Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ gần 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-6-2013. Ngay từ lúc 6 giờ sáng đã có các đoàn hành hương đứng xếp hàng để chờ qua các trạm kiểm soát và vào quảng trưởng thánh Phêrô. Lúc 9 giờ 45 xe jeep trắng chở Đức Thánh Cha tiến ra quảng trường giữa tiếng vỗ tay reo hò liên tục đặc biệt là của các trẻ em và người trẻ. Có mấy người tàn tật “bắt cóc” được Đức Thánh Cha ngay khi xe vừa ra khỏi cổng. Ngài đã xuống ôm hôn một cụ già. Khi xe đi giữa các lối đi của quảng trường, Đức Thánh Cha phải vất vả quay phía trái rồi lại quay qua phía phải, vì tín hữu gào to lên: ”Xin Đức Thánh Cha quay qua phía chúng con”. Và không cần phải nói thì qúy vị cũng biết rằng các bà mẹ có con nhỏ đứng gần lối đi đưa con họ cho các cận vệ để họ bế các em lên cho Đức Thánh Cha hôn và xoa đầu chúng. Lần nào trước và sau khi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng mất 1 tiếng rưỡi đồng hồ để chào tín hữu. Vì thế tuy phải đứng chờ dưới trời mùa hè Roma nóng hơn 30 độ cả mấy giờ đồng hồ, mọi người vẫn vui vẻ, reo hò, và có điều rất lạ là đã không có ai bị xỉu. Mỗi một buổi tiếp kiến giống như một ngày lễ hội.

Sáng thứ tư 19-6-2013 trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô như Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định (LG 7). Đức Thánh Cha nói: Hình ảnh thân mình giúp chúng ta hiểu mối dây nối kết chặt chẽ này giữa Giáo Hội và Chúa Kitô, mà thánh Phaolô đã khai triển một cách đặc biệt trong chương 12 thư thứ I gửi tín hữu Corintô. Đức Thánh Cha định nghĩa Giáo Hội như sau:

Giáo Hội không phải là một hiệp hội cứu trợ, văn hóa hay chính trị, mà là một thân thể sống động, tiến bước và hành động trong dòng lịch sử. Và thân mình đó có một thủ lãnh là Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn, dưỡng nuôi và đỡ nâng thân mình. Đây là một điểm mà tôi muốn nêu bật: nếu ta tách rời đầu khỏi phần còn lại của thân thể, thì toàn con người không thể sống sót được. Trong Giáo Hội cũng thế: chúng ta phải luôn luôn gắn bó một cách sâu đậm với Chúa Giêsu. Nhưng không phải chỉ có thế: cũng như trong một thân thể, điều quan trọng là nhựa sống phải đi qua để thân thể sống, cũng thế chúng ta phải cho phép Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta, để cho Lời của Người hướng dẫn chúng ta, để cho sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể dưỡng nuôi chúng ta, linh hoạt chúng ta, để cho tình yêu của Người ban sức mạnh cho chúng ta, cho tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Và phải luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn như vậy! Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu, hãy tín thác nơi Người, hãy dịnh hướng cuộc sống của chúng ta theo Tin Mừng của Người, chúng ta hãy đưỡng nuôi mình với lời cầu nguyện mỗi ngày, với việc lắng nghe Lời Chúa, với việc tham dự vào các Bí Tích.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành Damasco đã giúp thánh Phaolô hiểu được sự hiệp nhất sâu đậm giữa các tín hữu kitô với Chúa Kitô. Saulô, sau này sẽ được gọi là Phaolô, là một trong các nhà rao truyền Tin Mừng vĩ đại nhất. Nhưng trước đó Saulô đã là một người bách hại các kitô hữu, nhưng trong khi Saulô đến thành Damasco, thì bất thình lình một ánh sáng bao phủ ông, Ông té xuống đất và nghe một tiếng nói với ông: ”Saulô, Saulô, tại sao ngươi bách hai Ta?” Ông hỏi: ”Lạy Chúa Ngài là ai?” và tiếng nói đó trả lời: ”Ta là Giêsu mà ngươi bách hại” (Cv 9,3-5). Khi Chúa Giêsu lên trời Người đã không để chúng ta mồ côi, nhưng với ơn Thánh Thần sự hiệp nhất với Người để lại còn trở thành sâu đậm hơn nữa. Công Đồng Chung Vatican II khẳng định rằng ”khi thông truyền Thần Khí của Người, Chúa Giêsu thành lập một cách thần bí như thân mình Người các anh em Người, được mời gọi từ mọi dân tộc” (LG, 7)

Khía cạnh thứ hai cúa Giáo Hội đó là Giáo Hội như Thân Mình của Chúa Kitô. Thánh Phaolô khẳng định rằng như các chi thể của thân thể con người, tuy khác nhau và nhiều, nhưng chúng làm thành một thân thể duy nhất. Như vậy tất cả chúng ta đã được rửa tội qua cùng một Thần Khí trong một thân mình duy nhất (x. 1 Cr 12,12-13). Đức Thánh Gia giải thích điểm này như sau:

Như vậy trong Giáo Hội có một sự khác biệt, một sự khác nhau về bổn phận và nhiệm vụ; không có sự đồng nhất bằng phẳng, nhưng có sự phong phú các ơn mà Chúa Thánh Thần phân phát. Tuy nhiên có sự hiệp thông và hiệp nhất: tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này: là thành phần của Giáo Hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu, có nghĩa là hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Giám Muc, là các dụng cụ của sự hiệp nhất và hiệp thông, và cũng có nghĩa là học hỏi và thắng vượt các khuynh hướng cá nhân và các chia rẽ, hiểu biết nhau nhiều hơn, hòa hợp các khác biệt và các phong phú của từng người; tắt một lời là yêu mến Thiên Chúa và những người sống gần chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các hội đoàn. Để có thể sống được thân mình và các chi thể phải hiệp nhất. Sự hiệp nhất lớn hơn các xung khắc, luôn luôn. Các xung đột nếu không được giải quyết tốt, tách rời chúng ta khỏi chính mình, tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa. Sự dụng độ có thể giúp chúng ta lớn lên, nhưng cũng có thể chia rẽ chúng ta. Chúng ta đừng đi trên con đường của các chia rẽ, của các đấu tranh giữa chúng ta, đừng! Tất cả hiệp nhất, tất cả hiệp nhất với các khác biệt của chúng ta, nhưng mà hiệp nhất, luôn luôn hiệp nhất. Hiệp nhất là con đường của Chúa Giêsu!

Sự hiệp nhất cao hơn các xung khắc. Sự hiệp nhất là một ơn mà chúng ta phải xin với Chúa, để Người giải thoát chúng ta khỏi các cám dỗ chia rẽ, các chiến đấu giữa chúng ta và các ích kỷ, bép xép mách lẻo. Các bép xép gây ra biết bao nhiêu đau đớn! Biết bao nhiêu đau đớn phải không? Biết bao sư dữ! Đừng bao giờ bép xé về người khác: đừng bao giờ. Các chia rẽ giữa các kitô hữu, việc tách riêng ra và các lợi nhuận thấp hèn gây ra biết bao nhiêu thiệt hại cho Giáo Hội! Các chia rẽ giữa chúng ta, và cả các chia rẽ giữa các cộng đoàn, kitô hữu tin lành, kitô hữu chính thống, kitô hữu công giáo… mà tại sao lại chia rẽ? Chúng ta phải tìm đem lại sự hiệp nhất.

Rồi Đức Thánh Cha kể cho mọi người nghe một chuyện. Ngài nói: hôm nay trước khi ra khỏi nhà, với một mục sư tin lành chúng tôi đã cầu nguyện chung với nhau khoảng 40 phút, nửa giờ, bằng cách tìm sự hiệp nhất. Chúng ta phải cầu nguyện chung với nhau giữa chúng ta là tín hữu công giáo, nhưng cả với các kitô hữu khác nữa, cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta sự hiệp nhất: sự hiệp nhất giữa chúng ta! Nhưng mà làm sao chúng ta có thể có sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, nếu chúng ta không có khả năng hiệp nhất giữa tín hữu công giáo chúng ta, trong gia đình – có biết bao gia đình chống đối và chia rẽ nhau? Anh chị em hãy tìm sự hiệp nhất, và là sự hiệp nhất mà Giáo Hội làm, và sự hiệp nhất đến từ Chúa Giêsu Kitô. Chính Người gửi Thánh Thần đến cho chúng ta để tạo sự hiệp nhất.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Trong phần chào các tín hữu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặc hiệt chào các phái đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như: Nam Phi, Papua Tân Guinea; và từ Á châu như các nước: Ấn Độ, Indonesia và Pakistan; cũng như các nước đến đến từ các nước châu Mỹ Latinh chẳng hạn như Argentina, Costa Rica, Honduras, Mexico, Cộng hàa Domninicana, và Brasil. Đức thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Ai Cập, Lebanese và Iraq.

Ngài cũng chào các tín hữu Italia thuộc các giáo xứ, hội đoàn, các nhóm và các tổ chức khác nhau, đặc biệt là các đoàn hành hương của các giáo phậm Pozzuoli, Lecce, Velletri Segni, Alessandria, Osimo, và Albano cùng với các Giám Mục và Tổng Giám Mục dẫn đầu. Ngài cầu chúc tất cả những ngày viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm các nơi thánh được nhiều ơn thánh và ích lợi thiêng liêng, giúp củng cố đức tin và sống trung thành với ơn gọi kitô. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho sứ vụ phụng sự của ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha đã đứng bắt tay chào các Giám Mục và tín hữu đứng hai bên khán đài cũng như các cặp vợ chồng mới cưới. Khi xe jeep đi ngang qua các người tàn tật ngồi trên ghế lăn ngài đã xuống xe đến bắt tay chào, ôm hôn, nói chuyện với họ và an ủi họ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ gần 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-6-2013. Ngay từ lúc 6 giờ sáng đã có các đoàn hành hương đứng xếp hàng để chờ qua các trạm kiểm soát và vào quảng trưởng thánh Phêrô. Lúc 9 giờ 45 xe díp trắng chở Đức Thánh Cha tiến ra quảng trường giữa tiếng vỗ tay reo hò liên tục đặc biệt là của các trẻ em và người trẻ. Có mấy người tàn tật “bắt cóc” được Đức Thánh Cha ngay khi xe vừa ra khỏi cổng. Ngài đã xuống ôm hôn một cụ già. Khi xe đi giữa các lối đi của quảng trường, Đức Thánh Cha phải vất vả quay phía trái rồi lại quay qua phía phải, vì tín hữu gào to lên: ”Xin Đức Thánh Cha quay qua phía chúng con”. Và không cần phải nói thì qúy vị cũng biết rằng các bà mẹ có con nhỏ đứng gần lối đi đưa con họ cho các cận vệ để họ bế các em lên cho Đức Thánh Cha hôn và xoa đầu chúng. Lần nào trước và sau khi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng mất 1 tiếng rưỡi đồng hồ để chào tín hữu. Vì thế tuy phải đứng chờ dưới trời mùa hè Roma nóng hơn 30 độ cả mấy giờ đồng hồ, mọi người vẫn vui vẻ, reo hò, và có điều rất lạ là đã không có ai bị xỉu. Mỗi một buổi tiếp kiến giống như một ngày lễ hội.

Sáng thứ tư 19-6-2013 trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô như Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định (LG 7). Đức Thánh Cha nói: Hình ảnh thân mình giúp chúng ta hiểu mối dây nối kết chặt chẽ này giữa Giáo Hội và Chúa Kitô, mà thánh Phaolô đã khai triển một cách đặc biệt trong chương 12 thư thứ I gửi tín hữu Corintô. Đức Thánh Cha định nghĩa Giáo Hội như sau:

Giáo Hội không phải là một hiệp hội cứu trợ, văn hóa hay chính trị, mà là một thân thể sống động, tiến bước và hành động trong dòng lịch sử. Và thân mình đó có một thủ lãnh là Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn, dưỡng nuôi và đỡ nâng thân mình. Đây là một điểm mà tôi muốn nêu bật: nếu ta tách rời đầu khỏi phần còn lại của thân thể, thì toàn con người không thể sống sót được. Trong Giáo Hội cũng thế: chúng ta phải luôn luôn gắn bó một cách sâu đậm với Chúa Giêsu. Nhưng không phải chỉ có thế: cũng như trong một thân thể, điều quan trọng là nhựa sống phải đi qua để thân thể sống, cũng thế chúng ta phải cho phép Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta, để cho Lời của Người hướng dẫn chúng ta, để cho sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể dưỡng nuôi chúng ta, linh hoạt chúng ta, để cho tình yêu của Người ban sức mạnh cho chúng ta, cho tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Và phải luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn như vậy! Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu, hãy tín thác nơi Người, hãy dịnh hướng cuộc sống của chúng ta theo Tin Mừng của Người, chúng ta hãy đưỡng nuôi mình với lời cầu nguyện mỗi ngày, với việc lắng nghe Lời Chúa, với việc tham dự vào các Bí Tích.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành Damasco đã giúp thánh Phaolô hiểu được sự hiệp nhất sâu đậm giữa các tín hữu kitô với Chúa Kitô. Saulô, sau này sẽ được gọi là Phaolô, là một trong các nhà rao truyền Tin Mừng vĩ đại nhất. Nhưng trước đó Saulô đã là một người bách hại các kitô hữu, nhưng trong khi Saulô đến thành Damasco, thì bất thình lình một ánh sáng bao phủ ông, Ông té xuống đất và nghe một tiếng nói với ông: ”Saulô, Saulô, tại sao ngươi bách hai Ta?” Ông hỏi: ”Lạy Chúa Ngài là ai?” và tiếng nói đó trả lời: ”Ta là Giêsu mà ngươi bách hại” (Cv 9,3-5). Khi Chúa Giêsu lên trời Người đã không để chúng ta mồ côi, nhưng với ơn Thánh Thần sự hiệp nhất với Người để lại còn trở thành sâu đậm hơn nữa. Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng ”khi thông truyền Thần Khí của Người, Chúa Giêsu thành lập một cách thần bí như thân mình Người các anh em Người, được mời gọi từ mọi dân tộc” (LG, 7)

Khía cạnh thứ hai cúa Giáo Hội đó là Giáo Hội như Thân Mình của Chúa Kitô. Thánh Phaolô khẳng định rằng như các chi thể của thân thể con người, tuy khác nhau và nhiều, nhưng chúng làm thành một thân thể duy nhất. Như vậy tất cả chúng ta đã được rửa tội qua cùng một Thần Khí trong một thân mình duy nhất (x. 1 Cr 12,12-13). Đức Thánh Gia giải thích điểm này như sau:

Như vậy trong Giáo Hội có một sự khác biệt, một sự khác nhau về bổn phận và nhiệm vụ; không có sự đồng nhất bằng phẳng, nhưng có sự phong phú các ơn mà Chúa Thánh Thần phân phát. Tuy nhiên có sự hiệp thông và hiệp nhất: tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này: là thành phần của Giáo Hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu, có nghĩa là hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Giám Muc, là các dụng cụ của sự hiệp nhất và hiệp thông, và cũng có nghĩa là học hỏi và thắng vượt các khuynh hướng cá nhân và các chia rẽ, hiểu biết nhau nhiều hơn, hòa hợp các khác biệt và các phong phú của từng người; tắt một lời là yêu mến Thiên Chúa và những người sống gần chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các hội đoàn. Để có thể sống được thân mình và các chi thể phải hiệp nhất. Sự hiệp nhất lớn hơn các xung khắc, luôn luôn. Các xung đột nếu không được giải quyết tốt, tách rời chúng ta khỏi chính mình, tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa. Sự dụng độ có thể giúp chúng ta lớn lên, nhưng cũng có thể chia rẽ chúng ta. Chúng ta đừng đi trên con đường của các chia rẽ, của các đấu tranh giữa chúng ta, đừng! Tất cả hiệp nhất, tất cả hiệp nhất với các khác biệt của chúng ta, nhưng mà hiệp nhất, luôn luôn hiệp nhất. Hiệp nhất là con đường của Chúa Giêsu!

Sự hiệp nhất cao hơn các xung khắc. Sự hiệp nhất là một ơn mà chúng ta phải xin với Chúa, để Người giải thoát chúng ta khỏi các cám dỗ chia rẽ, các chiến đấu giữa chúng ta và các ích kỷ, bép xép mách lẻo. Các bép xép gây ra biết bao nhiêu đau đớn! Biết bao nhiêu đau đớn phải không? Biết bao sư dữ! Đừng bao giờ bép xé về người khác: đừng bao giờ. Các chia rẽ giữa các kitô hữu, việc tách riêng ra và các lợi nhuận thấp hèn gây ra biết bao nhiêu thiệt hại cho Giáo Hội! Các chia rẽ giữa chúng ta, và cả các chia rẽ giữa các cộng đoàn, kitô hữu tin lành, kitô hữu chính thống, kitô hữu công giáo… mà tại sao lại chia rẽ? Chúng ta phải tìm đem lại sự hiệp nhất.

Rồi Đức Thánh Cha kể cho mọi người nghe một chuyện. Ngài nói: hôm nay trước khi ra khỏi nhà, với một mục sư tin lành chúng tôi đã cầu nguyện chung với nhau khoảng 40 phút, nửa giờ, bằng cách tìm sự hiệp nhất. Chúng ta phải cầu nguyện chung với nhau giữa chúng ta là tín hữu công giáo, nhưng cả với các kitô hữu khác nữa, cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta sự hiệp nhất: sự hiệp nhất giữa chúng ta! Nhưng mà làm sao chúng ta có thể có sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, nếu chúng ta không có khả năng hiệp nhất giữa tín hữu công giáo chúng ta, trong gia đình – có biết bao gia đình chống đối và chia rẽ nhau? Anh chị em hãy tìm sự hiệp nhất, và là sự hiệp nhất mà Giáo Hội làm, và sự hiệp nhất đến từ Chúa Giêsu Kitô. Chính Người gửi Thánh Thần đến cho chúng ta để tạo sự hiệp nhất.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Trong phần chào các tín hữu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặc hiệt chào các phái đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như: Nam Phi, Papua Tân Guinea; và từ Á châu như các nước: Ấn Độ, Indonesia và Pakistan; cũng như các nước đến đến từ các nước châu Mỹ Latinh chẳng hạn như Argentina, Costa Rica, Honduras, Mêhicô, Cộng hàa Domninicana, và Brasil. Đức thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Ai Cập, Libăng và Irak.

Ngài cũng chào các tín hữu Italia thuộc các giáo xứ, hội đoàn, các nhóm và các tổ chức khác nhau, đặc biệt là các đoàn hành hương của các giáo phậm Pozzuoli, Lecce, Velletri Segni, Alessandria, Osimo, và Albano cùng với các Giám Mục và Tổng Giám Mục dẫn đầu. Ngài cầu chúc tất cả những ngày viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm các nơi thánh được nhiều ơn thánh và ích lợi thiêng liêng, giúp củng cố đức tin và sống trung thành với ơn gọi kitô. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho sứ vụ phụng sự của ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha đã đứng bắt tay chào các Giám Mục và tín hữu đứng hai bên khán đài cũng như các cặp vợ chồng mới cưới. Khi xe díp đi ngang qua các người tàn tật ngồi trên ghế lăn ngài đã xuống xe đến bắt tay chào, ôm hôn, nói chuyện với họ và an ủi họ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Bộ Phụng Tự qui định thêm tên Thánh Giuse vào Kinh Nguyện Thánh Thể

Bộ Phụng Tự qui định thêm tên Thánh Giuse vào Kinh Nguyện Thánh Thể

VATICAN. Hôm 19-6-2013, Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã công bố sắc lệnh qui định từ nay tên thánh Giuse được ghi thêm vào kinh nguyện Thánh Thể (Kinh Tạ Ơn) thứ II, thứ III và thứ IV.

Trong sắc lệnh ký ngày 1 tháng 5-2013, ĐHY Antonio Canizares Lloreva Tổng trưởng, và Đức TGM Arthur Roche, Tổng thư ký, thông báo: ĐTC Phanxicô đã củng cố quyết định đã được ĐGH Biển Đức 16 đề ra trước đó về việc ghi thêm tên Thánh Giuse một cách trường kỳ trong các Kinh nguyện Thánh Thể dùng trong hầu hết các thánh lễ bằng tiếng latinh. Sắc lệnh cho biết ĐGH Biển Đức 16 đã nhận được những lời thỉnh cầu của nhiều tín hữu Công Giáo ở các nơi trên thế giới và đã phê chuẩn việc ghi thêm sau tên của Đức Maria câu ”cùng với Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ”.

Một chức sắc của Bộ Phụng Tự nói với hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ hôm 18-6-2013 rằng các HĐGM có thể xác định ngày bắt đầu thi hành việc thay đổi trên đây nếu thấy việc xác định này là cần, nhưng vì đây chỉ là thêm vài chữ, nên các LM có thể bắt đầu áp dụng ngay.

Trong phần đầu, Sắc Lệnh nhắc đến vai trò của Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ và mô tả thánh nhân là ”mẫu gương về lòng khiêm tốn quảng đại mà Kitô giáo đề cao đến độ cao cả, và một chứng nhân về những nhân đức thông thường, nhân bản và đơn sơ, cần thiết để con người trở nên môn đệ nhân đức và chân chính của Chúa Kitô”.

Kèm theo sắc lệnh, Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cũng cung cấp cho các GM trên thế giới những từ chính xác được thêm vào trong các kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV bằng tiếng la tinh, Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ đào nha, Pháp, Đức và Ba Lan.

Sắc lệnh cũng nhắc lại rằng ”Trong Giáo Hội Công Giáo, các tín hữu vẫn luôn biểu lộ một cách liên tục lòng sùng mộ nhiệt thành đối với Thánh Giuse, tôn kính một cách trọng thể và liên tục việc tưởng niệm Hôn Phu rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và thánh nhân là Bổn Mạng của toàn thể Giáo Hội, đến độ trong Công đồng chung Vatican 2, Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan 23 đã quyết định ghi thêm tên Thánh Nhân trong Lễ Quy Roma rất cổ kính”.

Hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ nhận xét rằng ĐTC Biển Đức 16 có tên thánh là Giuse. Đức Đương kim Giáo Hoàng Phanxicô cũng có lòng sùng mộ đặc biệt đối với thánh nhân. Trong huy hiệu Giáo Hoàng của ngài, có bông hoa biểu tượng thánh Giuse, và ngài đã chọn lễ thánh Giuse 19-3 làm lễ khai mạc sứ vụ của ngài.

”Trong bài giảng, ĐTC Phanxicô nói rằng: ”Thánh Giuse xuất hiện như một người mạnh mẽ và can đảm, một người cần cù làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài chúng ta thấy sự dịu dàng, đây không phải là nhân đức của người yếu, nhưng đúng hơn là dấu hiệu sức mạnh tinh thần và khả năng quan tâm, cảm thương, chân thành cởi mở đối với tha nhân và yêu thương” (SD, CNS 18,19-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và giúp đỡ các gia đình tị nạn

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và giúp đỡ các gia đình tị nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi liên đới, đón nhận và giúp đỡ các gia đình tị nạn, đồng thời dấn thân đón nhận và làm chứng về Tin Mừng Sự Sống. Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 19-6-2013, tại Quảng trường thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Ngày mai là Ngày Thế Giới về người tị nạn. Năm nay chúng ta được mời gọi đặc biệt xét đến tình trạng các gia đình tị nạn, nhiều khi phải vội vã rời bỏ gia cư và quê hương, đánh mất mọi sản nghiệp và an ninh để trốn chạy bạo lực, bách hại hoặc những vụ kỳ thị trầm trọng vì lý do tuyên xưng tôn giáo, hoặc thuộc về một nhóm chủng tộc, hay vì chính kiến.

”Ngoài những nguy hiểm gặp phải trong hành trình, nhiều khi các gia đình tị nạn ấy còn bị nguy cơ phân rẽ, và tại những nước tiếp cư, họ phải đối đầu với những nền văn hóa và xã hội khác biệt. Chúng ta không thể thiếu nhạy cảm đối với những gia đình ấy và tất cả những anh chị em tị nạn: chúng ta được kêu gọi giúp đỡ họ, cởi mở cảm thông và đón tiếp họ.

”Ước gì trên toàn thế giới không thiếu những người và tổ chức giúp đỡ những người tị nạn: nơi khuôn mặt họ có in khuôn mặt của Chúa Kitô!

Mặt khác, ĐTC cũng lên tiếng kêu gọi bệnh vực sự sống và nói rằng:

”Chúa nhật vừa qua, trong Năm Đức Tin, chúng ta đã cử hành Thiên Chúa là Sự Sống và là nguồn mạch sự sống, Chúa Kitô Đấng ban cho chúng ta sự sống thần linh, Chúa Thánh Linh giữ gìn chúng ta trong quan hệ sinh tử của những người con đích thực của Thiên Chúa. Một lần nữa tôi muốn mời gọi tất cả mọi người hãy đón nhận và làm chứng về Tin Mừng sự sống, thăng tiến và bảo vệ sự sống trong mọi chiều kích và mọi giai đoạn. Kitô hữu là người ”ủng hộ sự sống”, là người thưa ”xin vâng” đối với Thiên Chúa, là Đấng Hằng Sống” (SD 19-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khai mạc Hội nghị Giáo phận Roma

Đức Thánh Cha khai mạc Hội nghị Giáo phận Roma

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu giáo phận Roma hãy làm chứng về niềm hy vọng bằng cuộc sống chứng tá vui tươi, không sợ hãi, ra khỏi chính mình để tìm đến với tha nhân, nơi những người đang chịu đau khổ.

ĐTC đã đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong bài giáo lý về chủ đề ”Tôi không hổ thẹn về Tin Mừng”, tại buổi khai mạc Hội nghị thường niên của Giáo phận Roma, tiến hành tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Roma, lúc 7 giờ chiều ngày 17-6-2013, trước sự hiện diện của 10 ngàn người, gồm ĐHY giám quản Agostino Vallini, 7 GM phụ tá, đông đảo các LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân dấn thân. Hàng ngàn người đứng ở các hành lang và sân bên ngoài, theo dõi buổi khai mạc qua các màn hình, vì bên trong Thính đường không đủ chỗ.

Lên tiếng sau bài Sách Thánh, ĐTC đã quảng diễn đoạn thư theo thánh Phaolô, xác quyết các tín hữu Kitô không còn sống dưới lề luật, nhưng dưới ơn thánh. Ngài cũng nhận xét rằng ”giữa bao đau khổ, bao nhiêu vấn đề ở Roma này, có bao nhiêu người sống mà không hy vọng; trong thinh lặng chúng ta hãy nghĩ đến những người ấy, những người đang chìm trong buổi thảm sâu đậm, họ tìm cách thoát khỏi thảm cảnh đó với ảo tưởng tìm được hạnh phúc trong men rượu, trong ma túy, trong cờ bạc, trong quyền lực của tiền bạc, trong tình dục tháo thứ..”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chúng ta phải trao tặng hy vọng bằng niềm vui của chúng ta, với nụ cười và nhất là bằng chứng tá. Làm chứng tá đòi phải kiên nhẫn và can đảm, hai nhân đức của thánh Phaolô và của mọi Kitô hữu, nhờ đó, chúng ta ra ngoài, gặp gỡ dân chúng. Chúng ta hãy ra khỏi chính mình, khỏi các cộn gđoàn của mình để đi đến nơi có những người nam nữ đang sống, đang làm việc và chịu đau khổ, và loan báo cho họ lòng từ bi của Chúa Cha, Đấng đã tự mạc khải cho loài người trong Đức Giêsu thành Nazareth, loan báo cho họ ân phúc Chúa đã trao tặng chúng ta”.

ĐTC không quên cảnh giác rằng: ”Có một kẻ thù khác có thể chống lại việc rao giảng Tin Mừng, đó là sự thất vọng, là sự buồn sầu mà ma quỷ gieo vào trong tâm hồn chúng ta: đây chính là một cuộc chiến đấu thiêng liêng, một cuộc tử đạo của mọi Kitô hữu, và chúng ta cần phải được chuẩn bị cho cuộc chiến đấu này, không chút sợ hãi”.

Buổi khai mạc Hội nghị kéo dài 2 tiếng đồng hồ, với phần cầu nguyện, suy niệm, các bài đọc sách thánh, với sự phụ họa của âm thanh và ánh sáng, cũng như các bài thánh ca do Ca đoàn giáo phận Roma đảm trách”.

Hội nghị của giáo phận Roma được tiếp nối lúc 7 giờ rưỡi chiều 18-6-2013 tại Đền thờ thánh Gioan Laterano với bài thuyết trình của Đứ Cha Franco Giulio Brambilla, GM giáo phận Novara, về đề tài ”Sự dấn thân của cộng đồng Giáo Hội đối với trách nhiệm của các tín hữu Kitô loan báo Chúa Kitô”. Tiếp theo đó ĐHY Giám quản Vallini trình bày về ”những đường hướng mục vụ”. Hội nghĩ sẽ kế thúc vào thứ tư 19-6-2013, tại các giáo xứ hoặc các giáo hạt (RG 18-6-2013).


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

DÁM CHO THẤY NHỮNG YẾU ĐUỐI CỦA MÌNH

DÁM CHO THẤY NHỮNG YẾU ĐUỐI CỦA MÌNH

Kitô hữu không thể “loan báo Chúa Giêsu-Kitô cứu độ” nếu “tự sâu xa họ không cảm nhận Ngài”, nếu họ che giấu những yếu đuối của mình, nếu họ không nhìn nhận mình tội lỗi “cách cụ thể”, vì lý do này hay lý do kia.

Đó là tuyên bố của Đức Phanxicô trong bài giảng lễ ngày 14.6.2013, tại nhà nguyện thánh Mátta, trước sự hiện diện của các nhân viên của Bộ Giáo Sĩ.

Trích dẫn thánh Phaolô trong bài đọc I (2Cr 4, 7-15), Đức Thánh Cha đã so sánh các Kitô hữu với “những bình gốm vô giá trị” đang sống “cuộc đối thoại cứu độ” với “sức mạnh của Chúa Giêsu cứu độ”.

Cuộc đối thoại này phải được thực hiên theo khuôn mẫu được thánh Phaolô đưa ra: “Nhiều lần [thánh Phaolô] đã nói, như một điệp khúc, về tội lỗi của mình: “Tôi đã từng là người bách hại Hội Thánh…Tôi đã bách hại…”…Ngài cảm thấy mình là tội nhân.”

Nói cách khác, “mỗi khi thánh Phaolô nói về lý lịch của mình…thì ngài cũng nói đến những ‘yếu đuối’ của ngài, những tội lỗi của ngài. Trái lại, người ta “luôn có cám dỗ về lý lịch, và che giấu đôi chút những ‘yếu đuối’ của mình để người ta không  thấy chúng rõ quá”.

Khuôn mẫu của thánh Phaolô cũng có giá trị “đối với các linh mục”: những ai “chỉ khoe khoang về lý lịch của mình…” thì cuối cùng sẽ “tự dối mình” vì ta không thể “loan báo Chúa Giêsu Kitô cứu độ” nếu “tự sâu xa ta không cảm nhận Ngài”.

Nó hệ tại “trở nên khiêm hạ, nhưng là một sự khiêm hạ thực sự, với danh xưng và tên họ: :Tôi là kẻ có tội về điều này, điều này và điều này”. Như thánh Phaolô làm”. Vấn đề không phải là trình bày mình dưới một hình ảnh sai lạc, “ngây thơ”.

Sự khiêm hạ của người Kitô hữu phải “cụ thể”: “Tôi là một bình gốm vô giá trị về điều này, điều này và điều này”.

“Kho tàng” duy nhất mà người Kitô hữu có thể khoe khoang là “ Chúa Giêsu cứu độ, thập giá của Chúa Giêsu-Kitô”. Và nó được kèm theo bằng việc “xưng thú tội lỗi” vì chỉ như thế mà “cuộc đối thoại là Kitô và Công giáo, cụ thể”.

Cũng thế, “ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô là cụ thể”: “Chúa Giêsu Kitô không cứu độ với một ý tưởng, với một chương trình trí thức. Ngài cứu độ bằng thân xác của Ngài, với sự cụ thể của thân xác. Ngài đã tự hạ và đã làm người, ngài đã làm người cho đến cùng”.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo ZENIT

Cây ma túy Cannabis chẳng những không chữa lành, mà còn hại cho sức khỏe

Cây ma túy Cannabis chẳng những không chữa lành, mà còn hại cho sức khỏe

Một số nhận định của ông Giovanni Serpelloni, giám đốc phân bộ chính trị chống ma túy Italia

Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ hiện nay, càng ngày người trẻ càng bị cám dỗ dùng các chất ma túy khác nhau rất có hại cho sức khỏe. Bên cạnh các loại ma túy mạnh như bạch phiến và các loại ma túy hóa học, có cây Cannabis, mà một vài chính trị gia chủ trương cho tự do sử dụng.

Trong một tường trình mới đây ”Đài quan sát ma túy và người nghiện ma túy Âu châu” cho biết hiện nay số người trẻ dùng Heroine giảm bớt, nhưng thay vào đó là các loại ma túy hóa học rẻ hơn, nhưng cũng rất nguy hại cho não bộ và cơ thể con người. So sánh với qúa khứ số lượng người dùng “metamfetamina” cũng như khả năng và kỹ thuật sản suất chất ma túy này đã gia tăng rất nhiều. Nhu cầu ma túy tổng hơp tại Âu châu được đáp ứng phần lớn bởi các phòng thí nghiệm hiện hữu bên trong lục địa Âu châu, đặc biệt là tại các nước Hòa Lan, Bỉ, Ba Lan và Lituania. Trái lại, nói chung thị trường Heroine Âu châu không quan trọng, và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn nắm giữ vai trò trung tâm trong việc buôn bán ma túy. Loại ma túy thường được sử dụng nhiều nhất là Cocain, nhập vào Âu châu qua hai ngõ chính là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Nhưng hiện nay có thêm các lộ trình mới: lượng Cocain được cất giấu trong các thùng chở hàng hóa ngày càng nhiều hơn. Mới đây các lực lượng cảnh sát đã khám phá ra và tịch thu nhiều kiện hàng tại Biển Đen và Biển Đông Baltic. Để tránh bị bắt các tổ chức buôn bán ma túy dùng các kỹ thuật hóa học tinh vi để bọc chất Cocain bằng các loại hàng được phép nhập cảng như quần áo, và các sản phẩm bằng nhựa.

Ông Rob Wainwright, giám đốc cảnh sát Âu châu Europol, cho biết Anh quốc, Hòa Lan, Bỉ và bắc Pháp thuộc vùng địa lý có vấn đề nhất, vì thu hút nhiều làn sóng các sản phẩm bất hợp pháp. Và một vài tổ chức trong số các tổ chức tội phạm ý nghĩa nhất chỉ huy các đường dây du nhập này. Bà Cecilia Malmstroem, Ủy viên nội vụ Âu châu, cho biết Ủy ban Âu châu đề nghị cấm bán loại ma túy tổng hợp 4 MA trong toàn Âu châu. Loại 4 MA đã bị cấm tại 10 nước: Áo. đảo Chypre, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hungarie, Ailen, Anh quốc, Lituania và Hòa Lan, vì người ta nghi nó đã gây ra 21 trường hợp tử vong trong năm 2010-2011. Bà cho rằng việc kiểm soát và đóng các biên giới không đủ để ngăn chặn ma túy du nhập, nhưng cần phải có hoạt động trao đổi tin tức giữa các lực lượng cảnh sát toàn Âu châu nữa.

Theo các thống kê mới nhất hiện nay năm 2011 có 12.65% học sinh sinh viên trong lứa tuổi 15-19 dùng Cannabis, và năm 2012 có 12.94%, tức gia tăng 0.29%. Số người trẻ dùng Heroin giảm 0.06% và số người trẻ dùng Cocain giảm 0.11%, trong khi số người trẻ dùng các chất kích thích gia tăng 0.07%, và số người trẻ dùng các chất gây ra ảo giác giảm 0,16%.

Thị trường Âu châu hiện có tới 12 triệu người dùng Cannabis tuổi từ 15 tới 64, trong đó có 5 triệu người trẻ dưới 24 tuổi. Italia là quốc gia tiêu thụ 14% tổng lượng Cannabis lưu hành trong Âu châu. Âu châu cũng là đại lục tiêu thụ 30% tổng lượng Hashish lưu hành trên thế giới.

Ông Wolfgang Goetz, giám đốc ”Trung tâm Âu châu đặc trách các người nghiện ma túy” cho biết Âu châu là vùng ngày càng sản xuất nhiều loại ma túy tổng hợp và Cannabis. Khuynh hướng sản xuất ma túy bất hợp pháp cũng ngày càng lan tràn trong những vùng ít bị nghi ngờ. Hiện tượng này gia tăng bất an ninh cho cuộc sống cộng đồng. Ông Goetz cũng nói rằng số người nghiện ma túy ngày càng gia tăng tự nó là một báo động đáng cho giới chức hữu trách chính trị phải lưu tâm. Bởi vì đối với nhiều người dân Âu châu, đặc biệt là giới trẻ, việc dùng ma túy không phải là chuyện ”thỉnh thoảng” mới xảy ra nữa, mà là chuyện xảy ra mỗi ngày.

Việc nghiện ngập ma túy được khích lệ bởi việc nảy sinh ra các tổ chức ”grow shop” ”quán lớn lên” thịnh hành hồi bán thập niên 1990 tại Bắc Mỹ và Âu châu. Tại Âu châu tổ chức này đã hiện diện trong 15 nước và nó nấp sau việc buôn bán các sản phẩm, mà không phải trả lời cho việc sử dụng chúng.

Ngoài phong trào tự trồng cây ma túy, còn có các hoạt động của các tổ chức tội phạm cấu kết vớí nhau trong dịch vụ buôn bán Cocain và nhựa Cannabis. Phi châu ngày càng trở thành vùng chuyển vận và phân phối ma túy, trong khi các tổ chức tội phạm nắm vai trò quan trọng trong các nước Tây Bắc Âu châu.

Riêng tại Italia phong trào tự trồng cây Cannabis ngày càng lan rộng và các chính quyền miền theo nhau cho phép sử dụng nó. Hai miền mới nhất là Marche và Emilia Romagna. Nhưng các luật do các chính quyền vùng miền đưa ra đi ngược lại với luật quốc gia bảo vệ sức khỏe của người dân. Ngoài các vùng Liguria, Emiglia Romagna và Marche, hồi tháng 5 năm 2012 chính quyền vùng Toscana cũng đã ra luật cho phép sử dụng Cannabis, và vào tháng 9 cùng năm tới phiên vùng Veneto. Các luật này nói chung đều giống nhau. Chúng cho phép sử dụng Cannabis trong lãnh vực ung thư và thần kinh não bộ, cũng như trên các bệnh nhân cuối đời và các bênh nhân bị đa xơ cứng. Các loại thuốc chế bằng Cannabis này phải được nhập cảng và có giấy phép nghiêm ngặt của các nhà thương. Một trong những thuốc chế bằng Cannabis nổi tiếng là Bedrocan của Hòa Lan. Tiếp đến là Sativex, dễ dùng vì như dưởi dạng thuốc xịt.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, bác sĩ Antonio Poselli, chuyên viên bệnh ưng thư cho biết các nghiên cứu quốc tế cho thấy các kết qủa của Cannabis rất yếu kém và gây thất vọng, chứ không có hiệu quả nhiều như người ta tưởng nghĩ hay thổi phồng. Việc dùng các loại thuốc giảm đau có chất á phiện trở thành dễ dàng hơn vì có luật số 38 ban hành năm 2010 cho phép. Chúng là các loại thuốc giảm đau hữu ích nhất, dễ sử dụng nhất và các bệnh nhân có thể chịu được, không phải chỉ nơi các bệnh nhân cuối đời mà cả các bệnh nhân có các triệu chứng đau đớn nói chung nữa. Chính bác sĩ đã chưa gặp trường hợp nào các bệnh nhân yêu cầu dùng Cannabis hay các loại thuốc chế từ Cannabis để chữa trị cho họ. Việc chính quyền nhiều vùng khác nhau tại Italia cho phép sử dụng Cannabis có tính cách ý thức hệ và xấu xa, vì sử dụng sự đau đớn của các bênh nhân như lý cớ cho các sử dụng khác. Thực ra các loại thuốc chế từ Cannabis mắc hơn là dùng morphin để giảm đau. Theo bác sĩ việc trồng cây Cannabis dùng để dệt vải canapa là một loại sợi môi sinh thảo mộc có các khả năng cao thì có lợi hơn là dùng nó để làm thuốc giảm đau.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Giovanni Serpelloni, giám đốc phân bộ chính trị chống ma túy Italia, về các nguy hại của cây ma túy Cannabis.

Hỏi: Thưa ông Serpelloni, bà Lucia Spiri, 31 tuổi, thuộc Câu lạc bộ ”Cannabis Social Club” là tổ chức thăng tiến việc trồng tập thể cây Cannabis để chữa bệnh tại Racaele trong tỉnh Salento, đã tuyên bố rằng: từ khi bà dùng Cannabis bà đã loại bỏ hoàn toàn các loại thuốc chống bệnh đa xơ cứng, mà bà đã bị từ 13 năm nay. Lời tuyên bố này có đáng tin cậy không? Vì thật là đáng kinh tởm khi lừa dối các bệnh nhân đa xơ cứng liên quan tới việc dùng cây ma túy Cannabis để chữa bệnh cho họ hay không?

Đáp: Cần phải minh giải một cách rất rõ ràng cho mọi người liên hệ biết rằng ngày nay kết qủa nhận thấy trên các thuốc được bào chế dựa trên chất THC, là một trong các hoạt chất của Cannabis, chỉ là một hiệu qủa triệu chứng trên các co giật và các đau đớn bắp thịt, và vì thế chúng không chữa bệnh.

Hỏi: Chúng không tạo ra các phản ứng phụ hay sao thưa ông?

Đáp: Còn hơn thế nữa là đàng khác. Có rất nhiều phản ứng phụ trong lãnh vực tâm thần. Ngoài sự kiện này điều không thể chấp nhận được bởi y khoa tân tiến ngày nay đó là mỗi bệnh nhân có thể tự sản xuất ”thuốc” tại nhà, mà không có sự kiểm soát nào liên quan tới loại cây họ trồng và phần trăm của nguyên tắc tác động, phẩm chất của các sản phẩm được dùng cho con người và đặc biệt được dùng như là thuốc, số lượng tự dùng chỉ do bệnh nhân tự quyết định cho chính mình. Đó là chưa kể tới tình trạng tùy thuộc nó.

Hỏi: Như vậy có nghĩa là có rất nhiều nguy hiểm, thế mà lại không có hiển nhiên khoa học nào hay sao, thưa ông?

Đáp: Có một nghiên cứu hàng dọc trên 500 bệnh nhân được thực hiện bởi Trường thuốc Plymouth bên Anh quốc, và đã được trình bầy trong các tháng qua tại Brighton. Các kết qủa cho thấy không có bằng chứng nào yểm trợ cho luận thuyết cho rằng cây Cannabis tác động trên việc chặn đứng tiến trình của bệnh, xem ra thì chất THC chỉ làm giảm đau đớn và giảm các co thắt cơ bắp, nhưng nó không chữa lành bệnh xơ cứng. Cuộc nghiên cứu nói trên liên quan tới nhiều người Anh bị bệnh đa xơ cứng, và những bệnh nhân này đã dùng các viên thuốc chứa chất THC trong thời gian 3 năm. Các kết qủa cho thấy các bệnh nhân dã dùng thuốc THC không tiến triển tốt hơn trong việc trị bệnh đa xơ cứng, so sánh với các bệnh nhân đã dùng các viên thuốc loại placebo, là loại thuốc không có tác dụng, vô hại, mà hiệu qủa chỉ là do sự gợi ý tâm lý của người bệnh.

Hỏi: Thế mà tại sao các người yểm trợ cây Cannabis lại cứ kiên trì cho rằng nó giúp chữa trị?

Đáp: Có vài tổ chức hướng tới chỗ hợp thức hóa, đôi khi không đúng đắn, các sản phẩm khoa học đem lại các kết qủa tích cực trong việc thử nghiệm các loại thuốc với mục đích là giúp gây nhận thức và thăng tiến ý niệm vô hại của việc dùng cây Cannabis và các khả năng dược của nó để chữa các bệnh rất trầm trọng. Mặc dù đồng ý với việc đào sâu các khía cạnh trị liệu này với các nghiên cứu khoa học và các cuộc tìm tòi có kiểm soát, việc trồng cây Cannabis tại nhà và việc dùng nó trong việc tự trị liệu các bệnh khác nhau là điều không thể chấp nhận được. Cũng không thể chấp nhận việc miêu tả cậy Cannabis như là một chất tích cực, hữu ích và đem lại sức khỏe, cả đối với việc dùng nó như là tự ý và giải trí, mà quên đi các tai hại nó gây ra cho cơ thể con người, đặc biệt là cho não bộ của người trẻ.

(Avvenire 1.2-2-2013)

Linh Tiến Khải – VR

Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

 Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người Nhưng rất thường khi con người không chọn sự sống, không chọn Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bới các ý thức hệ và luân lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương, việc kiếm tìm thiện ích của người khác.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 100,000 tín hữu tham dự thánh lễ Ngày Sự Sồng, đo ngài cử hành sáng Chúa Nhật 16-6-2013, nhân Ngày Tin Mừng Sự Sống trong Năm Đức Tin, tại quảng trường thánh Phêrô.

Tham dự thánh lễ có phái đoàn của Phong trào thăng tiến sự sống đền từ nhiều nước trên thế giới, cũng như hàng ngàn thành viên Hiệp hội Môtô đến từ khắp nơi trên thế giới, nhân đại hội kỷ niệm 110 năm hiên diện của loại môtô Harley-Davidson, diễn ra tại Roma trong các ngày 13-16-6. Hiệp hội đã tặng Đức Thánh Cha hai chiếc mô tô kiểu rất đẹp. Vào dịp cuối tuần 30,000 thành viên Hiệp hội cũng đã diễn hành qua các đại lộ chính của Roma. Từ lúc lúc 6 giờ sáng Chúa Nhật các thành viên đã tụ tập về quảng trường và để xe dọc đại lộ Hòa Giải trước quảng trường thánh Phêrô và trên tất cả mọi đường phố chung quanh quảng trường. Hiếm có dịp thấy hàng ngàn chiếc môtô cũ mới đủ loại như vây.

Lúc trước 10 giờ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi qua các lối giữa quảng trường để ngài chào tín hữu.

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Zygmunt Zimowski, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Y tế, vài Giám Mục và 200 Linh Mục. Đoàn giúp lễ gồm 15 thầy thuộc Đại chủng viện truyền giáo dòng Máu Cực Thánh Chúa. Các bài sách Thánh đã được đọc bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Phúc Âm đã được công bố bằng tiếng Ý. Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ là Ca đoàn Sistina và ca đoàn Mater Ecclesiae.

Giảng trong thánh lễ cử hành ngày Tin Mừng Sự sống Đức Thánh Cha giải thích mục đích như sau:

Với việc cử hành này, trong Năm Đức Tin, chúng ta muốn cám ơn Chúa về ơn sự sống, trong tất cả mọi biểu lộ của nó, đồng thời chúng ta muốn loan báo Tin Mừng Sự Sống. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã quảng diễn các bài đọc Chúa Nhật thường niên thứ XI năm C trong ba điểm suy tư: Thứ nhất Thánh Kinh mặc khải cho biết Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa là Sự Sống và suối nguồn sự sống; thứ hai Chúa Giêsu Kitô trao ban sự sống và Chúa Thánh Thần duy trì chúng ta trong sự sống. Và thứ ba đi theo con đường của Thiên Chúa dẫn đưa tới sự sống, trong khi đi theo các thần tượng dẫn đưa tới cái chết.

Bài đọc thứ nhất trích tư sách Samuel II kể lại chuyện vua Đavít phạm tội ngoại tình với vợ của Uria người Híttít, một binh sĩ trong quân đội của hoàng gia. Để lấp liếm tội lỗi vua ra lênh đặt Uria ở hàng tiền tuyến cho ông bị giết chết. Thánh Kinh cho chúng ta thấy thảm cảnh nhân loại trong tất cả cái thực tế của nó: sự lành sự dữ, các đam mê, tội lỗi và các hậu qủa của nó. Khi con người muốn tự khẳng định chính mình, khép kín trong sự ích kỷ và tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, thì kết cục là nó gieo rắc cái chết. Tội ngoại tình của vua Đavít là một thí dụ. Ích kỷ dẫn đưa tới dối trá, qua đó người ta tự lừa dối chính mình và lừa dối tha nhân. Nhưng không thể lừa được Thiên Chúa, và chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Nathan nói với nhà vua: ”Hoàng thượng đã làm điều ác trước mặt Thiên Chúa (2 Sm 12,9). Nhà vua bị đặt trước các việc làm gây chết chóc của mình; thật thế điều vua đã làm là công việc của chết chóc chứ không phải của sự sống. Vua hiểu ra và xin lỗi: ”Tôi đã phạm tội chống lại Chúa”; và Thiên Chúa nhân từ muốn sự sống và luôn tha thứ cho chúng ta, Người tha thứ và tái ban sự sống cho vua. Ngôn sứ nói: Chúa đã cất tội của hoàng thượng: hoàng thượng sẽ không chết”.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói chúng ta thường coi Thiên Chúa như là một vị thẩm phán nghiêm khắc, như là một người hạn chế sự tự do sống của chúng ta. Nhưng toàn Thánh Kinh nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng trao ban sự sống và chỉ cho chúng ta con đường sự sống toàn vẹn. Sách Sáng Thế nói rằng Thiên Chúa nhào nặn nên con người với bụi đất, rồi thổi một hơi thở sự sống vào mũi nó và con người trở thành một sinh linh (St 2,7). Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống; nhờ hơi thở của Người mà con người có sự sống, và hơi thở của Thiên Chúa đỡ nâng con đường cuộc sống trần gian của nó. Khi kệu gọi ông Môshê Thiên Chúa tự giới thiếu với ông như là Thiên Chúa của Abraham, Igiaác và Giacóp, như là Thiên Chúa của kẻ sống. Và khi gửi Moshê tới với Pharaô để giải phóng dân Người, Thiên Chúa vén mở cho ông tện gọi của Người: ”Ta là Đấng tự hữu”, Thiên Chúa Đấng làm cho mình hiện diện trong lịch sử, Người giải thoát khỏi cảnh nộ lệ, khỏi cái chết và đem sự sống đến cho dân, bởi vì Người là Đấng Hằng Sống. Mười Điều Răn là một con đường mà Thiên Chúa chỉ cho chúng ta để có một cuộc sống thật sự tự do, một sự sống tràn đầy. Chúng không phải là một bài ca nói ”không”: ngươi không được làm cai này, không được làm cái nọ…, mà là bài ca nói ”có” với Thiên Chúa, với Tình Yêu, với sự sống. Các bạn thân mến, cuộc sống của chúng ta chỉ tràn đầy trong Thiên Chúa. Chỉ có Người là Đấng Hằng Sống!

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha giải thích thái độ của Chúa Giêsu đến đùng bữa tại nhà một người Pharisêu, và để cho một phu nữ tội lỗi đến gần gậy vấp phạm cho mọi người hiện diện. Người lại còn tha tội cho bà và nói: ”Các tội của chị đã được tha vì chị đã yêu nhiều. Trái lại, ai yêu ít thì được tha ít” (Lc 7,47). Đức Thánh Cha quảng diễn điểm này như sau:

Chúa Giêsu là sự nhập thể của Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng đem sự sống đến, trước biết bao nhiêu công việc của sự chết, tội lỗi, ích kỷ, sự khép kín trong chính mình. Chúa Giêsu tiếp đón, yêu thương, nâng dậy, khích lệ, tha thứ và trao ban trở lại sức mạnh để bước đi, Người tái trao ban sự sống. Trong toàn Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu, với các cử chỉ và lời nói của Người, Người đem sự sống của Thiên Chúa đến và biến đổi con người. Đó là kinh nghiệm của người đàn bà đã xức dầu thơm nơi chân Chúa. Chị cảm thấy được hiểu, được yêu mến và đáp trả với một cử chỉ yêu thương, để cho lòng xót thương của Thiên Chúa đụng chạm tới mình và được ơn tha thứ để bắt đầu một cuộc sống mới. Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống thương xót. Anh chi em có đồng ý vậy không? Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống là Đấng thương xót! Nào tất cả hãy cùng nói: ” Thiên Chơúa Đấng Hằng Sống thương xót. Xin lặp lại một lần nữa: Thiên Chúa Đấng Hằng Sống thương xót!.

Đó cũng đã là kinh nghiệm của thánh Phaolô như kể trong bài đọc thứ hai. Thánh nhân nói: ” Cuộc sống này mà tôi sống trong thân xác, tôi sống trong niềm tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Cuộc sống đó chính là cuộc sống của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần, ơn của Chúa Kitô phục sinh, dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống như là con cái của Thiên Chúa, như là con cái trong Người Con. Nhưng chúng ta có để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn không?

Kitô hữu là một người tinh thần, điều này không có nghĩa là họ sống ”trên mây trên gió”, sống ngoài thực tại như thể là một bóng ma, không! Kitô hữu là một người suy tư và hành xử trong cuộc sống thường ngày theo Thiên Chúa, là một người để cho cuộc đời mình được linh hoạt và dưỡng nuôi bởi Chúa Thánh Thần để nó đầy tràn, như là con cái thật. Ai để cho Chúa Thánh Thần hướng đẫn là người thực tế, biết đo lường và lượng định gía trị thực tại, và cũng là người phong phú: cuộc sống của họ sinh ra sự sống chung quanh họ.

Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng Thương Xót. Chúa Giêsu đem sự sống của Thiên Chúa đến cho chúng ta, Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào sự sống đó và duy trì chúng ta trong tương quan sinh động là con cái Thiên Chúa. Nhưng con người không muốn thế. Đức Thánh Cha nhận xét như sau:

Nhưng rất thường khi, chúng ta biết điều này do kinh nhghiệm, con người không chọn lựa sự sống, không chọn lựa Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bởi các ý thức hệ và luận lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương và việc kiếm tìm thiện ích của người khác. Đó là ảo tưởng thường xuyên muốn xây dựng kinh thành của con người mà không có Thiên Chúa, không có sự sống và tình yêu của Thiên chúa, một tháp Babel mới; đó là nghĩ rằng việc khước từ Thiên Chúa, Sứ Điệp của Chúa Kitô và Tin Nừng sự sống, đem đến sự tự do và việc hiện thực tràn đầy con người. Hậu qủa là các thần tượng mau qua của con người thay thế Thiên Chúa, chúng cống hiến sự say choáng của một lúc tự do, nhưng sau cùng chúng đem tới các nô lệ mới và cái chết. Sự khôn ngoan của tác giả thánh vịnh nói: ”Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19,9). Chúng ta hãy luôn nhớ điều đó: Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót. Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót.

Anh chị em thân mến chúng ta hãy nhìn lên Thiên Chúa như Thiên Chúa của sự sống, chúng ta hãy nhìn vào lề luật của Người, vào sứ điệp Tin Mừng như con đường của sư tự do và sự sống. Thiên Chúa Hằng Sống giải phóng chúng ta! Chúng ta hãy nói có với tình yêu chứ không với với ích kỷ, chúng ta hãy nói có với sự sống chứ không với cái chết, chúng ta hãy nói có với sự tự do chứ không với nô lệ của biết bao nhiêu thần tượng thời đại. Tắt một lời, chúng ta hãy nói vâng với Thiên Chúa là tình yêu, sự sống và tự do, và không bao giờ gây thất vọng (x. 1 Ga 4,8). Chỉ có niềm tin nơi Thiên Chúa Hằng Sống cứu rỗi chúng ta.
Lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng: Hoa, Tây Ban Nha, Nga, Đức và Đại Hàn. Trong phần hiệp lễ 150 Linh Muc đã giúp Đức Thánh Cha phân phát Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Vào cuối thánh lễ Đức Hồng Y Zimowski đã thay mặt mọi người đặc biệt là các thánh viên Phong trao Bảo vệ sự sống cám ơn Đức Thánh Cha.

Trước khi đọc kinh truyền tin và ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người hướng về Đức Mẹ và phó thác cho sự chở che hiền mầu của Mẹ mọi sự sống, cách riêng sự sống yếu duối, vô phương tự vệ và bị đe dọa nhất.

Ngài cũng nhắc rằng thứ bảy vừa qua Giáo Hội tại Carpi Italia đã có một tân chân phước: đó là Odoardo Focherini, nhà báo cha của 7 người con, và là người đã cứu nhiều người Do thái, nhưng bị bắt và chết trong trại tập trung Đức quốc xã tại Hersbruck năm 1944 lúc với 37 tuổi, bị thù ghét vì đức tin. Đức Thánh Cha cảm tạ Chúa vì chứng nhân Tin Mừng Sự Sống này.

Ngài cũng cám ơn tất cả mọi tín hữu, đặc biệt các gia đình đã trực tiếp hoạt động bảo vệ sự sống con người, cũng như các thành viên liên hiệp mô tô Harley Davidson và Hội Môtô của cảnh sát Italia.

Rồi ngài đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Tình yêu cứu độ

Tình yêu cứu độ

Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ănuống, một bên là người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên, gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.

Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất cả mọi người.

Đó là tình yêu bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những người ghen ghét, chống đối và kết án chị. Aùnh mắt và thái độ của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không lọt ngoài tầm mắt Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối, lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.

Đó là tình yêu bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình của người biệt phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.

Đó là tình yêu ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.

Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có thường xét đoán và khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không?
2- Bạn có thái độ khiêm nhường thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không?
3- Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự xưng mình công chính?
4- Khi yêu thương người khác, bạn có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Hãy sám hối ăn năn

Hãy sám hối ăn năn

Trong tiểu thuyết “Giường đàn bà” đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố. Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi. Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch – một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình – người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.

Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn. Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob – một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.

Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt. Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán – một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim. Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả – chồng của Thẩm Xán – quyến rũ. Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai…

Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại – nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình. Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan. Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình. Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.

Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền. Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ…; Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.

Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội. Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý. Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện. Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân. Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân. Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói…; Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không? Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không? Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người. Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu. Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần. Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa. Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi. Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người. Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy. Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt. Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức. Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức. Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành. Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn. Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua. Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình. Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chi để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải. Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý. Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật. Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đoạ mình trong khổ ải trần gian.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

LM JOS Tạ Duy Tuyền

THA THỨ

THA THỨ

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lạy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lạy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

Cha Mark Link, SJ

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lậy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lậy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

– See more at: http://www.lamhong.org/2013/06/12/chu-giai-va-chia-se-tin-mung-chua-nhat-xi-tn-nam-c/#CN11C_15

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lậy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lậy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

– See more at: http://www.lamhong.org/2013/06/12/chu-giai-va-chia-se-tin-mung-chua-nhat-xi-tn-nam-c/#CN11C_15

Bắc Hàn có khoảng 10,000 người Công giáo bí mật

Bắc Hàn có khoảng 10,000 người Công giáo bí mật

“Chúng ta nghi ngờ sau một thời gian dài bắt bớ mà vẫn còn khoảng 10,000 người nhớ đến đức tin Công giáo trong lòng. Nhưng tôi thấy khó tin có một Giáo hội bí mật có tổ chức ở Bắc Hàn”, linh mục Lee Eun-hyung, tổng thư ký “Ủy ban Hòa giải người Triều Tiên” của Công giáo, nói trong một cuộc phỏng vấn với Aid to the Church in Need (quỹ hỗ trợ công tác mục vụ ở những nơi người Công giáo bị ngược đãi).

Trong cuộc phỏng vấn, cha Eun-hyung miêu tả cảnh sống bi thảm của người dân Bắc Hàn và nói về các chuyến đi của ngài, chuyến cuối cùng là chuyến thăm thủ đô Bắc Hàn vào năm 2011. “Trong mỗi chuyến đi, tôi dâng lễ tại nhà thờ Công giáo “Jangchung”, lấy tên theo tên quận trong thành phố này, và có tín hữu Bắc Hàn tham dự. Thế nhưng, các nhà chức trách Bắc Hàn nói với tôi rằng nghiêm cấm tôi và những người làm việc với tôi tiếp xúc riêng với công dân nước này”. Cha Eun-hyung giải thích nhà thờ Jangchung có một không hai vì giáo dân của nhà thờ do một giáo dân cử hành phụng vụ Lời Chúa hướng dẫn vào mỗi Chủ nhật”. Điều này hẳn là đúng vì “theo tôi biết, hiện nay không có linh mục nào sống ở Bắc Hàn”, ngài nói.

Khi được hỏi còn bao nhiêu người Công giáo ở Bắc Hàn, cha Eun-hyung trả lời: “Khó nói lắm. Chính quyền Bắc Hàn nói với chúng tôi rằng có 3,000 người Công giáo trong nước này. Nhưng chúng tôi không biết con số này có đúng không, hay làm sao họ có được con số đó”. Lần cuối cùng có được con số thống kê chính xác là vào năm 1945, khi Triều Tiên bị chia thành hai miền Nam, Bắc. “Theo tài liệu trước đây cho thấy có khoảng 50.000 người Công giáo sống ở miền bắc trước khi đất nước bị phân chia. Công tác thừa sai hoạt động rất mạnh xuất phát từ đây. Chẳng hạn, mẹ của nhà độc tài Kim Il-sung (1948-1994) xuất thân từ một gia đình Tin lành rất sùng đạo”, vị linh mục kể. Vào lúc đó cũng có nhiều nhà thờ Kitô giáo, nhưng hầu như tất cả – ngoại trừ nhà thờ Jangchung – đã bị phá hủy trong cuộc chiến 1950-1953 hay được dùng vào các mục đích khác dưới chế độ này.

Ngày nay, Bắc Hàn là một trong những nước đứng đầu về tước đoạt quyền tự do tôn giáo,  nhưng mặc dù xảy ra bách hại tôn giáo trong nhiều năm qua, cha Eun-hyung tin rằng “vẫn còn khoảng 10,000 người còn nhớ đức tin Công giáo trong lòng”. Điều này có thể được xác nhận qua các lời chứng của một số người tị nạn Bắc Hàn, họ kể những phụ nữ lớn tuổi ngồi thành vòng tròn đếm hạt đậu và thì thầm như thể là họ đang lần hạt vậy. Nhưng vị linh mục khẳng định không chắc có một Giáo hội bí mật tồn tại ở Bắc Hàn, mặc dù một số người nói có một Giáo hội gần biên giới với Trung Quốc.

“Khi bước qua đường biên giới bằng xe tải, tôi thấy như mình đang đi trong một cỗ máy thời gian. Tôi cảm thấy như trở lại từ 40- 50 năm về trước … ngoài vấn đề lớn về lương thực, Bắc Hàn còn rất thiếu nhiên liệu”, cha Eun-hyung nhận xét. “Vì thế nhiều người Bắc Hàn lên núi chặt cây làm củi đốt. Do đó núi ở Bắc Hàn đang ngày càng trở thành đồi trọc, dẫn tới gia tăng các trận thiên tai như lũ lụt và lở đất, gây tổn hại về nông nghiệp và càng làm cho vấn đề lương thực trầm trọng hơn. Để người dân không phải ngồi trong trời lạnh, chúng tôi mở các hoạt động mùa đông vào năm 2007 và cho đến nay chúng tôi đã dùng xe tải đưa được 300,000 bánh than đá đến gần vùng Kaesong, cách đường ranh giới quân sự một vài cây số”, ngài cho biết. Ngài kể thêm mặc dù “tiếp xúc riêng với cư dân Bắc Hàn bị nghiêm cấm”, nhân viên tình nguyện cuối cùng cũng nói chuyện được với người dân địa phương và lắng nghe những vấn đề của họ.

Nhưng hồi tháng 5-2010, “chính quyền tại Seoul đình chỉ công tác cứu trợ Bắc Hàn. Vào lúc này, những nỗ lực cứu trợ Bắc Hàn của chúng tôi phải tạm hoãn. Ngay khi hết vụ khủng hoảng này, chúng tôi sẽ đợi cho đến khi chính sách về Bắc Hàn ở Hàn Quốc thay đổi so với chính sách của chính quyền Tổng thống Lee Myung-bak (năm 2008 đến tháng 2-2013)”, vị linh mục nói. Ủy ban Hòa giải người Triều Tiên liên tục nhận được yêu cầu trợ giúp thông qua Hội Công giáo Joseon, tổ chức duy nhất được chế độ Kim Jong-uk công nhận. Và nhà thờ Jangchung cần nâng cấp gấp.

Sau nhiều tháng căng thẳng, gần đây Bắc Triều Tiên tỏ ý muốn nối lại đàn phán với Seoul. Cha Eun-hyung tin rằng đối thoại giữa hai miền Triều Tiên là giải pháp duy nhất. Các vụ căng thẳng này khiến cho cuộc sống của người dân Bắc Hàn khổ hơn, và kinh tế của Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng. “Để thoát khỏi cảnh ác mộng này, Hàn Quốc và Bắc Hàn cần đối thoại và thỏa thuận, cộng tác và giao lưu”, cha Eun-hyung kết luận.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

UCANEWS

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 14 tháng 6-2013, dành cho Đức TGM Justin Welby, Giáo chủ liên hiệp Anh giáo, ĐTC Phanxicô cổ võ sự cộng tác giữa hai Giáo Hội trong việc thăng tiến các giá trị Kitô và hòa bình.

Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ĐTC Phanxicô và Đức Giáo Chủ Welby. Tháp tùng Đức TGM có phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngoài ra, hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có Đức Cha Vincent Nichols, TGM Công Giáo của giáo phận Westminster, cũng là Chủ tịch HĐGM Anh quốc.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến những quan hệ giữa Anh giáo và Công Giáo, đặc biệt trong thập niên gần đây với hành trình xích lại gần nhau và trong tinh thần huynh đệ, cũng như công cuộc đối thoại thần học qua Ủy ban quốc tế. Ngài cũng cám ơn nỗ lực chân thành của Giáo Hội Anh giáo tại Anh quốc đã tỏ ra thông cảm đối với những lý do khiến Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 thiết lập Giáo hạt tòng nhân để đón nhận các tín hữu Anh giáo xin gia nhập Công Giáo và vẫn giữ nguyên truyền thống phụng vụ của Anh giáo.

ĐTC nói: ”Tôi chắc chắn rằng kiện này cũng giúp thế giới Công Giáo biết rõ hơn và quí chuộng những truyền thống linh đạo, phụng vụ và mục vụ thuộc gia sản của Anh giáo”.

”Ngoài ra, qua việc cầu nguyện, sự dấn thân tiến bước trên con đường tiến về hiệp nhất được canh tân hằng ngày, và có thể được biểu lộ trong sự cộng tác với nhau thuộc nhiều lãnh vực của cuộc sống. Trong số này, đặc biệt có chứng tá về sự tham chiếu Thiên Chúa và thăng tiến các giá trị Kitô, đứng trước một xã hội nhiều khi đặt lại vấn đề cả những nền tảng của sự sống chung, như sự tôn trọng đặc tính thánh thiêng của sự sống con người, hoặc sự ổn định vững chắc của định chế gia đình dựa trên hôn nhân”.

ĐTC cũng nhắc đến sự dấn thân hoạt động để có công bằng xã hội nhiều hơn, một chế độ kinh tế phục vụ con người và công ích. Ngài nói: ”Trong các nghĩa vụ của chúng ta với tư cách là chứng nhân tình yêu của Chúa Kitô, có nghĩa vụ phải lên tiếng thay cho những người nghèo, để họ không bị bỏ mặc cho những luật lệ kinh tế nhiều khi chỉ coi con người là người tiêu thụ”.

ĐTC đề cập đến và ca ngợi sự kiện Đức Giáo chủ Welby của Anh giáo đã cùng với Đức TGM Vincent Nichols can thiệp với chính phủ Anh để tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột tại Siria, bảo đảm an ninh cho toàn dân, kể cả những nhóm dân thiểu số, trong đó có các cộgn đoàn Kitô địa phương. Các tín hữu Kitô chúng ta mang hòa bình và ân phúc như một kho tàng để trao tặng thế giới, nhưng những món quà này chỉ mang lại thành quả nếu các tín hữu Kitô sống và hoạt động với nhau trong sự hàp hợp. Như thế sẽ dễ góp phần xây dựng những quan hệ tôn trọng và sống chung hòa bình với những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác và cả những người không tín ngưỡng”. (SD 14-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

VATICAN. Trưa ngày 14-6-2013, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chung về cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh tại Vatican.

Nguyên văn thông cáo chung như sau:

”Thực hiện thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lần thứ 3 của Nhóm Làm Việc chung Tòa Thánh và Việt Nam tại Hà Nội hồi tháng 2 năm 2012, cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung đã diễn ra tại Vatican trong hai ngày 13 và 14-6-2013. Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh và Ông Bùi Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng đoàn Việt Nam, đã đồng chủ tọa cuộc gặp gỡ.

Hai bên đã trao đổi tin tức về tình trạng liên hệ, duyệt qua và thảo luận về những quan hệ giửa Việt Nam và Tòa Thánh, và về những vấn đề liên hệ tới Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.

Phái đoàn Việt Nam đã nhấn mạnh sự kiên trì thực thi và những cải tiến liên tục trong chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về việc tôn trọng và bảo đảm tự do tôn giáo và các tín ngưỡng cũng như luôn khích lệ các tôn giáo khác và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực tham gia tiến trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế và xã hội.

Phía Tòa Thánh đánh giá cao và cám ơn sự quan tâm của chính quyền các cấp đối với hoạt động của Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt là Đại Hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu nhóm tại Xuân Lộc và Thành Phố Hồ chí Minh hồi tháng 12 năm 2012, cũng như các cuộc viếng thăm mục vụ của Đại diện không thường trú của Tòa Thánh, Đức TGM Leopoldo Girelli. Tòa Thánh nêu bật ước muốn phát triển thêm các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, nhấn mạnh nhu cầu cần có một vị Đại Diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam, có lợi ích cho tất cả những phe liên hệ.

Cả hai bên nhìn nhận việc rao giảng của Giáo Hội về việc ”sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước” và về sự kiện ”là một người Công Giáo tốt cũng có nghĩa là một công dân tốt”. Tòa Thánh đã khẳng định ý chí của Giáo Hội Công Giáo góp phần theo cách thế đặc thù của mình vào công ích của xã hội, thông truyền và thực thi các giáo huấn liên lục của các vị Giáo Hoàng về vấn đề này.

Cả hai bên đã đồng ý rằng các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã tiến triển tích cực trong tinh thần thiện chí, trao đổi tích cực và tôn trọng các nguyên tắc trong quan hệ giữa hai bên. Trong tinh thần này, và đứng trước cam kết phát triển thêm các quan hệ hỗ tương, công việc của vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú sẽ được dễ dàng hơn để Ngài có thể chu toàn sứ vụ một cách phong phú hơn.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong một bầu không khí chân thành thân mật, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau.
Hai bên đã thỏa thuận sẽ gặp lại nhau tại Hà Nội trong cuộc gặp gỡ thứ năm của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh. Ngày giờ cuộc gặp gỡ sẽ được thiết định qua đường ngoại giao.

Nhân dịp này, Phái đoàn Việt Nam cũng đã thăm Ngoại Trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti (SD 14-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

VATICAN. ĐTC Phanxicô cho biết ngài sẽ viết tiếp văn kiện của Đức Biển Đức 16 về đức tin và sẽ công bố.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 13 tháng 6-2013, dành cho Hội đồng Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, cùng với chức sắc khác tổng cộng 25 vị, nhóm họp tại Roma trong những ngày này dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Tổng thư ký Nikola Eterovic, với mục đích giúp ĐTC soạn Tông Huấn đúc kết thành quả của Thượng HĐGM năm ngoái về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”, đồng thời cũng để giúp ĐTC chọn chủ đề cho Thượng HĐGM kỳ thứ 14.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC Phanxicô đã ứng khẩu tóm tắt bài diễn văn dọn sẵn và loan báo ngài sẽ công bố văn kiện về đức tin đã được ĐGH Biển Đức 16 khởi sự: ”Bây giờ sẽ có một thông điệp 'viết bằng 4 tay' như người ta vẫn nói. Đó là văn kiện ĐGH Biển Đức 16 đã bắt đầu và đã trao cho tôi. Đó là một văn kiện mạnh mẽ và công việc lớn chính Người đã làm và tôi sẽ tiếp tục”.

ĐTC Biển Đức 16 dự định công bố một thông điệp về đức tin nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng vì tình hình sức khỏe ngài từ chức và Văn kiện chưa được hoàn thành.

ĐTC xác nhận ngài đã nhận được dự thảo Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM thứ 13 nhóm tại Vatican hồi tháng 10-2012, nhưng e rằng việc công bố văn kiện này đồng thời với Thông Điệp về đức tin thì Tông Huấn sẽ bị mất hút. Vì thế ngài này ra ý định công bố một tông huấn về truyền giảng Tin Mừng nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng trong đó có du nhập những đề nghị của Thượng HĐGM trong một bối cảnh truyền giáo rộng lớn hơn.

ĐTC tiết lộ: ”Tôi đã viết phần nào, nhưng tháng 8 tới đây tôi sẽ ở nhà, công việc yên hàn hơn và tôi sẽ tiếp tục”.
ĐTC đã trao diễn văn soạn sẵn để mọi người đọc sau đó. Trong Văn kiện này ngài nhận xét rằng thành ngữ ”nuova evangelizzazione”, tái truyền giảng Tin Mừng, làm nổi bật ý thức ngày càng rõ ràng rằng cả nơi những quốc gia có truyền thống Kitô kỳ cựu, người ta thấy cần phải canh tân việc rao giảng Tin Mừng, để dẫn đưa con người trở lại gặp gỡ Chúa, Đấng thực sự biến đổi cuộc sống, chứ không hời hợt do thói quen. Điều này có hậu quả trong hoạt động mục vụ, như Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã nhân xét: ”Những hoàn cảnh xã hội bó buộc chúng ta phải xét lại các phương pháp, dùng mọi phương thể để tìm cách nghiên cứu xem làm để nào để đưa sứ điệp Kitô cho người tân tiến ngày nay, vì chỉ trong sứ điệp này con người mới có thể tìm được câu trả lời cho những vấn nạn của họ và tìm được sức mạnh để dấn thân liên với với nhân loại” (Diễn văn trước Hồi y đoàn 22-6-1973).

Trong chiều hướng đó, ĐTC viết thêm rằng ”Tôi muốn khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội hãy rao giảng Tin Mừng, đừng sợ ”ra khỏi chính mình” để loan báo, nhất là tín thác nơi sự hiện diện từ bi của Thiên Chúa Đấng hướng dẫn chúng ta. Các kỹ năng tuy quan trọng, nhưng dù những kỹ năng hoàn hảo nhất vẫn không thể thay thế hoạt động âm thần nhưng hiệu quả của Đấng là tác nhân chính của công cuộc rao giảng Tin Mừng, nghĩa là Chúa Thánh Linh (Xc ibid. 75). Cần để mình được Chúa hướng dẫn, dù Ngài dẫn chúng ta đi trên những con người mới; cần phải để Chúa biến đổi chúng ta để việc rao giảng của chúng ta được diễn ra luôn luôn được đi kèm bằng đời sống đơn sơ, tinh thần cầu nguyện và lòng bác ái đối với mọi người, nhất là những người bé nhỏ và nghèo khổ, bằng tinh thần khiêm tốn, từ bỏ chính mình, và bàng đời sống thánh thiện (Xc ibid. 76). Chỉ như thế việc rao giảng mới thực sự có những thành quả phong phú”.

Sau cùng, ĐTC ca ngợi thành quả của các Thượng HĐGM như một trong những kết quả của Cộng đồng chung Vatican 2 và nói thêm rằng ”Cởi mở đối với ơn của Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội, chúng ta tín thác rằng Thượng HĐGM sẽ được phát triển thêm để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự đối thoại và cộng tác giữa các GM với nhau và với GM Roma”.

Trong cuộc đối thoại với các thành viên Hội đồng của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, ĐTC cho biết có thể là ngài sẽ biến Hội đồng thành một cơ quan thường trực và ngài triệu tập cơ quan này khi cần để hỏi ý kiến.

G. Trần Đức Anh, O.P – Vatican Radio
 

 

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa bao gồm mọi dân tộc, có luật lệ là tình yêu thương đại đồng, có sứ mệnh loan báo Chúa Kitô, là dấu chỉ, muối men và áng sáng dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa và tiến về quê hương thiên quốc.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 90,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Giáo Hội dân của Thiên Chúa”, như Công Đồng Chung Vaticăng II và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa (LG 9; GLGHCG 782). Đức Thánh Cha đã khai triển bài giáo lý bằng các câu hỏi. Trả lời câu hỏi Giáo Hội là gì Đức Thánh Cha nói:

Trước hết nó có nghĩa là Thiên Chúa không thuộc riêng một dân tộc nào; bởi vì chính Người mời gọi chúng ta, triệu tập chúng ta, mời gọi chúng ta là thành phần dân của Người, và lời mời gọi này hướng tới tất cả mọi người, không phân biệt, bời vì lòng thương xót của Thiên Chúa ”muốn ơn cứu rỗi cho mọi người” (q Tm 2,4). Chúa Giêsu không nói với các Tông Đồ và chúng ta làm thành một nhóm độc hữu, một nhóm ưu tú. Chúa Giêsu nói: Hãy đi và lam cho mọi dân tộc trở thành môn đệ (x. Mt 28,19). Thánh Phaolô khẳng định rằng trong dân của Thiên Chúa, trong Giáo Hội ”không còn do thái hy lạp… bởi vì anh em tất cả là một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Tôi cũng muốn nói với người cảm thấy xa Thiên Chúa và Giáo Hội, với người sợ hãi hay thờ ơ, với người nghĩ rằng không còn có thể thay đổi được nữa: Chúa cũng mời gọi bạn là thành phần của dân Người, và Chúa làm điều này với lòng kính trọng lớn và tình yêu thương! Người mời gọi chúng ta làm thành phần của dân này, dân của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi thứ hai: Làm thế nào để trở thành chi thể của dân Thiên Chúa? Và ngài trả lời: Không phải qua việc sinh ra thể lý, mà qua một cuộc sống mới. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo rằng cần phải sinh ra từ bên trên, từ nước và từ Thần Khí để vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-5). Chính qua bí tích Rửa Tội mà chúng ta được đưa vào dân tộc này, qua niềm tin nơi Chúa Kitô, là ơn Thiên Chúa ban, và nó phải được dưỡng nuôi và làm cho lớn lên bằng toàn cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: tôi làm thế nào để cho đức tin mà tôi đã nhận trong bí tích Rửa Tội được lớn lên? Tôi làm thế nào để đức tin mà tôi đã nhận và dân Chúa được lớn lên? Tôi làm thế nào để cho nó lớn lên? Đó là một câu hỏi khác.

Câu hỏi thứ ba là: Đâu là luật của dân Thiên Chúa? Đức Thánh Cha trả lời:

Đó là luật yêu thương, yên mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân theo giới răn mới Chúa ban cho chúng ta (x. Ga 13,34). Tuy nhiên, một tình yêu không phải là thuyết duy tình cảm cằn cỗi hay là một cái gì mơ hồ, mà là việc nhận biết Thiên Chúa như là Chúa duy nhất của cuộc sống, đồng thời là việc tiếp nhận tha nhân như là người anh em thật, bằng cách thắng vượt các chia rẽ, các tranh đua, các hiểu lầm, các ích kỷ; cả hai đi chung với nhau. Chúng ta còn phải đi biết bao nhiêu đường để sống luật mới này một cách đúng đắn, luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động trong chúng ta, luật của tình bác ái, của tình yêu thương! Khi chúng ta nhìn thấy trên báo chí hay truyền hình, chúng ta thấy biết bao nhiêu chiến tranh giữa các tín hữu kitô. Làm sao có thể hiểu được điều này? Nhưng trong các khu phố, trong các nơi làm việc có biết bao nhiêu chiến tranh vì thèm muốn, ghen tương. Cả trong chính gia đình cũng có biết bao nhiêu chiến tranh bên trong. Chúng ta phải xin Chúa làm cho chúng ta hiểu rõ ràng luật của tình yêu này. Thật là tốt lành, xinh đẹp biết bao, khi chúng ta yêu nhau như anh em đích thật. Điều đó thật đẹp biết bao! Hôm nay chúng ta hãy làm một điều: Có lẽ tất cả chúng ta đều có thiện cảm hay không thiện cảm và có lẽ có nhiều người trong chúng ta giận dữ với vài người. Ít nhất chúng ta hãy nói với Chúa: Lậy Chúa, con giận ông này, bà này qúa. Con cầu nguyện cho ông ấy, cho bà ấy. Con xin Chúa”. Cầu nguyện cho những người chúng ta giận. Đó là một bước tiến đẹp trong luật yêu thương này. Hôm nay chúng ta hãy làm điều đó nhé!

Câu hỏi thứ tư liên quan tới dân Chúa. Dân Chúa có sứ mệnh đem niềm hy vọng và ơn cứu độ của Thiên Chúa vào trong thế giới: là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng mời gọi tất cả vào tình bạn với Người; là men làm dậy tất cả bột, là muối trao ban hương vị và giữ cho khỏi hư thối, là ánh sáng chiếu soi.

Chung quanh chúng ta, chỉ cần mở báo ra, tôi đã nói, là chúng ta thấy rằng có sự hiện diện của sự dữ, Qủy hành động. Nhưng tôi muốn nói lớn tiếng rằng: Thiên Chúa mạnh hơn! Anh chị em có tin điều này không? Tin rằng Thiên Chúa mạnh hơn không? Nhưng chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Thiên Chúa mạnh hơn! Tất cả nào! Và tín hữu tại quảng trưởng, đặc biệt là các trẻ em cùng nói to ” Thiên Chúa mạnh hơn”. Rồi Đức Giáo Hoàng nói tiếp: Và anh chị em có biết tại sao Chúa mạnh hơn không? Bởi vì Người là Chúa, là Chúa duy nhất. Thiên Chúa mạnh hơn. Tốt lắm! Và tôi cũng muốn thêm rằng thực tại đôi khi đen tối, bị ghi dấu bởi sự dữ, nhưng có thể thay đổi, nếu chúng ta là những người đầu tiên đem ánh sáng Phúc Âm vào, nhất là với cuộc sống chúng ta. Nếu trong một sân thế vận, chúng ta hãy nghĩ tới sân thế vận Roma, hay sân thế vận Thánh Lorenzo ở Buenos Aires, trong một đêm tối trời có một người thắp lên một ánh sáng, thì người ta chỉ thấy một chút, nhưng nếu cả 70.000 khán giả mỗi người đều thắp lên ánh sáng của mình, thì sân vận động sáng lên. Chúng ta hãy làm cho cuộc sống của chúng ta là một ánh sáng của Chúa Kitô; cùng nhau chúng ta sẽ mang ánh sáng Phúc Âm vào trong toàn thực tại.

Câu hỏi sau cùng đâu là mục đích của dân Chúa? Mục đích là Nước Thiên Chúa, đã được chính Thiêm Chúa bắt đầu trên trái đất và phải được trải rộng cho tới ngày thành toàn, khi Chúa Kitô, sự sống của chúng ta sẽ tái xuất hiện (LG 9). Khi đó mục đích là sự hiệp thông tràn đầy với Chúa, gia đình cùng với Chúa bước vào trong chính cuộc sống của Thiên Chúa, nơi chúng ta sẽ sống niềm vui tình yêu vô cùng của Người. Niềm vui tràn đầy.

Anh chị em thân mến, là Giáo Hội, là dân của Thiên Chúa, theo chương trình tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa Cha, có nghĩa là men của Thiên Chúa trong nhân loại này, có nghĩa là loan báo và đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa vào trong thế giới này của chúng ta, thường lạc đường, cần đến các câu trả lời khích lệ trao ban hy vọng, trao ban sức mạnh mới cho con đường cuộc sống. Ườc chi Giáo Hội là nơi của lòng thương xót và niềm hy vọng của Thiên Chúa, nơi mỗi người có thể cảm thấy mình được tiếp nhận, yêu thương và khích lệ sống theo cuộc sống tốt lành của Tin Mừng. Và để cảm thấy mình được tiếp đón, yêu thương, tha thứ và khích lệ, các cánh cửa của Giáo Hội phải luôn luôn rộng mở, để mọi người có thể đến và chúng ta phải ra khỏi các cửa ấy và loan báo Tin Mừng.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào Ủy Ban quốc tế Hiệp hội thánh Vinh Sơn Phaolô nhân kỷ niệm 200 năm ngáy sinh của người sáng lập là ông Frederic Ozanam. Ngài cũng chào các phái đoán đến từ Nhật Bản, Nam Hàn và Việt Nam cũng như Úc, Argentina, Mexico, Puerto Rico, Costa Ricca, Colombia và Brasil.

Ngài cũng chào nhóm các tân Linh Mục giáo phận Brescia và thân nhân cũng như đoàn hành hương các giáo phận Assisi, Nocera Umbria, Gualdo Tadino, Liên hiệp nông nghiệp và món qùa họ tặng ngài cho các công tác trợ giúp bác ái.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Cũng như các lần trước hôm qua Đức Thánh Cha cũng dành ra một giờ rưỡi để chào tín hữu và những người tàn tật. Việc tặng mũ calốt trắng cho ngài đã trở thành mốt, nên hầu như lần nào Đức Thánh Cha cũng có mũ mới và ngài tặng mũ đang đội lại cho tín hữu làm kỷ niệm. Hôm qua có một em gái tàn tật ôm hôn Đức Thánh Cha đến mấy lần. Còn các trẻ em nhớ lời ngài nói trong một buổi tiếp kiến khi Đức Thánh Cha tiến đến chào, các em không gọi tên Francesco nữa, gân cổ lên mà gọi tên Giêsu.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án nạn bóc lột sức lao động trẻ em đang lan tràn tại nhiều nơi, nhất là tại các nước nghèo.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Hôm nay trên toàn thế giới có cử hành 'Ngày Thế Giới chống nạn lao động trẻ em', đặc biệt nói về nạn bóc lột trẻ em trong công việc trong nhà: đây là một hiện tượng đáng lên án đang liên tục gia tăng, nhất là tại các nước nghèo. Hàng triệu trẻ vị thành niên, nhất là các trẻ nữ, nạn nhân của nạn bóc lột âm thầm này, nhiều khó có cả những vụ lạm dụng tính dục, ngược đãi và kỳ thị. Đây thực là một sự nô lệ.

”Tôi nhiệt liệt cầu mong Cộng đồng quốc tế có thể đề ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đương đầu với tai ương đích thực này. Tất cả các trẻ em phải được chơi đùa, học hành, cầu nguyện và tăng trưởng, trong gia đình của các em, trong một khung cảnh hòa hợp, yêu thương và thanh thản. Những người ấy, thay vì để các em chơi đùa, thì lại biến các em thành nô lệ. Thực là một tai ương. Đây là một quyền của các em và cũng là một nghĩa vụ của chúng ta. Một tuổi thơ thanh thản giúp các em tin tưởng nhìn về cuộc sống và tương lai. Khốn cho kẻ nào bóp nghẹt nơi các em niềm hy vọng vui tươi!” (SD 12-6-2013)

Lời kêu gọi của Đức TGM Thissen

Mặt khác, Đức Cha Werner Thissen, TGM giáo phận Hamburg ở miền bắc Đức, kêu gọi phát động một cuộc chiến quyết liệt chống lại lao động trẻ em.

Tuyên bố hôm 12-6-2013 tại Hamburg, Đức TGM Thissen đặc biệt tố giác nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại Ấn độ, nhất là trong kỹ nghệ sản xuất thảm. Tình trạng bóc lột này gây thiệt hại cho sức khỏe của các em.
Đức TGM Thissen cũng là Chủ tịch cơ quan bác ái Misereor của HĐGM Đức chuyên trợ giúp phát triển. Ngài cho biết ”Những người cộng tác với các dự án của tổ chức Misereor ở bang Uttar Pradesh báo động rằng tệ nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại bang này lại gia tăng”.

Đức TGM Thissen kêu gọi hoàn toàn áp dụng Hiệp ước của LHQ về quyền của các trẻ em. Hiệp ước này bắt đầu có hiệu lực tại Đức từ năm 1992. Hiệp ước cấm bóc lột sức khỏe trẻ em trong lãnh vực kinh tế, để bảo vệ các em về mặt sức khỏe và tâm lý. Ngoài ra, Đức Cha yêu cầu du nhập quyền của các trẻ em vào trong Hiến Pháp nước Đức và nói rằng: ”Chúng tôi hy vọng nhờ biện pháp này có sự củng cố ý thức của mọi người về quyền của các trẻ em, tại Đức cũng như trên toàn thế giới”.

Theo tổ chức Misereor, có khoảng 190 triệu trẻ em nam nữ, từ 5 đến 14 tuổi phải làm việc trong những điều kiện như bị bóc lột và có hại cho sức khỏe” (KNA 12-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Nhằm mục đích tăng cường và phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh, Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Tòa Thánh sẽ nhóm họp vòng 4 vào ngày 13 và 14 tháng Sáu tại Vatican. Sáng nay thứ Ba 11-06, Hôm thứ Ba, Cha Federico Lombardi, giám đốc Văn phòng báo chí của Tòa Thánh, đã đưa ra lời tuyên bố

Cuộc họp này đã được quyết định tại cuộc họp vòng 3 vào tháng Hai năm 2012 tại Hà Nội. Thông cáo chung chính thức cho biết cuộc họp lần trước đã diễn ra “trong bầu khí thân ái, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau”. Hai bên đều đề cao những phát triển tích cực, thiện chí và đối thoại xây dựng. Phái đoàn Tòa Thánh mong muốn vai trò và sứ mạng của Vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Girelli, được củng cố và mở rộng, và công việc của ngài được thuận lợi. Đoàn đại biểu Việt Nam đã khuyến khích Giáo hội Công giáo tích cực tham gia phát triển đất nước.Cuộc họp thứ tư sẽ đi vào sâu hơn và phát triển những sự quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh.

Ngoài ra, theo Thông tấn xã Việt Nam, tại cuộc họp vòng 4, Đoàn Việt Nam sẽ do Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm Trưởng đoàn và Đoàn Tòa Thánh Vatican do Thứ trưởng Ngoại giao Antonio Camilleri làm Trưởng đoàn.

Theo Vatican Radio

 

 

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu diễn tả tột đỉnh tình yêu và lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người. Nó là suối nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chúng ta hãy học biết sống khiêm nhường và thương xót đối với tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với Đức Thánh Cha tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 9 tháng 6-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là kiểu loài người diễn tả tột đỉnh tình yêu thương của Thiên Chúa. Ngài nói thật thế, thứ sáu vừa qua chúng ta đã cử hành lễ trọng Thánh Tâm Chúa Kitô, và ngày lễ này trao ban cung điệu cho toàn tháng 6. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa biểu tượng Thánh Tâm Chúa như sau:

Lòng đạo đức bình dân đánh gía rất cao các biểu tượng, và Trái tim Chúa Giêsu là biểu tượng tuyệt diệu lòng thương xót của Thiên Chúa: nhưng nó không là một biểu tượng tưởng tượng, nó là biểu tượng thực sự, diễn tả trung tâm, diễn tả suối nguồn, từ đó vot ra ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Trong các Phúc âm chúng ta tìm thấy các quy chiếu khác nhau về Trái Tim Chúa Giêsu, chẳng hạn trong văn bản trong đó Chúa Kitô nói: ”Các con tất cả là những kẻ mệt nhọc và bị áp bức, hãy đền cùng Thầy, và Thầy sẽ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Thầy và học nơi Thầy, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,28-29). Thế rồi nền tảng là trình thuật cái chết của Chúa Kitô theo thánh Gioan. Thật thế, thánh sử làm chứng điều thánh nhân đã trông thấy trên núi Sọ, nghĩa là sự kiện khi Chúa Giêsu đã chết, một người lính lấy đòng đậm cạnh sườn Người và từ vết thương đó máu và nước chảy ra (x. Ga 19,33-34). Thánh Gioan nhận ra trong dấu chỉ ấy, xem ra là tình cờ, việc thành toàn các lời tiên tri: từ tim của Chúa Giêsu, là Chiên Con bị sát tế trên thập giá, nảy sinh ra ơn tha tội và sự sống cho tất cả mọi người. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dự:

Nhưng lòng thương xót của Chúa Giêsu không chỉ là một tâm tình, còn hơn thế nữa, nó là một sức mạnh trao ban sự sống, làm cho con người sống lại! Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta về điều này, trong giai thoại bà góa làng Naim (Lc 7,11-17). Với các môn đệ Chúa Giêsu đang đến Naim, một làng trong vùng Galilea, chính trong lúc diễn ra một đám tang: người ta đem chôn một thanh niên, con trai duy nhất của một bà góa. Cái nhìn của Chúa Giêsu lập tức dán chặt trên bà mẹ đang khóc. Thánh sự Luca nói rằng: ”Khi trông thấy bà, Chúa cảm thấy một sự xót thương lớn đối với bà” (c. 13). Sự xót thương này là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, là sự thương xót, nghĩa là thái độ của Thiên Chúa tiếp xúc với sự khốn cùng của con người, với sự nghèo nàn của chúng ta, với khổ đau và sự âu lo của chúng ta. Từ xót thương trong Thánh Kinh gợi lại lòng dạ của bà mẹ: thật vậy, người mẹ cảm nhận một phản ứng hoàn toàn là của bà trước nỗi khổ đau của con cái. Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế.

Và đâu là hoa trái của tình yêu thương, của lòng thương xót của Thiên Chúa? Đó là sự sống! Chúa Giêsu nói với bà góa thành Naim: ”Đừng khóc!”, rồi Người gọi thanh niện đã chết, và đàmh thức anh ta dậy như từ một giấc ngủ (x. cc. 13-15). Đức Thánh Cha chú thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Chúng ta hãy nghĩ tới điều này, thật là đẹp: lòng thương xót của Thiên Chúa trao ban sự sống cho con người, cho nó sống lại từ cái chết. Chúa luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, chúng ta đừng quên điều này, Người luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Chúng ta đừng sợ đến gần Người! Người có một con tim thương xót! Nếu chúng ta cho Người thấy các vết thương nội tâm của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Người là lòng thương xót tinh tuyền. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu!

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúng ta hướng lên Đức Trinh Nữ Maria: con tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, con tim bà mẹ, đã chia sẻ tột đỉnh lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt trong giờ của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết khiêm nhường và thương xót với các anh chị em khác.

Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin chào các tín hữu Đức Thánh Cha nói hôm nay tại Cracovia có hai nữ tu Ba Lan được tôn phong Chân phước: đó là chị Sofia Czeska Maciejowska, là người hồi tiền bán thế kỷ XVII đã thành lập Dòng các Trinh nữ dâng Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc, và chị Margherita Lucia Szewczyk, là người hồi thế kỷ XIX đã thành lập Dòng các Nữ tử Trinh Nữ Maria Sầu Bi Diễm Phúc. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa với Giáo Hội tại Cracovia.

Tôi xin thân ái chào tất cả các khách hành hương hiện diện hộm nay: các nhóm giáo xứ, các gia đình, các học sinh, các hội đoàn, các phong trào. Tôi xin chào tất cả mọi người. Tôi cũng xin chào một đoàn hành hương đến từ Mombay bên Ấn Độ. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào các nhóm đến từ nhiều nơi trong nước Italia, Cuối cùng ngài nhắc lại: Hôm nay chúng ta đừng quên tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Giêsu: Người luôn nhìn chúng ta, yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta. Người là tất cả con tim và lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

HÃY TRỖI DẬY

HÃY TRỖI DẬY

Một số người cho rằng Đức Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng bận tâm. Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Đức Ki-tô còn luôn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa. Một bằng chứng cụ thể là Người luôn đến với kẻ nghèo hèn, tật bệnh để an ủi và chữa lành cho họ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Người đã dạy: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 7-8). Và Người đã thực hiện đúng như Lời Người đã giảng dạy. Ấy cũng bởi vì con người là một hữu thể có nhị nguyên tính luôn tồn tại trong nhau: thân xác (vật thể) và tâm hồn (linh thể).

Thật thế, khi dựng nên con người, “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7). Điều đó cho thấy, con người là một hữu thể bao gồm cả tâm linh và thân xác. Hiến chế về Mục Vụ (“Gaudium et Spes”, số 14) đã khẳng định: “Con người duy nhất với xác hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất… Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật… Như vậy, khi nhìn nhận mình có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không phải là bị mê hoặc bởi một thứ ảo tưởng phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội. Trái lại, nhìn nhận như thế là con người đã đạt tới chính chân lý sâu xa.” Đức Giê-su Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi, đương nhiên Người không bao giờ chỉ chú trọng tới phần tâm linh, mà còn chú ý tới cả phần thể xác của các tín hữu nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.X/TN-C – Lc 7, 11-17) là một minh hoạ: Trước hoàn cảnh bi thương của một bà goá ở thành Na-in khóc tiễn đứa con trai duy nhất, mặc dù bà mẹ không cầu xin, nhưng Đức Ki-tô vẫn chạnh lòng thương, sờ vào quan tài và phán: “Hãy trỗi dậy!”, tức thì người chết sống lại. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Phải chân nhận rằng ngay từ khi bắt đầu khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng tỏ Người không những chỉ lo cho phần rỗi (tâm linh) của con người, mà Người còn lo cho cả phần xác của họ nữa (câu chuỵên “Tiệc cưới Ca-na” – Ga 2, 1-12). Tương tự như phép lạ cho con trai bà goá ở Na-in được sống lại, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô (em của Mac-ta và Maria) chết chôn trong mồ đã 4 ngày được sống lại; nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui (Ga 11, 32-43). Và rất nhiều phép lạ khác Đức Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, người đói được ăn…

Tất cả những biện giải trên minh hoạ cho Lời dạy của Đức Ki-tô: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4). Nghĩa là con người sống trên đời cần cả cơm bánh (nuôi dưỡng thể xác) và Lời Chúa (dưỡng nuôi tâm hồn). Và vì thế, song song với việc lo cho thể xác những người đi theo, Đức Giê-su còn lo cả về đời sống tâm linh của họ nữa. Người không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn; nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt trên nền tảng tình yêu (“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” – Ga 13, 34). Như vậy, đem lại niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu cho những người chung quanh là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể làm lương thực trường tồn cho mọi tín hữu, cho Giáo Hội lữ hành đang trên đường tiến về quê Trời vĩnh cửu.

Đức Giê-su Ki-tô đã vì tình yêu mà chữa lành thân xác cho những kẻ đui mù câm điếc, phong hủi què quặt, kể cả những thân xác không còn sinh khí (đã chết). Song song với việc chữa lành thân xác cho con người, Người vẫn tiến hành sứ vụ chữa lành chứng bệnh đui mù câm điểc, phong hủi què quặt về đường tâm linh và nhất là sự chết trong tội lỗi của nhân loại. Ấy cũng bởi vì Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, dùng chính thân mình làm của lễ toàn thiêu tiêu diệt sự chết, giải thoát con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại. Lời Đức Ki-tô gọi con của bà goá ở thành Na-in “Hãy trỗi dậy”, cũng là Lời Chúa gọi từng mỗi người Ki-tô hữu hôm nay.

Vâng, người Ki-tô hữu hôm nay đã được cùng chết với Đức Ki-tô và cùng được trỗi dậy với Người “nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới bằng chính cuộc sống thực hành Lời Chúa nơi hạ giới, ấy mới là những kẻ khôn ngoan. Một cách cụ thể là chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.

Tóm lại, Đấng Ban Sự Sống đến trần gian ban cho nhân loại không chỉ sự sống mau qua (như trường hợp con trai bà goá ờ thành Na-in, trường hợp anh La-da-rô hoặc những phép lạ hoá bánh ra nhiều, phép lạ chữa cho những người đui, què, câm, điếc được khỏi…), mà nhất là còn ban cho nhân loại sự sống đời đời. Người luôn kêu gọi con người “Hãy trỗi dậy” từ cõi chết, để được chung hưởng hồng ân Phục Sinh nơi Cõi Phúc Trường Sinh. Nào, xin mời “Hãy trỗi dậy hỡi ai ngủ mê. Hãy trỗi dậy từ cõi chết, Chúa sẽ chiếu ngời ánh quang vinh trên đầu ngươi. TK: Ðã bao năm qua gian trần miệt mài sống trong vòng u tối. Giờ được Chúa dẫn vào nguồn sống, ta hãy bước theo đường quang vinh.” (TCCĐ “Hãy trỗi dậy”). Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD