BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

BIẾT ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC (Suy niệm lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 – 2012)

Vì tội nguyên tổ, con người bị án phạt là phải chết muôn đời. Nhưng con người được Cứu Chuộc nhờ Tình Yêu của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su nói: “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. (x. Ga 3, 13-17)
Thánh Giá, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, là cách mà Thiên Chúa yêu thương và Cứu Chuộc loài người. Không có cách nào khác.
Chúa Giêsu, thân phận là Thiên Chúa, nhưng phải làm “thân phận tôi đòi” của một người phàm, và hơn thế nữa, một người phàm sinh ra tầm thường nhất, nhận một án tử hình nhục nhã nhất trong nhân loại: chết trên thập giá… “Chúa Ki-tô, vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. (x. Pl 2, 6-11) Đó là cách cứu chuộc. Không có cách nào khác!

Và nếu chỉ có cách ấy mà không có cách nào nhẹ nhàng hơn, thì phía người được cứu, được chuộc hẳn phải ngộ ra rằng tội lỗi của mình nặng nề là chừng nào. Vì rõ ràng là, cái giá để được chuộc lại không phải là một đôi năm đọa đày nô lệ, mà là một kiếp người, cái giá cứu chuộc càng không phải là một vài tấn vàng, nhưng là một sinh mạng, không phải là sinh mạng của con người kiếp bụi phong trần mà là sinh mạng Con Thiên Chúa Làm Người.

Ai đã hy sinh mạng sống mà cứu cho bạn được sống, hẳn bạn phải tri ân họ biết chừng nào. Ai đã cứu bạn, vợ chồng con cái bạn khỏi chết ngạt, khỏi chết nước, khỏi chết cháy, khỏi cảnh nghèo khổ, nợ nần, khỏi cảnh làm thuê đày đọa, khỏi bị cảnh buôn bán người sang Trung Quốc, Hàn Quốc, khỏi cảnh tù đày, nô lệ, vong thân… hẳn là phải biết ơn và đền ơn họ đến muôn đời. Có người họa hình, tạc tượng người cứu sống mình và đặt ở nơi xứng đáng mà ghi ơn, nhớ tưởng như một vị đại ân nhân, vị đại thánh. Cũng đã có người nguyện làm kiếp tôi tớ phục vụ hầu hạ người thi ân suốt đời để đền ơn.

Vẫn còn lòng biết ơn nơi mỗi con người chúng ta đấy chứ! Nhưng cũng còn có cả những lòng biết ơn thật chua chát: Chúng ta vẫn thấy những nhang hương đèn khói, những cái sấp mình cúi lạy trước những bia tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Chẳng biết cái sấp nào giả hình, cái cúi nào thật tình và cũng không biết đó có phải là cách tỏ bày lòng biết ơn đích thực không. Bởi vì, cũng có người biết ơn vì ‘nhờ những những người nằm trong bia mộ kia mà nay tôi được làm ông kia bà nọ, lương tuy ít, nhưng bỗng nhiều, không tham lam không nhũng nhiễu nhưng tự nhiên mà thiên hạ cứ đút vào túi tôi bạc tỷ!’. Hoặc phải biết ơn vì ‘nhờ các ông mà nay tôi có cái để xài, có cả cái để dành và nhất là có cái để bán cho có thêm tiền thêm vàng gửi ngân hàng nước ngoài nước trong!’ Ôi! chuyện thế gian! Thật là tồi tệ! Người ta đang biết ơn những người hy sinh xương máu, mạng sống để cho họ được cái lợi, cái lộc ở đời này hơn là biết ơn những người hy sinh chiến đấu cho một nền hòa bình công chính! Ai đã nằm xuống cho lý tưởng hòa bình công chính sẽ không được ca tụng bằng người nằm xuống để họ có cơ hội giàu có và thao túng quyền lực! Họ chẳng cần biết chung cuộc đời họ sẽ ra sao!

Cũng bởi vì nghĩ đến cái lợi trước mắt ở trần gian mà trong chúng ta cũng có người không khác người duy vật kia bao nhiêu: không bao giờ biết ơn Đấng đã cứu chuộc chúng ta ra khỏi những điều tội lỗi, ra khỏi sự chết trầm luân muôn đời, dẫn đưa chúng ta đến đời sống công chính hôm nay trên trần gian, và đời sống vĩnh cửu mai sau trên thiên quốc.

Lễ Suy tôn Thánh Giá nhắc nhớ chúng ta suy tôn và biết ơn Tình Yêu của Thiên Chúa: Tình Yêu Cứu Chuộc. “Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Kitô, chúng con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu chuộc thế gian”.

Quả thực, nếu không có Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô, không có ơn cứu chuộc, thì cả và nhân loại này sẽ mãi mãi trầm luân trong cuộc sống giả trá điêu ngoa, bất công và hủy diệt muôn đời. Cũng vậy, ai không tin và biết ơn, đền ơn Chúa cứu chuộc cũng sẽ nhận một án phạt bị hủy diệt muôn đời. Còn số phận của những người chà đạp Thánh Giá Chúa, hẳn nhiên thật là bi đát, họ sẽ chết muôn đời với lũ Satan, con rắn độc cắn người, con rắn bại trận!

Ước gì những người đã xem thường Thánh Giá Chúa, xúc phạm đến Thánh Giá Chúa ngộ ra tội lỗi mình mà đến cùng Hội Thánh như dân xưa đã đến cùng Môi-sê và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. (x. Ds 21, 4-9).

Lạy Chúa Giê-su, chúng con là những người bị án tử hình, mà Chúa đã vì yêu thương đến nhận thay án tử hình ấy cho chúng con bằng cái chết nhục nhã trên Thánh Giá để chúng con được sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, mến yêu Thánh Giá Chúa, biết ơn Tình Yêu Chúa và đền đáp ơn ấy bằng cách nguyện suốt đời phục vụ Chúa. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 12-9-2012

 

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Mọi lời cầu nguyện đều có ích lợi

Không có các lời cầu nguyên thừa thãi, vô ích. Không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả. Tuy có các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, tất cả mọi lời nguyện của chúng ta đu được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolo VI sáng thứ tư 12 tháng 9-2012. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, trong phần đầu của sách Khải Huyền lời cầu nguyện hướng tới cuộc sống bên trong Giáo Hội, trong phần hai của sách sự chú ý hướng tới toàn thế giới. Thật vậy, Giáo Hội bước đi trong lịch sử, là phần của lịch sử theo chương trình của Thiên Chúa. Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp đã khám phá ra nhiệm vụ của mình là cộng tác vào sự phát triển của Nước Chúa như ”các tư tế của Thiên Chúa và Chúa Kitô” (Kh 20,6; x. 1,5; 5,10). Giờ đây nó rộng mở cho thế giới loài người. Có hai kiểu sống trái nghịch nhau: kiểu thứ nhất là ”hệ thống của Thiên Chúa” mà cộng đoàn tùy thuộc, và kiểu thứ hai là ”hệ thống trần thế chống lại Nước Chúa và chống giao ước dưới ảnh hưởng của Kẻ Dữ”, là tên lừa dối con người, và muốn thực hiện một thế giới trái nghịch với thế giới mà Chúa Kitô và Thiên Chúa muốn.

Trong phần đầu của sách Khải Huyền Chúa Kitô đã bẩy lần nói: ”Ai có tai thì nghe điều Thần Khí nói với các Giáo Hội” (Kh 2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn được mời lên trời để nhìn xem thực tại với con mắt của Thiên Chúa và ở đây chúng ta tìm thấy ba biểu tượng tham chiếu giúp đọc hiểu lịch sử.

Biểu tượng thứ nhất là chiếc ngai trên đó có Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa toàn năng không đóng kín trên trời, nhưng đã đến gần con người, bước vào trong giao ước với con người. Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm thấy Ngài trong lịch sử một cách nhiệm mầu nhưng thực sự, tiếng Ngài được biểu tượng bằng sấm sét. Chung quanh ngai có 24 Bô lão và 4 con vật, không ngừng chúc tụng Chúa của lịch sử.

Biểu tượng thứ hai là cuốn sách chứa đựng chương trình của Thiên Chúa liên quan tới các biến cố. Nó được đóng với 7 dấu ấn và không có ai có thể đọc được. Sự không có khả năng đó của con người khiến cho Gioan rất buồn bã. Nhưng có một người nào đó có thể mở và minh giải cuốn sách.

Biểu tượng thứ ba là Chúa Kitô Chiên Con bị sát tế trong Hy lễ của Thập Giá, nhưng đứng thẳng biểu tượng cho sự Phục Sinh. Chính Chúa Kitô Phục Sinh sẽ từ từ mở các đấu ấn, vén mở chương trình của Thiên Chúa và ý nghĩa sâu xa của lịch sử.

Các biểu tượng này nhắc cho chúng ta biết đâu là con đường giúp đọc hiểu các sự kiện của lịch sử và của cuộc sống chúng ta. Khi ngước mắt nhìn Trời của Thiên Chúa, trong tương quan liên lỉ với Chúa Kitô, khi mở rộng tâm trí chúng ta cho Người trong lời cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn, chúng ta học nhìn các sự vật một cách mới mẻ và tiếp nhận được ý nghĩa đích thật của chúng. Lời cầu nguyện như là một cửa sổ mở, cho phép chúng ta hướng cái nhìn về Thiên Chúa, để nhớ tới đích điểm chúng ta đang đi tới, cũng như để cho thánh ý Chúa soi sáng con đường đời của chúng ta và sống nó với nhiều dấn thân và mạnh mẽ hơn.

Thiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô đọc hiểu lịch sử một cách sâu xa hơn, trước hết bằng cách mời gọi nó nhìn hiện tại đang sống một cách thực tế hơn. Khi đó Chiên Con mở bốn dấu ấn đầu tiên cho thấy một thế giới với các yếu tố tiêu cực khác nhau. Trong thế giới đó có các sự dữ mà con người gây ra như bạo lực, nảy sinh từ ước muốn chiếm đoạt và trổi vượt hơn người khác, đi tới chỗ giết người (dấu ấn thứ hai); hay bất công, bởi vì con người không tôn trọng các luật lệ đã được ban cho mình (dấu ấn thứ ba). Thêm vào đó là các sự dữ con người phải gánh chịu như cái chết, đói khát, bệnh tật (dấu ấn thư tư). Trước các thực tại thường thê thảm này cộng đoàn giáo hội được mời gọi không bao giờ đánh mất đi niềm hy vọng, tin tưởng vững mạnh rằng cái toàn năng bề ngoài ấy của Kẻ dữ đụng độ với sự toàn năng đích thật của Thiên Chúa. Và dấu ấn thứ nhất mà Chiên Con mở ra chứa đựng sứ điệp này. Thánh Gioan kể: ”Tôi thấy, kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi như người thắng trận, để chiến thắng” (Kh 6,2).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ như sau: Sức mạnh của Thiên Chúa đã bước vào trong lịch sử con người. Sức mạnh ấy không chỉ có thể chống lại sự dữ, mà còn có thể chiến thắng nó nữa. Mầu trắng gợi nhớ sự Phục Sinh: Thiên Chúa gần gũi với chúng ta, tới độ xuống trong sự đen tối của cái chết để chiếu sáng nó với ánh quang sự sống thiên linh của Người. Người đã nhận lấy trên mình sự dữ của thế giới để thanh tẩy nó với lửa tình yêu của Người.

Tín hữu có thể trưởng thành khi đọc thực tại này. Vì sách Khải Huyền nói với chúng ta rằng lời cầu nguyện dưỡng nuôi nơi mỗi người và trong các cộng đoàn của chúng ta thị kiến ánh sáng và niềm hy vọng sâu xa này: nó mời gọi chúng ta đừng để cho sự dữ chiến thắng nhưng chiến thắng sự dữ với sự thiện, nhìn lên Chúa Kitô Bị Đóng Đanh và Phục Sinh, là Đấng kết hiệp chúng ta vào chiến thắng của Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Giáo Hội sống trong lịch sử, không đóng kín trong chính mình, nhưng can đảm đối đầu với con đường của mình giữa các khó khăn và khổ đau, bằng cách mạnh mẽ khẳng định rằng sự dữ không chiến thắng sự thiện, bóng tối không che mờ ánh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là điều quan trọng đối với chúng ta. Như là Kitô hữu chúng ta không bao giờ bi quan; chúng ta biết chắc rằng trên con đường cuộc sống, chúng ta thường gặp bạo lực, dối trá, thù hận, bách hại, nhưng điều này không khiến cho chúng ta nản lòng. Nhất là lời cầu nguyện giúp chúng ta trông thấy các dấu chỉ của Thiên Chúa, sự hiện diện và hành động của Người; còn hơn thế nữa chính chúng ta trở thành ánh sáng sự thiện, tỏa lan niềm hy vọng và chỉ cho thấy chiến thắng là của Thiên Chúa.

Viễn tượng này đưa tới chỗ dâng lên Thiên Chúa và Chiên Con lời cám tạ và chúc tụng: 24 bô lão và 4 con vật cùng hát ”bài ca mới” cử hành công trình của Chúa Kitô Chiên Con, Đấng làm mới mọi sự” (Kh 21,5). Nhưng sự đổi mới này là một ơn cần phải nài xin. Và ở đây chúng ta thấy một yếu tố khác nữa của lời cầu nguyện: đó là kiên trì khẩn nài Chúa cho Nước Chúa trị đến, cho con người có trái tim ngoan ngoãn đối với quyền bính của Chúa, cho ý Chúa hướng dẫn và định hướng cuộc sống chúng ta và cuộc sống thế giới. Trong thị kiến sách Khải Huyền lời cầu xin nài van này được 24 bô lão và 4 con vật cầm trong tay cùng với ”đàm cầm và các chén vàng đầy hương thơm” (Kh 5,8a). Chúng là ”các lời cầu nguyện của các thánh”, nghĩa là của những người đã đạt tới Thiên Chúa, nhưng cũng là của tất cả mọi người đang tiến bước. Và chúng ta thấy trước ngai Thiên Chúa có thiên thần cầm bình hương vàng liên tục bỏ vào đó các hạt hương, tỏa hương thơm dịu dàng được dâng lên Chúa cùng với các lời cầu nguyện (Kh 8,1-4).

Đó là biểu tượng để nói rằng tất cả mọi lời cầu của chúng ta, tuy có các các hạn hẹp, sự mệt mỏi, nghèo nàn, khô khan, bất toàn của chúng, hầu như được thanh tẩy và lên tới con tim của Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải chắc chắn rằng không có các lời cầu nguyên thừa thãi vô ích; không có lời cầu nguyện nào bị mất đi cả… Hình ảnh thiên thần cầm bình hương bỏ đầy lửa lấy từ bàn thờ và ném xuống đất liền có tiếng sấm sét ánh chớp và động đất (Kh 8,5) có nghĩa là Thiên Chúa không vô cảm trước các lời khẩn nài của chúng ta, Người can thiệp và cho thấy quyền năng và tiếng nói của Người trên trái đất. Người làm cho hệ thống của Kẻ Dữ run rẩy và đảo lộn. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Thường khi trước sự dữ người ta có cảm tưởng không làm gì được nữa, nhưng chính lời cầu nguyện của chúng ta là câu trả lời thứ nhất và hữu hiệu nhất mà chúng ta có thể cho, và nó khiến cho dấn thần hằng ngày của chúng ta trong việc phổ biến sự thiện được mạnh mẽ hơn. Quyền năng của Thiên Chúa làm cho sự yếu đuối của chúng ta trở nên phong phú (x, Rm 8,25-27)…

Tuy có các biểu tượng phức tạp, nhưng sách Khải Huyền lôi cuốn chúng ta vào trong một lời cầu nguyện rất phong phú, qua đó chúng ta lắng nghe, chúc tụng, cảm tạ, chiêm ngưỡng Chúa, và xin lỗi Người. Cấu trúc của lời cầu nguyện phụng vụ lớn lao của nó mời gọi chúng ta tái khám phá ra sức mạnh biến đổi ngoại thường của bí tích Thánh Thể. Tôi đặc biệt mạnh mẽ mời gọi anh chị em trung thành với Thánh Lễ Chúa Nhật trong ngày của Chúa, là trung tâm đích thật của tuần sống.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài xin mọi người giúp lời cầu nguyện cho chuyến viếng thăm Libăng của ngài diễn ra tốt đẹp. Sau cùng Đức Thánh Cha cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình và hòa hợp cho Liban

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình và hòa hợp cho Liban

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi tất cả các tín hữu Kitô Liban và Trung Đông dấn thân xây dựng hòa bình và hòa giải.

Ngỏ lời với hàng ngàn tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư, 12 tháng 9-2012, tại Vatican, ĐTC nói:

”Các tín hữu hành hương thân mến, trong 2 ngày nữa, vào giờ này, tôi đang bay đến Liban. Tôi vui mừng vì cuộc tông du này. Nó cho tôi được gặp gỡ niều thành phần trong xã hội Liban: các vị lãnh đạo dân sự và Giáo Hội, các tín hữu Công Giáo thuộc nhiều lễ nghi khác nhau và các tín hữu Kitô khác, những người Hồi giáo và người Druze thuộc vùng này. Tôi cảm tạ Chúa vì sự phong phú này, một sự phong phú chỉ có thể kéo dài nếu sống trong hòa bình và hòa giải trường kỳ. Vì thế, tôi nhắn nhủ mọi tín hữu Kitô Trung Đông, dù là dân bản địa hay là những người mới đến, hãy trở thành những người xây dựng hòa bình và hòa giải. Chúng ta cầu xin Chúa củng cố đức tin của các tín hữu Kitô Liban và Trung Đông, cho họ được tràn đầy hy vọng. Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì sự hiện diện của họ và khích lệ toàn thể Giáo Hội hãy liên đới để họ có thể tiếp tục làm chứng về Chúa Kitô trên những phần đất được chúc phúc ấy, qua sự tìm kiếm hiệp thông trong hiệp nhất. Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người và các tổ chức đang giúp đỡ họ trong chiều hướng ấy bằng nhiều cách. Lịch sử Trung Đông dạy chúng ta về vai trò quan trọng và nhiều khi là vai trò hàng đầu của các cộng đoàn Kitô khác nhau trong việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho vùng này của thế giới được hòa bình hằng mong ước, trong niềm tôn trọng những khác biệt hợp pháp. Xin Chúa chúc lành cho Liban và Trung Đông! Xin Chúa chúc lành cho toàn thể anh chị em! (SD 12-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican
 

 

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh chống xúc phạm tôn giáo

Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh chống xúc phạm tôn giáo

VATICAN. Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, Cha Lombardi kêu gọi tôn trọng tín ngưỡng, các nhân vật và biểu tượng tôn giáo, sau vụ lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Lybia bị tấn công.

Đại Sứ Hoa Kỳ Chris Stevens và công dân Mỹ đã bị thiệt mạng trong vụ người Hồi giáo tấn công và đốt phá lãnh sự quán Mỹ ở thành phố Bengasi ở miền đông Lybia tối ngày 11 tháng 9 vừa qua. Một số người Libia cũng bị thiệt mạng. Vụ tấn công này có liên hệ tới việc trình chiếu tại Mỹ cuốn phim tựa đề ”Sự vô tội của những người Hồi giáo” mô tả ngôn sứ Mohammed như kẻ sách nhiễu tình dục trẻ em, yểu điểu như phụ nữ và giết người tàn ác. Phim này cũng tạo nên các vụ phản đối trước sứ quán Mỹ tại Ai cập.

Trong thông cáo công bố hôm 12 tháng 9 vừa qua, Cha Lombardi khẳng định rằng:

”Sự tôn trọng sâu xa đối với tín ngưỡng, các văn bản đạo, các đại nhân vật và biểu tượng của các tôn giáo khác nhau là một tiền đề thiết yếu để có sự sống chung hòa bình của các dân tộc. Những hậu quả rất trầm trọng của những vụ xúc phạm và gây hấn vô lối đối với sự nhạy cảm của các tín hữu Hồi giáo, một lần nữa là điều hiển nhiên trong những ngày này, qua những phản ứng mà chúng tạo nên, kể cả với những hậu quả bi thảm, những hậu quả này lại càng gia tăng căng thẳng và oán thù, gây ra tình trạng bạo lực không thể chấp nhận được.
”Sứ điệp đối thoại, và tôn trọng đối với tất cả các tín hữu thuộc các tôn giáo khác nhau mà ĐTC sắp mang đến trong cuộc viếng thăm sắp tới tại Liban chỉ cho thấy con đường mà mọi người phải đi theo để cùng nhau kiến tạo sự sống chung giữa các tôn giáo và các dân tộc trong hòa bình” (SD 12-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Chính phủ Liban tuyên bố lễ nghỉ để chào đón Đức Thánh Cha

Chính phủ Liban tuyên bố lễ nghỉ để chào đón Đức Thánh Cha

BEIRUT. Chính phủ Liban tuyên bố: thứ bẩy 15-9 tới đây là lễ nghỉ toàn quốc tại nước này, nhân dịp cuộc viếng thăm chính thức của ĐTC.

Thủ tướng Hajib Mikati quyết định rằng các công sở, trường học và đại học công cũng như tư sẽ đóng cửa. Ông cho biết quyết định này là để các thành phần khác nhau trong dân chúng có thể chào đón Đức Giáo Hoàng.
Hàng trăm ngàn người sẽ đón mừng ngày tại Harissa, ở Kesrouan khi ngài đến đây vào thứ sáu 14-9 sắp tới.
Mặt khác, ĐHY Kurt Koch, người Thụy sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, bày tỏ hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban sẽ đẩy mạnh công trình đại kết Kitô, đối thoại liên tôn cũng như góp phần mang lại hòa bình cho Trung Đông.

ĐHY Koch nói với hãng tin Công Giáo Đức KNA rằng: ”Cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban trong tình trạng căng thẳng hiện nay là một dấu chỉ hy vọng lớn”.

ĐHY Kurt Koch sẽ tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm sắp tới. Ngài cho biết ĐTC không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, và trong cuộc viếng thăm Liban, ĐTC không đề ra những giải pháp chính trị cụ thể. Nhưng dân chúng chờ đợi nơi cuộc viếng thăm của ngài một sứ điệp rõ ràng, một dấu chỉ hòa giải và hòa bình. Chắc chắn Ngài sẽ kêu gọi gia tăng sự sống tác để kiến tạo một tương lai chung cho con người ở Trung Đông, cũng như từ bỏ chiến tranh”.

ĐHY Koch cho biết ngài cũng mong đợi có những tuyên bố rõ ràng của ĐTC về đại kết và cuộc đối thoại với Hồi giáo. Nhiều vấn đề mà các tín hữu Kitô ở Trung Đông đang gặp phải chỉ có thể được họ cùng nhau giải quyết.
Đồng thời, ĐHY cũng kêu gọi có những sáng kiến cụ thể và mạnh mẽ để ngăn chặn làng sóng xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông. Ngài nói ”Một điều tuyệt đối cần thiết là các tín hữu Kitô tiếp tục ở lại trong vùng này và chống lại cám dỗ xuất cư.. Qua cuộc viếng thăm này, ĐTC muốn củng cố cộng đoàn Kitô trong vùng”.
ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô đánh giá tích cực lời tuyên bố của những người Hồi giáo nói rằng Trung Đông mà không có các tín hữu Kitô thì chắc chắn sẽ thiếu một điều gì đó. ”Nếu mọi người đều đồng ý các tín hữu Kitô phải ở lại tại những nước nguyên thủy của Kitô giáo, thì chắc chắn người ta sẽ tìm ra những con đường để làm cho điều ấy có thể thực hiện được”.

Sau cùng, ĐHY Koch hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban sẽ không bị lợi dụng về chính trị và người ta có thể hiểu đúng sứ điệp của ĐTC (KNA 8-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lễ Giỗ 10 năm ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Thánh Lễ Giỗ lần thứ 10 của Vị Tôi Tớ Chúa, ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, sẽ được Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức lúc 10 giờ sáng thứ sáu, 14 tháng 9-2012, tại Nhà Thờ Đức Mẹ Scala ở Roma, cũng là Nhà Thờ hiệu tòa của Đức Cố Hồng Y.

ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, qua đời lúc 6 giờ chiều ngày thứ hai, 16 tháng 9-2002, tại Nhà thương Piô 11 ở Roma, hưởng thọ 74 tuổi, sau 49 năm linh mục, 35 năm Giám Mục và 1 năm rưỡi làm Hồng Y. Ngài được an táng tại nghĩa trang Campo Verano ở Roma, trong khu mộ của Kinh Sĩ Đoàn Đền Thờ Thánh Phêrô.

Sáng ngày 8-6 năm nay, Đức Cố Hồng Y đã được cải táng về Nhà Thờ Đức Mẹ Scala của các cha Dòng Camêlô nhặt phép ở khu vực Trastevere, trong một buổi lễ đơn sơ do ĐHY Peter Turkson, người Ghana, đương kim Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, chủ sự trước sự hiện diện của một số HY, GM, và gần 100 người gồm các nhân viên của Hội đồng, Liên tu sĩ Việt Nam ở Roma.

Hôm 6 tháng 9-2012, Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã thông báo và xin Ban Chấp Hành Hội Liên Tu Sĩ Việt Nam ở Roma, đứng đầu là Cha Giuse Nguyễn Tất Thắng O.P, cộng tác vào việc tổ chức thánh lễ Giỗ Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie (NTòa Thánh. Địa Chỉ nhà thờ: Santa Maria della Scala: Piazza della Scala, 53, 00153 Roma)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi các Giám Mục Colombia tiếp tục bênh vực gia đình

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các GM Colombia tiếp tục tăng cường việc mục vụ gia đình trước làn sóng tục hóa trong xã hội ngày nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến chung dành cho 37 GM Colombia sáng ngày 10-9-2012 tại Castel Gandolfo, nhân dịp các vị kết thúc cuộc hành hương Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.
ĐTC nhắc đến sự kiện Giáo Hội tại Colombia được dồi dào ơn gọi LM và đời sống thánh hiến, cũng như có thái độ sẵn sàng đối với sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại; ngoài ra có nhiều phong trào tông đồ nảy sinh và các cộng đoàn giáo xứ rất sinh động. Ngài nói:

”Cùng với những điều đó, anh em cũng nhận thấy những hậu quả tàn hại của trào lưu trục hóa ngày càng gia tăng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống và đảo lộn những nấc thang các giá trị của con người, khuynh đảo chính nền tảng của đức tin Công Giáo, của hôn nhân, gia đình và luân lý Kitô. Về phương diện này, việc bảo vệ không biết mệt mỏi và thăng tiến định chế gia đình tiếp tục là một ưu tiên mục vụ đối với anh em. Vì thế, giữa những khó khăn, tôi mời gọi anh em đừng chùn bước trong những cố vắng và tiếp tục công bố chân lý trọn vẹn về gia đình, dựa trên hôn nhân, như Giáo Hội tại gia và là cung thánh của sự sống”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc nhở các GM Colombia ”hết sức quan tâm đến các LM, Phó tế và tu sĩ, để ý đến những nhu cầu tinh thần, trí thức và vật chất của họ, để họ có thể sống trung thành một cách phong phú với sứ vụ của mình. Nếu cần, anh em đừng ngại sửa chữa huynh đệ và hướng dẫn họ. Nhất là anh em hãy nêu gương sống và tận tụy đối với sứ mạng đã nhận lãnh từ Chúa Kitô. Đừng bỏ qua ưu tiên vun trọng ơn gọi và huấn luyện khởi đầu cho các ứng sinh tiến lên thánh chức hoặc tiến vào đời sống thánh hiến, giúp họ phân định sự thật về ơn gọi của Chúa để quảng đại đáp lại với ý hướng ngay chính”.

Ngài không quên nhắc đến tình trạng bạo lực tại Colombia từ hơn 50 năm nay phải chịu cảnh nội chiến. ĐTC nói ”Mặc dù có vài dấu chỉ hy vọng, bạo lực tiếp tục kéo theo đau thương, cô đơn, chết chóc và bất công cho nhiều anh chị em ở Colombia. Đồng thời tôi nhìn nhận và cám ơn vì công tác mục vụ đang được thi hành, nhiều khi tại những nơi đầy khó khăn và nguy hiểm, để giúp đỡ bao nhiêu người đang chịu đau khổ tại đất nước Colombia yêu quí. Tôi khích lệ họ tiếp tục góp phần bảo vệ sự sống con người, vun trồng hòa bình, theo gương Chúa Cứu Thế của chúng ta và khiêm tốn khẩn cầu ơn thánh của Chúa. Họ hãy gieo vãi Tin Mừng và gặt hái hòa giải, với ý thức rằng nơi nào Chúa Kitô đến, thì hòa thuận cũng mở đường, oán thù nhường chỗ cho tha thứ và cạnh tranh biến thành tình huynh đệ”. (SD 10-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để chữa bệnh câm điếc của linh hồn

Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát chúng ta khỏi sự câm điếc nội tâm, và khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật 9-9-2012 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, ở trung tâm Tin Mừng hôm nay (Mc 7,31-37) có một từ nhỏ, rất quan trọng. Một từ, mà trong ý nghĩa sâu đa của nó, tóm gọn tất cả sứ điệp và toàn công trình của Chúa Kitô. Thánh sử Mạccô kể lại từ này trong chính tiếng nói của Chúa Giêsu, trong đó Chúa nói lên từ ấy, và như thế chúng ta còn nghe nó sống động hơn nữa. Đó là từ ”effatà”, có nghĩa là ”hãy mở ra”. Chúng ta hãy đem bối cảnh của nó. Chúa Giêsu đang đi qua vùng ”Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, một vùng không do thái. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh ta – hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu và nói: ”Effatà” có nghĩa là ”Hãy mở ra”. Và người ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7,35). Đó là ý nghĩa lịch sử và theo chữ của từ này: nhờ sự can thiep của Chúa Giêsu người câm điếc đó được ”mở ra”; trước đó anh ta bị đóng kín, lẻ loi, rất khó thông truyền. Việc chữa lành đối với anh là một sự ”mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe và nói, lôi cuốn toàn con người và cuộc sống của anh: sau cùng anh có thể thông truyền và liên lạc trở lại.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nhưng chúng ta tất cả đều biết rằng sự đóng kín của con người, sự lẻ loi của nó không chỉ tùy thuộc các giác quan. Có một sự đóng kín nội tâm, liên quan tới nơi sau thẳm nhất của con người, đó là điều Thánh Kinh gọi là ”trái tim”. Chúa Giêsu đến để ”mở ra”, để giải thoát, để khiến cho chúng ta có khả năng sống tràn đầy tương quan với Thiên Chúa và với các người khác. Đó là lý do tại sao tôi đã nói rằng từ bé nhỏ ”effatà – hãy mở ra” này tóm gọn trong nó toàn sứ mệnh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong bởi tội lỗi, có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim nó, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác. Vì lý do đó từ và cử chỉ của ”effatà” đã được đưa vào trong Lễ nghi Rửa Tội, như một trong các dấu chỉ giải thích ý nghĩa của nó: khi đụng vào miệng và tai của người được rửa tội vị linh mục nói: “Effatà”, cầu xin cho họ có thể mau lắng nghe Lời Chúa và tuyên xưng đức tin. Qua bí tích Rửa Tội con người bắt đầu ”hít thở” Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã khẩn nài từ Thiên Chúa Cha với tiếng thở dài sâu xa để chữa lành người câm điếc.

Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Giờ đây trong lời cầu nguyện, chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria Rất Thánh, mà chúng ta đã mừng kính lễ Sinh Nhật hôm qua. Vì tương quan đặc bhiệt của Mẹ với Ngôi Lời nhập thể, Đức Maria hoàn toàn ”rộng mở” cho tình yêu của Chúa, trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa. Xin sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ giúp chúng ta kinh nghiệm được mỗi ngày trong đức tin phép lạ ”effatà”, để sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã báo cho mọi người biết trong các ngày tới đây ngài sẽ viếng thăm Libăng để ký Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông nhóm tai Roma hồi tháng 10 năm 2010. Đức Thánh Cha sẽ vui sướng gặp nhân dân Libăng, chính quyền và các kitô hữu Libăng, cũng như các kitô hữu đến từ các nước láng giềng. Ngài nói: Tôi cũng biết tình trạng thường thê thảm, mà các dân tộc của vùng đất bị bầm dập này đang phải sống từ lâu, vì các cuộc xung đột không ngừng. Tôi hiểu nỗi âu lo của nhiều người dân Trung Đông hàng ngày bị chìm ngập trong đủ loại khổ đau gây buồn sầu, đôi khi gây chết chóc cho họ và cho gia đình họ. Tôi âu lo cho những người, để kiếm tìm một khoảng trống hòa bình, phải trốn chạy cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và sống lưu vong trong cảnh tạm bợ. Cả khi khó tìm ra các giải pháp cho các vấn đề khác nhau của vùng này, người ta không thể chịu trận đối với bạo lực và các căng thẳng tột bực. Dấn thân đối thoại và hòa giải phải là điều ưu tiên đối với tất cả mọi phe liên hệ, và nó phải đựơc hỗ trợ bởi cộng đồng quốc tế, luôn luôn ý thức hơn về tầm quan trọng của một nền hòa bình ổn định và lâu bền trong toàn vùng đối với toàn thế giới. Chuyến tông du của tôi tại Libăng cũng trải dài ra toàn vùng Trung Đông, được đặt để dưới dấu chỉ của hòa bình, bằng cách lấy lại lời của Chúa Kitô: ”Thầy ban bình an của Thấy cho các con” (Ga 14,27). Xin Thiên Chúa chúc lành cho Libăng và vùng Trung Đông. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

Đức Thánh Cha cũng chào các tín hữu công giáo và toàn dân Kazakhstan, nơi Đức Hồng Y Sodano, đặc sử của ngài, cử hành lễ thánh hiến nhà thờ chính tòa mới của giáo phận Karaganda. Ngài cũng chào các tín hữu Latinh Leopoli bên Ucraine, nơi Đức Hồng Y Tomko, đặc sứ của ngài, chủ sự các lễ nghi kỷ niêm 600 năm thành lập tổng giáo phận này.

Linh Tiến Khải

 

 

ĐIẾC VÀ NGỌNG

ĐIẾC VÀ NGỌNG
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]
 
Điếc là không nghe được, khác với nghễnh ngãng là nghe không rõ. Câm là không nói được, khác với ngọng là nói không rõ, khó nghe. Theo khoa học thì người ta nói được là nhờ khả năng bắt chước. Cứ nhìn trẻ sơ sinh được cha mẹ tập nói cho, thì đủ rõ. Trẻ chăm chú nhìn cha (hay mẹ) để biết cách sử dụng miệng lưỡi, đồng thời lắng tai nghe âm thanh phát ra từ mịêng cha mẹ, sau đó sẽ bắt chước làm những cử điệu vá phát âm giống như cha mẹ. Lúc đầu có thể không đúng và rõ, nhưng dần dần về sau sẽ nói được gọn gàng, đúng giọng. Cũng vì tập nói chủ yếu là bắt chước cách nói của cha mẹ thông qua việc nghe, nên khi trẻ bị điếc thì trẻ cũng bị ngọng luôn (dù có phát ra âm thanh cũng chỉ ú ớ không rõ tiếng).
 
Câm thì nặng hơn vì cơ quan (mịêng, lưỡi, dây phát âm) bị khuyết tật nặng nề. Ở đời, thường những người ngọng (hay câm) là vì bị điếc. Với khoa học tiến bộ ngày nay có máy trợ thính giúp người điếc nghe được và nếu bị ngọng thì có thể kiên trì tập luyện sẽ nói được, nhưng nếu người ấy bị khuyết tật cả bộ phận phát âm thì cũng chỉ còn cách nói bằng cử chỉ (dùng 2 tay, ánh mắt và môi mịêng) ra hiệu. Đã không nghe lại không nói được, cuộc đời của người câm điếc như bị đóng lại trước một thế giới đang mở ra, chẳng khác gì người tù biệt giam không thể có mối tương quan nào với xã hội bên ngoài.
 
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7, 31-37) trình thuật phép lạ Chúa Giê-su chữa cho một nguời bị điếc và ngọng. Chúa không chữa lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với mọi người. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết để nối kết tương giao với cộng đồng. Đức Giê-su đã dùng những dấu hiệu chữa bệnh bề ngoài “đặt ngón tay vào tai anh, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh”, rồi Người “ngửa mặt lên trời” (tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa Cha) và nói “Hãy mở ra!”, thì “Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi hết bị buộc lại.” Cứ kể ra, với quyền năng Thiên Chúa, Đức Ki-tô chỉ cần phán một lời thì bệnh nhân sẽ khỏi, nhưng ở đây Người muốn cho mọi người thấy được tỏ tường phép lạ mà Người đã thực hiện, nên Người mới có những hành động như trên (một cách mạc khải mầu nhiệm Tình Yêu Thiên Chúa thông qua những cử chỉ và hành động mà người đời thường gặp trong cuộc sống trần thế). Căn bệnh điếc và ngọng về thể lý thì chỉ cần như thế là đủ; nhưng ở đây Đức Ki-tô còn muốn đi xa hơn, chữa căn bệnh ngọng và điếc về tâm linh của bệnh nhân cũng như của cả đám đông.
 
Nói đến vấn  đề ngọng và điếc tâm linh cũng khá nhiêu khê  và thường thì người mắc căn bệnh này lại không tự biết mình đang mắc bệnh. Căn bệnh này phổ biến ở hai chiều kích: siêu nhiên và xã hội. Với siêu nhiên thì gần như họ luôn nghễnh ngãng (nghe câu được câu chăng, tai lành tai điếc, chớ chưa đến nỗi điếc đặc), thờ ơ trước Lời chân lý và vì thế khi phải nói điều chân lý, họ trở nên ngọng nghịu lắp bắp nói chẳng nên lời. Với xã hội thì căn bệnh này càng phổ biến, đó là những kẻ theo một truyền thuyết mù quáng nào đó mà họ cho là lý tưởng (kiểu như đánh bom tự sát khủng bố giết hại đồng loại, sẽ được nên thánh “tử vì đạo”), hoặc những kẻ ăn trên ngồi trước rất thính tai khi nghe đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị; nhưng lại “mũ ni che tai” để trở thành điếc đặc trước những thảm cảnh của con người như thiên tai (nạn nhân bão lụt, động đất, nghèo đói, bệnh tật), nhân họa (nạn nhân chiến tranh, khủng bố, áp bức, bóc lột…). Đó chẳng phải ai khác hơn là những kẻ "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng" (Mt 25, 42-43).
 
Quả thực là  vẫn còn quá nhiều bệnh nhân "đui mù câm điếc" tâm linh và thật sự cũng vẫn còn thiếu thật nhiều những môn đồ chân chính của Thầy Thuốc Chí Thánh Giê-su Ki-tô. Với những trường hợp bệnh nhân không được chữa khỏi, thế nhân thường hay đổ lỗi cho thầy thuốc. Gặp thầy dỏm thiếu tài hoặc thầy hay nhưng lại thiếu đức thì không nói làm gì, nhưng đến như gặp thầy có đủ tài đức mà họ vẫn không tin, ấy mới là điều đáng trách. Khổ một nỗi là đến ngay những người mắc căn bệnh trầm kha ấy cũng – vô tình hay cố ý – không nhận ra được chính mình đang mang bệnh nan y, cầu mong được Thầy Thuốc Chí Thánh chữa trị. Họ đã quên mất một điều xem ra có vẻ nghịch lý nhưng lại là sự thật hiển nhiên: Người bệnh muốn được khỏi thì điều kiện tiên quyết không ở nơi người thầy thuóc, mà ở chính nơi bản thân mình và đó chính là lòng tin, là đức tin vậy.
 
Người Thầy Thuốc Chí Thánh luôn luôn sẵn sàng đến với mọi người đau yếu bệnh tật, ăn thua là người bệnh có biết đáp trả mà chạy đến với Người hay không mà thôi. Vâng, "Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài" (Thánh Âu-tinh), bệnh nhân tâm linh phải cộng tác bằng đức tin vào Người Thầy Thuốc Chí Thánh, mới được khỏi bệnh là điều tất nhiên vậy. Đừng bao giờ quên rằng chính Người Thầy Thuốc Chí Thánh khi chữa lành cho bệnh nhân luôn luôn khẳng định "Đức tin của con đã chữa lành con".
 
Ôi! Lạy Chúa! Con cảm thấy con cũng đang bị điếc và câm – hay ít ra là đang nghễnh ngãng và ngọng nghịu như kẻ giả điếc, giả câm – trước Lời Chúa mời gọi con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ trước những thế lực áp bức bất công… Nhưng con đã làm như không nghe, không thấy, con đã "giả mù sa mưa" để có thể câm lặng "toạ thị cầu an" hầu được yên thân, khỏi bị mất mát, hy sinh những gì mà thế lực áp bức sẽ dành cho những kẻ dám bệnh vực cho những người bị áp bức.
 
Cúi xin Chúa ban Thần Khí chữa lành cho con chứng bệnh nan y ấy, như xưa Chúa đã chữa cho biết bao người "què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc" được khỏi không những căn bệnh "đui mù câm điếc" về thể lý mà cả về mặt tâm linh nữa.
 
Ôi! Lạy Chúa! "Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời và vâng nghe theo Chúa. Xin cho biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban…" ("Lắng nghe Lời Chúa" – TCCĐ). Amen.
 
JM. Lam Thy ĐVD.
 

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ MÌNH

BỆNH CÂM ĐIẾC NGAY TRONG NHÀ  MÌNH

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (09/09/2012)
[Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37]

Con cái là niềm vui tuyệt vời của cha mẹ. Sinh được một người con là hồng ân lớn lao cho cha mẹ, gia đình, dòng tộc. Nhưng sinh một đứa con kém may mắn, không hoàn hảo, tật nguyền, dị dạng, thiểu năng bẩm sinh, câm điếc chẳng hạn, không chỉ là nỗi buồn mà còn là thử thách lớn lao cho cha mẹ: thử thách tình yêu và thử thách niềm tin. Thật là cao cả, đáng quí, đáng ca ngợi biết bao những cha mẹ phải chịu đựng hy sinh cả đời trong tin yêu phó thác mà không một lời than vãn kêu ca. Tất cả tình thương và những gì tốt đẹp nhất được dành hết cho đứa con tật nguyền, bệnh hoạn. Tôi vẫn nghĩ, họ đang mặc lấy trái tim yêu thương nhân hậu của Chúa mới có thể đối xử với con mình cách đáng trân trọng như thế. Bằng không, thật là tồi tệ.
 
Sinh được một đứa con hoàn hảo, xinh đẹp, niềm vui ấy còn tuyệt vời hơn. Con khôn ăn chóng lớn, nói chắc, đi vững, là phần thưởng cho những hy sinh của cha mẹ. Rồi con ngoan ngoãn, nghe tốt, vâng kỹ, học giỏi, thành người có ích cho gia đình, cho xã hội, thì cha mẹ hãnh diện biết bao. Nhưng đối với những cha mẹ Công Giáo, thì thiết tưởng nên chọn niềm vui thiêng liêng cao quí nhất là  thấy con khôn ngoan biết thờ phượng Chúa, siêng năng kinh hạt, sốt sắng Thánh Lễ, viếng Chúa, đọc học Lời Chúa và nên người con của Chúa cách xứng đáng: biết mến Chúa yêu người trong gia đình và ngoài xã hội.
         
Nếu trong nhà bạn, trong nhà tôi có những đứa con hình dáng xinh đẹp, trí khôn thông minh, học hành giỏi giang, kinh tế vững vàng… mà không thuộc kinh nào, hoặc là hồi nhỏ đọc kinh với cha mẹ thuộc làu làu, lớn lên bỏ đọc dần rồi quên hẳn, thì chẳng phải là con mình đang bị câm đó sao?
 
Hồi nhỏ nghe lời cha mẹ, nghe Lời Chúa, lớn lên rồi có  được ít chữ, ít kinh nghiệm, ít tiền rủng rỉnh trong túi, thì coi cha mẹ là tụt hậu, là “đồ cổ”, và không buồn nghe cha mẹ bảo ban nhắc nhở nữa, cũng không nghe Lời Chúa, không giữ luật Chúa nữa… thì chẳng phải là con mình bị điếc đó sao?
         
Con không nói được một lời cảm ơn, một lời xin lỗi, huống chi nói được một lời ủi an cha mẹ trong lúc tuổi già, huống chi nói được một lời yêu thương, tri ân hay hiếu kính, chẳng phải là nó đã bị bệnh câm rồi đó sao?
 
Con không nghe được tiếng lòng của cha, không nghe được nỗi  đau của mẹ thì làm gì nghe được nỗi xót xa của tha nhân, chẳng phải nó bị điếc rồi đó sao?
 
Thật bi đát! Bệnh câm điếc của con, đã đành, lại thêm bệnh câm điếc của vợ, của chồng, của cha mẹ. 
 
Ông B buồn uống rượu cả ngày chỉ vì bà B chưa bao giờ chịu nhún nhường xin lỗi ông B trong suốt 40 năm làm vợ. Bà X cả ngày không nói gì nếu ông X không hỏi. Bà A chưa bao giờ hỏi ông A câu “Ông có khỏe không?” Có vợ chồng chưa bao giờ đọc kinh chung với nhau kể từ sau ngày cưới ! Đến ngày cưới vợ cho con, mướn một tay MC đọc kinh luôn, hoành tráng hơn, bài bản hơn! Vợ chồng chẳng ai chịu nghe ai, chẳng ai hiểu ai, trong khi hai người đều nói tiếng Việt ! Chẳng phải là bệnh câm điếc đang hoành hành ngay trong nhà mình đó sao?
 
Nếu vợ chồng, con cái trong gia đình mà không nói nhau nghe, không nghe nhau nói, thì còn gì là một tổ ấm yêu thương? Cả nhà chúng ta cùng câm điếc mãi vậy được sao ? Ra đường, đến Nhà Thờ, làm công tác tông đồ, làm ông kia bà nọ, nói và nghe khá lắm, mà về nhà thì lại câm và điếc với nhau. Thật vô lý! Đã thế, lại không có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc trong nhà mình!
 
Sống với nhau bằng xương bằng thịt hữu hình, sờ tận tay, thấy tận mắt mà còn câm điếc thì nói gì đến việc sống với Thiên Chúa, Đấng Vô Hình? Khi đã mang bệnh câm điếc trong gia đình như  thế thì rõ ràng là không có dấu chỉ nào cho thấy sự trưởng thành cần có về Đức Tin và đời sống nội tâm với Thiên Chúa.
 
Từ  gia đình ruột thịt, đến gia đình thiêng liêng, gia đình Hội Thánh, bệnh câm điếc cũng tràn lan:
 
– Cấp trên cấp dưới trong Hội Thánh chưa thực sự  trân trọng việc nói và nghe nhau. Có khi lại còn xu nịnh phường gian ác, nạt nộ kẻ lòng ngay. Tiếng nói của con chiên vẫn luôn là thấp bé, kém giá trị, nhất là những con chiên nghèo, con chiên tội lỗi, con chiên bị áp bức, con chiên ít học lại hay nói thật mất lòng, con chiên bị kết án chống đối. Con chiên bị phân biệt đối xử đúng như khuyến cáo của Thánh Giacôbê trong bài đọc 2 hôm nay ( x. Gc 2, 1 – 5 ). Câm điếc thật nguy hại!
 
– Gương xấu câm điếc trịch thượng ấy cũng lây lan sang cho kẻ lớn người nhỏ trong các Giáo Xứ, các Hội Đoàn chẳng ai muốn nghe ai. Câm điếc thật đáng sợ!
 
Thế  nhưng, được mấy người biết mình đang câm điếc? Được mấy người biết sợ bệnh câm điếc? Được mấy người “xao xuyến”, quan tâm đến chuyện nạn câm điếc đang hoành hành nơi chính mình, trong nhà, ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội? Và được mấy người có ước muốn chữa lành bệnh câm điếc cho bản thân và cho mọi người trong thời đại hôm nay? Trong khi có quá nhiều người không biết mình đang mắc bệnh câm điếc thì Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người hãy biết “xao xuyến”, biết sợ bệnh, có ước muốn được điều trị bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay chữa lành.
 
Có “biết mình đang mắc bệnh” rồi xao xuyến, và  sợ bệnh thì mới cảm được lòng lo của Thiên Chúa qua lời mời gọi của Ngôn Sứ Isaia: “Hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ ! … Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được"(Is 35, 4 – 7a ).
 
Có  ước muốn chữa bệnh và tin tưởng khẩn xin Thiên Chúa chữa cho thì mới được chữa khỏi. Tin Mừng kể rõ: “Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy”. Người câm điếc ấy hẳn có đủ các yếu tố: biết bệnh, sợ bệnh, muốn được chữa khỏi và bằng lòng xin Chúa Giêsu đặt tay chữa bệnh… (Mc 7, 31 – 37).
 
Lạy Chúa Giêsu, mỗi chúng con đều ít nhiều đang bị bệnh câm điếc trong nhà ngoài cửa, trong Hội Thánh và ngoài xã hội. Xin cho chúng con biết sợ bệnh, biết ước muốn lành bệnh và tin tưởng xin Chúa đặt tay để mở tai chúng con nghe Lời Chân Lý, nghe được tiếng than khóc của tha nhân, mở miệng chúng con để ca tụng Tình Yêu Chúa, bênh vực kẻ bị áp bức, nói lời nhân ái trong gia đình và giữa cuộc đời. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 09-03 đến 09-09-2012)

Trích từ Xuân Bích VN

VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC NGƯỢC VỚI GIÁO LUẬT ĐÃ TÀN PHÁ GIÁO HỘI SAU VATICAN II.

Không thể dửng dưng với Chúa Kitô.

Kỷ niệm 80 năm thành lập giáo phận Zhou Zhi, Trung Quốc.

Phán quyết lịch sử đối với các Kitô hữu: luật chống cải đạo là vi hiến.

Từ Chủ nghĩa quốc xã tới “phong trào Hồi giáo Sunni (Salafism).

Đức Biển Đức XVI, người đầu tiên đăng ký dự JWJ (WYD) Rio 2013.

Vatican nói lên ý kiến về trường hợp [tội] báng bổ của em gái người Pakistan.

Tân Học viện sẽ đẩy mạnh việc sử dụng La-tinh.

Bộ ngoại giao Israel bác bỏ khiếu nại về Tân Sứ thần Toà Thánh.

Bổ nhiệm mới.

-“Anh chị em đã sẵn sàng đi đến tận cùng chưa?”.

-Hội nghị “TIN VÀO KHOA HỌC?”, với Dominique Bourg và Pierre Gisel.

Vatican mời Usain Bolt nói chuyện tại hội nghị tự do tôn giáo.

Hội Thảo Nghiên Cứu (*) cho 92 tân giám mục thuộc các xứ truyền giáo.

Không dùng tôn giáo phục vụ cho những mục đích trần thế.

An tử quá phức tạp để giao mặc cho các nhà chính trị.

Ở Ba Tây, điều không tưởng đã xảy ra như dự định.

Xây dựng một Châu Âu mới gợi nhớ Tháp Babel.

-TGP Milwaukee dự tính đóng cửa hơn 100 giáo xứ.

Lãnh tụ Hồi giáo bị bắt vì mưu gian nhằm hại em bé Pakistan trong vụ báng bổ.

Những thử thách mới đối với nữ giới về ngừa tránh thai.

-Giáo Hội ở Liban.

Hôn nhân đồng tính sẽ ảnh hưởng khủng khiếp đến tự do tôn giáo.

Tình thương nhưng không, sự hiệp nhất với Đức Thánh Cha sẽ làm chứng cho học thuyết xã hội của Giáo Hội.

Thánh Mẫu học kể từ Vatican II – Hội Nghị Quốc tế Thánh Mẫu học lần 23.

Thủ lãnh Nhóm các LM bất đồng Áo tiếp tục vận động thay đổi trong Giáo Hội.

Rửa tội 294 người trong 8 tháng tại giáo xứ Jiang Yin, giáo phận Nan Jing.

ĐHY Á Căn Đình chỉ trích việc LM từ chối rửa tội cho các trẻ em ngoài giá thú.

Tân Nữ đại sứ Lituania tại Toà Thánh.

“Thánh Giá của Hy Vọng”(Cruz de la Esperanza).

 (Xem chi tiết . . .    TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (09-03 đến 09-09-2012) )

MỪNG SINH NHẬT MẸ MARIA 8 THÁNG 9

MỪNG SINH NHẬT MẸ MARIA 8 THÁNG 9

Ngày ấy, có tiếng khóc chào đời của một nữ nhi. Có thể gọi là một tiên nữ giáng thế, bởi nữ nhi ấy không thuộc về cõi phàm, không vương nhơ vướng uế, nhưng là một phần hữu thể của Thượng Đế chí thánh, chí thiện, chí cao. Nữ Nhi ấy là Mẹ Maria.

Tôi tin Đức Maria là Tiên Nữ, hay là Người Nữ Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, Tôi tin Người Nữ của Thiên Chúa được chính Thiên Chúa tác thành. Bởi, Đức Maria vẫn là cốt nhục của đôi con người Gioakim và Anna, là kết tinh của một tình yêu đôi lứa thánh thiện, nhưng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa thì cốt nhục ấy cũng không thể thành hình vì khi bà Anna mang thai thì đôi vợ chồng ấy đã đến hồi luống tuổi.

Vậy, việc Đức Maria sinh ra trong trần gian là chương trình từ ngàn đời của Thiên Chúa, trong kế hoạch Tình Yêu bao la muốn chia sẻ, muốn hiến trao. Có thể nói Đức Maria là mạc khải mới nhất của tình yêu Thiên Chúa, mạc khải một niềm hy vọng cho trần gian sẽ có một ngày ánh sáng Thiên Chúa ngập tràn, mạc khải một niềm ủi an vô hạn trong cảnh đọa đày gian khổ, mạc khải một nỗi vui của sự sống mới giữa cảnh đời đang khô khốc cảnh chết chóc, tan tác, bụi bay vì tội nguyên tổ.

Chính nơi cung lòng tinh tuyền của Đức Maria, Đức Giêsu Kitô, Mặt trời Công Chính đã cư ngụ, đã hình thành thuở là một thai nhi.

Chính Đức Maria, đã làm cho ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Tình Yêu được thực hiện.

Như vậy, sự hiện diện của Đức Maria trên trần gian, khởi điểm cho sự hiện diện của Đấng Cứu Thế, Đấng là Ngôi Lời  Sáng Thế, nay là Ngôi Lời Cứu Thế; Đấng cứu chúng ta ra khỏi Lời chúc dữ để nhận lại Lời Chúc Lành thuở khai nguyên.

Kể từ lúc Đức Maria nhận lời cưu mang Đấng Cứu Thế, chúng ta gọi Người là Đức Mẹ, Mẹ của Đấng Cứu Thế, và là Mẹ của những ai tin vào Đấng Cứu Thế, con của Người.

Giáo Hội Mừng Sinh Nhật Mẹ, nhắc nhở mỗi người hiểu được nỗi lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sinh ra Đức Maria tinh tuyền, một Evà mới tinh tuyền, để Đức Maria Tinh Tuyền sinh ra một một Mặt Trời Công Chính là Chúa Giê-su Ki-tô, và chính Ngài sẽ phục hồi cho Thiên Chúa một nhân loại mới tinh tuyền, thánh thiện như thuở khai nguyên.

Mừng sinh nhật Mẹ Maria, dịp thuận tiện cho mỗi tín hữu nhớ lại mình đã được sinh lại cùng với Chúa Giê-su Ki-tô để nên con người mới của Thiên Chúa, và cũng là dịp thuận tiện đễ mỗi người nhìn mình: có còn giữ được sự thánh thiện, tinh tuyền của dòng dõi Thiên Chúa hay không.

Nguyện xin Mẹ Maria giúp chúng con biết quí trọng ơn tái sinh và gìn giữ cho được tinh tuyền mãi trong suốt hành trình dương thế, để xứng đáng được Chúa Giê-su Con Mẹ, đưa chúng con vào cuộc sống vĩnh cửu.

“Hỡi Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Sinh Nhật của Mẹ đã làm cho mọi người tràn trề niềm an ủi và vui mừng, bởi vì Mặt Trời công chính, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã được sinh ra từ Mẹ, chính Ngài đã kéo chúng ta ra khỏi lời chúc dữ và ban cho chúng ta muôn vàn lời chúc phúc; sau khi đã làm cho vương quốc sự chết lụi tàn, chính Ngài đã đưa chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu.”

PM. Cao Huy Hoàng, 8 tháng 9-2012

Đức Thánh Cha tiếp kiến 100 Giám Mục thuộc các xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến 100 Giám Mục thuộc các xứ truyền giáo

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các GM thuộc các xứ truyền giáo tiếp tục tín thác vào sức mạnh của Tin Mừng giữa bao nhiêu nghịch cảnh và khó khăn đang đè nặng trên cuộc sống hằng ngày của dân chúng.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 7-9-2012, dành cho khoảng 100 GM đến từ các xứ thuộc Bộ truyền giáo ở Á, Phi, Mỹ la tinh và Úc châu, đang tham dự khóa bồi dưỡng tổ chức tại Học viện Thánh Phaolô ở Roma. Hiện diện tại buổi kiếp kiến cũng có ĐHY Tổng trưởng Fernando Filoni và 2 vị Tổng thư ký của Bộ là Đức TGM Savio Hàn Đại Huy SDB và Đức TGM Protase Rugambwa.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Các giáo phận của anh em biết rõ bối cảnh xã hội bấp bênh đang ảnh hưởng mạnh đến đời sống hằng ngày của người dân. Những tình trạng cấp thiết về lương thực, sức khỏe và giáo dục đang đặt ra những câu hỏi cho cộng đoàn Giáo Hội và liên hệ trực tiếp tới Giáo Hội. Nói đúng hơn, sự quan tâm và hoạt động của Giáo Hội được đánh giá cao và ca ngợi. Ngoài những thiên tai còn có nạn kỳ thị văn hóa và tôn giáo, sự bất bao dung và thiên vị, hậu quả của trào lưu cực đoan với những nhân sinh quan sai lầm và dẫn tới sự coi rẻ, hoặc chối bỏ tự do tôn giáo, sự tôn trọng những người yếu thế nhất, đặc biệt là các trẻ em, phụ nữ và người khuyết tật. Sau cùng là sự xung khắc giữa các chủng tộc và giai cấp tái lan tràn, gây ra những bạo lực không thể biện minh được.”

Đứng trước những hiện tượng ấy, ĐTC nói với các GM rằng: ”Anh em hãy tín thác nơi Tin Mừng, nơi sức mạnh đổi mới của Tin Mừng, khả năng thức tỉnh lương tâm và khơi lên từ nội tâm sự cứu độ con người và tạo nên một tình huynh đệ mới. Việc phổ biến Lời Chúa làm triển nở hồng ân hòa giải và tạo điều kiện cho sự hiệp nhất các dân tộc”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC ca ngợi đức tin sinh động của các Giáo Hội trẻ, và gọi đây là một dấu chỉ hy vọng cho tương lai Giáo Hội hoàn vũ. Ngài nói: ”Anh em hãy quan tâm đến sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, hội nhập đức tin vào các nền văn hóa địa phương, huấn luyện các ứng sinh linh mục, chăm sóc hàng giáo sĩ giáo phận, các tu sĩ nam nữ và giáo dân. Giáo Hội nảy sinh từ sứ vụ truyền giáo và tăng trưởng với sứ vụ này”.

ĐTC nhắc nhở rằng “Một sự hội nhập đúng đắn đức tin vào các nền văn hóa sẽ giúp anh em đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của các dân tộc, và đón nhận những gì là tốt trong các nền văn hóa ấy. Đây là một tiến trình lâu dài và khó khăn, và không bao giờ được làm thương tổn đặc tính và sự toàn vẹn của đức tin Kitô (Xc Redemptoris missio 52). Sứ mạng truyền giáo đòi các vị Mục Sử phải trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô nhờ đời sống thánh thiện, khôn ngoan, thận trọng, nhìn xa trông rộng và sẵn sàng quảng đại xả thân vì Tin Mừng và quan tâm tới tất cả các Giáo Hội”.

Sau cùng, ĐTC không quên mời gọi các GM hướng dẫn các LM bằng gương sáng, sống hiệp thông với các LM, sẵn sàng lắng nghe và đón nhận các vị ấy tới tình phụ tử, đề cao những khả năng khác nhau của các LM, dấn thân đảm bảo cho các LM của mình những cuộc gặp gỡ chuyên biệt và theo định kỳ để huấn luyện. (SD 7-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI CÁC THẦN HỌC GIA VÀ CHUYÊN VIÊN THÁNH MẪU HỌC GÓP PHẦN SUY TƯ VÀ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ CHO NĂM ĐỨC TIN

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI CÁC THẦN HỌC GIA VÀ CHUYÊN VIÊN THÁNH MẪU HỌC GÓP PHẦN SUY TƯ VÀ ĐỀ NGHỊ MỤC VỤ CHO NĂM ĐỨC TIN

CASTEL GANDOLFO: Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi các thần học gia và chuyên viên thánh mẫu đóng góp suy tư và đề nghị mục vụ, để cho Năm Đức Tin sắp khai mở trở thành thời điểm ơn thánh, trong đó đức tin tinh tuyền của Mẹ Maria trở thành đèn pha định hướng và là mẫu gương của sự trưởng thành kitô.

Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo trưa 8 tháng 9, dành cho các tham dự viên đại hội thánh mẫu học quốc tế lần thứ 23. Hiện diện trong buổi tiếp kiến cũng có Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trường Bộ Phong thánh, và Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng tóa thánh về văn hóa, cũng như vị chủ tịch và các giới chức của Hàn lâm viện giáo hoàng thánh mẫu quốc tế. Đại Hội có đề tài là ”Thánh mẫu học từ Công Đồng Chung Vatican II. Tiếp nhận, tổng kết và các viễn tượng”. Đức Thánh Cha đã nhắc lại sự kiện Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII muốn khai mạc Công Đồng Chung Vatican II vào ngày 11 tháng 10, cùng ngày Công Đồng Chung Êphêxô công bố Đức Maria là ”Theotókos” Mẹ Thiên Chúa, hồi năm 431.

Đức Thánh Cha nói: Như anh chị em biết ngày 11 tháng 10 tới đây Giáo Hội cũng bắt đầu Năm Đức Tin, mà tôi đã tuyện bố với Tự Sắc ”Cánh cửa Đức tin”, trong đó khi trình bầy Đức Maria như là mô thức, mẫu gương của đức tin, tôi khẩn nài sự che chở và bầu cử đặc biệt của Mẹ trên con đường của Giáo Hội, và phó thác cho Mẹ thời gian ơn thánh này. Hôm nay Giáo Hội cũng vui mừng cử hành lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, toàn thánh, rạng đông sự cứu rỗi của chúng ta.

Nhắc lại kỷ niệm là chuyên viên thần học gia trẻ tham dự Công Đồng, Đức Thánh Cha cho biết ngày 29 tháng 10-1963 các nghị phụ đã bỏ phiếu chấp nhận lược đồ trình bầy gương mặt và vai trò của Đức Mẹ trong bối cảnh của Giáo Hội, thay vì cho ra một tài liệu riêng. Vì thế Hiến chế tín lý về giáo Hội dành một chương để nói về Mẹ Thiên Chúa, trong đó gương mặt của Mẹ Maria được đọc lại và tái đề nghị từ Lời Chúa, từ các văn bản của truyền thống giáo phụ và phụng vụ, cũng như từ suy tư thần học và tu đức, và xuất hiện trong tất cả vẻ đẹp và sự đặc biệt lồng khung trong các mầu nhiêm nền tảng của đức tin kitô. Đức tin của Mẹ được hiểu trong mầu nhiệm tình yêu và sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Sự cộng tác của Mẹ vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa và vào sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô được khẳng định và đặt trong việc nhấn mạnh đúng đắn, khiến cho Mẹ trở thành mô thức và điểm quy chiếu cho Giáo Hội. Giáo Hội nhận ra nơi Mẹ chính mình cũng như ơn gọi và sứ mệnh của mình. Sau cùng lòng tôn sùng bình dân đối với Mẹ được dưỡng nuôi bởi các quy chiếu kinh thánh và giáo phụ. Tuy không trình bầy tất cả các đề tài liên quan tới gương mặt của Mẹ Thiên Chúa, nhưng văn bản công đồng cung cấp chân trời giải thích nòng cốt cho mọi suy tư đến sau về thần học, cũng như tu đức và mục vụ, với sự quân bình giữa lý lẽ thần học và tâm tình mộ mến. Giờ đây việc tiếp tục suy tư là nhiệm vụ của các thần học gia và chuyên viên thánh mẫu học (SD 8-9-2012)

Linh Tiến Khải

BUỔI CANH THỨC CẦU NGUYỆN KITÔ HỒI GIÁO TẠI BEIRUT

BUỔI CANH THỨC CẦU NGUYỆN KITÔ HỒI GIÁO TẠI BEIRUT

BEIRUT: Chiều ngày 12 tháng 9 tới đây các tín hữu Kitô và hồi giáo sẽ tham dư buổi canh thức trong thủ đô Beirut, để cầu xin Thiên Chúa và Đức Maria che chở chuyến viếng thăm Libăng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.

Buổi canh thức, do nhiều nhóm đối thoại kitô và hồi giáo tổ chức, có đề tài là ”Cùng nhau trong hòa bình, tình yêu, tự do và an ninh” sẽ diễn ra tại ”Vườn của Đức Maria” gần quảng trường viện bảo tàng quốc gia Beirut. Bốn đoàn bạn trẻ cầm nến sáng và cờ Libăng sẽ xuất phát từ bốn hướng trong thủ đô và sẽ gặp nhau lúc 8 giờ tối tại Vườn của Đức Maria. Chương trình buổi canh thức cầu nguyện bao gồm các bài đọc cũng như các lời cầu xin cho chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI được tất cả mọi người đón nhận như một phúc lành của Chúa trên dân nước Libăng. Linh Mục Antoine Dapu, Thư ký Ủy ban đối thoại với Hồi giáo của Hội Đồng Giám Mục Leban, cho biết buổi canh thức cầu nguyện cũng nhắm mục đích chứng minh cho thế giới thấy trong thời điểm lịch sử này, Leban có thể là một quốc gia của sự chung sống giữa các tín hữu kitô và hồi giáo.

Tham dự buổi canh thức cùng với các tín hữu kitô và hồi giáo cũng sẽ có đại diện của chính quyền và đại diện của tất cả mọi cộng đoàn tôn giáo khác trong nước.

Trong các ngày qua trong mọi giáo phận toàn Leban đã có hàng trăm buổi cầu nguyện suy tư được tổ chức để giúp mọi người chuẩn bị tinh thần đón tiếp Đức Thánh Cha. Cha Dapu nói: Tất cả mọi người dân Libăng, và tất cả mọi giới Lãnh đạo chính trị, xã hội và tôn giáo, kể cả lực lượng Hezbollah, người Druse và các vị lãnh dạo chính trị Sunnít, đều chờ đợi chuyến viếng của Đức Thánh Cha, và coi đây như là một ơn lành cho đất nước Libăng, giúp vượt thắng mọi chia rẽ.

Cha Marwan Tabet, người phối hợp chuyến công du của Đức Thánh Cha, cho biết cách đây hai tháng người ta đoán Đức Thánh Cha sẽ không thực hiện chuyến viếng thăm này. Nhưng khi cha Lombardi, giám đốc Phòng báo chi Tòa thánh chính thức tái xác nhận, thì Giáo Hội và các giới chức chính quyền đã tích cực duyệt xét lại mọi chi tiết. Tuy viếng thăm Leban, nhưng Đức Thánh Cha viếng thăm toàn vùng Trung Đông. Các hãng máy bay đã quyết định cung cấp các chuyến bay đặc biệt để chở tín hữu từ các nước Giordania, Ai Cập, Iraq và Syria đến Leban.

Đức Cha Kyrillos William, Giám Mục công giáo copte Assiut, cho biết tín hữu hân hoan chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha. Sự hiện diện của ngài tại Leban có ý nghĩa rất lớn đối với toàn vùng Trung Đông. Nó cho thấy Giáo Hội toàn thế giới gần gũi với các kitô hữu Trung Đông. Tuy các kitô hữu chỉ là một thiểu số, nhưng chứng tá tình yêu thương huynh đệ của họ rất được qúy chuộng. Các cơ sở giáo dục và bác ái xã hội của các kitô hữu phục vụ tất cả mọi người không phân biệt ai. Vì thế hy vọng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ giúp củng cố tự do tôn giáo và đối thoại liên tôn. Tổng thỗng Leban đã tuyên bố ngày 15 tháng 9 là quốc lễ (FIDES 7-9-2012; SD 7.8-9-2012)

Linh Tiến Khải

GIÁO HỘI PERU KHÍCH LỆ ĐỐI THOẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ TRANH CHẤP TẠI CAJAMARCA

GIÁO HỘI PERU KHÍCH LỆ ĐỐI THOẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ TRANH CHẤP TẠI CAJAMARCA

CAJAMARCA: Đức Cha Miguel Cabrejos Vidarle, Tổng Giám Mục Trujillo bên Perù, bầy tỏ vui mừng trước quyết định của chính quyền thu hồi lệnh giới nghiêm trong vùng Cajamarca, và ngài khích lệ các phe liên hệ đối thoại để giải quyết các tranh chấp.

Từ nhiều tháng qua dân chúng vùng Cajamarca đã kịch liệt chống lại chương trình khai thác một loạt các quặng mỏ của hàng Mỹ Conga trong vùng, vì họ sợ chúng làm ô nhiễm các nguồn nước và môi sinh. Các vụ đụng độ giữa dân chúng và các lực lượng an ninh đã khiến cho nhiều người bị chết và bị thương. Tình hình căng thẳng đã khiến cho chính quyền ra lệnh giới nghiêm.

Trong một thông cáo công bố những ngày vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Cabrejos mời gọi mọi phe liên hệ trong vụ nay cố gắng tiếp tục cuộc đối thoại để phân tích các vấn đề còn tồn động liên quan tới sự tiến bộ và hạnh phúc của người dân toàn vùng Cajamarca. Tin địa phương hco biết ngày 12 tháng 9 này dân chúng toàn vùng sẽ tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống chính quyền. Hiện nay cảnh sát chống bạo động vẫn trấn ngữ nhiều nơi trong thành phố Cajamarca (FIDES 7-9-2012).

Linh Tiến Khải VietVatican

GIÁO HỘI BOLIVIA CỬ HÀNH NGÀY DI CƯ TỊ NẠN

GIÁO HỘI BOLIVIA CỬ HÀNH NGÀY DI CƯ TỊ NẠN

SANTA CRUZ: Chúa nhật 9 tháng 9 hôm nay Giáo Hội Bolivia cử hành Ngày di cư tị nạn với đề tài ”Di cư và tái truyền giảng Tin Mừng”. Đức Hồng Y Julio Terrazaz TGM Santa Cruz sẽ chủ sự thánh lế bế mạc vào ban chiều, theo sau là hội chợ do Văn phòng mục vụ cho người di động tổ chức.

Bà Maria Videla, đặc trách văn phòng mục vụ toàn quốc cho người di cư, cho biết tín hữu Bolivia đi tới đâu cũng xem theo đức tin, lòng đạo đức và các giá trị văn hóa tôn giáo tới đó. Hiện nay có ít nhất hơn 3 triệu người Bolivia sống tại hải ngoại, đông nhất là bên Argentina với 1,2 triệu, Brasil, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ 600.000. Ngoài ra cũmg có người di cư Bolivia sống tại các nước Thụy Điển, Phần Lan, và Hòa Lan.

Trong các ngày này tại Santa Cruz cũng diễn ra đại hội quốc tế lần thứ 4 về nạn buôn bán người, với sự tham dự của nhiều chuyên viên quốc tế đến từ nhiều nước khác nhau. Mục đích của đại hội là đề ra các đường lối trợ giúp các nạn nhân và ngăn chặn nạn buôn người tại Bolivia (FIDES 7-9-2012).

Linh Tiến Khải

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Cầu nguyện trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói và chúc tụng Người

Lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải là lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn ca Chúa Giêsu Kitô Đng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 5 tháng 9-2012. Ngài đã tiếp tục loạt bài giáo lý về đề tài cầu nguyện. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay tôi muốn nói về lời cầu nguyện trong sách Khải Huyền, như anh chị em biết, là cuốn sách cuối cùng của Thánh Kinh Tân Ước. Đây là một cuốn sách khó, nhưng chứa đựng một sự phong phú rất lớn. Nó đặt để chúng ta trong sự tiếp cận với lời nguyện sống động của cộng đoàn Kitô, tụ tập nhau trong ngày của Chúa (Kh 1,10).

Một đọc viên giới thiệu với cộng đoàn sứ điệp Chúa trao phó cho thánh sử Gioan. Đọc viên và cộng đoàn tạo thành hai tác nhân sự phát triển của sách. Từ sự đối thoại liên lỉ của họ, dâng lên một bản hòa âm cầu nguyện phát triển với các hình thái khác nhau cho tới lúc kết thúc.

Khi lắng nghe đọc viên giới thiệu sứ điệp, lắng nghe và quan sát cộng đoàn phản ứng, lời cầu nguyện của họ hướng tới chỗ trở thành lời cầu nguyện của chúng ta.

Phần đầu của sách Khải Huyền (1,4-3,22) gồm ba phần tiếp nối nhau. Phần một (1,4-8) là cuộc đối thoại giữa cộng đoàn vừa tụ họp nhau lại, và đọc viên chúc họ ”ân sủng và bình an”. Lời cầu chúc ấy tới từ Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và Đức Giêsu Kitô, cùng đấn thân trong việc làm cho chương trình tạo dựng và cứu độ đối với nhân loại được tiến triển. Cộng đoàn lắng nghe, và khi nghe xướng tên Chúa Giêsu Kitô, họ đã nhảy mừng và hăng hái trả lời bằng một lời cầu chúc tụng: ”Cho Đấng yêu mến chúng ta và đã giải thoát chúng ta với Máu của Người, Đấng đã làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thủơ muôn đời Amen” (Kh 1,5-6a).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Cộng đoàn được bao bọc bởi tình yêu của Chúa Kitô cảm thấy được giải thoát khỏi các ràng buộc của tội lỗi, và tự tuyên bố là ”vương quốc” của Chúa Giêsu Kitô, hoàn toàn thuộc về Người. Nó nhìn nhận sứ mệnh lớn lao đã được giao phó với bí tích Rửa Tội là đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào lòng thế giới. Cộng đoàn nhìn lên Chúa Giêsu, và với lòng hăng say gia tăng, nó thừa nhận “vinh quang và uy quyền cứu thoát thế giới của Người. Mấy câu đầu chứa đựng một sự phong phú lớn, vì cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta trước hết là lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta. Bị chìm ngập trong biết bao nhiêu lời nói, chúng ta ít có thói quen lắng nghe, nhất là đặt để mình trong tư thế nội tâm và bề ngoài để chú ý tới những điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta. Ngoài ra, các câu này còn dậy cho chúng ta biết rằng lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin, trái lại trước hết phải lời chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu của Người, vì ơn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đem đến cho chúng ta sức mạnh, niềm hy vọng và ơn cứu rỗi.

Người đọc lại nhắc nhở cộng đoàn dấn thân tiếp đón sự hiện diện tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc sống: ”Kìa Người ngự giữa đám mây, ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người” (Kh 1,7a). Sau khi đã lên trời trong một ”đám mây”, biểu tượng của sự siêu việt (x. Cv 1,9), Chúa Giêsu Kitô sẽ trở lại như đã lên trời (x. Cv 1,11b). Khi đó mọi dân tộc sẽ nhận biết và ”sẽ hướng nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu (Ga 19,37). Họ sẽ nghĩ đến các tội lỗi của mình, là lý do của việc đóng đinh Người, và như những người đã trực tiếp chứng kiến cảnh đóng đanh trên đồi Calvê, ”họ sẽ đấm ngực” (x, Lc 23,48), xin Người tha thứ, để theo Người trong cuộc sống, và như thế chuẩn bị cho sự hiệp thông trọn vẹn với Người, sau cuộc trở lại sau hết của Người. Cộng đoàn suy tư về sứ điệp ấy và trả lời ”Amen” (Kh 1,7b). Nó diễn tả việc tiếp nhận tràn đầy những gì được chyển đạt với tiếng ”Có”, và xin cho điều đó trở thành thực tại. Đó là lời cầu nguyện của cộng đoàn suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa, được tỏ lộ ra một cách cao vời trên Thập giá, và xin được sống trung thực như môn đệ của Chúa Kitô. Và Thiên Chúa trả lời: ”Ta là Alpha và Omega, Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8).

Thiên Chúa tự mạc khải như là sự khởi đầu và kết thúc của lịch sử, Người chấp nhận và chú ý tới lời xin của cộng đoàn. Với tình yêu Người đã, đang và sẽ hiện diện tich cực trong các biến cố của loài người cho tới ngày sau hết. Lời cầu nguyện thức tỉnh trong chúng ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống và trong lịch sử; và sự hiện diện của Chúa đỡ nâng, hướng dẫn và trao ban hy vọng cho chúng ta, cả giữa sự tối tăm của vài biến cố nhân loại. Ngoài ra, mỗi một lời cầu nguyện, cả lời cầu nguyện trong thanh vắng triệt để nhất, cũng không bao giờ lẻ loi và cằn cỗi, mà là nhựa sống dưỡng nuôi cuộc đời Kitô ngày càng dấn thân và trung thực hơn.

Phần hai lời cầu nguyện của cộng đoàn (Kh 1,9-22) đào sâu tương quan với Chúa Giêsu Kitô: Chúa cho thấy Người, nói, hành động; và cộng đoàn luôn gần gũi Người hơn lắng nghe, phản ứng và tiếp nhận. Thánh Gioan chia sẻ với cộng đoàn kinh nghiệm riêng của mình đang ở đảo Patmos, vì rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu. Đó là vào Ngày của Chúa, tức Chúa Nhật, ngày cử hành sự phục sinh. Thánh nhân được Thánh Thần nắm lấy, thấm nhuần, canh tân, và làm nở khả năng tiếp nhận Chúa Giêsu mời thánh nhân viết. Lời cầu nguyện của cộng đoàn từ từ trở thành một thái độ chiêm niệm, được đánh nhịp bởi các động từ ”trông thấy”, ”nhìn”, ”chiêm niệm”, nghĩa là nội tâm hóa và biến thành của mình những gì đọc viên đề nghị.

Thánh Gioan nghe một tiếng lớn như tiếng kèn, sai gửi sứ điệp cho bẩy Giáo Hội tại Tiểu Á, và qua các Giáo Hội ấy gửi cho tất cả mọi Giáo Hội và các chủ chăn. Tiếng kèn nhắc nhớ tới cảnh Thiên Chúa hiện ra với ông Môshê trên núi Sinai trong sách Xuất Hành (Xh 20,18), và ám chỉ tiếng Thiên Chúa nói từ Trời, từ sự siêu việt của Người; ở đây nó được áp dụng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh nói với cộng đoàn đang cầu nguyện từ vinh quang của Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan trông thấy bảy cây đèn vàng với nến cháy sáng, ở giữa có một người giống như Con Người, là từ ám chỉ chính Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha giải thích hình ảnh bẩy cây đèn vàng cháy sáng như sau:

Các cây đèn vàng có nến cháy sáng ám chỉ Giáo Hội thuộc mọi thời đại trong thái độ cầu nguyện trong Phụng vụ: Chúa Giêsu Phục Sinh, ”Con Người” ở giữa Giáo Hội và mặc phẩm phục Thượng tế của Cựu Ước đang chu toàn nhiệm vụ tư tế trung gian gần Thiên Chúa Cha. Trong sứ điệp của Gioan có sự biểu lộ sáng láng của Chúa Kitô Phục Sinh với các đặc tính của Thiên Chúa. ”Tóc trắng như tuyết” (Kh 1,14) biểu tượng cho sự vĩnh cửu của Thiên Chúa (Dn 7,9) và sự Phục Sinh. Lửa trong Cựu Ước thường được gán cho Thiên Chúa biểu tượng cho hai đặc tính: thứ nhất là sức mạnh sự ghen tương tình yêu của Người linh hoạt giao ước của Người với nhân loại (x. Đnl 4,24). Người ta có thể đọc đựơc chính sức mạnh cháy nóng tình yêu ấy trong cái nhìn của Chúa Giêsu Phục Sinh: ”mắt Người như ngọn lửa hồng” (Kh 1,14a). Đặc tính thứ hai là khả năng chiến thắng sự dữ ”như lửa thiêu rụi” không thể kìm hãm được (Đnl 9,3). Chân của Chúa Giêsu tiến lên phá hủy sự dữ cũng thế, giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò (Kh 1,15). Tiếng nói của Chúa Giêsu Kitô ”giống như tiếng nước lũ” (Kh 1,15c), như tiếng ”vinh quang của Thiên Chúa tiến về Giêrusalem” mà ngôn sứ Edekiel nói tới (Ed 43,2).

Tiếp theo đó ba yếu tố biểu tượng khác nữa cho thấy điều Chúa Giêsu Phục Sinh đang làm cho Giáo Hội: Người cầm Giáo Hội vững chắc trong tay phải, nói với Giáo Hội với sức mạnh của một thanh gươm sắc nhọn, và chỉ cho Giáo Hội thấy ánh quang thiên tính của Người: ”mặt Người tỏa sáng như mặt trời chói lọi” (Kh 1,16). Kinh nghiệm tuyệt vời ấy khiến cho thánh Gioan đuối sức và ngã vật xuống như chết. Thánh nhân có Chúa Giêsu ở trước mặt đang nói với thánh nhân, trấn an và đặt tay trên đầu thánh nhân, tỏ lộ căn tính là Đấng bị đóng đanh Phục Sinh và giao cho thánh nhân nhiệm vụ viết một sứ điệp cho các Giáo Hội (Kh 1,17-18). Cộng đoàn cũng chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ hằng ngày với Chúa Giêsu, và nhận ra sự phong phú của việc tiếp xúc ấy với Chúa, là Đấng làm tràn đầy mọi không gian của cuộc sống.

Phần thứ ba là hai chương 2-3 của sách Khải Huyền, gồm sứ điệp gửi cho bẩy Giáo Hội Tiểu Á ở chung quanh Ephêx0, trong đó Chúa Giêsu ngỏ lời ở ngôi thứ nhất. Chúa khởi hành từ tình trạng sống đặc biệt của từng Giáo Hội để trải đài ra các Giáo Hội thuộc mọi thời đại. Chúa cho thấy các ánh sáng và bóng tối của từng Giáo Hội và cấp thiết mời gọi ”Hãy hoán cải” (Kh 2,5.16; 3,19c); ”Hãy nắm vững điều ngươi đang có” (3, 11); ”Hãy làm các việc thủơ ban đầu” (2,5); ”Hãy nồng nhiệt và hoản cải” (3,19b)… Các lời này của Chúa Giêsu, nếu được lắng nghe với đức tin thì bắt đầu hữu hiệu ngay. Giáo Hội đang cầu nguyện tiếp nhận Lời Chúa được biến đổi. Mọi Giáo Hội đều phải lắng nghe Chúa và rộng mở cho Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu liên tục đòi hỏi: ”Ai có tai thì lắng nghe lời Thần Khí nói với các Giáo Hội” (2,7.11.17.29; 3,6.13.22). Cộng đoàn lắng nghe sứ điệp nhận được sự khích lệ để sám hối, hoán cải, kiên trì, lớn lên trong tình yêu và định hướng lộ trình của mình.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đc Thánh Cha đã cất Kinh Lạy cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Liên Phi châu Giáo dân Công Giáo

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Hội nghị Liên Phi châu Giáo dân Công Giáo

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi Giáo Hội tại Phi châu tiếp tục hy vọng, mặc dù những hoàn cảnh khó khăn và đen tối, đồng thời hăng say thông truyền Tin Mừng hy vọng cho tha nhân.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong sứ điệp gửi đến hơn 300 đại biểu của hàng giáo dân và đại diện các HĐGM đang tham dự Hội nghị giáo dân Công Giáo Phi châu tiến hành tại Yaoundé, thủ đô Camerun, từ ngày 4 đến 9-9-2012 về đề tài: ”Chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô tại Phi châu ngày nay. Muối đất.. Ánh sáng thế gian” (Mt 5.13.14).

Trong Sứ điệp, ĐTC đề cao tầm quan trọng của Hội nghị giáo dân Phi châu và gọi đây là một giai đoạn đầy ý nghĩa để thực hiện điều mà Chúa Thánh Linh soi sáng cho các nghị phụ Thượng HĐGM Phi châu kỳ 2 nhóm tại Roma hồi năm 2009. Ngài cũng nhận xét rằng những vấn đề của Phi châu thoạt nhìn có vẻ rất trầm trọng và không dễ giải quyết, với bao nhiêu chướng ngại tinh thần và luân lý đối với Giáo Hội, các giá trị truyền thống vững chắc của văn hóa Phi châu bị đe dọa vì nạn tục hóa.. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, nơi tâm hồn của người dân Phi châu, chúng ta khám phá thấy một nguồn tài nguyên tinh thần rất phong phú, rất quí giá đối với thời nay như lòng yêu mến sự sống và gia đình, cảm thức vui tươi và chia sẻ, lòng nhiệt thành sống niềm tin nơi Chúa.

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Anh chị em đừng bao giờ để cho não trạng đen tối của thuyết duy tương đối và hư vô ảnh hưởng tiêu cực trên thực tại của anh chị em; hãy đón nhận và hăng say truyền bá sứ điệp vui mừng và hy vọng mà Chúa Giêsu mang đến”.

ĐTC đặc biệt nhắc đến tấm gương của thánh nữ Giuseppina Bakhita, cựu nô lệ người Sudan, đã chứng tỏ rằng cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô có khả năng biến đổi sâu đậm nơi mỗi người, cả trong những hoàn cảnh nghèo khổ nhất.. Sự khám phá niềm hy vọng Kitô đã khơi lên nơi thánh Bakhita một ước muốn mới mẻ, không thể cầm hãm nổi: đó là thông truyền sự giải thoát mà thánh nữ đã nhận được từ Chúa Kitô.. Niềm hy vọng đã nảy sinh và cứu chuộc thánh nữ, Người không thể giữ riêng cho mình, và niềm hy vọng này phải được đi tới nhiều người, tới tất cả mọi người”.

Từ mẫu gương đó, ĐTC nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo tại Phi châu hăng say tham gia công trình loan báo Tin Mừng: 'nơi nào đức tin đưa tới sự loan báo, thì việc loan báo Tin Mừng cũng củng cố đức tin'. Ngài nói: ”Những người nam nữ, già trẻ, các gia đình và toàn thể xã hội Phi châu ngày nay đang chờ đợi các ”sứ giả” Tin Mừng, chờ đợi các tín hữu giáo dân đến từ các giáo xứ, các cộng đồng Giáo Hội sinh động, các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội, yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội, đầy lòng vui mừng và biết ơn vì phép rửa đã nhận lãnh, những người can cảm kiến tạo hòa bình và loan báo niềm hy vọng đích thực”.

Hội nghị giáo dân Công Giáo tại Yaoundé do Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tổ chức. ĐHY Stanislaw Rylko, Chủ tịch của Hội đồng này cho biết: Hội nghị này muốn khơi dậy nơi giáo dân tinh thần đồng trách nhiệm và dấn thân trong sứ mạng rao giảng Chúa Kitô, làm chứng về đức tin tại Phi châu vì đây là điều thuộc về chính căn tính của Kitô hữu. (SD 5-9-2012).


G. Trần Đức Anh OPVietVatican

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ CÔNG BỐ THÔNG CÁO CHO NGÀY LAO ĐỘNG 3 THÁNG 9

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ CÔNG BỐ THÔNG CÁO CHO NGÀY LAO ĐỘNG 3 THÁNG 9

WASHINGTON: Ngày 13 tháng 8-2012 Ủy ban Công Lý và Phát triển nhân bản của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã công bố thông cáo cho Ngày Lao Động 3-9, khẳng định rằng tôn trọng lao động và các công nhân là chìa khóa của một nền kinh tế được canh tân.

Thông cáo mang chữ ký của Đức Cha Stephen Blaire, Chủ tỉch Ủy ban, có tựa đề là ”Đặt để việc làm và công nhân vào trung tâm cuộc sống kinh tế”. Trong đó các Giám mục Hoa Kỳ nhận định rằng có ”hàng triệu người Mỹ đau khổ vì thất nghiệp, thiếu việc làm, nghèo túng và điều này là một thất bại kinh tế vá luân lý trầm trọng của quốc gia chúng ta”. Nhắc lại sự kiện 12 triệu người không có công ăn việc làm và biết bao nhiêu người có đồng lương qúa thấp hay đã bỏ không kiếm việc làm nữa, 10 triệu gia đình các công nhân nghèo, và 46 triệu người trong đó có 16 triệu trẻ em sống trong bần cùng, Đức Cha Blaire định nghĩa nền kinh tế Hoa Kỳ là ”một nền kinh tế thất bại”. Trích Thông điệp ”Bác ái trong chân lý” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Đức Cha Blaire nhắc lại rằng ”nghèo túng thường khi là hậu qủa của một sự vi phạm phẩm gía công việc làm của con người, hoặc là vì thiếu cơ may có việc làm, hoặc là vì cho rằng công việc làm và các quyền phát xuất từ đó ít gía trị” (CV 63). Chính vì thế mới xảy ra con người phải trả các giá mắc mỏ kinh khủng, hậu qủa của một nền kinh tế thất bại, hay cảnh các công nhân bị khai thác bóc lột, bị đối xử tàn tệ, bị trả lương thấp, khiến cho các gia đình bị căng thẳng”.

Trước cảnh đó nhiều công nhân tranh đấu để có được đồng lương công bằng, một việc làm chắc chắn, một tiếng nói trong thế giới kinh tế, vì họ không thể mua các sản phẩm mà họ đã sản xuất ra, đến ở trong các khách sạn mà họ lau chùi quét dọn, ăn thực phẩm mà họ gặt hái, chuẩn bị và phục vụ”. Và Đức Cha Blaire viết thêm rằng ”chính vì thế một nền kinh tế cho phép kiểu khai thác bóc lột và các lạm dụng này đòi hỏi sự chú ý và hành động của chúng ta”. Tiếp đến Đức Cha nhắc tới dấn thân của Giáo Hội đối với các công nhân bị khai thác bóc lột, được trợ giúp qua văn phòng phục vụ các người di cư và tị nạn và Chiến dịch Giáo Hôi công giáo phát động để thăng tiến nhân bản cho họ. Sau cùng các Giám Muc Hoa Ky kêu gọi ”mọi người và mọi cơ cấu xã hội, các hãng xưởng, chính quyền, các nghiệp đoàn và tổ chức tư nhân cộng tác với nhau trong việc nâng đỡ các công nhân viên và tạo ra một hệ thống kinh tế phục vụ con người hơn là chống lại con người. Các vị cũng xin mọi ngươi cầu nguyện cho tất cả các anh chị em công nhân nhất là những ngừơi khÔng có một công viêc làm xứng đáng, làm sao để tái lập một nền kinh tế công bắng vinh danh phẩm giá lao động và các quyền của giới công nhân” (SD 14-8-2012)

Linh Tiến Khải