản chứng của một số thành phần Giáo Hội (bất trung với ơn gọi, gương xấu, ít nhạy cảm đối với các vấn đề của con người ngày nay và thế giới hiện đại, không nên coi nhẹ mầu nhiệm sự ác (mysterium iniquitatis) (69)
– Những chướng ngại bên trong cản trở việc thông truyền đức tin hầu như giống nhau tại các nơi. Đó là những chướng ngại ở bên trong Giáo Hội, trong đời sống Kitô: một đức tin được sống riêng tư và thụ động; không cảm thấy nhu cầu giáo dục chính đức tin của mình; tách biệt đức tin khỏi cuộc sống (95)
– Những chướng ngại bên ngoài: trào lưu duy tiêu thụ và duy khoái lạc; chủ thuyết hư vô về văn hóa; thái độ khép kín đối với siêu việt làm cho người ta không còn khao khát ơn cứu độ (95)
– Các LM: Văn kiện tố giác tình trạng thiếu linh mục, vì thế số ít linh mục không thể đảm nhận một cách thanh thản và hữu hiệu việc điều hành sự biến đối cách thế hiện hữu của Giáo Hội (84)…
– Giáo Phái: Một số bản trả lời yêu cầu cảnh giác để các cộng đoàn Kitô không bị ảnh hưởng do các hình thức mới về kinh nghiệm tôn giáo, lẫn lộn lối rao giảng của Kitô giáo với cám dỗ bắt chước những nhóm giáo phái chiêu dụ tín đồ một cách gây hấn.
– Tục hóa: trong những năm gần đây, không cón những hình thức công khai của các diễn văn trực tiếp và mạnh mẽ chống lại Thiên Chúa, tôn giáo và Kitô giáo, tuy rằng trong một số trường hợp, những giọng điều bài Kitô, bài tôn giáo và bài giáo sĩ vẫn còn vang vọng gần đây (52)

G. Trần Đức Anh OP
 

Công Đồng Chung Vatican II là biến cố rộng mở cho Thánh Kinh

Công Đồng Chung Vatican II là biến cố rộng mở cho Thánh Kinh

Một số nhận định của Đức Hồng Y Albert Vanhoye

Cách đây 50 năm ngày 11 tháng 10 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chủ sự thánh lễ trọng thể khai mạc Công Đồng Chung Vaticăng II tại đền thờ Thánh Phêrô. Sau khi Đức Gioan XXIII qua đời, Đức Phaolô VI đã tiếp tục công viêc và chủ tế thánh lễ kềt thúc Công Đồng ngày 7 tháng 12 năm 1965.

Đã có 2.540 Nghị phụ tham dự Công Đồng, trong đó có 1.041 vị Âu châu, 956 vị Mỹ châu, 30 vị Á châu, 379 vị Phi châu. Công Đồng đã công bố 4 Hiến chế tín lý về Giáo Hội ”Lumen Gentium”; về tương quan giữa Giáo Hội và thế giới ”Gaudium et Spes”; về Mạc khải ”Dei Verbum”; về Phụng vụ ”Sacrosanctum Concilium”. Bên cạnh đó là 9 Sắc Lệnh: về các Giám Mục ”Christus Dominus”; về đời sống tu trì ”Perfectae Caritatis”; về việc đào tạo các linh mục ”Optatam Totius”; về các Giáo Hội công giáo Đông Phương ”Orientalium Ecclesiarum”; về Đại kết ”Unitatis Redintegratio”; về việc tông đồ giáo dân “Apostolicam Actuositatem”; về việc Truyền giáo ”Ad Gentes”; về đời sống Linh Mục ”Presbyterorum Ordinis”; về Truyền thông xã hội ”Inter Mirifica”. Sau cùng là ba Tuyên ngôn về Giáo Hội và các anh chị em không kitô ”Nostra Aetate”; về tự do tôn giáo “Dignitatis Humanae”; và về việc giáo dục kitô ”Gravissimum Educationis”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Albert Vanhoye, chuyên viên chú giải thánh kinh tân ước, về một vài kỷ niệm liên quan tới biến cố này. Đức Hồng Y Vanhoye đã không phải là người trực tiếp tham dự Công Đồng, nhưng đã sống các năm họp Công Đồng như là chứng nhân.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Vanhoye, thời khai khai mạc Công Đng Chung Vatican II cách đây 50 năm, tuy không phải là chuyên viên trực tiếp tham dự, nhưng chắc chắn Đức Hồng Y đã có nhiều kỷ niệm liên quan tới biến cố này?

Đáp: Vâng, như là các chuyên viên kinh thánh, chúng tôi đã chỉ có một âu lo duy nhất: đó là làm sao để cho Công Đồng được thành công. Trong một nghĩa nào đó, tôi đã sống trong ”trận bão” của Công Đồng, bởi vì năm 1963 tôi phải đảm nhận chức giáo sư Thánh Kinh Tân Ước thay thế cha Stanislao Lyonnet, bị cách chức không được dạy học nữa. Trong quyết định cách chức cha có sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và cha Giovan Battista Janssens, Bề trên tổng quyền dòng Tên. Đó là các năm xảy ra cuộc tranh luận gay go với Đại học giáo hoàng Laterano, và đặc biệt là với Đức Ông Antonio Piolanti: họ tố cáo chúng tôi tại Học Viện Thánh Kinh Roma, cách riêng cha Lynonnet, là đã không giảng dậy đạo lý đúng đắn trong lãnh vực Thánh Kinh, và chắc hẳn là họ khó chịu vì sự kiện Học viện Thánh Kinh nổi tiếng và độc quyền trong lãnh vực Thánh Kinh hồi đó.

Hỏi: Việc loại bỏ cha Lyonnet khỏi ghế dậy thánh Kinh Tân Ước tại Học Viện Thánh Kinh có khiến cho cha Lyonnet đau kh không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Người anh em của tôi có bản chất lạc quan; cha đã xác tín rằng Công Đồng Chung sẽ mở ra các con đường mới. Tôi vẫn còn nhớ mãi điều cha nói: ”Mà, Đức Thánh Cha có biết bao nhiêu chuyện phải lo lắng với Công Đồng! Đối với tôi thì đây sẽ là dịp để nói về Công Đồng với các Giám Mục, chứ không phải với các sinh viên của Học Viện”. Tuy cha Lyonnet không phải là chuyên viên tham dự Công Đồng Chung Vatican II, nhưng ngài thường được các Nghị Phụ tham khảo ý kiến, đặc biệt là các nghị phụ người Pháp. Và cha đã sống các năm này trong tinh thần phục vụ rất cao.

Hỏi: Các lưc đồ do Ủy ban chuẩn bị cũng như các công việc của phân bộ một của Tòa Thánh đã không báo trước một Công Đồng tạo ra một sự thay đổi trong Giáo Hội, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng, đúng như vậy. Thánh Bộ đã chuẩn bị các lược đồ và tất cả xem ra đã sẵn sàng, đã được chế tạo và gói sẵn. Thế rồi bài phát biểu của Đức Hồng Y Achille Lienart đã trấn an các nghị phụ, và từ đó trở đi bầu khí đã thực sự thay đổi: các lược đồ của Thánh Bộ dọn sẵn đã không được chấp thuận, và từ đó nảy sinh ra một cuộc cách mạng trao ban cho Công Đồng một khởi đầu mới. Theo tôi, đã xảy ra sự ”đụng độ” đích thật giữa các vị chủ trương canh tân và các vị mang tiếng là bảo thủ, trong phiên họp thứ nhất của Công Đồng liên quan tới đề tài các đặc sủng. Một đàng có thuyết của Đức Hồng Y Siri, cho rằng các ơn đặc sủng hiếm có trong Giáo Hội; đàng khác Đức Hồng Y Leon Joseph Suenens, Tổng Giám Mục Bruxelles, trái lại, cho rằng các đặc sủng là các ơn rất thường xảy ra trong Giáo Hội; chẳng hạn như đặc sủng thực thi bác ái đối với các bệnh nhân hay trong việc giảng dậy giáo lý. Nỗi lo lắng lớn của các nghị phụ đã là sự kiện Giáo Hội phải canh chừng việc sử dụng đúng đắn các đặc sủng. Tôi nhớ là các cuộc thảo luận đã rất là gay cấn, và dưa ra ánh sáng các kiểu giải thích kinh thánh khác biệt nhau rất lớn giữa hai khuynh hướng.

Hỏi: Trong các năm đó, cha Henri de Lubac cũng đã trọ tại Học Viện Thánh Kinh Roma. Đức Hồng Y đã có kỷ niệm gì về người?

Đáp: Tôi nhớ cha De Lubac là một người đặc biệt ngoại thường và có đức tin rất mạnh mẽ. Tôi nhớ tới biết bao nhiêu bữa ăn trưa trong nhà ăn của Học Viện Thánh Kinh, cha De Lubac nói chuyện lâu với cha Lyonnet, là bạn học của nhau ở Fourvière. Nhưng khác với cha Lynonnet, cha de Lubac rất kín đáo liên quan tới công việc của Công Đồng, rất ít kể chuyện và luôn lo lắng cho sự thành công của Công Đồng: tôi nghĩ là cha lo sợ Công Đồng bị phản bội, không đáp ứng được sự chờ mong của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI. Tính tình của ngài đôi khi cũng bi quan.

Hỏi: Nhưng mà đối với Học Viện Thánh Kinh Roma sự hiện diện của Đức Hồng Y Agostino Bea đã có ý nghĩa nào?

Đáp: Đức Hồng Y Bea đã là giáo sư của tôi tại Học Viện Thánh Kinh, và tôi phải nói rằng các tu sĩ dòng Tên chúng tôi đã rất hài lòng và hãnh diện vì vị cựu Viện trưởng của chúng tôi có vai trò quan trọng như thế trong Công Đồng Chung, và vì dấu vết người để lại trên các tài liệu như Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, và Sắc lệnh về đối thoại đại kết De Oecumenismo. Theo tôi Đức Hồng Y Bea đã là người được chuẩn bị cho vai trò đại sứ của sự hiệp nhất các tín hữu kitô và đối thoại với tín hữu Do thái, từ chính lịch sử cá nhân của người. Thật thế, người sinh ra gần vùng Blumberg thuộc bang Baden Wuertemberg, là vùng đất của Đức nơi cũng có tín hữu tin lành và tín hữu do thái sinh sống. Người qủa thật đã là con người của sự đối thoại.

Hỏi: Cũng trong cùng thời gian ấy Đức Hồng Y đã quen biết Đức Hồng Y Carlo Maria Martini. Đức Hồng Y nhớ gì về các kỷ niệm thời đó?

Đáp: Cả hai chúng tôi đều là chuyên viên kinh thánh, trong một nghĩa nào đó là những người bắt đầu vào nghề. Chúng tôi đã cùng sống các năm của Công Đồng với cùng sự rúng động, các chờ mong và niềm hy vọng là biến cố công đồng đem lại một làn gió mới trong Giáo Hội. Ngoài ra tôi lại là giáo sư của người, vì cha Martini còn thiếu tư cách pháp năng để là giáo sư dậy Thánh Kinh, nên trong một nghĩa nào đó, cha đã kết thúc tiến trình tập sự là chuyên viên kinh thánh với tôi: tôi đã tha cho cha Martini không phải theo các lớp học, bởi vì cha đã biết hết mọi sự. Và tôi đã chỉ xin cha viết một bài phê bình văn bản thôi.

Hỏi: Đối với Đức Hồng Y và các chuyên viên chú giải kinh thánh một tài liệu như Hiến chế tín lý về Lời Chúa Dei Verbum có ý nghĩa vì?

Đáp: Tôi xin phép xác định ngay một khía cạnh. Hiến Chế Dei Verbum bị coi lầm như là một tài liệu về Lời Chúa, trong khi trái lại nó liên quan tới việc mạc khải. Nhất là văn bản đã minh nhiên rằng Mặc Khải không chỉ bao gồm Thánh Kinh, mà cũng bao gồm cả việc thông truyền đức tin của Giáo Hội trong mầu nhiệm Chúa Kitô nữa. Các chuyên viên chú giải kinh thánh đánh gía rất cao sự kiện Công Đồng tiếp nhận điều Đức Giáo Hoàng Pio XII đã trình bầy trong Thông điệp ”Divino Afflante spiritu”, mà Đức Hồng Y tương lai Bea đã cộng tác vào việc soạn thảo, khi nhấn mạnh đến các văn thể. Việc nhấn mạnh ấy đã diễn tả một khúc rẽ đối với thế giới các nhà chú giải kinh thánh, bởi vì nó đã cống hiến cho họ một dụng cụ khác nữa giúp hiểu văn bản kinh thánh. Qua phương pháp đó, chuyên viên Thánh Kinh giải thích một văn bản với sự chính xác, nhưng có thể quy chiếu các văn thể để giúp hiểu ý nghĩa Lời Chúa một cách rõ ràng hơn, bằng cách lồng khung nó vào trong bối cảnh.

Hỏi: Như thế hiến chế Dei Verbum là một tài liệu có tầm quan trọng chính yếu, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng, đúng thế. Hiến chế này tuyên bố một cách rất rõ ràng rằng việc chú giải kinh thánh không trọn vẹn, nếu không chú ý tới toàn Mạc Khải, nếu không đọc và giải thích văn bản trong sự hiệp nhất với đức tin của Giáo Hội. Việc xác định này đã cho phép nhấn mạnh rằng các văn bản Thánh Kinh không phải là các tài liệu lịch sử trung lập, nhưng là các văn bản mang trong mình một sự Mạc Khải của Thiên Chúa, và vì thế chỉ nghiên cứu chúng như là các tài liệu của thời xa xưa không thôi, thì không đủ. Đây là một bài học và là một lời cảnh cáo rất thời sự đối với tất cả các nhà chú giải kinh thánh như chúng tôi.

Hỏi: Như thế đối với các chuyên viên kinh thánh, các tài liệu của Công Đng, đặc biệt là Hiến chế Dei Verbum, đã là một sang trang của phương pháp làm việc, có phải vậy không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Không thể nói tới việc sang trang. Đây đã chỉ là một xác nhận tầm quan trọng mà các nhà chú giải đã trình bày trong các nghiên cứu của họ liên quan tới phương pháp phê bình lịch sử và việc dùng các văn thể: tất cả những điều này đã cho phép nới rộng cái nhìn và chân trời nghiên cứu. Nó cũng cho phép các nhà chú giải công giáo giải thích Thánh Kinh một cách sâu xa, cặn kẽ và đầy đủ hơn. Nhưng bài học và đặc biệt là gợi ý đó là cần đi xa hơn các kết qủa của phương pháp phê bình lịch sử và đào sâu ý nghĩa tôn giáo của văn bản. Nó là một lời mời gọi không chỉ dừng lại trên các bối cảnh lịch sử và văn thể, trong đó một văn bản đã được biên soạn. Tôi tin rằng đây là di sản lớn nhất của Hiến chế Dei Verbum đối với các chuyên viên chú giải kinh thánh. Đây là điều đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nêu bật một cách mạnh mẽ.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã sống việc kết thúc Công Đng Chung như thế nào?

Đáp: Xem ra đã là việc kết thúc một biến cố rất phong phú. Công Đồng đã không thể được điễn tả trong tất cả mọi chuyện, nhưng đã cống hiến cho chúng ta các tài liệu soi sáng, sâu sắc, và kích thích. Điều mà tôi chờ mong đó là các tài liệu công đồng không chỉ được học hỏi nghiên cứu, mà cũng còn được sống nữa. Tôi xin gợi ý là việc giải thích Thánh Kinh cũng nên quy chiếu các tài liệu của Công Đồng. Năm mươi năm sau ngày khai mở Công Đồng, gia tài của Công Đồng chính là ở đây. Đây là một hướng đi được bảo đảm bởi uy tín của Công Đồng, được Chúa Thánh Thần hướng đẫn. Sau nửa thế kỷ chúng ta có thể trông thấy các hạn hẹp cũng như sự cao cả của biến cố quan phòng ấy đối với cuộc sống của Giáo Hội.

(Avvenire 12-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết người cựu giúp việc của ĐTC, Ông Paolo Gabriele, bị thẩm phán điều tra quyết định tiếp tục tạm giam để điều tra về vụ thất thoát tài liệu tại Tòa Thánh.

Trong cuộc họp báo hôm 18-6-2012, Cha Lombardi cũng cho biết tính đến ngày 16-6-2012, Ủy ban 3 Hồng y điều tra về những vụ thất thoát đã nghe 23 người, gồm cả các cấp trên lẫn nhân viên, giáo sĩ cũng như giáo dân tại Tòa Thánh, và cả những người không phải là nhân viên tại Vatican. Trong số những người đó có ông Gabriele. Bình quân, mỗi tuần Ủy ban nghe từ 4 đến 5 người.

Cha Lombardi mạnh mẽ bác bỏ tin của báo La Stampa, xuất bản tại Torino, cho rằng trong các cuộc hỏi cung hồi tuần trước, ông Gabriele đã tiết lộ tên của những người đồng phạm và những người sai ông lấy cắp tài liệu từ căn hộ của Đức Giáo Hoàng. Cha Lombardi nói: ”Đó thực là chuyện bịa đặt, giả thuyết vô căn cứ”.
Cha Lombardi tái kêu gọi giới báo chí hãy theo những sự kiện có thực của cuộc điều tra đang tiến hành và hiện giờ người ta chưa thể xác định bao giờ cuộc điều tra này sẽ chấm dứt. Thẩm phán điều tra chưa chấp nhận đơn của các luật sư xin cho ông Gabriele được quản thúc tại gia. ”Các cuộc thẩm vấn chính thức sẽ được mở lại trong thời gian tới đây”.

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo Công Giáo Famiglia Cristiana ở Roma, số ra ngày 21-6-2012 nhưng một phần được báo này phổ biến trước cho giới báo chí, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhận xét rằng trong vụ Vatileaks, một số ký giả đã theo gương tiểu thuyết gia Dan Brown (tác giả cuốn tiểu thuyết ”Bộ mật mã da Vinci” (Codice da Vinci), tưởng tượng ra những chuyện hoang đường và huyền thoại. ”Tất cả là giả tạo và sự thật là có một ý chí muốn chia rẽ đến từ ma quỉ. Sự đoàn kết chung quan ĐTC là điều căn bản, mang lại sức mạnh cho công việc của Giáo Hội”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Bertone cũng khẳng định rằng không có các Hồng y dính líu trong vụ này. Được hỏi về lời quả quyết này, cha Lombardi nói: ”Dĩ nhiên là ĐHY Quốc vụ khanh, giống như ĐGH đã làm, tái khẳng định sự tín nhiệm nơi các cộng sự viên thân cận nhất của Ngài. .. Tôi thấy trong cuộc phỏng vấn ĐHY Bertone, điều quan trọng là đào sâu quan hệ giữa tự do báo chí, tự do ngôn luận, và việc bảo vệ đời sống riêng tư của mỗi người. Nhiều khi người ta có cảm tưởng các thứ tự do ngôn luận và báo chí là quyền tự do tấn công, gây tổn thương cho người khác”.

G. Trần Đức Anh OP

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Trong hai ngày 1-2 tháng 6 vừa qua (2012) đại hội quốc tế về nạn đói và an ninh lương thực trên thế giới đã diễn ra tại Vienne, thủ đô nước Áo. Đại hội do Caritas Quốc Tế, Caritas Áo và Caritas Âu châu cùng tổ chức, với sự tham dự của 700 người gồm các đại diện Caritas quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, các đại diện chính quyến và các cơ cấu quốc tế đến từ khắp nơi trên thế giới. Mục đích đại hội là tìm ra các giải pháp toàn cầu lâu bền cho 1 tỷ người trên thế giới đang phải đau khổ vì bị đói. Trong số 35 thuyết trình viên thuộc 20 quốc gia khác nhau có ông Kofi Annan, nguyên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, hiện là đặc sứ của Liên Hiệp Quốc và Liên Minh A Rập tại Siria. Nhưng ông đã không thể tham dự đại hội và ông Tesafai Tecle, nguyên phó giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế FAO đã thuyết trình thay. Ngoài ra cũng có bài thuyết trình của Đức Hồng Y Oscar Rodriguez Maradiaga, chủ tịch Caritas Quốc Tế. Trong bài tham luận Đức Hồng Y khẳng định rằng ”Nạn đói trên thế giới không phải là một định mệnh, đó là một thảm kịch có thế tránh được”.

Sáng 14-6-2012 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp kiến ông José Graziano da Silva, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế viết tắt là FAO.

Thông cáo Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết cuộc hội kiến đã diễn ra trong tình thân hữu. Dấn thân của Tòa Thánh và Giáo Hội công giáo chống lại nạn đói và nghèo túng được đánh giá cao, nhất là tại Phi châu, và nhằm sửa chữa tình hình an ninh lương thực thế giới đang gây ra nhiều lo âu hiện nay. Hai bên cũng ghi nhận rằng mặc dù có đủ các tài nguyên để thỏa mãn các nhu cầu thực phẩm của toàn thế giới, vẫn còn có các chướng ngại thuộc trật tự quốc tế, xã hội và chính trị ngăn cản việc thỏa mãn các nhu cầu ấy. Tòa Thánh và tổ chức FAO cầu mong rằng lãnh vực nông nghiệp tái chiếm vai trò hàng đầu trong chiến lược phát triển và có được sự bảo đảm bình đẳng và hữu hiệu hơn trong việc điều hành hệ thống lương thực.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Thorfinnur Omarson thuộc tổ chức Caritas Âu châu về đại hội nói trên.

Hỏi: Thưa ông Omarson, ông có thể cho biết mục đích ca đại hội do Caritas quốc tế và Caritas Áo triệu tập tại thủ đô Vienne hi đầu tháng 6 này là gì không?

Đáp: Mục đích đại hội là để thông tin tức liên quan đến nạn đói trên thế giới. Như qúy vị đã biết, hiện nay trên thế giới có 1 tỷ người phải đau khổ vì nạn đói, trong khi một phần ba thực phẩm trên thế giới này bị phung phí. Vì thế đây là một hiện tượng toàn cầu cần phải đương đầu. Đây là một trong các yếu tố nền tảng của toàn công việc làm của tổ chức Caritas quốc tế và các Caritas quốc gia: đó là chiến đầu chống lại nạn nghèo đói.

Hỏi: Thưa ông, chúng ta hay nói về cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng có lẽ chúng ta quên nạn nghèo đói trên thế giới, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy, đó là điều chúng tôi cũng kinh nghiệm. Chẳng han như tại Bruxelles này, chúng tôi có các cuộc gặp gỡ để thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế, và tìm các giải pháp để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này, cũng như cải tiến việc phát triển kinh tế và các vấn đề liên hệ. Nhưng chúng tôi chắc chắn là việc gia tăng kinh tế sẽ không giải quyết được ngay lập tức vấn đề nạn đói. Còn có các xáo trộn khác cần phải đối phó, và vì thế chúng ta không được quên vấn đề nghiệm trọng này của nạn đói.

Hỏi: Thế theo ông chúng ta có thể làm gì bậy giờ?

Đáp: Qua đại hội này tổ chức Caritas đã đưa ra nhiều thỉnh cầu và đề nghị với những giới chức có nhiệm vụ phải lấy các quyết định trên bình diện toàn cầu, cũng như trên bình diện đại lục âu châu và trên bình diện quốc gia. Trước hết điều rất quan trọng là mỗi người phải thừa nhận quyền của mọi người có thực phẩm để nuôi thân. Đây là điều phải được thừa nhận và tôn trọng trên bình diện toàn cầu. Ngoài ra, cũng là điều quan trọng phải nâng đỡ sinh hoạt nông nghiệp và các gia đình nông dân. Chúng ta phải tránh việc giảm thực phẩm vì lý do khí hậu thay đổi, là vấn đề ngày càng nghiêm trọng hơn. Như vậy chúng ta phải đương đầu với rất nhiều vấn đề trong cùng một lúc.

Hỏi: Ông nghĩ gì về các lý do cơ cấu gây ra nạn nghèo đói trên thế giới này?

Đáp: Có nhiều lý do khác nhau. Tổ chức Caritas đã tiếp nhận điều tổ chức Lương Nông Quốc Tế đề ra liên quan tới các đường hướng về quyền sở hữu đất đai, để bảo đảm các quyền của người dân địa phương có đất đai và được che chở khỏi tệ nạn khai thác cho thuê đất canh tác, là tệ nạn hiện hữu tại nhiều vùng trên thế giới. Caritas yêu cầu có một cơ cấu trách nhiệm để theo dõi các vụ phản đối xảy ra trong lúc đưa ra quyết định về đất đai, làm sao để trong các trường hợp vi phạm, đất đai được giao trở lại cho các sở hữu chủ hợp pháp, theo luật lệ. Đây là một vấn đề xảy ra tại nhiều nước trên thế giới.

*** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Paolo Beccegato đặc trách Caritas Quốc Tế phân bộ Italia, và ông Giacomo Guerrera, chủ tịch UNICEF Italia.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh hiện nay cũng đang gây ra nhiều khó khăn cho các tổ chức nhân đạo quốc tế kể cả Caritas, và nó đè năng trên các dân tộc nghèo đói trên thế giới. Dân chúng không thiếu lòng quảng đại, nhưng tình hình kinh tế khó khăn khiến cho các đóng góp của họ cũng giảm sút nhiều.

Hỏi: Thưa ông Beccegato, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đang gy khó khăn cho cả các tổ chức bác ái quốc tế, có phải thế không?

Đáp: Vâng, nhìn vào tình hình thế giới và qua các trao đổi với các nhân viên Caritas khác, tôi có thể nói là đúng như thế. Lý do chính gắn liền với việc giảm tài trợ, nhất là từ phía các chính quyền và các tổ chức liên hệ. Vì thế dấu hiệu mà Caritas Quốc Tế và Caritas Âu châu nhận được trong các cuộc họp mới đây giữa hai bên là một tín hiệu gây âu lo. Bởi vì nhiều Caritas đặc biệt là của các nước Bắc Âu châu đã từng có thể bảo đảm cho việc tài trợ liên tục các dự án trên toàn thế giới, đang giảm thiểu các năng động từ nhiều năm nay của mình, vì trong lúc này các ngân qũy giảm khá nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần nói rằng tình liên đới từ hậu tầng giữa người dân với nhau gia tăng. Có lẽ vì họ cùng sống kinh nghiệm nghèo túng gia tăng và gần gũi với thực tại nên nhiều người cũng biết liên đới với nhau hơn. Đây là một dữ kiện tích cực về phẩm chất cần được nhắc tới.

Hỏi: Vậy thì đâu là các lãnh vực bị thiệt thòi nhiều nhất, thưa ông?

Đáp: Trên bình diện kinh tế thì chắc chắn đó là sự suy giảm các khoản thu nhập bình thường. Vì thế trong các trường hợp khẩn cấp, nhờ giới truyền thông, tình liên đới không thiếu trên tất cả mọi bình diện. Nhưng các tình trạng nghèo túng bình thường tại Italia, tại Âu châu và trên thế giới, nạn nghèo túng tột độ, các cảnh nghèo túng bị lãng quên… những người sống trong hoàn cảnh như thế càng ngày càng gặp khó khăn trong việc tài trợ, so sánh với điều xảy ra cách đây vài năm, đặc biệt là hồi năm 2008.

Hỏi: Thưa ông, hiện nay có nhiều tình trạng khẩn cấp tại Italia cũng như trên thế giới, đâu là nhng vùng đáng được chú ý trợ giúp nhiều hơn?

Đáp: Tình trạng khủng hoảng tại Italia và Âu châu đang gây ra khó khăn lớn. Các đơn xin trợ giúp được gửi tới các trung tâm lắng nghe của chúng tôi, tới các Caritas giáo phận và giáo xứ, cũng như mọi cơ cấu liên hệ gia tăng nhiều và liên quan tới cả người dân Ý, kể cả giới trẻ. Hầu hết là các đơn xin việc làm. Họ là những người rất có phẩm cách, mà chúng tôi không hề quen biết, và chúng tôi tìm cách can thiệp để giúp họ. Đây không phải là các trợ giúp bình thường.

Còn trên bình diện quốc tế thì có nạn đói trong vùng Sahel bên Phi châu, đặc biệt là tại các nước như Niger, Mali, Burkina Faso. Nhưng cũng có cả một vùng rộng lớn chạy dài từ Senegal cho tới Sudan nữa, với nạn hạn hán kéo dài gây ra cảnh mất mùa đói kém liên lụy đến 13 triệu dân trong vùng. Ngoài ra còn có các mặt trận khác nữa như các cuộc chiến bị lãng quên, các tình trạng khẩn cấp bị lãng quên… ít báo chí thế giới nói đên, nhưng các lời kêu cứu được gửi tới chúng tôi hàng ngày.

*** Tiếp theo đây là một vài nhận định của ông Giacomo Guerrera, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế.

Hỏi: Thưa ông Tng giám đốc, nghe nói tổ chức Lương Nông Quốc Tế đã phát động chiến dịch quyên góp cứu đói, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Chúng tôi đã phát động chiến dịch có khẩu hiệu là ”Chúng tôi muốn có số dêrô”: dêrô số trẻ em bị chết yểu. Hiện nay mỗi ngày có 22.000 trẻ em bị chết vì các thứ bệnh có thể chữa được. Chúng ta có thể làm được một cái gì đó cho các em. Chúng tôi đã phát động chiến dịch vì tin tưởng nơi lòng quảng đại của người dân Italia, đã luôn luôn tích cực tham gia vào các sáng kiến của chúng tôi. Họ có thể gửi một sứ điệp SMS vào số 45505 trên điệm thoai di động hay qua điện thoại thường. Chỉ đơn sơ như vậy thôi sẽ có hàng triệu trẻ em được cứu sống. Và chúng tôi đã gặt hái thánh công. Trong một thế hệ chúng tôi đã giảm được phân nửa số trẻ em bị chết yểu vì các tật bệnh thông thường.

Hỏi: Tổ chức Nhi Đồng Thế Giới UNICEF có cảm thấy bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế không thưa ông? Và đâu là các lãnh vực được tổ chức chú ý nhất hiện nay?

Đáp: Cũng như mọi tổ chức quốc tế khác UNICEF cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng như lý do thứ nhất. Nhưng cũng có các biến cố khác nữa xảy ra như động đất. Các trợ giúp cũng được hướng tới các nạn nhân này nữa.

Các vùng gây âu lo nhất là các nơi có ”các tình trạng khẩn cấp bị che giấu”. Khi mới xảy ra thì được giới truyền thông chú ý, rồi sau đó bị bỏ quên. Tôi có ý nói tới nạn đói vùng Sừng Phi châu, tại Sahel và Haiti cũng như tại Libia, nơi chúng tôi đã thành công trong việc gửi 1,2 triệu trẻ em tới trường trở lại. Nhưng còn có rất nhiều vấn đề liên quan tới các dân tộc bị cưỡng bách di cư sang các nước láng giềng nữa.

(RG 25-5-2012; RG 1-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Sứ điệp Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

Sứ đip Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

DUBLIN. Chiều chúa nhật 17-6-2012, Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp Video cho các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể quốc tế lần thứ 50 và loan báo Đại hội thứ 51 sẽ tiến hành tại thành phố Cebu, Philippines vào năm 2016.

Đại hội Thánh thể quốc tế lần thứ 50 đã kết thúc sau một tuần lễ tiến hành với chủ đề ”Thánh Thể: hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau”. Thánh Lễ bế mạc lúc 4 giờ chiều do ĐHY Đặc Sứ của ĐTC, Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM chủ sự, cùng với đông đảo các HY, GM và LM đến từ hơn 120 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu Ireland và nước ngoài.

Cuối thánh lễ, sứ điệp Video của ĐTC đã được công bố cho các tham dự viên:

Anh chị em thân mến,

Với lòng rất quí mến trong Chúa, tôi chào thăm tất cả anh chị em đang tụ họp tại Dublin dự Đại hội Thánh Thể Quốc tế thứ 50, đặc biệt là ĐHY Brady, Đức TGM Martin, hàng giáo sĩ, tu sĩ và các tín hữu Ireland, cũng như tất cả anh chị em đến từ nơi xa để hỗ trợ Giáo Hội tại Ireland bằng sự hiện diện và kinh nguyện.

Chủ đề Đại hội ”Hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta” đưa chúng ta suy tư về Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông với Chúa và với tất cả các chi thể của Thân Mình Ngài. Từ thời kỳ đầu tiên, ý niệm Koinonia hoặc hiệp thông đã ở trung tâm sự hiểu biết của Giáo Hội về chính mình, ở trung tâm quan hệ của Giáo Hội với Chúa Kitô là Đấng Sáng Lập và các bí tích mà Giáo Hội cử hành, trước hết là Thánh Thể. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào cái chết của Chúa Kitô, chúng ta tái sinh trong đại gia đình các anh chị em của Chúa Giêsu Kitô; nhờ bí tích Thêm Sức, chúng ta nhận ấn tích của Chúa Thánh Thần, và khi chia sẻ Thánh Thể, chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau một cách hữu hình trên trái đất này. Chúng ta cũng nhận được lời hứa đời sống vĩnh cửu mai hậu.

Ngoài ra, Đại hội diễn ra giữa lúc Giáo Hội trên toàn thế giới chuẩn bị cử hành Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, một biến cố khơi lên sự canh tân nghi lễ Roma một cách sâu rộng chưa từng có trước đây. Dựa trên sự quí chuộng ngày càng sâu đậm hơn đối với các nguồn mạch của phụng vụ, Công đồng đã cổ võ các tín hữu tham gia trọn vẹn và tích cực vào Hy tế Thánh Thể. Ngày nay, nhìn lại từ thời các nghị phụ Công đồng mong ước canh tân phụng vụ cho đến bây giờ, và dưới ánh sáng kinh nghiệm hoàn vũ của Giáo Hội trong thời kỳ sau đó, người ta thấy rõ kết quả thật là lớn lao, nhưng cũng có nhiều sự hiểu lầm và trục trặc. Sự canh tân những hình thức bên ngoài, mà các nghị phụ mong muốn, nhắm làm cho việc đi sâu vào mầu nhiệm được dễ dàng hơn. Mục đích đích thực của sự canh tân là dẫn đưa tín hữu đến cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa hiện diện trong Thánh Thể, và qua đó với Thiên Chúa hằng sống, đến độ nhờ sự tiếp xúc như thế với tình yêu Chúa Kitô, tình yêu thương giữa các anh chị em với nhau cũng có thể tăng trưởng. Nhưng nhiều khi việc duyệt lại các hình thức phụng vụ chỉ ở lại mức độ bên ngoài, và sự tham dự tích cực bị lu mờ với hoạt động bên ngoài như thế. Vì vậy, vẫn còn nhiều điều phải làm trên con đường canh tân đích thực về phụng vụ. Trong một thế giới đổi thay, ngày càng chú tâm tới vật chất, chúng ta phải học cách tái nhận ra sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa Phục Sinh, là Đấng duy nhất có thể ban hơi thở và chiều sâu xa cho đời sống chúng ta.

Thánh Thể là việc phụng tự của toàn thể Giáo Hội, nhưng cũng đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn của mỗi tín hữu Kitô trong sứ mạng của Giáo Hội; Thánh Thể chứa đựng một lời kêu gọi hãy trở nên dân thánh của Thiên Chúa, nhưng cũng kêu gọi mỗi người hãy nên thánh; Thánh Thể cần phải được cử hành với niềm vui lớn lao và đơn sơ, nhưng cũng phải tha thứ cho các anh chị em; Thánh Thể liên kết chúng ta với nhau trong Thánh Thần, những cũng truyền cho chúng ta, trong cùng Thánh Thần, hãy mang Tin Mừng cứu độ cho tha nhân.

Ngoài ra, Thánh Thể là lễ tưởng niệm Hy tế của Chúa Kitô trên thập giá, Mình và Máu Ngài được dâng hiến trong giao ước mới và vĩnh cửu để tha tội và biến đổi thế giới. Ireland qua bao thế kỷ đã được hình thành nhờ Thánh Thể ở bình diện sâu xa nhất và, nhờ sức mạnh và ơn thánh của Thánh Thể, bao thế hệ các đan sĩ, các vị tử đạo và thừa sai đã sống đức tin một cách anh dũng nơi quê hương của mình và thông truyền Tin Mừng tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa vượt lên trên các biên cương của anh chị em. Anh chị em là những người thừa kế của một Giáo Hội đã từng là năng lực mạnh mẽ của sự thiện trong thế giới, và đã cống hiến cho rất nhiều người khác một tình yêu sâu xa và lâu bền đối với Chúa Kitô và Mẹ Thánh của Ngài. Các tiền nhân của anh chị em trong Giáo Hội tại Ireland đã biết cách dấn thân nên thánh và sống theo niềm tin trong đời sống bản thân, biết cách rao giảng niềm vui đến từ Tin Mừng, thăng tiến tầm quan trọng được thuộc về Giáo Hội hoàn vũ trong niềm hiệp thông với Tòa Thánh Phêrô, và họ cũng biết cách thông truyền cho các thế hệ tương lai lòng yêu mến đức tin và các nhân đức Kitô giáo. Niềm tin Công Giáo của chúng ta, được tràn đầy cảm thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa, được vẻ đẹp của thiên nhiên quanh chúng ta thu hút, và được thanh tẩy nhờ sự thống hối bản thân và ý thức về ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là một gia sản được kiện toàn một cách chắc chắn và được nuôi dưỡng khi được đều đặn đặt trên bàn thờ của Chúa trong Hy tế Thánh Lễ. Lòng biết ơn và niềm vui vì lịch sử tin yêu lớn lao dường ấy gần đây đã bị giao động một cách kinh khủng vì sự tỏ lộ những tội do các linh mục và những người thánh hiến đã phạm đối với những người đã được ủy thác cho họ chăm sóc. Thay vì chỉ cho các em con đường dẫn về Chúa Kitô, về Thiên Chúa, thay vì làm chứng về lòng từ nhân của Chúa, thì họ lại lạm dụng các em và làm thương tổn uy tín sứ điệp của Giáo Hội. Làm sao chúng ta có thể giải thích sự kiện những người đã thường xuyên lãnh nhận Mình Thánh Chúa và xưng thú các tội lỗi của mình trong bí tích Thống hối mà lại xúc phạm dường ấy? Đó thực là một mầu nhiệm. Nhưng hiển nhiên là đạo Kitô của họ không còn được nuôi dưỡng bằng cuộc gặp gỡ hân hoan với Chúa Giêsu Kitô: nhưng chỉ là một tập quán mà thôi. Hoạt động của Công đồng trong thực tế nhắm vượt thắng hình thức Kitô giáo như thế và tái khám phá đức tin như một quan hệ bản thân sâu xa với lòng từ nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đại Hội Thánh Thể có mục đích tương tự như vậy. Nơi đây chúng ta mong ước gặp Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động trong nội tâm sâu xa của chúng ta. Ước gì Đấng đã thổi hơi trên các Tông Đồ trong ngày lễ Vượt Qua để thông truyền Thần Khí của Ngài cho họ, cũng ban cho chúng ta theo cùng một thể thức ấy hơi thở, quyền năng của Thánh Thần, và như thế giúp chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực về tình thương của Chúa, những chứng nhân về chân lý của Ngài. Chân lý của Chúa là tình thương. Tình thương của Chúa Kitô là chân lý.

”Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện để Đại Hội Thánh Thể, đối với mỗi người trong anh chị em, là một kinh nghiệm tinh thần phong phú về sự hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Đồng thời tôi muốn mời gọi anh chị em hiệp với tôi xin Chúa chúc lành cho Đại Hội Thánh Thể quốc tế kỳ tới sẽ diễn ra vào năm 2016 tại thành phố Cebu! Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới nhân dân Philippines, và cam đoan gần gũi họ qua kinh nguyện trong thời kỳ chuẩn bị cho Đại hội này của Giáo Hội. Tôi chắc chắn rằng Đại hội Thánh Thể sẽ mang lại một sự canh tân tinh thần lâu dài không những cho các tín hữu Philippines, nhưng còn cho các tham dự viên từ các nơi trên thế giới nữa. Trong khi đó, tôi phó thác mỗi tham dự viên Đại hội Thánh Thể hiện nay cho sự bảo vệ yêu thương của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và cho thánh Patrick, Đại Bổn mạng của Ireland; và như bảo chứng niềm vui và an bình trong Chúa, tôi chân thành ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh chị em.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ