Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Ngày 19 tháng 12 năm vừa qua Anis Amri, một thanh niên người Tunisi, đã đánh cắp một xe vận tải chở hàng, giết tài xế người Ba Lan, rồi lái xe tông vào một chợ Giáng Sinh đầy người đang đi mua sắm ở Breitscheidplatz trong thủ đô Berlin của Cộng Hoà Liên Bang Đức, khiến cho 12 người chết và 56 người bị thương. Sau khi chạy trốn khỏi Đức Anis Amri đã đi xe lửa qua Bỉ, Hoà Lan và Pháp để vào Italia, và đã bị cảnh sát bắn chết tại Sesta San Giovanni, thuộc Milano bắc Italia ngày 22 tháng 12. Amri đã từng bị kết án tù 5 năm tại Italia vì nhiều tội khác nhau. Trước khi thực hiện vụ khủng bố này Anis Amri đã tung lên mạng video anh đang ca tụng nhà nước Hồi IS.

Vụ khủng bố đẫm máu này lại khiến cho nhiều người đặt vấn nạn liên quan tới cuộc đối thoại của Giáo Hội công giáo với Hồi giáo. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn về vấn đề này.

Hỏi: Thưa ĐHY, kiểu khủng bố như đã xảy ra tại Berlin nhắc lại vụ khủng bố tương tự đã xảy ra tại Nice bên Pháp hối tháng 7 năm 2016 và vụ khủng bố tại Rouen. Chúng đã khiến cho nhiều người tại Âu châu khép kín đối với người Hồi. Đấy là chưa kể tới các vụ khủng bố tại Aleppo, và vụ khủng bố mới đây xảy ra tại nhà thờ chính toà Copte trong thủ đô Cairo của Ai Cập. Trước tất cả các vụ khủng bố này còn có thể nói tới đối thoại không thưa ĐHY?

Đáp: Chính vì tình hình này mà cần phải đặc biệt chú ý tới thế giới hồi giáo. Chúng  ta tất cả đều đã bị liên lụy bởi những gì đã xảy ra bên Đức, bên Ai Cập và trước đó nữa là trên quê hương Pháp của tôi.  Nhưng mà cả trong tình trạng đó chúng tôi cũng đã có thể  đánh giá cao việc thức tỉnh căn tính tôn giáo tứ phía đa số người dân Pháp, cũng như tình liên đới, mà các anh chị em Hồi giáo các nước khác đã bầy tỏ với chúng tôi, đặc biệt là sau vụ sát hại vị linh mục cao niên, cha Jacques Hamel. Chúng tôi đau đớn tiếp tục chứng kiến các hành động tàn bạo vô nghĩa chống lại những người vô tội trong cuộc sống thường ngày của họ. Trước các hành động đó, trước thảm cảnh của các người di cư tỵ nạn, trước cuộc khủng hoảng quốc tế, nhất là trước tình trạng xung đột tại Siria, cám dỗ bỏ cuộc rất là lớn. Nhưng chính trong lúc này là lúc phải tiếp tục tin nơi sự đối thoại, là điều nòng cốt đối với toàn thể nhân loại.

Hỏi: Thưa ĐHY làm thế nào để đưa cuộc đối thoại này tiến tới trong cuộc sống thường ngày?

Đáp: Tất cả mọi người đều phải đào sâu niềm tin tôn giáo của mình, và hiểu rằng đối thoại không phải chỉ được dành cho “các chuyên viên”. Nhưng tất cả mọi người đều phải từ bỏ các thái độ nghi ngờ hay tranh cãi bênh vực các lý do của mình. Khi thực thi, trong sự tự do và lòng tôn trọng, quyền lợi của tha nhân, tất cả những gì mà đa số các tôn giáo đều có chung là cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bác ái, hành hương, là chúng ta sẽ chứng minh rằng các tín hữu là một yếu tố của hoà bình cho các xã hội loài người. Trong thế giới bấp bênh ngày nay, đối thoại giữa các tôn giáo không phải là một dấu chỉ của sự yếu đuối. Nó tìm ra lý do của nó trong cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại.

Hỏi: Nếu phải tóm tắt với một hình ảnh các kết quả của cuộc đối thoại trong năm 2016, thì ĐHY chọn hình ảnh nào?

Đáp: Chắc chắn là tôi chọn hình ảnh ĐTC Phanxicô gặp gỡ Đại Imam Sceicco Ahmad Muhammad al Tayyib, đến Vaticăng với một phái đoàn cấp cao, trong đó có các giáo sư Abbas Shouman, phó thư ký đại học Hồi Sunnít, và giáo sư Hamdi Zakzouk, giám đốc Trung tâm đối thoại Al Azhar. Đại Imam đã được tôi và ĐC Miguel Angel Ayuso Guixot, thư ký Hội đồng toà thánh đối thoại liên tôn tiếp đón, và  chúng tôi đã tháp tùng đại Imam tới gặp gỡ ĐTC. Trong cuộc hội kiến chúng tôi đã nhấn mạnh trên sự cần thiết các vị lãnh đạo và tín hữu của các tôn giáo lớn cùng nhau dấn thân cho hoà bình trên thế giới, khước từ bạo lực và khủng bố; và chúng tôi cũng đề cập tới tình hình của các kitô hữu và các căng thẳng trong vùng Trung Đông.

Hỏi: ĐTC Phanxicô đã hơn một lần lập lại rằng không được đồng hoá Hồi giáo với bạo lực, có phải không thưa ĐHY?

Đáp: Vâng, nhưng không phải chỉ có thế. Trong chuyến bay từ Ba Lan trở về Roma ngày 31 tháng 7 ĐTC đã trả lời một câu hỏi, và bảo đảm rằng các anh chị em hồi giáo tìm kiếm hoà bình, tìm kiếm gặp gỡ. Và chính Sceicco Al Tayyib, trong một cuộc phỏng vấn dành cho các nhà báo Vaticăng ngay sau cuộc gặp gỡ với ĐTC, đã nhấn mạnh rằng Hồi giáo không liên quan gì tới khủng bố, bởi vì ai giết người là đã hiểu sai các văn bản nền tảng của Hồi giáo; và thật là điều nền tảng các tôn giáo  lớn phải có một nỗ lực chung để đưa ra cho nhân loại một hướng đi mới tiến tới lòng thương xót và hoà bình trong thời đại khủng hoảng trầm trọng này. Như vậy, nếu Đức Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Đại Imam của đại học Al- Azhar  trong chuyến công du Ai Cập trong Năm Thánh 2000, thì Sceicco Al Tayyib đã là Đại Imam đầu tiên viếng thăm ĐTC tại Vaticăng, và luôn luôn trong một Năm Thánh, là Năm Thánh Lòng Thương Xót, tức mười lăm năm sau Năm Thánh 2000.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu đã là hoạt động ngoại giao đi trước và theo sau cuộc gặp gỡ này?

Đáp: Vào tháng hai ĐC Ayuso đã đến Cairo, và tại Cairo ĐC đã được ĐTGM Bruno Musarò,  Sứ Thần Toà Thánh,   tháp tùng tới đại học Al Azhar. ĐC Ayuso đã trao tận tay cho giáo sư Shouman một bức thư của tôi, trong đó tôi bầy tỏ sự sẵn sàng tiếp đón Đại Imam và tháp tùng ông vào gặp ĐTC Phanxicô tại Vaticăng. Sau đó ĐC Ayuso đã sang Cairo hai lần nữa, vào tháng 7 và tháng 10 để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sẽ ghi dấu việc tái đối thoại giữa Hội đồng Toà Thánh  và đại học hồi giáo Cairo, vào cuối tháng 4 năm 2017.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu là các chặng ý nghĩ khác trong các sinh hoạt của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn trong năm 2016?

Đáp: Vào đầu năm  2016 có cuộc gặp gỡ hàng năm tại Genève giữa các nhân viên của Hội Đồng và của Văn phòng đối thoại liên tôn với sự cộng tác của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô  trong “Tuần hòa hợp liên tôn” do Liên Hiệp Quốc thành lập. Vào tháng giêng ĐC Ayuso, Thư ký Hội Đồng, đã sang Abu Dhabi tham dự “Diễn đàn các tư tưởng gia A rập”, tổ chức lần đầu tiên. ĐC đã là thuyết trình viên duy nhất không phải người Hồi giáo, và ĐC đã phát biểu về đề tài “Khuynh hướng cực đoan” phân tích các lý do và các phương thế sửa chữa có thể có. Vào tháng hai tôi đã được ông Khaled Abashed, trưởng phòng Hồi giáo, tháp tùng tham dự Hội nghi đối thoại liên tôn lần thứ 12  triệu tập tại Doha bên Qatar.

Hỏi: Thật là ý nghĩa trong năm 2016 ĐTC đã gặp giới lãnh đạo các tôn giáo khác nhiều lần trước khi chủ sự buổi tiếp kiến chung tín hữu và du khách hành hương năm châu. Các buổi gặp gỡ này đã có ý nghĩa gì thưa ĐHY?

Đáp: Đó đã là các lúc rất quan trọng, trong đó ĐTC đã nói mấy lời tự phát ngắn gọn. Các cung cách và cử chỉ dễ thương của ngài đã để lại nơi tất cả mọi người một kỷ niệm tốt. Các vị thuộc “Học viện hoàng gia đặc trách nghiên cứu liên tôn” tại Amman bên Giordania cũng như ông Haxhi Baba Edmond Bahimaj, thủ lãnh cộng đoàn Bektashi, được ĐGH tiếp kiến tuần sau đó, đã cho tôi biết như vậy. Đây là một huynh đoàn hồi giáo phát xuất từ nhóm Sufi, được thành lập hồi thế kỷ 13 bên Thổ Nhĩ Kỳ, và được phổ biến, nhất là bên Albania. Cùng sự kiện này lại xảy ra ngày mùng 1 tháng 6  với một phái đoàn 35 người, và sau cùng ngày 23 tháng 11 với các người hồi Sunnít Iran  tham dự cuộc hội luận về “Khuynh hướng cực đoan và bạo lực nhân danh tôn giáo”, do Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn tổ chức cùng với tổ chức Văn hoá và tương quan tại Teheran. Ngoài ra trong các ngày mùng 7-8 tháng 9 đã có hội nghị về “Châu Mỹ đối thoại- Ngôi nhà chung của chúng ta”. Do Hội đồng Toà Thánh và Học viện đối thoại liên tôn Buenos Aires cùng tổ chức. Các tham dự viên sau đó đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến. Sau cùng chúng ta cũng không quên buổi tiếp liên tôn do chính ĐTC muốn ngày mùng 3 tháng 11, với sự tham dự của biết bao thân hữu và các tác nhân đối thoại, trong đó có các nhân viên của “Trung tâm quốc tế đối thoại liên tôn” tại Vienne bên Áo, viết tắt là KAICIID. Trung tâm này cũng đã thăng tiến một cuộc hội luận về lòng thương xót  tại Đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma.

Hỏi: Các con số thống kê cho thấy Á châu quan trọng, và ĐTC cũng chú ý theo dõi các biến cố của đại lục này vì tầm quan trọng của cuộc đối thoại với Đông Phương. Có các tương quan nào với Á châu và các nền văn hóa của nó thưa ĐHY?

Đáp: Hồi tháng 5 ĐC Thư ký của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn đã sang Nhật Bản để tham khảo ý kiến các vị lãnh đạo tôn giáo cấp cao vùng Trung Đông về đề tài quyền công dân, nhằm thăng tiến môt ý thức lớn hơn tại các nước có đa số dân theo Hồi giáo. Trong các cuộc gặp gỡ tại Tokyo cũng đã có việc củng cố các liên lạc Giữa Giáo Hội công giáo và tổ chức Phật giáo Risho Kosei Kai. Vào tháng 10 ĐC Ayuso cũng đã cùng với cha phó thư ký Indunil Kodithuwakku đi sang Singapore, rồi Đài Loan nhân cuộc gặp gỡ kitô lão giáo lần đầu tiên được tổ chức tại đây.

Hỏi: Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn cũng đã gửi các sứ điệp tới các tôn giáo lớn tại Á châu nhân các dịp lễ, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Đúng thế. Nhân lễ Ánh Sáng Vesakh, kỷ niệm các biến cố chính trong cuộc đời Đức Phật, chúng tôi đã gửi sứ điệp về đề tài “Tín hữu kitô và phật giáo cùng nhau thăng tiến giáo dục môi sinh”. Vào tháng 10 chúng tôi đã gửi một sứ điệp cho các tín hữu Ấn giáo tập trung vào tầm quan trọng của gia đình nhân dịp lễ Deepavali có nghĩa là “hàng đèn dầu”, dựa trên một huyền thoại cổ xưa diễn tả chiến thắng của chân lý trên dối trá và của ánh sáng trên tối tăm. Sau cùng vào tháng Ramadan nhằm tháng 6 chúng tôi cũng đã gửi các lời cầu chúc truyền thống tới cộng đoàn hồi giáo.

Hỏi: Một trong những thời điểm chính của năm 2016 vừa qua chắc chắn đã là cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình tại Assisi ngày 20 tháng 9, nhân kỷ niệm lần thứ 36 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời các vị lãnh đạo các tôn giáo lớn tụ tập nhau cầu nguyên cho hoà bình thế giới, Nó đã có ý nghĩa nào thưa ĐHY?

Đáp: Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình hồi năm 1986 đã hướng Giáo Hội tới các tôn giáo không kitô. Mặc dù có giáo huấn của Đức Phaolô VI trong thông điệp “Ecclesiam suam” và của Công Đồng Chung Vaticăng II với tuyên ngôn “Nostra aetate”, các tôn giáo này xem ra vẫn xa vời, nếu không nói là xa lạ. Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình đã là biểu tượng, là việc thực hiện nhiệm vụ của Giáo Hội trong một thế giới đa tôn giáo. Vì thế không phải vô tình mà chính ĐTC Phanxicô đã muốn tái đề nghị các nội dung  của nó bằng cách đến Assisi tham dự một ngày cầu nguyện cho hoà bình với đề tài “Khát khao hoà bình. Các tôn giáo và các nền văn hoá đối thoại với nhau”.

(Oss. Rom. 21-12-2016)

Linh Tiến Khài

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2017

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2017

su-diep-duc-thanh-cha-nhan-ngay-hoa-binh-the-gioi-1-1-2017

Ngày 1-1-2017 là Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 50 kể từ khi được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6 thiết lập. Lần này có chủ đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”.

 Văn kiện này được chia làm 7 đoạn lần lượt nói đến một thế giới bị phân hóa và phải chịu nạn bạo lực ”từng mảnh” bằng nhiều cách ở nhiều cấp độ khác nhau, gây ra những đau khổ lớn lao như chúng ta đang chứng kiến: chiến tranh tai nhiều nước và đại lục, nạn khủng bố, tọi pháp, những cuộc tấn công võ trang không lường trước được.. 

 ĐTC xác quyết bạo lực không phải là cách săn sóc thế giới chúng ta bị tan thành mảnh. Dùng bạo lực để đáp trả bạo lực cùng lắm chỉ dẫn tới những cuộc tản cư vì bị bó buộc và những đau khổ vô biên.

 ĐTC nhận xét rằng bất bạo động nhiều khi bị hiểu theo nghĩa một sự đầu hàng, không dấn thân và thụ động. Nhưng thực tế không phải như vậy… Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo… Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiển tạo hòa bình, chỉ để giúp đã một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống của họ.

 ĐTC cũng xác tín rằng nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là phải tiến bước trên con đường bất bạo động trước tiên ở trong gia đình.

 ĐTC xác quyết: ”Việc xây dựng hòa bình nhờ bất bạo động tích cực là yếu tố cần thiết và phù hợp với nỗ lực liên lỷ của Giáo Hội để giới hạn việc sử dụng võ lực, qua những qui luật luân lý, nhờ sự tham gia của Giáo Hội vào những công việc của các tổ chức quốc tế và nhờ sự đóng góp giá trị của các tín hữu Kitô vào việc ban hành các luật lệ ở mọi cấp độ”.

 Sau đây là toàn văn Sứ điệp Hòa bình của ĐTC, dịch từ nguyên bản tiếng Ý.

 1. Vào đầu năm mới, tôi gửi lời chân thành cầu chúc an bình tới các dân tộc và quốc gia trên thế giới, tới các vị Quốc Trưởng và Chính Phủ, cũng như các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo và những tổ chức khác của xã hội dân sự. Tôi cầu chúc an bình cho mỗi ngừơi nam, nữ, trẻ em và cầu nguyện để hình ảnh và sự sống Thiên Chúa nơi mỗi người giúp chúng ta nhìn nhận nhau như những món quà thánh thiêng có một phẩm giá vô biên. Nhất là trong những tình trạng xung đột, chúng ta tôn trọng ”Phẩm giá sâu xa nhất” và biến bất bạo động thành một lối sống của chúng ta.

 Đây là Sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế giới lần thứ 50. Trong sứ điệp đầu tiên, Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô 6 đã ngỏ lời với tất cả các dân tộc, – không những với các tín hữu Công Giáo mà thôi,- với những lời thật rõ ràng: ”Sau cùng chúng ta thấy rất rõ rệt hòa bình là con đường duy nhất và chân thực của sự tiến bộ con người (không phải những căng thẳng của chủ nghĩa quốc gia tham vọng, không phải những chiếm đoạt bằng bạo lực, không phải những đàn áp đưa tới một trật tự dân sự giả tạo)”. Ngài cảnh giác trước ”nguy cơ tin rằng những tranh chấp quốc tế không thể giải quyết được bằng những con đường lý trí, nghĩa là bằng những cuộc thương thuyết dựa trên luật pháp, công lý, công chính, nhưng chỉ bằng những cuộc thương thuyết dựa trên sức mạnh làm cho đối phương nể sợ và gây chết chóc”. Trái lại, ngài trích dẫn thông điệp ”Hòa bình dưới thế” của vị tiền nhiệm là thánh Gioan 23, ca ngợi ”ý nghĩa và lòng yêu mến hòa bình dựa trên sự thật, công lý, tự do và tình thương”. Những lời này rất thời sự, ngày nay nó không kém phần quan trọng và cấp thiết so với cách đây 50 năm.

 Trong dịp này tôi muốn bàn về sự bất bạo động như một đường lối chính trị hòa bình và cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta kín múc nơi sự bất bạo động trong chiều sâu của tâm tình và những giá trị bản thân của chúng ta. Ước gì đức bác ái và bất bạo động hướng dẫn cách thức chúng ta đối xử với nhau trong các quan hệ giữa người với nhau, trong các quan hệ xã hội và quốc tế. Khi biết kháng cự lại cám dỗ báo thù, các nạn nhân của bạo lực có thể giữ vai chính đáng tín nhiệm hơn trong các tiến trình bất bạo động xây dựng hòa bình. Trên bình diện địa phương và thường nhật cho đến bình diện hoàn cầu, bất bạo động có thể trở thành cách thức đặc biệt trong các quyết định, các quan hệ, hành động và chính trị trong tất cả các hình thức của nó.

 ** Một thế giới bị phân tán

 2. Thế kỷ 20 vừa qua đã bị hai thế chiến chết chóc tàn phá, đã cảm nghiệm sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân và một số lớn các cuộc xung đột khác, trong khi ngày nay, đáng tiếc là chúng ta phải đương đầu với một thế chiến từng mảnh kinh khủng. Không dễ biết thế giới hiện nay có bị bạo lực hơn hay kém so với trước kia, và các phương tiện truyền thông hiện đại và đặc tính di động của thời đại ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực và quen thuộc với nó nhiều hơn hay không.

 Dầu sao, bạo lực này được thực thi từng mảnh, theo những thể thức và mức độ khác nhau, tạo nên những đau khổ kinh khủng mà chúng ta biết rõ: những cuộc chiến tranh tại nhiều quốc gia và đại lục; nạn khủng bố, tội phạm, và các cuộc tấn công võ trang không lường trước được; những lạm dụng mà người di dân và các nạn nhân nạn buôn người phải chịu; sự tàn phá môi trường. Với mục đích nào? Bạo lực có cho phép đạt tới những mục tiêu có giá trị lâu bền hay không? Tất cả những điều mà nó đạt được chẳng phải là khơi lên những vụ trả thù và các vòng xung đột chết chóc chỉ mang lại ích lợi cho một thiểu số ”các lãnh chúa chiến tranh” sao?

 Bạo lực không phải là sự chữa lãnh thế giới bị phân tán từng mảnh của chúng ta. Lấy bạo lực đáp lại bạo lực, cùng lắm chỉ đưa tới những tình trạng buộc lòng phải di cư và đau khổ vô biên, vì số lượng tài nguyên lớn lao được dành cho các mục tiêu quân sự và được rút khỏi những nhu cầu thường nhật của người trẻ, các gia đình gặp khó khăn, người già, bệnh nhân, và đại đa số dân trên thế giới. Tệ nhất, nó có thể đưa tới chết chóc, về thể lý và tinh thần, của nhiều người, nếu không phải là tất cả mọi người.

 ** Tin Mừng

 3. Cả Chúa Giêsu cũng đã từng sống trong thời bạo lực. Ngài dạy rằng chiến trường đích thực trong đó bạo lực và hòa bình đương đầu với nhau chính là tâm hồn con người: “Thực vậy, từ bên trong, tức là từ tâm hồn con người, xuất phát những ý hướng xấu xa” (Mc 7,21). Sứ điệp của Chúa Kitô, đứng trước thực tại ấy, mang lại câu trả lời hoàn toàn tích cực: Ngài rao giảng không biết mệt mỏi tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đón tiếp và tha thứ, và dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù (Xc Mt 5,44) và giơ má bên kia (Xc Mt 5,39). Khi ngăn cản những kẻ cáo buộc người phụ nữ ngoại tình ném đá bà (Xc Ga 8,1-11) và trong đêm trước khi chịu chết, Ngài đã bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (Xc Mt 26,52), Chúa Giêsu vạch ra con đường bất bạo động, con đường mà Ngài đi tới cùng, tới thập giá, nhờ đó Ngài thực thi hòa bình và phá hủy sự thù nghịch (Xc Ep 2,14-16). Vì thế ai đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì biết nhận ra bạo lực mang trong mình và để cho lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành, nhờ đó họ trở thành dụng cụ hòa giải, theo lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi: ”Hòa bình mà các con loan báo bằng miệng, các con hãy có hòa bình ấy dồi dào hơn nữa trong tâm hồn các con”.

 Ngày nay, là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là gắn bó với đề nghị của Ngài về bất bạo động. Như vị Tiền nhiệm Biển Đức 16 của tôi đã khẳng định, ”bất bạo động có tính chất thực tiễn, vì ý thức rằng trong thế giới có quá nhiều bạo động, quá nhiều bất công, và vì thế không thể vượt qua tình trạng này nếu không kháng cự nó bằng một điều lớn hơn: bằng tình yêu, bằng lòng từ nhân. Điều lớn hơn này đến từ Thiên Chúa”. Và Ngài mạnh mẽ nói thêm rằng: ”Sự bất bạo động đối với các tín hữu Kitô không phải chỉ là một thái độ chiến thuật, nhưng là một lối sống, là thái độ của người xác tín mạnh mẽ về tình yêu của Thiên Chúa và quyền năng của Ngài đến độ không sợ đối đầu với sự ác chỉ bằng võ khí tình thương và sự thật mà thôi. Lòng yêu thương kẻ thù chính là nòng cốt ”cuộc cách mạng Kitô giáo”. Chính lời dạy của Tin Mừng hãy yêu thương kẻ thù (Xc Lc 6,27) được coi như ”Đại hiến chương về sự bất bạo động Kitô giáo”: nó không hệ tại ”đầu hàng sự ác […] nhưng là đáp trả sự ác bằng điều thiện (Xc Rm 12,17-21), nhờ đó phá vỡ xiềng xích của bất công”.

 ** Mạnh hơn bạo lực

 4. Bất bạo động nhiều khi bị hiểu theo nghĩa một sự đầu hàng, không dấn thân và chỉ thụ động. Nhưng thực tế không phải như vậy. Khi Mẹ Têrêsa nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1979, Mẹ đã tuyên bố rõ ràng sứ điệp của Mẹ là bất bạo động tích cực và nói: ”Trong gia đình chúng ta, chúng ta không cần bom đạn và võ khí, không cần tàn phá để mang lại hòa bình, nhưng cần ở với nhau, yêu thương nhau […] Và chúng ta có thể vượt thắng mọi sự ác trên thế giới”. Vì sức mạnh của võ khí có tính chất lừa đảo. ”Trong khi những kẻ buôn bán võ khí hoạt động, thì có những người nghèo kiến tạo hòa bình, chỉ để giúp đỡ một người, giúp đỡ người khác, và hiến mạng sống cho tha nhân. Đối với những người xây dựng hòa bình như thế, Mẹ Têrêsa chính là một biểu tượng, một hình ảnh của thời đại chúng ta”. Tháng 9 năm 2016, tôi đã được niềm vui lớn khi tôn phong Mẹ lên hàng hiển thánh. Tôi đã ca ngợi sự sẵn sàng của Mẹ đối với tất cả mọi người qua ‘sự tiếp đón và bảo vệ sự sống con người, sự sống chưa sinh ra và sự sống bị bỏ rơi và gạt bỏ. […]. Mẹ đã cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết bên vệ đường, Mẹ nhìn nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ; Mẹ đã lên tiếng với những người hùng mạnh của trái đất này, để họ nhìn nhận của họ trước những tội ác – trước những tội ác! – nghèo đói do chính họ tạo nên”. Đối lại, sứ mạng của Mẹ – qua đó Mẹ đại diện cho hàng ngàn người, đúng hơn là hàng triệu người – đi gặp các nạn nhân với lòng quảng đại và tận tụy, động đến và băng bó mỗi thân thể bị thương, chữa lành mỗi cuộc sống bị tan vỡ.

 Sự bất bạo động được thực hành với lòng tận tụy và phù hợp với niềm tin tạo nên những kết quả lạ lùng. Những thành công của Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar trong việc giải phóng Ấn độ và của Martin Luther King Jr chống lại nạn kỳ thị chủng tộc sẽ không bao giờ bị quên lãng. Đặc biệt các phụ nữ thường là những người lãnh đạo bất bạo động, ví dụ như Leymah Gbowee và hàng ngàn phụ nữ Liberia, đã tổ chức những cuộc gặp gỡ cầu nguyện và phản đối bất bạo động (pray-ins) đạt được những cuộc thương thuyết ở cấp độ cao để kết thúc cuộc nội chiến thứ hai ở Liberia.

 Chúng ta không thể quên thập niên lịch sử được kết thúc với sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Âu Châu. Các cộng đồng Kitô đã đóng góp bằng việc cầu nguyện liên lỷ và hành động can đảm. Họ đã thực hiện một ảnh hưởng đặc biệt đối với sứ vụ và giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô 2. Suy tư về các biến cố năm 1989 trong Thông điệp Năm Thứ 100 (1991), vị tiền nhiệm của tôi đã nhấn mạnh rằng một sự thay đổi lịch sử trong đời sống các dân tộc, các quốc tộc và quốc gia được thực hiện ”nhờ cuộc chiến đấu hòa bình, chỉ dùng võ khí sự thật và công lý”.

 Hành trình chuyển tiếp chính trị này tiến về hòa bình đã thực hiện được nhờ ”sự dấn thân bất bạo động của những người, trong khi luôn luôn từ khước chiều theo quyền bính của sức mạnh, đã biết thỉnh thoảng tìm được những hìonh thức hữu hiệu để làm chứng cho sự thật”. Và Ngài kết luận: ”Ước gì con người học cách chiến đấu cho công lý mà không bạo động, từ bỏ cuộc đấu tranh giai cấp trong các cuộc tranh chấp nội bộ và chiến tranh trong các cuộc tranh chấp quốc tế”.

 Giáo Hội dấn thân thực hiện những chiến lược bất bạo động thăng tiến hòa bình tại nhiều nước, thậm chí yêu cầu cả các tác nhân bạo lực nhất trong cố gắng xây dựng một nền hòa bình công chính và lâu bền.

 Sự dấn thân này để bênh vực các nạn nhân bất công và bạo lực không phải là một gia sản riêng của Giáo Hội Công Giáo, nhưng của nhiều truyền thống tôn giáo, đối với họ, ”sự cảm thương và bất bạo động là điều thiết yếu và chỉ cho con đường sự sống”. Tôi mạnh mẽ lập lại rằng: ”Không có tôn giáo nào là khủng bố”. Bạo lực là một sự xúc phạm đến danh Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi lập lại điều này: ”Không bao giờ danh Thiên Chúa có thể biện minh cho bạo lực. Chỉ có hòa bình là thánh thiêng. Chỉ có hòa bình là tháng, chứ không phải chiến tranh!”

 ** Căn cội tại gia của một nền chính trị bất bạo động

 5. Nếu nguồn mạch phát sinh bạo lực là tâm hồn của con người, thì điều căn bản là phải tiến bước trên con đường bất bạo động trước tiên ở trong gia đình. Đó là một thành phần niềm vui của tình thương mà tôi đã trình bày hồi tháng 3 năm nay trong Tông Huấn ”Amoris laetitia” (Niềm vui yêu thương), kết thúc 2 năm suy tư của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Gia đình là lò tôi luyện không thể thiếu được trong đó đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em học cách đả thông và chăm sóc nhau một cách vô vị lợi, và nơi mà những sầu muộn và thậm chí những xung đột phải được vượt thắng không phải bằng võ lực, nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, tìm kiếm thiện ích cho người khác, từ bi và tha thứ. Từ bên trong gia đình niềm vui yêu thương lan truyền trên thế giới và tỏa lan trong toàn xã hội. Đàng khác, một nền luân lý đạo đức huynh đệ và sống chung hòa bình giữa con người và các dân tộc không thể dựa trên sợ hãi, bạo lực và khép kín, nhưng trên trách nhiệm, tôn trọng và đối thoại chân thành. Trong chiều hướng đó, tôi kêu gọi giải trừ võ trang, và cấm chỉ cũng như bãi bỏ các võ khí hạt nhân: việc dùng võ khí hạt nhân để đối phương nể sợ và sự đe dọa tàn phá lẫn nhau không thể tạo nên nền luân lý đạo đức huynh đệ. Tôi cũng khẩn thiết kêu gọi hãy chấm dứt sự bạo hành trong gia đình và những lạm dụng phụ nữ và trẻ em.

 Năm Thánh Lòng Thương xót, kết thúc hồi tháng 11 vừa qua, là một lời mời gọi hãy nhìn vào chiều sâu của tâm hồn chúng ta và để cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đi vào. Năm Thánh đã làm cho chúng ta ý thức có đông đảo những người khác nhau và các nhóm xã hội bị đối xử dửng dưng, họ là nạn nhân của bất công và bị bạo hành. Họ thuộc ”gia đình” chúng ta, họ là anh chị em của chúng ta. Vì thế các chính sách bất bạo động phải bắt đầu từ trong 4 bức tường gia đình chúng ta để lan tỏa ra trong toàn thể gia đình nhân loại. Tấm gương của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mời gọi chúng ta thực hành con đường thơ ấu của tình thương, đừng đánh mất cơ hội nói một lời tử tế dễ thương, một nụ cười, bất kỳ cử chỉ nhỏ bé nào gieo vãi an bình và tình thân hữu. Một nền môi sinh học toàn diện cũng được hình thành bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ đường lối bạo lực, bóc lột và ích kỷ”.

 ** Lời mời gọi của tôi

 6. Việc xây dựng hòa bình nhờ bất bạo động tích cực là yếu tố cần thiết và phù hợp với nỗ lực liên lỷ của Giáo Hội để giới hạn việc sử dụng võ lực, qua những qui luật luân lý, nhờ sự tham gia của Giáo Hội vào những công việc của các tổ chức quốc tế và nhờ sự đóng góp giá trị của các tín hữu Kitô vào việc ban hành các luật lệ ở mọi cấp độ. Chúa Giêsu đã trao tặng cho chúng ta một cuốn chỉ nam trong kế hoạch kiến tạo hòa bình qua Bài Giảng Trên Núi. 8 mối phúc thật (Xc Mt 5,3-10) phác họa mẫu mực của người mà chúng ta có thể định nghĩa là người có phúc, người tốt lành và chân chính. Chúa Giêsu nói: ”Phúc cho những người hiền lành, người có lòng thương xót, người xây dựng hòa bình, người có tâm hồn thanh thiết, những người đói khát sự công chính”

 ”Đây cũng là một chương trình và là một thách đố cho các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các vị trách nhiệm các tổ chức quốc tế và những người điều khiển xí nghiệp, các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới: đó là áp dụng các Mối Phúc Thật, qua đó họ thực thi trách nhiệm của mình. Một thách đố xây dựng xã hội, cộng đoàn hoặc xí nghiệp mà họ trách nhiệm theo thể thức của người xây dựng hòa bình; chứng tỏ lòng từ bi thương xót bằng cách từ chối gạt bỏ con người, từ chối gây thiệt hại cho môi trường và khước từ ý muốn chiến thắng bằng mọi giá. Điều này đòi phải có sự sẵn sàng ”chịu đựng xung đột, giải quyết nó và biến đổi nó thành một mắt xích liên kết trong tiến trình mới”. Hoạt động như thế có nghĩa là chọn lựa tình liên đới như một cách thức làm lịch sử và kiến tạo tình thân hữu xã hội. Sự bất bạo động tích cực là một cách thức để chứng tỏ rằng quả thực sự hiệp nhất thì mạnh mẽ và phong phú hơn xung đột. Tất cả trong thế giới đều có liên hệ mật thiết với nhau. Tuy có thể xảy ra là những tranh chấp sinh ra sầu muộn: nhưng chúng ta hãy đương đầu với chúng một cách xây dựng và bất bạo động, như thế ”những căng thẳng và đối nghịch (có thể) đi tới một sự hiệp nhất đa dạng sinh ra đời sống mới”, bảo tồn ”những tiềm năng quí giá của những lập trường đối nghịch nhau”.

 Tôi cam đoan rằng Giáo Hội Công Giáo sẽ đồng hành với mỗi cố gắng xây dựng hòa bình kể cả qua sự bất bạo động tích cực và có tinh thần sáng tạo. Ngày 1-1-2017 là ngày khai sinh Bộ mới, Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, giúp Giáo Hội thăng tiến một cách ngày càng hữu hiệu ”những thiện ích khôn lường của công lý, hòa bình và bảo tồn thiên nhiên”, và sự quan tâm đối với những người di dân, ”những người túng thiếu, các bệnh nhân và những người bị gạt bỏ, những người ở ngoài lề, và các nạn nhân của những cuộc xung đột võ trang và những thiên tai, các tù nhân, những người thất nghiệp và các nạn nhân của bất kỳ hình thức nô lệ và tra tấn”. Mỗi hành động trong chiều hướng này, dù là bé nhỏ, đều góp phần xây dựng một thế giới không còn bạo lực, một bước tiến đầu tiên hướng về công lý và hòa bình.

 ** Kết luận

 7. Theo truyền thống, tôi ký Sứ điệp này ngày 8-12, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình. Khi Con của Mẹ sinh ra, các thiên thần tôn vinh Thiên Chúa và cầu chúc hòa bình cho con người trên trái đất, những người nam nữ thiện chí (Xc Lc 2,14). Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ hướng dẫn chúng ta.

 ”Tất cả đều mong ước hòa bình; bao nhiêu người hằng ngày kiến tạo hòa bình với những cử chỉ nhỏ bé và nhiều người chịu đau khổ và kiên nhẫn chịu đựng vất vả với bao nhiêu cố gắng để xây dựng hòa bình”. Trong năm 2017, chúng ta hãy dấn thân, bằng kinh nguyện và hoạt động để trở thành những người loại trừ bạo lực khỏi tâm hồn, khỏi lời nói và cử chỉ, và xây dựng cộng đoàn bất bạo động, chăm sóc căn nhà chung. ”Không gì là không có thể nếu chúng ta chạy đến cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện. Tất cả có thể là những người xây dựng hòa bình”.

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Phần đầu cuộc phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Phần đầu cuộc phỏng vấn ĐTC Phanxicô

dtc-phanxico-tra-loi-cac-nha-bao-quoc-te-tren-chuyen-bay-tu-malmoe-ve-roma-trua-ngay-1-11-2016

Trưa ngày mùng 1 tháng 11 vừa qua trên chuyến bay từ Malmoe về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một giờ  phỏng vấn về  chuyến viếng thăm Thụy Điển và một vài vấn đề khác. Sau đây là nội dung phần đầu bài phỏng vấn.

Mở đầu ông Greg Burke, Giám đốc phòng báo chí Toà Thánh, nói: Chúng con xin cám ơn và kính chào ĐTC.  ĐTC đã nói nhiều về việc các tôn giáo khác nhau “cùng bước đi”. Cả chúng ta cũng đã cùng đi với nhau, có người đây là lần đầu tiên. Chúng con có một nhà báo Thụy Điển. Con nghĩ là từ lâu rồi bây giờ mới có một nhà báo Thụy Điển cùng tháp tùng chuyến bay với ĐTC. Vì thế xin nhường lời cho chị Elin Swedenmark của hãng tin Thụy Điển “TT”.

Đáp: Trước hết tôi xin chào và cám ơn anh chị em về công việc anh chị em đã làm, và cái lạnh anh chị em đã phải chịu. Nhưng chúng ta đã khởi hành đúng giờ, vì người ta nói rằng chiều nay nhiệt độ sẽ xuống thêm 5 độ nữa. Chúng ta đã khởi hành đúng giờ. Xin cám ơn rất nhiều. Xin cám ơn anh chị em về sự đồng hành và về công việc của anh chị em.

Chị Elin Swedenmark hỏi:

Thưa ĐTC, hôm qua ĐTC đã nói về cuộc cách mạng của sự dịu hiền. Đồng thời chúng ta cũng ngày càng trông thấy nhiều người đến từ Siria hay Iraq tìm tỵ nạn tại các nước Âu châu. Nhưng một số người phản ứng với sự sợ hãi, hay tệ hơn có người nghĩ rằng các người tỵ nạn này có thể đe dọa nền văn hóa của Kitô giáo. Đâu là sứ điệp của ĐTC đối với những người lo sợ cho sự phát triển của tình trạng này, và đâu là sứ điệp ĐTC nhắn gửi Thụy Điển, là quốc gia có truyền thống dài tiếp đón người tỵ nạn, nhưng bây giờ bắt đầu đóng cửa biên giới của mình?

Đáp: Trước hết như là người Argentina và nam mỹ latinh tôi xin cám ơn nước Thụy Điển rất nhiều vì sự tiếp đón này, bởi vì có rất nhiều người Argentina, Chilê, Uruguay đã được tiếp nhận vào Thuỵ Điển trong thời các chế độ quân đội độc tài. Thụy Điển đã có một truyền thống lâu dài tiếp nhận người tỵ nạn. Nhưng không phải chỉ tiếp nhận thôi, mà còn hội nhập họ, tìm nhà cửa, trường học và công việc làm ngay cho họ, hội nhập họ vào cuộc sống của một dân tộc. Theo các thống kê người ta nói cho tôi – có lẽ tôi lầm, tôi không biết chắc – nhưng tôi có nhớ là – Thụy Điển có bao nhiêu dân? Chín triệu? Trong số 9 triệu đó có 850.000 người “Thuỵ Điển mới”, nghĩa là các người di cư hay tỵ nạn và con cái họ. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai, cần phải phân biệt người di cư và người tỵ nạn. Người di cư phải được đối xử với vài luật lệ nào đó, bởi vì di cư là một quyền, nhưng là một quyền được luật lệ xác định. Trái lại người tỵ nạn  đến từ một tình trạng chiến tranh, lo âu, đói khổ, một tình trạng kinh khủng, và quy chế tỵ nạn cần săn sóc họ nhiều hơn và cho họ công việc làm nhiều hơn. Cả trong điều này nữa Thụy Điển đã luôn luôn là một gương  mẫu trong việc lo lắng cho người tỵ nạn, được học tiếng, hiểu nền văn hóa, và hội nhập vào nền văn hóa. Liên quan tới khiá cạnh hội nhập các nền văn hóa chúng ta không có gì phải hoảng hốt, bởi vì Âu châu đã được tạo thành với một sự hội nhập liên tục của các nền văn hóa, biết bao nền văn hóa. Tôi tin rằng – điều này tôi không nói một cách xúc phạm, không đâu, nhưng như là một sự tò mò – sự kiện ngày nay tại Islen, một cách cụ thể một người Islen với tiếng Islen ngày nay, có thể đọc các tác giả cổ điển một ngàn năm trước mà không gặp khó khăn nào, có nghĩa nó là một nước có ít cuộc di cư, ít làn sóng di cư như Âu châu đã có. Âu châu đã được thành hình với các cuộc di cư. Thế rồi tôi nghĩ gì về những nước đóng cửa biên giới: tôi tin rằng trên lý thuyết không thể khép kín tâm lòng đối với một ngươi tỵ nạn, nhưng cũng cần sự thận trọng của giới lãnh đạo: họ phải rất rộng mở tiếp đón người tỵ nạn, nhưng cũng phải tính toán xem có thể ổn định người tỵ nạn như thế nào. Bởi vì không phải chỉ tiếp đón một người tỵ nạn mà thôi, nhưng cũng cần phải hội nhập họ nữa. Và nếu một nước có khả năng hội nhập 20 người thôi, chẳng hạn, thì hãy làm tới đó thôi. Một nước khác có khả năng nhiều hơn, thì làm nhiều hơn. Nhưng luôn luôn phải có con tim rộng mở: đóng cửa không phải là nhân đạo, đóng con tim không phải là nhân bản, và về lâu về dài phải tính sổ với điều đó. Ở đây là trả giá chính trị, cũng như phải trả giá chính trị khi không thận trọng trong các tính toán, nhận nhiều người hơn là số có thể hội nhập. Bởi vì đâu là nguy cơ khi một người tỵ nạn hay một người di cư – điều này có giá trị cho cả hai – không được hội nhập, không hội nhập được? Tôi xin được phép nói một từ có lẽ là một kiểu nói mới “họ bị ghetto hoá” – họ vào trong một ghetto, một khu vực đóng kín. Đó là một nền văn hóa không phát triển trong tương quan với nền văn hóa khác, điều này nguy hiểm. Tôi tin rằng cố vấn xấu đối với các quốc gia hướng tới chỗ đóng các biên giới là sự sợ hãi, và cố vấn tốt nhất là sự thận trọng. Tôi đã nói chuyện với một nhân viên chính quyền  Thụy Điển  trong các ngày này, và ông ta kể cho tôi nghe một vài khó khăn trong lúc này – điều này có giá trị cho câu hỏi cuối cùng  của chị – vài khó khăn, bởi vì có biết bao người tỵ nạn đến, nhưng không có thời giờ để định cư họ, tìm nhà ở, trường học và việc làm cho họ, để họ học tiếng. Sự cẩn trọng phải biết tính toán. Nhưng Thụy Điển, tôi không tin rằng nếu Thuỵ Điển giảm khả năng tiếp đón là vì ích kỷ hay vì đã đánh mất đi khả năng đó. Nếu có điều gì như thế, thì là vì điều cuối cùng tôi đã nói: ngày nay biết bao người nhìn vào Thuỵ Điển vì họ biết sự tiếp đón của nó, nhưng để sắp xếp, thì không có thời giờ thu xếp cho tất cả mọi người . Không biết tôi đã trả lời cho câu hỏi của chị chưa.

Ông Greg Burke nói. Xin cám ơn ĐTC bây giờ tới câu hỏi của đài truyền hình Thuỵ Điển: chị Anna Cristina Kappelin thuộc đài truyền hình Sveriges:

Hỏi: Thưa ĐTC, Thụy Điển đã đón tiếp cuộc gặp gỡ đại kết quan trọng, có một phụ nữ lãnh đạo Giáo Hội của nó, ĐTC nghĩ gì về điều này? Có cụ thể không, khi nghĩ tới các phụ nữ linh mục trong Giáo Hội công giáo, trong các thập niên tới đây? Nếu không thì tại sao? Các linh mục công giáo sợ sự cạnh tranh của phụ nữ linh mục hay sao?

Đáp: Khi đọc lịch sử của vùng đất mà chúng ta đã viếng thăm, tôi thấy đã có một hoàng hậu bị goá tới 3 lần, và tôi đã nói: “Bà này mạnh thật”. Và người ta đã nói với tôi rằng “Phụ nữ Thụy Điển rất là mạnh khỏe, rất giỏi, vì thế có nam giới Thụy Điển tìm một người phụ nữ thuộc quốc tịch khác”. Tôi không biết có đúng không! Liên quan tới việc truyền chức cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo lời cuối cùng rõ ràng đã là lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và lời đó tồn tại. Điều này tồn tại. Về việc cạnh tranh thì tôi không biết…

Nếu chúng ta đọc kỹ lời tuyên bố của Đức Gioan Phaolô II, thì nó đi theo đường hướng này. Vâng. Nhưng các phụ nữ có thể làm biết bao nhiêu việc, tốt hơn nam giới. Và cả trong lãnh vực tín lý – để minh giải – có lẽ để có một sự rõ ràng hơn – không phải chỉ quy chiếu một tài liệu thôi –   trong giáo hội học công giáo có hai chiều kích: chiều kích Phêrô là chiều kích của các Tông Đồ – Phêrô và Đoàn Tông Đồ là mục vụ của các Giám Mục – và chiều kích thánh mẫu Maria là chiều kích nữ giới của Giáo Hội. Và điều này tôi đã nói hơn một lần rồi. Tôi tự hỏi, ai quan trọng hơn trong nền thần học và trong nền thần bí của Giáo Hội: các tông đồ hay Đức Maria, trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Đó là Đức Maria! Còn hơn thế nữa: Giáo Hội là phụ nữ. Đó là “La” Chiesa giống cái, chứ không phải “Il” Chiesa giống đực. Đó là Giáo Hội phụ nữ. Đó là Giáo Hội hiền thê của Chúa Giêsu Kitô. Đó là một mầu nhiệm phu thê. Và dưới ánh sáng của mầu nhiệm này người ta hiểu cái tại sao của hai chiều kích này: chiều kích phêrô, nghĩa là giám mục và chiều kích thánh mẫu Maria, với tất cả những gì là chức làm mẹ của Giáo Hội, nhưng trong nghĩa sâu thẳm nhất. Không có Giáo Hội mà không có chiều kích nữ giới  này, bởi vì Giáo Hội là nữ giới.

Ông Greg Burke nói bây giờ tới một câu hỏi của anh Austen Ivereigh, hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha:

Hỏi: Thưa ĐTC, mùa thu này đã rất phong phú với các cuộc gặp gỡ đại kết với các Giáo Hội truyền thống: Chính Thống, Anh giáo, và bây giờ là Luther. Nhưng đa số các tín hữu tin lành trên thế giới thuộc truyền thống tin lành pentecostal… Con đã  nghe nói là vào ngày vọng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm tới sẽ có biến cố cử hành 50 năm của Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh tại Circo Massimo ở Roma. ĐTC đã đưa ra rất nhiều sáng kiến – có lẽ đây là lần đầu tiên đối với một Giáo Hoàng – trong năm 2014 với các vị lãnh đạo tin lành. Điều gì đã xảy ra với các sáng kiến này, và ĐTC chờ đợi có được điều gì nơi cuộc gặp gỡ vào năm tới?

Đáp: Với các sáng kiến này… Tôi đã có hai loại sáng kiến. Một sáng kiến tôi đã làm khi đến thăm nhà thờ đặc sủng Valdese tại Caserta, và trong cùng đường hướng này khi tôi thăm nhà thờ tin lành Valdese tại Torino. Đó là một sáng kiến nhằm sửa chữa và xin lỗi, vì một phần tín hữu của Giáo Hội Công Giáo đã không có cung cách hành xử theo tinh thần Kitô đối với các anh chị em tin lành. Và ở đó có việc xin lỗi và chữa lành một vết thương.

Sáng kiến kia đã là sáng kiến đối thoại, và điều này tôi đã làm ngay từ khi còn ở Buenos Aires. Chẳng hạn tại Buenos Aires  chúng tôi đã có 3 cuộc gặp gỡ tại Luna Park chứa được 7,000 người . Ba cuộc gặp gỡ giữa các tín hữu công giáo và tin lành trong đường hướng Canh Tân đặc sủng Thánh Linh, nhưng cũng rộng mở. Các cuộc gặp gỡ kéo dài suốt ngày: trong đó có các bài thuyết giảng của một mục sư, một giám mục tin lành và một linh mục hay một giám mục công giáo; hay cứ từng hai vị một, thay đổi nhau. Trong hai cuộc gặp gỡ này, nếu không phải là trong cả ba, nhưng chắc chắn là trong hai cuộc gặp gỡ  cha Cantalamessa là vị giảng thuyết của Toà Thánh đã thuyết giảng.

Tôi tin là điều này đã bắt nguồn từ các triều đại giáo hoàng trước, và từ khi tôi ở Buenos Aires, điều này đã sinh ích cho chúng tôi. Và chúng tôi cũng tổ chức các cuộc tĩnh tâm cho các mục sư và các linh mục chung với nhau, do các mục sư và một linh mục hay một giám mục thuyết giảng. Điều này trợ giúp rất nhiều cuộc đối thoại, sự thông cảm, việc xích lại gần nhau và hoạt động, nhất là trong việc trợ giúp người cần giúp đỡ. Cùng nhau và có sự kính trọng lớn giữa hai bên… Đó là các hoạt động tại Buenos Aires. Còn tại Roma tôi đã có nhiều cuộc họp với các mục sư, hai ba lần rồi. Một số vị tới từ Hoa Kỳ, các vị khác tới từ các nước Âu châu. Thế rồi có cuộc gặp gỡ mà anh đã nhắc tới đó là lễ của Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh quốc tế, đuợc nảy sinh như là phong trào đại kết, vì thế đó sẽ là một cử hành đại kết được tổ chức tại Circo Massimo. Tôi dự kiến – nếu Chúa cho tôi còn sống – đến để phát biểu tại đại hội. Hình như đại hội kéo dài hai ngày, vì thế nó chưa có chương trình chi tiết. Tôi biết là nó sẽ bắt đầu ngày áp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và tôi sẽ phát biểu trong một lúc nào đó. Liên quan tới Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh, từ “pentecostale” , tên gọi “thánh linh” ngày nay hàm hồ không rõ ràng, bởi vì nó quy chiếu nhiều điều, nhiều hiệp hội, nhiều cộng đoàn giáo hội không giống nhau, trái lại đối chọi nhau. Vì thế cần phải chính xác hơn. Nghĩa là nó phổ biến tới độ nó đã trở thành một từ hàm hồ. Đây là điều đặc biệt xảy ra bên Brasil, nơi phong trào được phổ biến rộng rãi.

Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh nảy sinh, và một trong những người đầu tiến chống đối bên Argentina là người đang nói chuyện với anh chị em đây. Bởi vì hồi đó tôi là Giám tỉnh dòng Tên, khi phong trào bắt đầu nảy sinh, tôi đã cấm các tu sĩ của dòng liên lạc với phong trào. Và tôi đã nói công khai rằng khi cử hành thánh lễ thì phải cử hành phụng vụ, chứ không phải là “một trường dậy nhảy samba” Tôi đã nói như vậy. Và ngày nay tôi nghĩ ngược lại, khi mọi sự được làm một cách tốt đẹp.

Còn hơn thế nữa tại Buenos Aires hàng năm Phong trào canh tân đặc sủng thánh linh đều tổ chức thánh lễ trong nhà thờ chính toà, và mọi người tới tham dự. Vì thế tôi cũng đã kinh nghiệm được một tiến trình hiểu biết điều tốt, mà phong trào cống hiến cho Giáo Hội. Và không được quên gương mặt vĩ đại của ĐHY Suenens, là người đã có thị kiến ngôn sứ và đại kết liên quan tới phong trào.

Linh Tiến Khải

 

Hôm nay Thiên Chúa đang khóc trước thiên tai và chiến tranh

Hôm nay Thiên Chúa đang khóc trước thiên tai và chiến tranh

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-27-10-2016

Ngày nay, khi đứng trước các thiên tai, đứng trước những cuộc chiến tranh gây ra bởi những kẻ “thờ thần tiền”, trước việc trẻ em bị giết hại, ngay cả Thiên Chúa cũng khóc. Đức Thánh Cha đã chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta. “Hôm nay Thiên Chúa đang khóc” vì con người không hiểu “bình an mà Người đã trao tặng cho chúng ta, bình an của tình yêu mến”.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi Herode là “con cáo” khi những người biệt phái đến báo tin cho Chúa rằng Herode muốn giết Chúa. Tiếp đó Chúa nói về những gì sắp xảy đến, khi mà giờ tử nạn đang tới gần. Chúa Giêsu nhìn về thành Giêrusalem, nơi đã giết hại các vị ngôn sứ được sai đến.

Chúa Giêsu nói với cung giọng hiền từ của Thiên Chúa. Chúa nhìn vào dân Ngài, nhìn vào thành Giêrusalem. Ngày hôm đó Chúa đã khóc cho thành Giêrusalem. Chúa Cha đang khóc trong Con Người Giêsu, khóc cho thành Giêrusalem: “Đã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà người không muốn!”. Có người nói rằng, Thiên Chúa làm người để mà khóc, khóc cho những gì người ta làm cho Con của Ngài. Chúa Giêsu cũng khóc khi đứng trước mộ Ladaro, đây là tiếng khóc của một người bạn. Đây là tiếng khóc của Chúa Cha.

Có tiếng khóc của người cha, của Chúa Cha. Khi đứa con thứ hỏi người cha về chuyện thừa kế gia tài và anh ta muốn bỏ đi khỏi nhà. Có lẽ người cha đi gặp hàng xóm mà nói: “Hãy nhìn xem những gì đang xảy ra cho tôi. Những bất hạnh mà thằng con này làm cho tôi! Thằng con đáng nguyền rủa này…” Nhưng không, có lẽ người cha không làm thế, người cha khóc một mình trong phòng. Tin Mừng không nói gì về những điều này, nhưng Tin Mừng nói rằng, khi đứa con thứ trở về, người cha nhìn thấy anh từ đằng xa. Điều ấy có nghĩa là người cha lên tận mái nhà để nhìn để thấy con đường trở về của đứa con. Người cha làm điều này vì ông sống với niềm hy vọng, chờ đợi con trai của mình trở về. Đây là nước mắt của Chúa Cha. Là nước mắt của Cha nơi Con của Ngài và nơi tạo vật.

Trên đường Chúa Giêsu vác thập giá lên đồi Calvario, các phụ nữ đạo đức đã khóc, nhưng Chúa nói rằng, họ đừng khóc cho Chúa mà hãy khóc cho con cháu của họ. Cũng thế, ngày nay nước mắt tình cha nước mắt tình mẹ của Thiên Chúa vẫn tiếp tục rơi.

Đứng trước thiên tai, đứng trước chiến tranh vì thờ thần tiền, trước cái chết của bao nhiêu người dân vô tội vì bom đạn của những kẻ thờ thần tiền, trước tất cả những điều ấy, hôm nay Chúa Cha khóc. Thậm chí hôm nay Ngài nói: “Ôi Giêrusalem, Giêrusalem ơi, hỡi những người con của Ta, ngươi đang làm gì?” Ngài cũng nói với những nạn nhân nghèo khổ, nói với những kẻ buôn bán vũ khí, với những kẻ buôn bán cuộc sống của người dân.

Sẽ tốt cho chúng ta khi nghĩ rằng, Thiên Chúa là Cha chúng ta đã trở nên người phàm để có thể khóc, và cũng tốt cho chúng ta khi nghĩ rằng, Thiên Chúa là Cha chúng ta hôm nay đang khóc. Ngài khóc vì loài người không hiểu bình an mà Ngài đã tặng trao, hòa bình của tình yêu thương.

Tứ Quyết SJ

Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ về vụ ‘Hilary Clinton email leaks’

Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ về vụ ‘Hilary Clinton email leaks’

Archbishop Kurtz addresses journalists and communicators at opening of annual Catholic Media Conference in North Carolina

Trước việc Wikileaks công bố hàng chục ngàn các thư điện tử bị rò rỉ cho thấy tâm tình chống báng các học thuyết xã hội Công Giáo, khinh miệt các Giám Mục Công Giáo, và nguy hiểm hơn là âm mưu của đảng Dân Chủ Mỹ muốn gieo những “mầm mống nổi loạn” trong Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ, Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của tổng giáo phận Louisville, là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ra tuyên bố như sau:

Tại thời điểm quan trọng này trong lịch sử của dân tộc, tôi khích lệ tất cả chúng ta dành ra một chút thời gian để suy tư về một trong những nguyên tắc sáng lập ra nền cộng hòa của chúng ta – đó là quyền tự do tôn giáo. Nguyên tắc này bảo đảm những quyền của cộng đồng đức tin có thể bảo vệ sự toàn vẹn niềm tin của mình và được tự quản một cách chính đáng. Có những báo cáo gần đây cho thấy một số người có thể đã tìm cách can thiệp vào đời sống nội bộ của Giáo Hội vì những lợi ích chính trị ngắn hạn của họ. Nếu đúng như thế, đây là điều đang gây khó khăn cho cuộc sống của các cộng đồng đức tin và cả lợi ích quốc gia của chúng ta.

Chúa Kitô đã ban cho chúng ta một ân sủng quý giá là đức tin và Giáo Hội của chúng ta. Là người Công Giáo, chúng ta giữ vững niềm tin của mình bởi vì niềm tin ấy đến với chúng ta từ Chúa Giêsu, chứ không phải từ một sự đồng thuận giả tạo dựa trên các chuẩn mực hiện tại. Tin Mừng được ban cho tất cả mọi dân tộc xuyên suốt thời gian. Tin Mừng mời gọi chúng ta yêu thương người lân cận và sống hòa bình với nhau. Vì lý do này, sự thật của Chúa Kitô không bao giờ là lỗi thời hoặc không thể tiếp cận được. Tin Mừng phục vụ lợi ích chung, chứ không phải là các chương trình nghị sự chính trị.

Tôi khích lệ anh chị em Công Giáo chúng ta, và tất cả mọi người thiện chí, hãy trở thành những người gìn giữ các quyền quý giá, mà chúng ta được thừa kế trong tư cách là công dân của đất nước này. Chúng tôi cũng hy vọng các viên chức công quyền biết tôn trọng quyền của người dân được sống đức tin của họ mà không cần sự can thiệp nào của nhà nước. Khi cộng đồng đức tin bị mất đi quyền này, chính ý tưởng là một người Mỹ sẽ bị đánh mất.

Các chính trị gia, các nhân viên và tình nguyện viên của họ nên phản ảnh nguyện vọng tốt nhất của chúng tôi trong tư cách là những công dân. Quá nhiều những diễn văn chính trị trong những ngày này đã khinh miệt phụ nữ và gạt ra ngoài lề xã hội những người có đức tin. Điều này phải được thay đổi. Theo đúng những hy vọng đẹp nhất của những người sáng lập ra quốc gia chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta có thể và sẽ làm tốt hơn với tư cách là một quốc gia.

+ Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz
Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ

 
J.B. Đặng Minh An dịch
 
 
WikiLeaks có 1,700 emails chứng minh Hillary Clinton chỉ đạo bán vũ khí cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS

Julian Assange, người sáng lập WikiLeaks, là một nhân vật gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, người ta không thể phủ nhận những email ông ta nhặt nhạnh được là có thật.

Trong một cuộc phỏng vấn với Democracy Now hôm 14 tháng 10, Julian Assange tung ra một quả bom chấn động Hoa Kỳ. Ông tuyên bố rằng, WikiLeaks thủ đắc trong tay khoảng 1,700 emails chứng minh bà Hillary Clinton và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chủ động trang bị cho các chiến binh thánh chiến Hồi giáo, đặc biệt là bọn khủng bố Hồi Giáo IS ở Syria.

Hillary Clinton đã nhiều lần phủ nhận điều này, bao gồm cả trong các báo cáo khi tuyên thệ trước Quốc Hội Hoa Kỳ.

Sau cuộc tấn công vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Benghazi, Lybia vào ngày 11 tháng Chín, 2012, đầu năm 2013, Hillary Clinton được mời ra điều trần trước Quốc Hội Hoa Kỳ. Bà phủ nhận cáo buộc có liên can đến các lô hàng vũ khí xuất cảng sang Trung Đông.

Theo Julian Assange, về tội khai man trước Quốc Hội Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đáng bị bắt ngay lập tức.

Trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Obama, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã cho phép đưa các lô hàng vũ khí Mỹ tới Qatar, một đất nước dưới ảnh hưởng của bọn Huynh đệ Hồi giáo. Lô hàng này nhằm giúp quân nổi dậy Libya, trong một nỗ lực để lật đổ chính phủ Gaddafi của Libya.

Sau đó là hàng loạt những tàu chở đầy vũ khí sang Trung Đông để cung cấp cho Al Qaeda, và bọn khủng bố Hồi Giáo IS trong cố gắng lật đổ chế độ của tổng thống Assad ở Syria.

Các emails cho thấy Hilary Clinton đã đóng vai chính trong việc tổ chức ra cái gọi là “Những người bạn của Syria”, một tổ chức trá hình của Al Qaeda và bọn khủng bố Hồi Giáo IS, để hỗ trợ cuộc nổi dậy do CIA dẫn đầu nhằm thay đổi chế độ ở Syria.

Bà Hilary Clinton và những người điều hành chiến dịch tranh cử của bà cho đến nay vẫn từ chối xác nhận hay phủ nhận tính xác thực của các tài liệu bị rò rỉ này.

Đặng Tự Do (Vietcatholic)

Phá thai và toan tính tự tử cản trở chịu chức thánh

Phá thai và toan tính tự tử cản trở chịu chức thánh

Đức Cha Juan Ignacio Arrieta

VATICAN. Thực hiện hoặc cộng tác vào việc phá thai có hiệu quả hoặc toan tính tự tử tiếp tục là điều bất hợp luật cản trở sự chịu chức thánh, mặc dù đương sự không phải là người Công Giáo khi thực hiện những điều đó.

Trên đây là nội dung giải thích chính thức của Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật được công bố hôm 15-9-2016 và được ĐTC Phanxicô phê chuẩn trước đó.

Giáo luật hiện hành, điều số 1041, liệt kê những người bất hợp luật không được chịu chức thánh nếu không được chuẩn chước, đó là ”người đã phạm tội sát nhân hoặc phá thai có hiệu quả và những người tích cực cộng tác vào các tội đó” (n.4), cũng vậy ”người đã chủ tâm hủy hoại thân thể mình hay thân thể người khác một cách nghiêm trọng hoặc người đã mưu toan tự tử” (n. 5).

Trong thời gian qua, có thắc mắc được gửi về Tòa Thánh để hỏi xem khoản luật này có được áp dụng những người phạm các tội đó khi họ chưa phải là tín hữu Công Giáo, sau đó họ trở lại và muốn chịu chức thánh hay không. Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật trong phiến nhóm toàn thể hồi tháng 5 năm nay, đã xác định là vẫn được áp dụng cho đương sự.

Đức Cha Juan Ignacio Arrieta, Tổng thư ký của hội đồng này, giải thích rằng tội của đương sự được tha nếu thống hối, nhưng sự kiện ấy vẫn là một dấu hiệu báo động, vì thế cần có sự can thiệp đặc biệt, sự chuẩn chước của GM trước khi đương sự có thể được chịu chức thánh. Sự dè dặt này nhắm mục đích bảo vệ sự thánh thiêng của chức thánh và cộng đồng tín hữu Công Giáo mà đương sự sẽ phục vụ (SD, CNS 14-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

ĐTC Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của các nhá báo quốc tế trên chuyến bày từ Krakow về Roma 31-7-2016

Như thường lệ trên chuyến bày từ Cracovia về Roma chiều Chúa Nhật 31 tháng 7 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế cuộc phỏng vấn dài. Sau đây là nội dung cuộc nói chuyện của ĐTC với các nhà báo quốc tế.

Cha Federico Lombardi Giám đốc mãn nhiệm Phòng Báo Chí Toà Thánh nói: “Thưa ĐTC, chúng con xin cám ơn ĐTC rất nhiều đã ở đây với chúng con sau chuyến công du này. Mặc dù trời chiều nay mưa, nhưng xem ra mọi sự đã xuôi chảy đến độ chúng con tất cả đều rất hạnh phúc và hài lòng, và chúng con cũng thấy ĐTC hài lòng trong các ngày này. Như thường lệ chúng con sẽ hỏi ĐTC vài câu, nhưng nếu ĐTC muốn nói vài điều mở đầu thì xin mời ĐTC.

Xin chào anh chị em và tôi xin cám ơn anh chị em về công việc làm và sự đồng hành của anh chị em. Tôi muốn chia buồn với anh chị em là đồng nghiệp về cái chết của chị Anna Maria Jacobini. Hôm nay tôi đã tiếp bà chị và các cháu của chị ấy… Họ rất đau buồn về việc này… Đó là một điều buồn của chuyến công du này. Thế rồi, tôi muốn cám ơn Cha Lombardi và anh Mauro, vì đây là chuyến công du cuối cùng của họ với tôi. Cha Lombardi đã làm việc tại đài Vaticăng từ hơn 25 năm qua và trong 10 chuyến bay. Còn anh Mauro thi từ 37 năm qua: 37 năm đặc trách về hành lý trong các chuyến bay. Tôi xin cám ơn cha Lombardi và anh Mauro rất nhiều. Và sau cùng tôi xin cám ơn với một chiếc bánh ngọt. Và tôi sẵn sàng cho cuộc phỏng vấn. Chuyến bay ngắn nên lần này chúng ta sẽ vội vã.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và giới thiệu một trong các nhà báo Ba Lan là chị Magdalena Wolinska thuộc đài truyền hình Ba Lan.

Hỏi: Thưa ĐTC, trong diễn văn đầu tiên tại lâu đài Wawel sau khi vừa tới Cracovia ĐTC đã nói rằng ngài hài lòng bắt đầu biết Âu châu trung đông từ chính Ba Lan. Nhân danh dân tộc Ba Lan con xin hỏi ĐTC, ĐTC đã sống Ba Lan trong các ngày này như thế nào? ĐTC có cảm tưởng gì?

Đáp: Đó đã là một Ba Lan đặc biệt, bởi vì đó đã là một Ba Lan bị xâm lăng, lần này bởi giới trẻ, đúng không? Cracovia mà tôi đã thấy thật là đẹp biết bao. Dân Ba Lan rất hăng say. Đấy coi xem chiều nay, mưa như vậy mà dọc đường không phải chỉ có các người trẻ, mà cả các cụ bà nữa… Đây thật là một lòng tốt, một sự cao quý. Tôi đã có kinh nghiệm với người dân Ba Lan khi tôi còn bé: nơi cha tôi làm việc cũng có biết bao người Ba Lan tới làm việc, sau chiến tranh. Họ là những người tốt, và đó là điều đã ở lại trong con tim tôi. Tôi đã tìm lại được lòng tốt ấy của anh chị em. Một vẻ đẹp. Xin cám ơn chị.

– Cha Lombardi nói bây giờ tới lượt một đồng nghiệp ba lan khác là chị Ursula thuộc đài Polsat.

Hỏi: Thưa ĐTC, các con cái trẻ của chúng con rất cảm động vì những lời của ĐTC, rất phù hợp với thực tại và các vấn đề của chúng. Nhưng trong các diễn văn ĐTC cũng đã dùng các lời lẽ và các kiểu diễn tả riêng trong ngôn ngữ của người trẻ. ĐTC đã chuẩn bị như thế nào? Làm sao ĐTC lại đưa ra nhiều thí dụ gần gũi với cuộc sống, với các vấn đề và ngôn ngữ của chúng như vậy?

Đáp: Tôi thích nói chuyện với người trẻ. Tôi thích lắng nghe giới trẻ. Họ luôn luôn đặt tôi vào trong các khó khăn, bởi vì họ nói những điều mà tôi đã không nghĩ tới, hay tôi chỉ nghĩ tới có một nửa. Người trẻ lo lắng, người trẻ sáng tạo…Tôi thích họ, và từ họ tôi lấy thứ ngôn ngữ của họ. Có biết bao lần tôi phải tự hỏi: “Nhưng điều này có nghĩa là gì?” Và họ giải thích cho tôi hiểu nó nghĩa là gì. Tôi thích nói chuyện với họ. Tương lai của chúng ta là họ, và chúng ta phải đối thoại. Cuộc đối thoại này giữa quá khứ và tương lại quan trọng. Chính vì thế mà tôi đã nhấn mạnh biết bao tương quan giữa người trẻ và ông bà, và khi tôi nói “ông bà” thì tôi hiểu họ là những người cao niên nhất và những người ít cao niên hơn… Để cũng trao ban kinh nghiệm của chúng ta, bởi vì những người gia cảm nhận quá khứ, lịch sử và họ lấy lại và đem nó đi tới với lòng can đảm của hiện tại, như tôi đã nói chiều nay. Thật là quan trọng. Quan trọng! Tôi không thích nghe nói: “Ôi, lũ trẻ này nói toàn những điều tầm phào!” Chúng ta cũng nói biết bao chuyện tầm phào đấy chứ! Người trẻ nói những chuyện tầm phào, nhưng họ nói những điều tốt: cùng như chúng ta, cũng như tất cả mọi người vậy. Nhưng nghe họ, nói chuyện với họ, bởi vì chúng ta phải học từ họ và họ phải học từ chúng ta. Như thế đó. Và như thế người ta làm lịch sử, và như thế người ta lớn lên mà không khép kín, không kiểm duyệt. Tôi không biết, nhưng mà nó như vậy đó. Như thế tôi học từ giới trẻ các lời này.

– Tiếp đến cha Lombardi giới thiệu anh Marco Ansaldo, phóng viên của nhật báo Cộng Hoà Italia, đại diện cho nhóm nhà báo Ý.

Hỏi: Thưa ĐTC, theo hầu hết các quan sát viên quốc tế cuộc đàn áp bên Thổ Nhĩ Kỳ 15 ngày sau cuộc đảo chánh hụt đã tồi tệ hơn là chính cuộc đảo chánh. Đã có hàng loạt các tầng lớp bị đánh: các quân nhân, các thẩm phán, các nhân viên hành chánh công cộng, giới ngoại giao, các nhà báo. Con xin trích các dữ kiện của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ: người ta nói tới hơn 13.000 người bị bắt giữ và hơn 50.000 người bị cách chức. Một cuộc thanh lọc. Hôm trước đây tổng thống Recep Tayyip Erdogan, trước các chỉ trích bên ngoài đã nói: “Quý vị hãy nghĩ tới chuyện của mình!” Chúng con muốn hỏi tại sao cho tới nay ĐTC đã không can thiệp, đã không lên tiếng? Có lẽ ĐTC sợ rằng có thể có các âm hưởng trên thiểu số công giáo bên Thổ Nhĩ Kỳ chăng?

Đáp: Khi tôi đã phải nói điều gì đó không vừa lòng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng mà tôi đã chắc chắn, thì tôi đã nói, với các hậu quả mà anh chị em biết đó. Tôi đã nói những lời ấy và tôi chắc chắn! Tôi đã không nói, bởi vì tôi chưa chắc chắn, với các tin tức mà tôi đã nhận được, liên quan tới điều gì đang xảy ra ở đó. Tôi lắng nghe các tin tức đến Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, và cả các tin đến từ vài nhà phân tích chính trị quan trọng. Tôi đang nghiên cứu tình hình cả với các nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh và câu chuyện vẫn chưa rõ ràng. Có đúng thật là phải luôn luôn tránh sự dữ cho các tín hữu công giáo – và tất cả chúng ta đều làm điều này – nhưng mà không phải với giá của sự thật. Có nhân đức cẩn trọng – phải nói điều này khi như trong trường hợp của tôi anh chị em là các chứng nhân đó, khi tôi đã phải nói điều gì đó liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, thì tôi đã nói.

– Tới phiên chị Frances D’ Emilio của Hãng thông tin AP, là hãng thông tin lớn tiếng Anh

Hỏi: Thưa ĐTC câu hỏi của con là một câu hỏi  mà nhiều người đã đặt ra trong các ngày này, bởi vì đã được đưa ra ánh sáng là cảnh sát Australia hình như đang điều tra các lời tố cáo mới chống lại ĐHY Pell, và lần này các lới tố cáo liên quan tới các lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, rất khác với các lời tố cáo trước đây.  Điều con tự hỏi và biết bao nhiêu người khác hỏ:i đó là theo ĐTC đâu là điều đúng đắn cần làm cho ĐHY Pell,, xét vì tình hình nghiêm trọng, địa vị quan trọng như thế của ngài và sự tin tưởng mà ĐHY hưởng từ phía ĐTC?

Đáp: Xin cám ơn chị. Các tin tức đầu tiên tới đã lẫn lộn. Đó đã là các tin tức của 40 năm về trước, và ban đầu cảnh sát cũng đã không chú ý tới. Đó là một điều lẫn lộn. Rồi tất cả các lời tố cáo đã được trình bầy với công lý, và trong lúc này thì chúng ở trong tay công lý. Không được phán xử trước khi công lý phán xử. Nếu tôi đưa ra một phán xử phò hay chống ĐHY Pell, thì sẽ là điều không tốt, bởi vì như vậy là tôi xét xử trước. Dúng thật là có sự nghi ngờ. Và có nguyên tắc rõ ràng của luật pháp: “trong nghi ngờ thì phò bị can”. Chúng ta phải đợi công lý, chứ không trước hết làm một cuộc phán xử truyền thông, vì điều này không giúp ích gì. Sự phán xử của các lời bép xép. Người ta không biết kết qủa sẽ ra sao. Xin hãy chú ý tới điều công lý sẽ quyết định. Một khi công lý đã nói, thì tôi sẽ lên tiếng.

– Cha Lombardi nói bây giờ chúng ta nhường lời cho anh Hernán Reyes của đài truyền hình Mỹ. Anh đại diện cho các nhà báo Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ĐTC, sức khoẻ của ĐTC ra sao sau cú ngã hôm trước? Chúng con thấy ĐTC khỏe khoắn. Đây là câu hỏi thứ nhất. Câu hỏi thứ hai là: trong tuần vừa qua ngoại trưởng Ernesto Samper đã nói tới một sự trung gian của Vaticăng bên Venezuela. Đây có phải là một cuộc đối thoại cụ thể hay không? Nó có phải là một khả thể thực sự hay không ? Và ĐTC có nghĩ rằng việc trung gian này, với sứ mệnh của Giáo Hội có thể trợ giúp ổn định quốc gia này  không?

Đáp: Trước hết là cú ngã.. Tôi đã nhìn Đức Mẹ và tôi đã quên là có bậc thang…Tôi đang cầm bình hương trong tay… Khi tôi cảm thấy là mình tè, tôi để cho mình ngã,  và điều này đã cứu tôi. Bởi vì nếu tôi đã chống cự lại, thì chắc là đã có các hậu quả. Không có gì. Tôi rất khoẻ mạnh.

Câu hỏi thứ hai liên quan tới Venezuela. Cách đây hai năm tôi đã có một cuộc gặp gỡ với tổng thống Maduro rất là tích cực. Thế rồi tổng thống đã xin được tiếp kiến năm ngoái: vào ngày Chúa Nhật, một ngày sau khi tôi từ Sarajevo trở về. Nhưng rồi ông đã huỷ bỏ cuộc gặp gỡ ấy, bởi vì ông đã bị viêm tai, và không thể tới. Rồi sau đó tôi đã để cho thời gian qua đi, rồi viết cho ông một bức thư. Đã có các tiếp xúc cho một cuộc gặp gỡ và anh đã nhắc tới. Vâng, với các điều kiện trong các trường hợp này. Và trong lúc này thì tôi không chắc chắn và không thể bảo đảm điều đó: như vậy rõ ràng chưa? Tôi không chắc chắn là người ta đang nghĩ rằng trong nhóm trung gian  có ai đó và tôi không biết cả chính quyền nữa có muốn một đại diện của Toà Thánh hay không – tôi không chắc chắn. Điều này là cho tới lúc tôi đã đi khỏi Roma. Nhưng các sự việc còn ở đó. Trong nhóm có ông Zapatero của Tây Ban Nha, ông Torrijos và một người nữa và một người thứ tư người ta nói là của Toà Thánh. Nhưng tôi không chắc chắn về điều này.

– Tới phiên anh Antoine-Marie Izoard của hãng tin Media Pháp và chúng ta biết nước Pháp đang sống những gì trong các ngày này.

Hỏi: Thưa ĐTC, trước hết con chúc mừng ĐTC và cha Lombardi và cha Spadaro về lễ thánh Ignazio. Câu hỏi của con hơi khó một chút. Sau vụ sát hạị man rợ cha Jacques Hamel trong nhà thờ đang khi ngài đang thánh lễ, các tín hữu công giáo không phải chỉ bên Pháp đã bị sốc nặng, như ĐTC biết. Cách đây bốn hôm ở đây ĐTC đã lại nói rằng mọi tôn giáo đều muốn hoà bình. Tuy nhiên, vị linh mục thánh thiện 86 tuổi này đã bị giết một cách rõ ràng là nhân danh Hồi giáo. Vì thế thưa ĐTC, con có hai câu hỏi ngắn: Tại sao khi nói tới các hành động bạo lực này, ĐTC đã luôn luôn nói tới các người khủng bố mà không bao giờ nói tới Hồi giáo. ĐTC đã không bao giờ dùng từ Hồi giáo… Thế rồi ngoài lời cầu nguyện và việc đối thoại, đương nhiên là rất nòng cốt, đâu là sáng kiên cụ thể ĐTC có thể bắt đầu hay gợi ý để chống lại bạo lực hồi giáo?

Đáp: Tôi không thích nói tới bạo lực hồi giáo, bởi vì mọi ngày khi đọc báo tôi thấy các bạo lực, ở Italia đây: người thì giết hôn thê của mình, người khác giết mẹ vợ…Và đây là các tín hữu công giáo bạo lực đưọc rửa tội… Họ là các tín hữu công giáo bạo lực. Nếu tôi nói tới bạo lực hồi giáo, thì tôi cũng phải nói tới bạo lực công giáo. Không phải mọi tín hữu hồi đểu bạo lực; không phải mọi tín hữu công giáo đều bạo lực. Nó giống như một loại trái cây hỗn hợp: có mọi thứ; có những kẻ bạo lực của các tôn giáo này. Có một điều thật: đó là trong mọi tôn giáo đều luôn luôn có một nhóm nhỏ quá khích. Qúa khích. Chúng ta cũng có. Và khi chủ trương quá khích đi tới chỗ giết người – và người ta có thể giết chết với cái lưỡi, và điều này  chính tông đồ Giacôbê nói tới chứ không phải tôi đâu, và cũng giết với con dao – tôi tin rằng không đúng việc đồng hóa Hồi giáo với bạo lực. Đây là điều không đúng và không thật. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với Đại Imam của Đại học Al-Azhar, và tôi biết họ nghĩ gì: họ tìm kiếm hoà bình, gặp gỡ. Đức Sứ Thần của một nuớc Phi châu có nói với tôi rằng trong thủ đô luôn luôn có một hàng người dài xếp hàng vào Cửa Thánh: vài người đến các toà xưng tội, người khác thì vào ghế quỳ cầu nguyện Nhưng đa số tiến tới cầu nguyện trước bàn thờ Đức Mẹ: đó là các tín hữu hồi muốn cử hành Năm Thánh.  Họ là anh em. Khi tôi ở bên Trung Phi, tôi đã đến với họ và imam cũng đã leo lên xe với tôi. Chúng ta có thể sống chung tốt với nhau. Nhưng có các nhóm nhỏ cuồng tín. Và tôi cũng tự hỏi có biết bao người trẻ – biết bao người trẻ mà người âu châu chúng ta đã để cho họ trống rỗng lý tưởng, không có công việc làm, tìm đến với ma tuý, rượu chè và họ đến đầu quân vào các nhóm cuồng tín này. Phải, chúng ta có thể nói rằng cái gọi là ISIS là một nhà nuớc hồi tự giới thiệu như là bạo lực vì khi nó cho chúng ta thấy thẻ căn cước cho chúng ta thấy họ cắt cổ người Ai Cập hay làm các điều khác trên bờ biển Libi như thế nào. Nhưng đây là một nhóm nhỏ cuồng tín, gọi là ISIS. Nhưng không thể nói rằng – tôi tin là nó không thật và không đúng – nói rằng Hồi giáo là khủng bố.

Hỏi: Thưa ĐTC còn một sáng kiến cụ thể giúp chống lại nạn khủng bố, bạo lực thì sao?

Đáp:  Khủng bố ở khắp nơi! Xin anh hãy nghĩ tới nạn khủng bố bộ tộc tại vài nước Phi châu… Khủng bố – tôi không biết có nên nói không vì hơi nguy hiểm.. Khủng bố lớn mạnh, khi không có một lựa chọn khác, khi ở trung tâm của nền kinh tế thế giới có thần tiền chứ không có bản vị con người, người nam và người nữ. Đây đã là nạn khủng bố đầu tiên rồi. Bạn đã xua đuổi sự tuyệt diệu của thụ tạo là người nam và người nữ, và bạn đã đặt vào đó tiền bạc. Đây là sự khủng bố nền tảng chống lại nhân loại. Chúng ta hãy nghĩ tới điều đó.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và nói sáng nay ĐTC đã loan báo Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần tới sẽ được tổ chức bên Panama. Ở đây có một nhà báo muốn kính tặng ĐTC một món quà để chuẩn bị cho ngày này. Nhà báo người Panama hỏi ĐTC:

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã nói trong cuộc gặp gỡ với các thiện nguyện viên là có lẽ ĐTC sẽ không có mặt ở Panama. ĐTC không thể làm điều này đâu, vì chúng con đợi ĐTC bên Panama.

Đáp: Không, không. Nếu tôi sẽ không đi, thì sẽ có Thánh Phêrô chứ…

Hỏi: Nhưng mà chúng con tin là  sẽ có ĐTC. Thay mặt cho nhân dân Panama con xin kính tặng ĐTC một chiếc áo số 17 là ngày sinh của ĐTC, và một chiếc mũ mà dân quê Panama thường đội.. Họ đã xin ĐTC đội nó. Tuy nhiên nếu ĐTC muốn chào dân Panama, con xin cám ơn ĐTC.

Đáp: Tôi xin cám ơn người  Panama vì điều này. Tôi cầu mong anh chị em chuẩn bị tốt cho Ngày Quốc Tế Giới Trẻ với cùng sức mạnh, tinh thần tu đức, và sự sâu xa mà người Ba Lan đã làm, dân chúng ở Cracova và mọi người Ba Lan đã làm.

– Anh Antoine Marie Izoard thay mặt mọi người nói: Thưa ĐTC nhân danh các đồng nghiệp nhà báo, bởi vì con hơi bị bó buộc đại diện cho họ, con cũng muốn nói đôi lời nếu ĐTC cho phép, liên quan tới cha Lombardi để cám ơn ngài.

Không thể tóm tắt 10 năm hoạt động của cha Lombardi tại Phòng Báo  Chí Toà Thánh, với ĐTC Biển Đức, một việc cai quản nội bộ chưa từng có và rồi với việc ĐTC được bầu làm Giáo Hoàng và các kinh ngạc tiếp theo. Điều chắc chắn có thể nói được đó là sự sẵn sàng liên tục, sự dấn thân và tận tụy của cha Lombardi; khả năng không tin được của cha trong việc trả lời và không trả lời cho các câu hỏi của chúng con, cho các câu hỏi thường là lạ lùng: và điều này cũng là cả một nghệ thuật. Thế rồi, cũng còn có tính khôi hài hơi theo kiểu người Anh của cha nữa: trong mọi tình trạng, kể cả những trạng huống tồi tệ nhất. Và chúng con có nhiều thí dụ lắm.

Dĩ nhiên là với niềm vui chúng con tiếp đón các người kế vị cha, hai nhà báo giỏi, nhưng chúng con cũng không quên rằng cha đã còn hơn là môt nhà báo, và hiện tại vẫn là linh mục và linh mục dòng Tên nữa. Thật là tuyệt vời! Chúng con sẽ không quên mừng ngài một cách xứng đáng vào tháng 9, khi ngài bắt đầu các việc phục vụ khác, nhưng ngay hôm nay chúng con muốn chúc mừng ngài. Một lời chúc mừng lễ thánh I Nhã và chúc cha trường thọ, 100 tuổi như người ta nói bên Ba Lan, một trăm tuổi phục vụ khiêm tốn. Bên Ba Lan người ta nói là “Stolat” . “Stolat thưa cha Lombardi”. Sau đó mọi người đã vui vẻ ăn bánh ngọt ĐTC tặng.

Linh Tiến Khải

Lời cầu nguyện giúp duy trì đức tin và sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa

Lời cầu nguyện giúp duy trì đức tin và sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa

ĐTC chúc lành cho các quân nhân Ukraine tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư 25-5-2016

Lời cầu nguyện gíúp duy tri đức tin và cho chúng ta sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa

Lời cầu nguyện gíúp duy tri đức tin và cho chúng ta sống kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế Chúa Giêsu dậy chúng ta phải cầu nguyện luôn luôn không mỏi mệt. Điều quan trọng nhất là bước vào trong tương quan với Thiên Chúa Cha. Lời cầu nguyện biến đổi ước muốn và nhào nặn nó theo ý muốn của Thiên Chúa, bất cứ nó là lời cầu nguyện nào, bởi vì ai cầu nguyện thì trước hết ngưỡng vọng hiệp nhất với Chúa là Tình yêu thương xót.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách năm châu. Trong các đoàn hành hương cũng có hai đoàn hành hương mỗi đoàn hơn 50 người, một đoàn đến từ Thụy Sĩ, đoàn kia đến từ Đan Mạch, và cũng có ít người đến từ Đức.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa lời kêu xin kiên trì của một bà goá lên thẩm phán để ông xét xử cho bà. ĐTC nói:

Dụ ngôn trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe (x. Lc 18,1-8) chứa đựng một giáo huấn quan trọng: “Sự cần thiết phải luôn luôn cầu nguyện, mà không bao giờ mệt mỏi” (c. 1). Như vậy đây không phải là cầu nguyện vài lần, khi tôi cảm thấy muốn cầu nguyện. Không, Chúa Giêsu nói rằng cần cầu nguyện luôn luôn, không mỏi mệt. Và ngài đưa ra thí dụ của bà goá và vị thẩm phán.

Vị thẩm phán là một nhân vật quyền thế, được mời gọi đưa ra các phán quyết dựa trên Lề Luật Môshê. Vì vậy truyền thống kinh thánh đã nhắn nhủ rằng các thẩm phán là những người kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không thiên vị và không thể hối lộ (x. Xh 18,2). Ông thẩm phán này thì trái lại, “không sợ Thiên Chúa cũng không coi ai ra gì” (c. 2), Ông ta đã là một thẩm phán gian ác, không ngần ngại, không chú ý tới Luật Lệ, nhưng chỉ làm điều ông muốn. Một bà goá chạy đến với ông để có công lý. Các bà goá, cùng với các trẻ mồ côi và người ngoại kiều, đã là các giai tầng yếu đuối nhất trong xã hội. Các quyền mà Lề Luật bảo đảm cho họ có thể bị chà đạp dễ dàng, bởi vì là những người cô thế, không được bênh đỡ, họ khó có thể làm cho mình có giá trị.

Trước sự thờ ơ của ông thẩm phán, bà goá dùng vũ khĩ duy nhất bà có là tiếp tục kiên trì  quấy rầy ông ta, và xin ông thi hành công lý. Chính sự kiên trì đó đạt mục đích. Thật vậy, tới một lúc nào đó ông thẩm phán nhận lời xin của bà, không phải vì ông động lòng thương xót, cũng không phải bởi vì lương tâm ông đòi buộc, nhưng chỉ vì ông đơn sơ nhận rằng: “Vì bà goá này quấy rầy ta, ta sẽ xét xử cho bà để bà không liên tục đến quấy rầy ta nữa” (c. 5).

Từ dụ ngôn này Chúa Giêsu rút tỉa ra một kết luận kép: nếu bà goá đã thành công bẻ gẫy được ông thẩm phán vô liêm chính với các lời xin kiên trì của bà, thì Thiên Chúa là Cha nhân từ và công chính còn hơn biết bao nữa, “Người sẽ xét xử cho các kẻ được tuyển chọn của Người đang ngày đêm kêu lên Người; và ngoài ra Người sẽ không để họ chờ lâu, nhưng sẽ mau chóng hành động” (cc.7-8).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chính vì vậy Chúa Giêsu khích lệ cầu nguyện “không mởi mệt”. Chúng ta tất cả đều cảm thấy những lúc mệt mỏi và ngã lòng, nhất là khi lời cầu của chúng ta xem ra không công hiệu. Nhưng Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta : khác với ông thẩm phán bất lương, Thiên Chúa nhận lời các con cái Ngài một cách mau mắn, cả khi điều này không có nghĩa là Ngài làm điều đó trong các thời gian và kiểu chúng ta muốn. Lời cầu nguyện kkhông phải là một chiếc đũa phù phép! Nó giúp duy trì niềm tin nơi Thiên Chúa và tín thác cho Ngài, cả khi chúng ta không hiểu ý muốn của Ngài. Trong điều này chính Chúa Giêsu là Đấng cầu nguyện nhiều biết bao, nêu gương cho chúng ta. Thư gửi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5,7). Thoạt tiên khẳng định này xem ra không thật, bởi vì Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Thế nhưng thư gửi tín hữu Do thái không sai lầm: Thiên Chúa đã thật sự cứu Đức Giêsu khỏi cái chết, bằng cách cho Người hoàn toàn chiến thắng nó, nhưng con đường để được nó đã đi qua chính cái chết! Việc quy chiếu về lời khẩn nài mà Thiên Chúa đã nhận lời quy về lời cầu của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani. Bị tấn công bởi nỗi âu lo đè nặng, Chúa Giêsu cầu xin Thiên Chúa Cha giải thoát Người khỏi chén đắng của cuộc khổ nạn, nhưng lời cầu của Người nhuần thấm sự tin tưởng nơi Thiên Chúa Cha và Người tín thác nơi ý muốn của Cha không dè dặt. Chúa Giêsu nói: “không như con muốn, mà như Cha muốn” (Mt 26,39). ĐTC giải thích thêm như sau:

Đối tượng của lời cầu nguyện xuống hàng thứ yếu; điều quan trọng trước hết là tương quan với Thiên Chúa Cha. Đó, lời cầu nguyện làm điều gì: bất cứ là lời cầu nguyện nào, nó biến đổi ước muốn và nhào nặn nó theo ý muốn của Thiên Chúa, bởi vì ai cầu nguyện thì trước hết ngưỡng vọng hiệp nhất với Người là Tinh Yêu thương xót.

Dụ ngôn kết thúc với câu hỏi: “Nhưng khi Con Người  đến, có còn tìm thấy đức tin trên trái đất hay không?” (c. 8). Chúng ta tất cả đều được cảnh cáo: chúng ta không được khước từ lời cầu nguyện, cả khi nó không đáp ứng. Chính lời cầu nguyện duy trì đức tin, không có nó thì đức tin chao đảo! Chúng ta hãy xin Chúa một đức tin trở thành lời cầu nguyện liên lỉ, kiên trì, như lời cầu nguyện của bà goá trong dụ ngôn, một đức tin được dưỡng nuôi bằng ước mong Người đến. Và trong lời cầu nguyện  chúng ta sống kinh nghiệm lòng cảm thương của Thiên Chúa, như Người Cha đến gặp gỡ các con cái mình tràn đầy tình yêu thương xót.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp đặc biệt là phái đoàn tổng giáo phận Toulouse do ĐC Robert Le Gall hướng dẫn, và một phái đoàn của phong trào Thế giới thứ tư, cũng như các tín hữu đến từ Bỉ và Benin bên Phi Châu. Ngài khích lệ mọi người đừng bao giờ bỏ lời cầu nguyện, cả đôi khi xem ra nó vô ích. Vì Thiên Chúa luôn nhận lời chúng ta trong một cách thức mà chúng ta không chờ đợi.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Ái Nhĩ Lan, Scottland, Đan Mạch, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Nigeria, Phi Luật Tân, quần đảo Seychelles, Canada và Hoa Kỳ. Ngài cầu chúc Năm Thánh Lòng Thương Xót  là thời gian ơn thánh và canh tân tinh thần cho mọi người.

Chào các tín hữu nói tiếng Đức ngài nhắc mọi người đừng quên tháng 5 là tháng kính Đức Mẹ. Hãy siêng năng khẩn cầu Mẹ dậy cho chúng ta biết các con đường cứu rỗi.

Với các đoàn hành hương nói tiến Bồ Đào Nha, ĐTC khích lệ họ ra về với niềm xác tín lòng thương xót Chúa mạnh mẽ hơn bất cứ tội lỗi nào của chúng ta.

Chào các nhóm nói tiếng A rập đặc biệt là các tín hữu Iraq và Giordania, ngài nói lời cầu nguyện không thay đổi tư tưởng của Thiên Chúa, nhưng thay đổi tư tưởng của người cầu nguyện để họ phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế Chúa khuyến khích chúng ta cầu nguyện không mỏi mệt, để lời cầu trở thành nơi chúng ta biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa, đức tin và tất cả những gì ở trong tâm trí chúng ta, và nhất là trở thành thực phẩm thường ngày, vũ khí hùng mạnh và gậy chống cho cuộc hành trình của chúng ta.

Trước khi đọc kinh Lạy Cha ĐTC đã mời mọi người cầu nguyện cho Syria đã bị mấy vụ khủng bố hôm thứ hai vừa qua, khiến cho hàng trăm thường dân bị thiệt mạng. Tôi xin anh chị em cầu xin Thiên Chúa Cha từ nhân cho các nạn nhân được yên nghỉ, an ủi thân nhân họ, và thay đổi con tim của những người gieo rắc chết chóc và tàn phá.

ĐTC cũng mời tín hữu Roma và du khách hành hương tham dự thánh lễ kính Mình Máu Thánh Chúa ngài sẽ cử hành tại quảng trường Gioan Laterano và cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa sau đó tới Đền thờ Đức Bà Cả lúc 19 giờ. Đây là cử chỉ công cộng biểu lộ đức tin và tình yêu  đối với Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong bí tích Thánh Thể.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 06.05, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng: “Kitô hữu không tê liệt trước những đau khổ nhưng vượt qua những đau khổ trong niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho niềm vui; và niềm vui ấy, không ai lấy mất được.”

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

Được khởi hứng từ những bài đọc ngày hôm nay, khi Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ về nỗi lo lắng, muộn phiền sẽ đến với các ông nhưng nỗi buồn ấy sẽ trở thành niềm vui; Đức Thánh Cha đã đặt vấn đề: “Làm thế nào để các Kitô hữu có thể duy trì mãi được niềm vui và hy vọng của họ, cho dù có ở giữa những đau khổ, muộn phiền? Đức Giêsu đã dùng hình ảnh của người phụ nữ lúc lâm bồn và nói rằng: ‘Khi sinh con người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa.’ Bà đã mang niềm hy vọng vượt qua những đau khổ và sau đó bà đã mừng vui.

Chúng ta cũng có thể có đươc niềm vui và hy vọng này, cho dù chúng ta phải đối mặt với những cơ cực, với những vấn nạn hay khi chúng ta sầu khổ. Chúng ta không rơi vào trạng thái tê liệt. Đau khổ đúng là đau khổ, nhưng nếu ta biết vượt qua nó với niềm vui và hy vọng thì nó sẽ mở ra trước mắt chúng ta một cánh cửa chan chứa niềm vui, vì ‘một con người đã sinh ra trong thế gian’. Hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng giúp chúng ta hy vọng hơn trong những gian nan, nguy khốn. Những gian nan, nguy khốn rất đáng sợ, thậm chí có thể khiến chúng ta lung lay mất đức tin… Nhưng với niềm vui và hy vọng, chúng ta bước về phía trước, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau đau khổ sẽ là niềm vui chan chứa, giống như người phụ nữ khi sinh con.

Niềm vui và hy vọng – không phải là tinh thần lạc quan

Niềm vui và hy vọng của các Kitô hữu luôn bện chặt vào nhau. Và chúng ta đừng lẫn lộn chúng với những hạnh phúc đơn giản hay tinh thần lạc quan. Niềm vui mà không có hy vọng thì chỉ là vui, một hạnh phúc tạm thời, mong manh. Hy vọng mà không có niềm vui sẽ không phải là hy vọng và cũng không thể vươn tới được một tinh thần lạc quan lành mạnh. Niềm vui và hy vọng luôn bước song hành với nhau và sẽ tạo ra một cảm xúc bùng nổ đến vỡ òa trong Giáo hội: ‘Giáo hội hãy vui mừng hoan hỷ. Hãy mừng vui.’ Khi mừng vui hoan hỷ, người ta sẽ không còn phải chăm chú vào những nghi lễ, quy định, phép tắc nữa. Chỉ có niềm vui mà thôi.

Niềm vui và hy vọng có mối tương quan biện chứng với nhau. Chúng giúp nuôi dưỡng Giáo hội, thúc đẩy Giáo hội mở ra với tất cả mọi người. Niềm vui củng cố hy vọng và hy vọng trổ sinh từ niềm vui. Chúng ta sẽ bước về phía trước trong tư thế vui mừng và hy vọng. Chính hai nhân đức này giúp chúng ta và giúp Giáo hội mở lòng ra với tha nhân. Những ai có niềm vui chẳng khép mình lại bao giờ; hy vọng giúp ta mở ra. Hai nhân đức này giống như mỏ nẻo trên cửa biển Nước Trời kéo chúng ta đi lên và đi ra với mọi người.

Niềm hoan lạc vĩnh cửu

Niềm vui thế trần có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Trong khi đó, Đức Giêsu ban cho chúng ta niềm vui vĩnh cửu, không ai có thể lấy mất được. Niềm vui ấy vẫn tồn tại, cho dù chúng ta có bị chìm ngập trong những thời khắc đen tối nhất của cuộc đời, giống như các Tông đồ được thiên thần an ủi sau khi Đức Giêsu về trời, đã tìm lại được niềm vui và hạnh phúc. Đó là niềm vui khi biết rằng giờ đây con người có thể đặt chân vào thiên đàng. Niềm vui ấy đang tràn ngập toàn thể Giáo hội hôm nay.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Biện Pháp Điệp Từ – Điệp Ngữ

Biện Pháp Điệp Từ – Điệp Ngữ

1. Thế nào là điệp ngữ?

Điệp ngữ là việc lặp lại nhiều lần một từ, một cụm từ hoặc cả câu trong một khổ thơ, một đoạn văn hay trong một bài thơ hay một bài văn.

DiepTuDiepNgu

2. Các hình thức điệp ngữ

a) Lặp từ, cụm từ, câu nhằm tạo ra sự nhấn mạnh

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền trôi thấp thoáng cánh buồn xa xa,

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt nước một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,

Tiếng mưa sầm sập vây quanh chỗ ngồi

từ "buồn trông" được lặp đi lặp lại là 1 điệp ngữ để làm nổi bật nỗi buồn của Thúy Kiều.

b) Lặp từ, cụm từ, câu nhằm tạo ra sự liệt kê

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát….

Có bão tháng bẩy

Có mưa tháng ba

(Hạt gạo làng ta – Trần Đăng Khoa)

Việc lặp lại nhiều lần từ có trong bài là sự liệt kê những chất làm nên hạt gạo và giúp người đọc thấy được: để làm ra hạt gạo trong thời chiến tranh thật là khó. Cây mạ được cấy xuống không chỉ có phù sa màu mỡ, có hương được chắt lợ cái tinh túy của đất trời, có sự tảo tần sớm hôm của người nông dân mà còn có cả những thiên tai và tàn phá.

c) Lặp từ, cụm từ, cả câu nhằm tạo sự khẳng định


VD: Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành, phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực… 
Cách sử dụng điệp ngữ trong câu văn trên có tác dụng khẳng định số lượng hoa phượng ở đây là nhiều vô kể…

 

3. Thực Hành

 

1. Hãy chỉ ra những điệp ngữ trong đoạn thơ, đoạn văn sau và nêu tác dụng của những điệp ngữ đó. ( Nhằm nhấn mạnh ý gì, hoặc gợi cảm xúc gì cho người đọc?)

 

Người ta đi cấy lấy công 
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, rông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tầm lòng
(Đi cấy – Ca dao)

 

2. Điền những từ thích hợp vào ô trống để tạo thành những câu văn có dùng điệp ngữ
a) Làng quê tôi tràn ngập màu xanh:……….rất non tơ của đồng lúa,……….thật đậm đà của bãi ngô,……….đến mượt mà của thảm cỏ.
b) Hoa hồng ……gần, hoa huệ …….xa, hoa nhài……đây đó. hương thơm tỏa lan khắp vườn.

 

3. Viết lại những câu văn sau có dùng điệp ngữ nhằm nhấn mạnh và gợi cảm xúc cho người đọc:
a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và cả lũy tre thân mật làng tôi.
– > Tôi yêu căn nhà đơn sơ, yêu khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và yêu cả lũy tre thân mật làng tôi.
b) Bức tranh buổi sớm trên quê hương tôi đẹp quá! đến mê hồn!
– >

c) Tôi lớn lên bằng tình thương của bố, của mẹ, của bà con xóm giềng nơi tôi ở.
– >

4. Tập viết đoạn văn có sử dụng điệp ngữ
Hãy viết một đoạn văn miêu tả trong đó có sử dụng điệp ngữ
+ Đoạn văn tả cây ăn quả:

+ Đoạn văn nói về tình cảm bạn bè: 
 

Giầu sang và quyền bính ích kỷ bạo lực là các dụng cụ của thối nát gây chết chóc

Giầu sang và quyền bính ích kỷ bạo lực là các dụng cụ của thối nát gây chết chóc

ĐTC chào tín hữu và du khách hanh hương trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 24-2-2016

Giầu sang và quyền bính ích kỷ bạo lực là các dụng cụ của thối nát gây chết chóc

Thi hành quyền bính mà không tôn trọng sự sống, không có công lý và không có lòng thương xót chỉ gây ra chết chóc và đàn áp bất công mà thôi. Vì khát vọng quyền bính biến thành sự tham lam khiến cho con người muốn chiếm hữu tất cả và khai thác bóc lột tha nhân.

ĐTC đã nói như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư 24-2-2016. Trong số các người tham dự có đông Hồng Y và Giám Mục, bạn của phong trào Tổ Ấm về Roma tham dự đại hội thường niên của phong trào.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về lòng thương xót trong Thánh Kinh. Ngài nói: có nhiều văn bản khác nhau của Thánh Kinh đề cập tới các kẻ quyền thế, các vua chúa, những người ở trên cao, và cả thái độ kiêu căng ngạo mạn và các bất công của họ nữa. ĐTC minh xác sự giầu có và quyền lực như sau:

Sự giầu có và quyền lực là các thực tại có thể tốt lành và ích lợi cho công ích, nếu được dùng để phục vụ người nghèo và tất cả mọi người, với sự công bằng và lòng bác ái. Nhưng rất tiếc, như quá thường xảy ra, là khi chúng được sống như đặc quyền đặc lợi, với lòng ích kỷ và bạo lực, thì chúng biến thành các dụng cụ thối nát và gây chết chóc. Đó là điều đã xảy ra trong câu chuyện vườn nho của ông Nabốt, như trình thuật trong chương 21 sách các Vua I, mà chúng ta tìm hiểu hôm nay.

Văn bản này kể rằng vua Israel là Acab muốn mua vườn nho của một người  tên là Nabốt, bởi vì nó gần hoàng cung. Đề nghị của nhà vua xem ra hợp pháp và quảng đại nữa, nhưng bên Israel gia tài ruộng đất được coi hầu như bất khả xâm phạm. Thật thế  sách Lêvi có dậy rằng: “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23). Đất là thánh thiêng, vì là một ơn của Chúa, phải được giữ gìn và duy trì, như dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa truyền từ đời này sang đời nọ và bảo đảm cho phẩm giá của mọi người. Như thế chúng ta hiểu tại sao ông Nabốt lại từ chối nhà vua: “Xin Giavê đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài! "(1 V 21,3).

Vua Acab phản ứng lại lời từ chối đó với sự cay đắng và giận dữ. Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm, ông là vua, là người quyền thế, bị giảm thiểu trong quyền bính tối thượng của mình và bị tước đoạt trong khả thể thoả mãn ước muốn chiếm hữu của ông. Khi thấy ông buồn phiền như vậy, vợ ông là Giêsabel, một hoàng hậu ngoại giáo đã gia tăng các tôn thờ ngẫu tượng  và sát hại các ngôn sứ của Chúa (x. 1 V 18,4), bà không xấu, bà ác độc, bà quyết định can thiệp. Các lời bà nói với nhà vua rất là ý nghĩa. Anh chị em hãy cảm nhận cái gian ác đàng sau người phụ nữ này: “Vua cai trị Ít-ra-en hay thật! Mời vua dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-bốt người Gít-rơ-en.” 1 V 21,7). Bà nêu bật uy tín và quyền lực của nhà vua, mà theo cái nhìn của bà, nó bị đem ra thảo luận bởi lời khước từ của ông Nabốt. Một quyền bính mà hoàng hậu coi như tuyệt đối và vì thế mọi ước muốn của vua đều là một mệnh lệnh. Thánh Ambrogio đã viết một cuốn sách nhỏ về câu chuyện này tựa đề là “Nabốt”. Thật là tốt, nếu chúng ta đọc cuốn sách này trong mùa Chay. Nó rất là hay và rất cụ thể.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Khi nhớ lại các điều này Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người." Nếu đánh mất đi chiều kích phục vụ, quyền bính biến thành ngạo mạn, trở nên thống trị và áp bức. Đó chính là điều đã xảy ra trong câu chuyện vườn nho của ông Nabốt.  Một cách vô luân hoàng hậu Giêsabel quyết định loại trừ ông Nabốt và thi hành chương trình của bà. Bà sử dụng các dối trá của một sự hợp pháp tồi bại, nhân danh nhà vua, bà gửi thư cho các trưởng lão và thân hào trong thành ra lệnh cho các chứng nhân giả dối công khai tố cáo ông Nabốt là đã nguyền rủa Thiên  Chúa và nhà vua, một tội đáng phạt tử hình. Như thế ông Nabốt chết, nhà vua có thể chiếm vườn nho của ông.

Và đây không phải là một câu chuyện xảy ra trong các thời khác, nó cũng là câu chuyện của ngày nay, của các kẻ quyền thế để có nhiều tiền hơn khai thác bóc lột người nghèo, dân lành. Đó là lịch sử của nạn buôn bán người, của lao động nô lệ, của người nghèo làm việc lậu và với đồng lương tối thiểu để làm giầu cho các kẻ quyền thế. Đó là lịch sử của các nhà chính trị gian tham hôi lộ muốn nhiều hơn và nhiều hơn. Vì vậy tôi đã nói là đọc lại cuốn sách của thánh Ambrogio về ông Nabốt sẽ tốt cho chúng ta, bởi vì nó là một cuốn sách thời sự.

Đó, thực thi quyền bính mà không tôn trọng sự sống, không có công lý, không có lòng thương xót dẫn đưa tới đâu. Và khát vọng quyền bính có thể đưa tới điều gì: nó trở thành tham lam muốn chiếm hữu tất cả. Có một văn bản của ngôn sứ Isaia đặc biệt soi sáng liên quan tới điều này. Trong đó Chúa cảnh cáo chống lại sự thèm khát của các đại điền chủ muốn luôn ngày càng chiếm hữu nhà cửa và đất đai nhiều hơn. Ngôn sứ nói: “Khốn thay những kẻ tậu hết nhà nọ đến nhà kia nối thêm ruộng này đến ruộng khác, tới mức không còn chỗ trống nào và chỉ còn một mình các người ở lại trong xứ!” (Is 5,8). Ngôn sứ Isaia không phải là cộng sản đâu! Và ĐTC giải thích cung cách hành xử của Thiên Chúa như sau:

Tuy nhiên, Thiên  Chúa lớn lao hơn sự gian ác và trò chơi bẩn thỉu của con người trần gian. Trong lòng thương xót của Ngài Ngài gửi ngôn sứ Elia tới để giúp vua Acab hoán cải. Bây giờ chúng ta sang trang. Và câu chuyện tiếp tục ra sao? Thiên Chúa thấy tội ác này và  cũng gõ cửa lòng vua Acab, và nhà vua bị đặt trước tội lỗi của mình, hiểu ra, hạ mình xuống và xin lỗi. Thật đẹp biết bao, nếu các người quyền thế ngày nay cũng làm như thế!

Chúa nhận sự hối lỗi của ông, nhưng một người vô tội đã bị giết, và lỗi lầm đã phạm sẽ có các hậu quả không thể tránh được. Thật thế, sự dữ đã làm để lại các dấu vết đau đớn và lịch sử loài người mang các vết thương của nó. Lòng thương xót cũng cho thấy con đường chính phải theo trong trường hợp này.  Lòng thương xót có thể chữa lành các vết thương và có thể thay đổi lịch sử. Hãy mở con tim bạn cho lòng thương xót! Lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn tội lỗi của con người. Nó mạnh mẽ hơn, đó là gương của vua Acab! Chúng ta biết quyền năng của nó, khi chúng ta nhớ tới Con Thiên Chúa vô tội đã làm người để phá huỷ sự dữ với ơn tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu Kitô là vua đích thật, nhưng quyền bính của Ngài hoàn toàn khác biệt. Ngai của Ngài là thập giá. Ngài không phải là một vị vua giết chết, nhưng trái lại trao ban sự sống. Việc ngài đến với tất cả mọi người, nhất là những người yếu đuối nhất, đánh bại sự cô đơn và số phận phải chết mà tội lỗi dẫn tới. Với sự gần gũi của và sự hiền dịu của Ngài Chúa Giêsu Kitô đưa các kẻ tội lỗi vào trong không gian của ơn thánh và sự tha thứ. Và đó là lòng thương xót của Thiên Chúa.

ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau tham dự buổi tiếp kiến. Trong số các nhóm nói tiếng pháp có các nhóm đến từ Bỉ và Pháp, đặc biệt là các đại chủng sinh giáo phận Bayonne, tín hữu các giáo phận Agens và Pontoise do các Giám Mục tháp tùng, và tín hữu đảo Corse. Trong số các nhóm nói tiếng Anh có các phái đoàn đến từ Anh, Êcốt, Ai len, Thuỵ Điển, Gabon, Mozambic, Hoa Kỳ. Trong các nhóm tiếng Đức có các sinh viên thần học và giáo luật đại học Vienne. Cũng có các nhóm Tây Ban Nha và châu Mỹ latinh, Bồ Đào Nha và Brasil, cũng như Ba Lan.

ĐTC cầu chúc mùa Chay giúp mọi người trở thành thừa sai của lòng thương xót Chúa, liên đới với người nghèo, sống bác ái và thương xót trong gia đình và trong giáo xứ, canh tân đức tin và lòng mến đối với Chúa và với tha nhân, ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội và môi sinh.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC khích lệ mọi người trong mùa Chay xét mình xem cung cách suy tư hành xử của mình có ảnh hưởng tới cám dỗ lạm dụng quyền bính đối với người khác và lợi dụng các đặc ân đặc lợi hay không.

ĐTC cũng đặc biệt chào các Giám Mục bạn của phong trào Tổ Ấm đang tham dự hội nghị hằng năm của phong trào tại Roma và khích lệ các vị luôn chú ý tới đặc sủng hiệp nhất, trong sự hiệp thông với Người Kế vị thánh Phêrô. Chào các nhóm của giáo phận Cremona, cộng đoàn Gioan XXIII và các công nhân Videocon tỉnh Anagni, ĐTC cầu mong mọi người trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, sống mọi hình thức quyền bính như việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ĐTC nói Mùa Chay là thời gian thuận tiện để củng cố đời sống tinh thần, thực hành ăn chay hãm mình. Ăn chay giúp các bạn trẻ tự chủ nhiều hơn; lời cầu nguyện giúp người đau yếu dâng các khổ đau cho Chúa và luôn cảm thấy sự gần gũi của Ngài; các công việc phúc đức giúp các đôi tân hôn sống đời gia đình chú ý tới các nhu cầu của tha nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC gặp gỡ giới trẻ Morelia và thăm các tù nhân trại cải huấn CeReSo

ĐTC gặp gỡ giới trẻ Morelia và thăm các tù nhân trại cải huấn CeReSo

ĐTC làm phép Thánh Giá Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc

Tường thuật cuộc gặp gỡ của ĐTC với giới trẻ giáo phận Morelia và buổi viếng thăm các tù nhân trại cải huấn CeRoSo tỉnh Ciudad Juarez

Thứ tư hôm qua ĐTC đã đến giáo phận Ciudad Juarez cách thủ đô Mexico 1,543 cây số, để thăm các tù nhân trung tâm cải huấn CeReSo, gặp gỡ giới lao động trong toà nhà thể thao thành phố và chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại khu hội chợ thành phố.

Nhưng trước hết xin quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh hoạt của ĐTC chiều thứ ba.

Sau khi từ giã các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và mọi người ĐTC đã di xe về Toà tổng giám mục để dùng bữa trưa với đoàn tuỳ tùng và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh hoạt ban chiều là viếng thăm nhà thờ chính toà Morelia và gặp gỡ giới trẻ tại vận động trường José Maria Morelos y Pavón vào lúc 4 giờ chiều. 

Nhà thờ chính toà Morelia có kiểu kiến trúc ba rốc, với các yếu tố tân cổ điển, được xây giữa các năm 1640-1744. Giếng rửa tội bằng bạc và vàng thuộc thế kỷ XVIII. Các cửa bên trong bọc da nhuộm mầu kiểu andaluso. Trong phòng thánh có các bức tranh thuộc thế kỷ XVI và một tượng Chúa Kitô làm bằng bột ngô trộn mật ong, theo các kỹ thuật thời tiền tây ban nha.

Lúc 15 giờ15 ĐTC đã đi xe tới thăm nhà thờ chính toà. Trong phòng thánh 14 viện trưởng các đại học Mexico và 6 thủ lãnh các Giáo hội kitô khác đã được giới thiệu với ĐTC. Trước nhà thờ chính toà thị trưởng thành phố Morelia đã trao chìa khóa thành phố cho ĐGH như biểu tượng chào đón vị thượng khách. Tiếp đến ĐTC đã đi xe tới sân vận động  José Maria Morelos y Pavón để gặp gỡ giới trẻ. José Maria Morelos y Pavón là anh hùng của nền độc lập Mêhicô, và là người sinh trưởng tại đây. Tại hai bãi đậu xe bên ngoài vân động trường 50,000 người có thể theo dõi buổi gặp gỡ của ĐTC với giới trẻ. Xe chở ĐTC đi một vòng để ngài chào tín hữu.

Sau các bài hát và màn vũ của người trẻ ĐC Héctor Luis Morales Sánchez, GM Ciudad Nezahualcoytl, đặc trách mục vụ giới trẻ, đã chào mừng ĐTC. Ngài nói:

« Đứng trước thế hệ trẻ, giống như ông Môshê xưa kia, các Giám Mục chúng con tháo giầy ra, vì ý thức rằng Chúa chỉ cho chúng con thấy các bạn trẻ là vùng đất thánh, một thực tại từ đó Chúa nói với chúng con. Việc chiêm ngưỡng này khiến cho chúng con cảm thấy thương xót giới trẻ của quê hương đất nước chúng con, tìm cách lắng nghe họ và đồng hành với họ để cùng họ sống kinh ngiệm tình yêu của Thiên Chúa. Chính trong tinh thần ấy chúng con đã thành lập Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc và làm một Cây Thánh Giá mà chúng con xin ĐTC làm phép rồi giao cho từng bạn trẻ đại diện cho 93 giáo phận toàn nước. Chúng con cũng đề ra chương trình rao giảng Tin Mừng và đào tạo toàn diện cho giới trẻ, vì chúng con cảm thấy sự cấp thiết giúp họ trở thành các người lưu động rao truyền đức tin hạnh phúc,  đem Chúa Giêsu đến mọi nẻo đường, mọi quảng trường và mọi xó xỉnh của đất nước. Chúng con cũng xin phó thác cho ĐTC  một tài liệu trình bầy dấn thân của chúng con  trong viêc rao truyền Tin Mừng cho giới trẻ để ĐTC ban phép lành và trao lại cho chúng con, và chúng con sẽ lãnh nhận trách nhiệm thực hiện quyết định này. »

Tiếp đến hai bạn trẻ là chị Daniela và anh Alberto đã đại diện 30 triệu người trẻ Mexico thay phiên nhau chia sẻ chứng từ liên quan tới các khó khăn và thách đố mà giới trẻ Mexico đang phải đương đầu trong cuộc sống hiện tại.

Trước hết là giá trị quan trọng của gia đình, vì gia đình là dấu chỉ trực tiếp nhất có thể sờ mó được của tình yêu, sự gần gũi và tình liên đới. Nó là trường nơi con người học các thói quen, các tập tục và tư tưởng tạo thành bản vị, biết phân biệt lành dữ, chia vui sẻ muộn và các khó khăn, giải quyết các vấn đề, cảm thấy mình là thành phần của cộng đoàn. Nhưng người trẻ đau khổ, khi trông thấy gia đình bị điều kiện hóa vì người ta coi trọng vật chất hơn con người, khi khó nói lên hai tiếng tình yêu, người ta cống hiến sự vật, nhưng không trao ban vòng tay ôm của sự ủi an và an ninh, không có lời trách móc diễn tả sự ân cần âu lo, không có công việc chung khơi dậy sự kính trọng và khâm phục, không có chia sẻ các giấc mơ sinh ra căn tính và ý thức tuỳ thuộc. Làm thế nào để tái chiếm ý nghĩa của gia đình và đương đầu với các hệ thống lôi cuốn nó?

Giới trẻ Mêhicô dang phải đối đầu với một thực tại phức tạp: nền giáo dục tính dục xấu, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, thiếu tình thương, sợ hãi dấn thân với một ngưòi khác. Làm thế nào để học biết đánh giá chính mình và tái chiếm lại giấc mơ thành lập một gia đình? Người trẻ Mexico mơ ước một gia đình và tiếp tục mơ ước tạo dựng một gia đình, vì trong đó họ có thể sống tình yêu và xây dựng một xã hội từ bi.

Giới trẻ Mexico muốn sống trong hoà bình. Tuy thuộc nhiều truyền thống văn hóa nhưng tất cả đều muốn là những ngươi mang theo sự sống và hoà giải. Có người cố gắng học hành để phát triển quốc gia, có người làm việc lương thiện để nâng đỡ gia đình. Họ đều cố gắng để xã hội biết khai thác tiềm năng trí tuệ, con tim và bàn tay của họ để tạo dựng một nền văn hóa bình đẳng và kính trọng. Người trẻ sinh hoạt và rao giảng Tin Mừng trong các giáo xứ, cử hành đức tin và sống tình yêu của Chúa Giêsu trong tình huynh đệ. Tuy nhiên, trong nhiều vùng của đất nước thiếu các cơ may chuẩn bị nghề nghiệp và công ăn việc làm. Vì thế một số bạn trẻ trở thành nạn nhân của sự tuyệt vọng, của cuộc sống hà tiện, gian tham hối lộ và các lời hứa một cuộc sống dễ dàng, nhưng ngoài vòng luật lệ. Càng ngày càng có thêm nhiều nạn nhân của nạn buôn bán ma tuý bạo lực, lệ thuộc và khai thác bóc lột.  Nhiều gia đình phải khóc thương con cái bị chết, vì tình trạng không trừng phạt các thủ phạm tạo thuận viện cho các vụ bắt cóc, lừa đảo và sát hại. Giới trẻ Mêhicô muốn xây dựng hoà bình, nhưng làm sao thực hiện được điều đó? Họ không muốn người thân là nạn nhân của bạo lực, nhưng đâu là con đường phải theo? Là kitô hữu người trẻ muốn là các sứ giả hoà bình của Chúa Kitô, nhưng làm sao thực hiện trong các giáo xứ?

Người trẻ Mexico muốn dấn thân hơn trong cuộc sống, nhưng có nhiều hiện tượng lôi cuốn và điều kiện hóa họ. Có các yếu tố tích cực nhưng cũng có nhiều yếu tố tiêu cực. Họ chán nản vì đất nước không cho họ các cơ may thực hiện khát vọng nghề nghiệp, và có quá nhiều bạo lực gây tổn thương cho họ. Ngày nay có nhiều kỹ thuật truyền thông tiện lợi, nhưng nhưng người trẻ đánh mất đi các cảm nghiệm cụ thể của việc trông thấy, lắng nghe và nếm hưởng sự hiện diện của người bên cạnh muốn đồng hành với họ. Tệ hơn nữa, người trẻ đã để cho nhiều người xa cách họ và đánh mất họ vì không biết sống gần gũi họ. Giới trẻ Mêhicô càng ngày càng có cảm tưởng khó chịu, nhưng cũng ý thức rằng giải pháp phần lớn nằm trong tay họ. Họ cần dấn thân thắng vượt sự hâm hẩm và khuynh hướng xu thời, thắng vượt các sợ hãi ngăn chặn họ đương đầu với cuộc sống, không quá nghĩ tới các tình trạng sống cá nhân nhưng đi ra ngoài, vì sự hâm hẩm, các sợ hãi và khuynh hướng xu thời không hoà hợp với Tin Mừng. Người trẻ Mêhicô nghe nói “họ là niềm hy vọng của một tương lai tươi sáng hơn, họ là các người hành hương của niềm hy vọng. Giáo hội nhìn họ với niềm hy vọng vì họ là tiềm năng khổng lồ cho hiện tại và tương lai của việc rao giảng Tin Mừng”. Nhưng ai trao ban hy vọng cho họ?  Và chúng con nhận ra rằng đó là Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Chúa Giêsu là suối nguồn đích thực của niềm hy vọng. Ngài là bạn, là anh của chúng con . Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Là đường đi. Là sự thật tràn đầy và chỉ nơi Ngài chúng con mới có thể tìm thấy niềm hy vọng đích thật.

Giới trẻ là kho tàng của Mêhicô và của Giáo Hội cần biến thành niềm hy vọng

Ngỏ lời với mọi người ĐTC chào tất cả các bạn trẻ hiện diện cũng như hàng ngàn bạn trẻ đang theo dõi buổi gặp gỡ qua truyền hình, đặc biệt hàng ngàn bạn trẻ tụ tập tại quảng trường Gioan Phaolô II trong thành phố Guadalajara. Ngài nhắc lại điều ngài đã nói với tổng thống trong lời chào mừng đầu tiên khi đến Mexico: Một trong các kho tàng lớn nhất của đất nước Mexico này là gương mặt trẻ trung, là người trẻ. Phải, các bạn là kho tàng của vùng đất này. Tôi không nói niềm hy vọng của đất nước này nhưng nói là kho tàng của đất nước này.

Núi có thể chứa nhiều quặng mỏ phong phú dùng để phục vụ sự tỉến bộ của nhân loại,  nhưng cần phải biến đổi sự phong phú ấy thành niềm hy vọng với việc làm như các thơ mỏ khi lấy ra các quặng mỏ ấy. Các bạn là sự phong phú cần biến đổi thành niềm hy vọng. Chị Daniela đã nói một điều rất có lý: “Chúng ta tất cả có thể sống, nhưng không thể sống mà không hy vọng.” Anh Alberto cũng khẳng định: “Với đôi tay, con tim và trí óc của con,  con có thể xây dựng  niềm hy vọng. Nhưng nếu con không cảm thấy nó thì niềm hy vọng sẽ không thể đi vào trong tim con được”.

Chúng ta không thể sống niềm hy vọng, cảm thấy ngày mai, nếu trước đó không cảm thấy mình đuợc trân quý, nếu không cảm thấy rằng cuộc sống, đôi tay, lịch sử đời mình có một giá trị. ĐTC khẳng định với các bạn trẻ như sau:

Niềm hy vọng nảy sinh, khi có thể kinh nghiệm rằng không phải tất cả đều đã mất, và vì thế cần bắt đầu  tập tành từ gia đình, từ chính mình. Không phải tất cả đều đã mất. Tôi không hư mất, tôi có giá trị và rất giá trị. ĐTC đã xin các bạn trẻ để tay trên tim và hỏi xem có đúng thật là mình đã mất tất cả hay không, mình có giá trị ít hay nhiều. Rồi ngài nói tiếp: Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là các diễn văn hạ giá bạn, làm cho bạn cảm thấy bạn là người hạng hai. Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là khi bạn cảm thấy không có ai quan tâm tới bạn và bạn bị gạt sang một bên. Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là khi bạn cảm thấy rằng ban có ở đó hay không ở đó cũng vậy thôi. Điều này giết chết, nó huỷ diệt chúng ta và mở cửa cho biết bao nhiêu khổ đau. Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là làm cho bạn cảm thấy rằng bạn che mặt nạ với quần áo, hàng hiệu, thuộc mốt thời trang mới nhất, hay khi bạn trở thành người có uy tín, quan trọng vì bạn có tiền, nhưng ở sâu thẳm trong con tim bạn không tin là mình đáng được yêu thương trìu mến. Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là khi một người cảm thấy rằng tiền bạc dùng để mua mọi sự, kể cả lòng thương mến của người khác. Đe dọa chính đối với niềm hy vọng là tin rằng vì bạn có một chiếc xe đẹp, nên bạn hạnh phúc.

Các bạn chính là niềm hy vọng của đất nước Mêhicô, các bạn chính là kho tàng của Giáo Hội. Cha hiểu rằng nhiều khi khó mà cảm thấy mình giầu có, khi chúng ta phải thường xuyên mất mát bạn bè, người thân trong tay của các kẻ buôn bán ma tuý, của các tổ chức tội phạm gieo rắc kinh hoàng. Khó mà cảm thấy sự giầu có của một quốc gia, khi không có cơ may có công ăn việc làm xứng đáng, không có cơ may học hành và chuẩn bị, khi thấy các quyền lợi của mình không được thừa nhận và điều này đẩy đưa tới các tình trạng tột cùng. Khó mà cảm thấy mình là sự phong phú của một nơi, vì sự kiện người trẻ bị sử dụng cho các mục đích xấu xa với các hứa hẹn không thật.

Mặc dù tất cả những diều đó, tôi không mệt mỏi lập lại rằng các bạn là sự giầu có của đất nước Mêhicô. Tôi nói điều đó với các bạn vì cũng như các bạn cha tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài liên tục canh tân trong tôi niềm hy vọng và cái nhìn của tôi. Chính Ngài liên lỉ gửi tôi đi hoán cải các con tim. Đúng thế, thưa các bạn, vì nơi Ngài tôi đã gặp Đấng có khả năng thắp sáng lên điều tốt đẹp nhất nơi tôi. Và chính nhờ Ngài mà chúng ta có thể bắt đầu trở lại mỗi ngày, và có can đảm nói rằng không đúng là chỉ có một kiểu sống duy nhất, là người trẻ để cuộc đời mình trong tay của nạn buôn bán ma tuý, của những người chỉ biết gieo vãi tàn phá và chết chóc. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể nói rằng không đúng là kiểu sống duy nhất đối với người trẻ ở đây là trong nghèo túng, bị gạt bỏ bên lề, không có cơ may, không có khoảng không, không được đào tạo giáo dục, không niềm hy vọng. Chính Chúa Giêsu cải chính tất cả các cố gắng khiến cho các bạn trở thành vô ích hay là lính đánh thuê cho các tham vọng của nguời khác.

Tên gọi của niềm hy vọng là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mời gọi xây dựng đền thánh gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, quốc gia

Các bạn đã xin tôi một lời hy vọng, lời hy vọng mà tôi cho các bạn tên là Giêsu Kitô. Khi tất cả xem ra nặng nề, khi xem ra thế giới  sụp đổ trên chúng ta, các bạn hãy ôm lấy thập giá của Ngài, ôm lấy Chúa và đừng bao giờ tách rời khỏi tay Ngài, đừng bao giờ xa Ngài. Bởi vì cùng  Chúa có thể sống tràn đầy, cùng Chúa có thể tin rằng là đáng sống cho đi điều tốt nhất của mình,  là men, muối và ánh sáng giữa bạn bè, trong khu xóm, trong cộng đoàn. Vì thế các bạn trẻ thân mến, nhân danh Chúa Giêsu, tôi mời gọi các bạn đừng để cho mình bị loại trừ, khinh rẻ, đừng để cho mình bị đối xử như hàng hóa. Chắc chắn rồi, có thể các bạn không có xe hơi kiểu mới nhất, không có ví đầy tiền, nhưng các bạn có điều gì đó, mà không ai có thể lấy mất được, đó là kinh nghiệm cảm thấy được yêu thương, ôm ấp và đồng hành. Đó là kinh nghiệm cảm thấy mình là gia đình, là cộng đoàn. Đó là kinh nghiệm nhìn đời với đầu ngẩng cao, với phẩm giá. Các bạn là sự phong phú của đất nưóc Mêhicô, là niềm hy vọng và phẩm giá mà Chúa Kitô ban cho và không thể là lính đánh thuê cho các tham vọng của kẻ khác.

Chúa tiếp tục mời gọi, triệu vời các bạn như Ngài đã làm với thánh Juan Diego. Ngài mời gọi các bạn xây dựng một đền thánh, không phải là một nơi thể lý, nhưng là một cộng đoàn, đền thánh gọi là giáo xứ, Quốc gia. Cộng đoàn, gia đình, cảm thấy mình là công dân là một trong các liều thuốc chính chống lại tât cả những gì đe dọa chúng ta, vì nó làm cho chúng ta cảm thấy là thành phần của đại gia đình của Thiên  Chúa. Không phải để khép kín nhưng để đi ra và mời gọi ngưòi khác đi ra loan báo cho tất cả mọi nguời rằng giới trẻ Mêhicô là kho tàng lớn nhất vì thế không thể bị hy sinh. Chúa Giêsu không bao giờ mời gọi chúng ta trở thành kẻ giết mướn, nhưng là môn đệ. Ngài không gửi chúng ta đi để chết, nhưng mời chúng ta sống một cuộc sống gia đình, cộng đoàn sinh lợi cho xã hội. Các bạn là kho tàng của đất nước này, và khi nào các bạn nghi ngờ, thì hãy nhìn Chúa Giêsu Kitô, Đấng cải chính tất cả mọi cố gắng khiên cho các bạn trở thành vô ích hay chỉ là kẻ đánh thuê cho các tham vọng của người khác.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay của các bạn trẻ.

Sau khi từ giã mọi người, ĐTC đã đến bãi đậu của trực thăng cách đó 500 mét để đi phi trường  Morelia, Máy bay đã rời phi trường lúc 6 giờ rưỡi chiều và về tới phi trường thủ đô Mêhicô sau hơn 1 giờ bay. Từ đó ĐTC đã về Toà Sứ Thần để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Lúc 7 giờ rưỡi sáng thứ tư hôm qua ĐTC đã từ giã Toà Sứ Thần đi xe ra phi trường lấy máy bay đi Ciudad Juarez cách thủ đô Mexico 1,543 cây số để thăm giáo phận này. Tại đây ngài thăm các tù nhân trại cải huấn CeReSo số 3, gặp gỡ giới công nhân và chủ sự thánh lễ cho tín hữu.

Máy bay chở ĐTC đã tới phi trường Ciudad Juarez sau 2 giờ 25 phút bay. Chào đón ĐTC tại phi trường có ĐC José Guadalupe Tomes Campos và vài giới chức dân sự.

Ciudad Juarez là thành phố được thành lập năm 1659 với tên là “Đèo miền Bắc”. Các người thám hiểm Tây Ban Nha đã  tìm một lộ trình để vượt qua các dẫy núi đá, và trong hai thế kỷ nó là lối duy nhất vượt qua sông Rio Grande để từ Mêhicô qua Texas. Với thoả hiệp ký kết với Hoa Kỳ năm 1848, sông Rio Grande trở thành biên giới ngăn cách các nhóm dân sống tại mạn bắc của sông với phần còn lại của thành phố. Phần thuộc Hoa Kỳ trở thành El Paso. Năm 1882 đường xe lửa tới đây cho phép mở các nhà băng, bưu diện, xe điện và nhiều sinh hoạt thương mại khác. Hiện nay Ciudad Juarez có hơn 1,2 triệu dân và là thành phố lớn thứ 5 của Mêhicô và cũng là một trong những thành phố nổi tiếng bạo lực nhất thế giới, trước  Miami, Caracas và New Orleans. Chỉ nội trong năm 2009 đã có 2500 vụ giết người. Vòng bạo lực do nạn buôn bán ma tuý gây ra. Có tới 950 băng đảng vũ trang hoạt động tại đây, với hàng ngàn băng đảng nhỏ hơn và hàng trăm tay anh chị bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Trong bốn năm chiến tranh ma tuý đã có 212,000 người rời bỏ thành phố đi nơi khác sinh sống, tức chiếm 18% dân số. Từ năm 1993 đã có hàng ngàn phụ nữ thuộc tầng lớp nghèo biến mất, vì làm việc trong các hãng lậu sản xuất hàng hóa cung cấp cho Hoa Kỳ. Đã có nhiều phim được quay tại đây kể lại thực tại buồn thương này như “Thành phố biên giới” năm 2006. “Biên giới” năm 1982 kể lại nạn di cư lậu từ Ciudad Juarez sang El Paso. Cũng có nhiều sách viết về thực tại này, và đã có nhiều hiệp hội phụ nữ thành hình nhằm bảo vệ chị em phụ nữ tại đây.

Giáo phận Ciudad Juarez được thành lập năm 1957, có 2 triệu 750 ngàn dân, 85% theo Công Giáo. Giáo phận gồm 73 giáo xứ và 4 cứ điềm truyền giáo. Nhân lực của giáo phận gồm 98 linh mục triều, 22 liinh mục dòng, 39 tu huynh, 177 nữ tu, 19 phó tế vĩnh viễn và 56 chủng sinh. Giáo hội điều khiển 15 cơ sở giáo dục và 66  trung tâm bác ái.

Từ phi trường ĐTC đi xe tới trung tâm quốc gia cải huấn xã hội số 3, viết tắt là CeReso 3, cách đó 3 cấy số. Nó thuộc dự án cải tiến các nhà tù trong bang Chihuahua, và đã đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Hiện có 3,000 tù nhân, một số nhỏ là phụ nữ.

ĐTC đi qua một hành lang nơi có một vài nhóm thân nhân của các tù nhân và đến sân chính nhà tù nơi vị giám đốc nhà tù tiếp đón ngài. Sau đó ngài vào nhà nguyện chào các linh mục tuyên uý và nhân viên nhà tù và cầu nguyện chốc lát.

Tiếp đến ngài tiến lên khán đài và chào chừng 50 tù nhân đại diện các bạn tù. Sau lời chào mừng của ĐGM đặc trách mục vụ nhà tù, đã có chứng từ của một tù nhân. Các tù nhân đã tặng quà cho ĐTC, ngài cũng tặng qùa cho các tù nhân.

Ngẩng cao đầu, nhìn về tương lai và lật ngược tình thế, loại trừ bạo lực 

Ngỏ lời với các tù nhân ĐTC khích lệ họ mở cửa cho tương lai, và ngài tin rằng họ có thể viết một trang sử mới cho cuộc đời mình.

ĐTC nói: Tôi đã thăm Phi châu và tại Bangui tôi đã mở cửa đầu tiên của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Hôm nay cùng anh chị em tôi muốn tái khẳng định niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu khích lệ chúng ta: đó là lòng thương xót ôm ấp tất cả mọi người tại mọi xó xỉnh của trái đất này. Không có nơi nào mà lòng thương xót của Chúa không thể đạt tới, không có không gian nào cũng như không có người nào mà lòng thương xót không thế đụng chạm tới.

Cử hành Năm Thánh lòng thương xót với anh chị em là nhớ lại con đường cấp bách mà chúng ta bước đi để bẻ gẫy các vòng luẩn quẩn của bạo lực và tội phạm. Chúng ta đã mất bao nhiêu thập niện nghĩ và tin rằng tất cả được giải quyết bằng cách tách rời, bỏ tù và lấy đi các vấn đề chung quanh, và như thế là thực sự giải quyết các vấn đề. Chúng ta quên tập trung vào điều thực sự đáng lo lắng: đó là cuộc sống của con người, của gia đình họ, của những người dau khổ vì cái vòng baọ lực luẩn quẩn này.

Nhà tù là triệu chứng của các thinh lặng và thiếu sót của một xã hội bỏ rơi con cái mình

Lòng thương xót Chúa nhắc cho chúng ta biết rằng các nhà tù là một triệu chứng diễn tả tình trạng xã hội của chúng ta; trong nhiều trường hợp chúng là triệu chứng của các thinh lặng, các thiếu sót do nền văn hóa gạt bỏ gây ra. Chúng là một triệu chứng của một nền văn hóa đã thôi đánh cá trên cuộc sống, của một xã hội đã bỏ rơi các con cái mình.

ĐTC nói thêm trong bài hưấn dụ: Lòng thương xót nhắc cho chúng ta nhớ rằng việc hội nhập không bắt đầu giữa các bức tường nhà tù này, nhưng bắt đầu trước nữa trên các đường phố. Việc tái hội nhập hay phục hồi bắt đầu với cố gắng tìm không trở thành bệnh hoạn bằng cách làm ô nhiễm các tương quan trong khu xóm, trong các trường học, tại các quảng trường, trên đương phố, trong nhà và trong toàn xã hội. Một hệ thống sức khỏe xã hội tìm làm nảy sinh ra một nền văn hoá hữu hiệu và phòng ngừa các tình trạng đả thương xã hội và khiến cho nó trở nên tồi tệ.

Đôi khi xem ra các nhà tù đặt để người ta vào trong điều kiện tiếp tục phạm tội hơn là thăng tiến các tiến trình tái phục hồi cho phép đương đầu với các vấn đề xã hội, tâm lý và gia đình, đưa cá nhân tới một thái độ xác định nào đó. Cần phải đối phó với các lý do cơ cấu và văn hóa của sự bất an đang tấn kích xã hội.

Sự kiện Chúa Giêsu lo lắng cho các người đói khát, không nhà hay tù tội có ý diễn tả lòng thương xót của Thiên  Chúa Cha và nó trở thành lệnh truyền luân lý cho toàn xã hội ước mong có các điều kiện cần thiết cho một sự chung sống tốt đẹp hơn. Trong khả năng của một xã hội bao gồm các người nghèo túng, dau yếu hay tù tội là khả năng chữa lành các vết thương của họ và là các người xây dựng một sự sống chung tốt đẹp.

Cử hành Năm lòng thương xót với anh chị em có nghĩa là học đừng là tù nhân của quá khứ của ngày hôm qua. Đó là học mở rộng cánh cửa cho ngày mai, ngẩng cao đầu lên và làm việc để ước mong đó có được khoảng không tự do.

Tiếp tục bài huấn dụ, ĐTC nói Anh chị em đã biết sức mạnh của khổ đau và tội lỗi. Xin đừng quên rằng anh chị em cũng có sức mạnh của sự sống lại, sức mạnh của lòng thương xót Chúa đổi mới mọi sự. Giờ đây anh chị em đã đụng chạm tới phần cứng cam go nhất, khó khăn nhất, nhưng để nó sinh hoa tráí lớn hãy dấn thân ngay trong nhà tù này để lật ngược các tình thế làm nảy sinh ra sự loại trừ khác. Hãy nói chuyện với các người thân, hãy kể lại kinh nghiệm của anh chị em, hãy giúp hãm lại vòng bạo lực và loại trừ luẩn quẩn . Ai đã khổ đau sâu xa, ai đã sống kinh nghiệm của hỏa ngục có thể trở thành ngôn sứ trong xã hội. Hãy làm việc để cho xã hội dùng và vứt đi này đừng tiếp tục gây ra các nạn nhân khác.

Tôi muốn khích lệ anh các nhân viên làm việc tại trung tâm cải huấn này và tại các nơi khác tương tự, các giám đốc nhân viên cảnh sát, các tuyên uý, nam nữ tu sĩ và giáo dân, cũng như tất cả mọi người trợ giúp trung tâm. Trước khi ban phép lành cho mọi người ĐTC xin họ thinh lặng cầu nguyện xin Chúa giúp tin vào lòng thương xót của Ngài.

Sau khi từ giã các tù nhân ĐTC đi xe đến trường cao đẳng  Bachilleres của bang Chihuahua, cách đó 9 cây số để gặp gỡ giới công nhân. Vào ban chiều Ngài dâng thánh lễ cho tín hữu tại khu hội chợ thành phố trước khi từ giã Mexico để trở về Roma.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 13

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 13

Chia Sẻ Cơm Áo

13.3 Phân Tích:

13.3.1 Bài Tập C-1:

        Em hãy nêu lên những nguyên do và hậu quả của việc chia sẻ cơm áo trong một cộng đồng nào đó, ví dụ, một làng nhỏ, một bộ lạc trong rừng, một thị trấn, hay một thành phố.

ChiaSeComAo

13.3.2 Bài Tập C-2:

Hãy cho biết ngoài cơm ăn và áo mặc chúng ta còn nên giúp cho những người kém may mắn hơn chúng ta những điều gì?  Tại sao chúng ta nên giúp những điều đó?

boy eating on ground


Giám mục Mai Thanh Lương về hưu và thánh lễ Tạ Ơn

Giám mục Mai Thanh Lương về hưu và thánh lễ Tạ Ơn

GM Mai Thanh Lương

GARDEN GROVE, Calif. (NV) – Thánh Lễ Tạ Ơn Giám mục Mai Thanh Lương, vị giám mục gốc Việt duy nhất tại Hoa Kỳ, được tổ chức long trọng tại nhà thờ Saint Columban vào chiều Thứ Hai, 18 Tháng Giêng, 2016 với sự tham dự của đông đảo các giám mục, linh mục trong và ngoài vùng Orange County cùng giáo dân thuộc nhiều sắc tộc quanh vùng.

Trong phần nói chuyện của mình, Giám Mục Mai Thanh Lương đã nhắc lại những kỷ niệm buồn vui kể từ khi ông chịu chức linh mục năm 1966 tại Buffalo, New York, rồi khi được gọi điện thoại báo trước về việc được thụ phong chức Giám Mục vào năm 2003. Vị Giám mục cũng nhắc lại những năm tháng làm việc giúp người Việt tị nạn được định cư tại Hoa Kỳ, xem đó như những dấu ấn đậm nét nhất trong quá trình 50 năm làm nhiệm vụ của “người mục tử chăn dắt đàn chiên.”

“Sách Giảng Viên trong Cựu Ước viết rằng, mọi sự đều có thời hạn của nó. Với tôi, thời điểm về hưu cuối cùng đã đến,” Giám Mục Mai Thanh Lương nói.

Trong Thánh Lễ Tạ Ơn này, Giám mục Mai Thanh Lương gửi lời “tri ân Thánh Giáo Hoàng John Paul II đã đặc cử tôi làm Giám Mục, phục vụ giáo Phận Orange.”

Thánh lễ tạ ơn GM Mai Thanh Lương

Giám mục Mai Thanh Lương cũng “cám ơn Đức Cha Tod Brown, Đức Cha Kevin Vann và toàn thể anh em linh mục thuộc giáo phận Orange đã đón tiếp, coi tôi như anh em trong nhà và cho tôi được hân hạnh cùng đồng hành trong công tác mục vụ suốt 12 năm qua, như những thợ gặt trong vườn nho của Chúa.”

Ông cũng dành lời bày tỏ lòng biết ơn về “những sự nâng đỡ, lòng tốt và những lời cầu nguyện mà anh chị em tín hữu đã dành cho tôi, nhất là trong những năm gần đây khi tôi phải trải qua những cuộc phẫu thuật tim.”

Không chỉ giáo dân mà nhiều vị linh mục khác cũng đã vây quanh Giám mục Mai Thanh Lương ngay sau khi Thánh lễ Tạ ơn kết thúc để được nói những lời chúc phúc, những lời thăm hỏi cũng như được chụp hình trong ngày đặc biệt này.

 

Nhớ nhất 28 năm làm việc với người di cư”

 

Trò chuyện với Nhật báo Người Việt khi dòng người mến mộ Ngài vẫn còn đang đứng chờ, vị giám mục gốc Việt duy nhất cho biết, “Tôi cảm thấy mọi việc rất tốt lành, tôi sẽ có nhiều thời giờ hơn, chắc chắn sẽ làm được nhiều việc hơn.”

Về những việc sẽ làm trong thời gian nghỉ hưu, Đức Cha Lương nói, “Tôi đang viết mấy cuốn sách bằng song ngữ về Thánh Kinh nhưng chưa xong. Tôi sẽ cố gắng làm xong điều đó.”

Trả lời cho câu hỏi “Ngay lúc này Đức Cha có thể nói kỷ niệm đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời làm linh mục của mình là gì?”, Đức Cha Lương trả lời ngay, “Làm việc với người di cư, 28 năm.”

“Tôi giúp định cư không biết bao nhiêu ngàn người, từ Lousiana, Mississippi, Florida, Houston,… Rất nhiều người di cư. Mình xuất hiện vào lúc họ cần mình nhất vì lúc bấy giờ đâu có ai nói được tiếng Anh, tôi là người duy nhất. Rồi sau đó tôi đi làm việc với các linh mục, đưa vào những cộng đoàn không có linh mục, không có các cha để có thánh lễ Việt Nam. Những điều đó là kỷ niệm tốt nhất,” ông nói tiếp.

Với vị Giám mục gốc Việt duy nhất tại Hoa Kỳ, điểm nhấn mà ông cho rằng sẽ “nhớ đời đời” chính là việc “thành lập một văn phòng để lo cho vấn đề mục vụ cho di dân cùng với Đức Tổng Giám Mục ở Geneve là Đức Cha Silvano Tomasi. Ngài mới viết cho tôi lá thư để chúc mừng tôi về hưu. Tôi cũng có nhiều dịp được gặp ngài bên Roma nữa.”

Giám Mục Lương khẳng định “chắc chắn có nhiều các linh mục trẻ cũng rất thông minh đạo đức, giỏi giang gốc Việt sẽ được bổ nhiệm vào vai trò giám mục tại Hoa Kỳ."

“Vấn đề rất quan trọng” mà Giám mục Mai Thanh Lương muốn gửi đến mọi người là, “Người Việt hải ngoại chúng ta cần đoàn kết với nhau, cố gắng để chúng ta sống hòa hoãn với nhau, nhất là trên thềm năm mới này, chúng ta cố gắng duy trì được sự hiệp nhất. Đấy là vấn đề rất quan trọng.”

 

Đức Cha là một người thánh thiện, vui tính, giản dị”


Vừa đứng nhìn Giám Mục Mai Thanh Lương mặc trang phục dành cho Thánh lễ, tay cầm gậy, ông Lê Thanh Xuân ở Garden Grove, một giáo dân của nhà thờ La Vang nói, “Tôi biết về Giám mục Mai Thanh Lương từ lâu lắm rồi. Có sự tích là ngày trước những người vượt biên qua ông giúp đỡ nhiều lắm.”

“Hôm nay tôi đến đây để tiễn ông về hưu, tôi rất là vui mừng khi thấy có tất cả các cha, các giám mục đến dự Thánh Lễ Tạ Ơn Ngài,” ông nói một cách ngưỡng mộ.

Là giáo dân thuộc Cộng đoàn Tam Biên, nhà thờ Chánh Tòa, ông Nguyễn Chí Long, nêu cảm nghĩ, “Nghe Đức Cha nghỉ hưu tôi cảm thấy cũng hơi buồn vì người Việt Nam mình có rất ít Đức Cha, thấy Đức Cha đâu đến nỗi bệnh lắm đâu. Tôi đến đây để gặp ngài lần cuối vì mai mốt ngài đi đâu mình đâu biết. Tôi đến với lòng ngưỡng mộ đối với một Đức Cha Việt Nam. Ngài sang đây rất lâu mà tiếng Việt của Ngài còn rất rành, trong khi có nhiều cha sang đây thì tiếng Việt quên mất tiêu.”

Theo ông Long, “Đức Cha là người rất vui tính, kể chuyện tiếu lâm như giáo dân bình thường vậy đó, nên đó cũng là niềm vui của chúng tôi. Đức Cha không tỏ vẻ của bề trên, khi sinh hoạt chung với mình thì rất là hòa đồng. Đó là điều tôi thấy quý mến ngài.”

“Điều đặc biệt ở Đức Giám Mục là ngài rất giản dị, Ngài vẫn tự nấu cơm, đi chợ. Khi chị thấy Đức Giám mục đi chợ mặc đồ thường thì chị không thể nào nhận ra được đó là Đức Giám mục đâu” là điều mà chị Hà Thị Gấm, giáo dân Cộng đoàn Saint Columban, nói về Giám mục Mai Thanh Lương.

“Ngài rất thánh thiện, vui vẻ tiếp đón hết mọi người, không phân biệt người giàu nghèo, không phân biệt người Công giáo hay không Công giáo, ngài vui vẻ với hết mọi người” cũng là những nhận xét của chị Gấm về vị Giám Mục gốc Việt vừa nghỉ hưu này.

Linh Mục Niên Trưởng Mai Khải Hoàn, quản nhiệm giáo xứ St. Nicolas, Laguna Woods, chia sẻ, “Đức Cha Mai Thanh Lương với tôi cùng một địa phận gốc bên Việt Nam, tức địa phận gốc Bùi Chu ở miền Bắc. Sau đó ngài vào miền Trung nhập địa phận Đà Nẵng, thì tôi cũng nhập địa phận Đà Nẵng luôn. Đó là hai điểm đặc biệt. Thứ ba, ngài và tôi cùng họ Mai. Những kỷ niệm mà tôi làm việc cùng với ngài qua những sinh hoạt của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ giúp tôi có nhiều dịp gần gũi với Ngài. Khi ngài về đây thì lại cùng làm việc sát cánh với nhau rất tốt đẹp.”

“Đức Giám mục Mai Thanh Lương về làm giám mục phụ tá của giáo phận Orange cũng mười mấy năm. Thực sự thời gian của ngài lúc này đúng là thời gian ngài cần về hưu vì không được khỏe nữa… Tuổi về hưu là 75 nên ngài về hưu lúc này rất là đúng lúc.” Cha Mai Khải Hoàn nói thêm.

 

***

Giám mục Mai Thanh Lương sinh ngày 20 Tháng 12, năm 1940 tại Ninh Cường, Bùi Chu. Năm 1956, khi được 16 tuổi, ông được Đức Cha Phạm Ngọc Chi, Giám Mục Đà Nẵng gửi sang Mỹ du học và thụ phong Linh mục năm 1966 tại Buffalo cho giáo phận Đà Nẵng. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh, ông không thể về phục vụ tại Việt Nam nên tiếp tục làm việc tại Buffalo,New York.

Năm 1976, Linh mục nhập Tổng giáo phận New Orleans, tiểu bang Louisiana.

Năm 2003, Linh mục Mai Thanh Lương được Thánh Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá giáo phận Orange, tiểu bang California là giáo phận có đông tín hữu Công Giáo Việt Nam nhất tại Mỹ. Ông cũng là Giám mục gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ.

Ngày 20 Tháng 12, 2015, Tòa Thánh Vatican chính thức chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Giám mục Mai Thanh Lương.

Ngọc Lan – Người Việt

(Nguồn: Báo Người Việt)

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 10

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 10

Ngày Mồng Hai Tết – Sống Chữ Hiếu

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

CayChaLa

HotChaLa

Cây và Trái Chà Là

Hạt/Hột Chà Là

Hình 1: Hột và Trái Chà Là

     Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành.  Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu.  Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành.  Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đức Thánh Cha kêu gọi bạo vệ trẻ em và nâng đỡ các đan sĩ

Đức Thánh Cha kêu gọi bạo vệ trẻ em và nâng đỡ các đan sĩ

ĐTC 11-18-2015

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi bảo vệ các trẻ em chống lại mọi hình thức nô lệ và ngược đãi, và ngài mời gọi nâng đỡ các đan sĩ nam nữ.

Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 18-11-2015, tại Quảng trường Thánh Phêrô với sự tham dự của 20 ngàn tín hữu, ĐTC nói:

”Thứ sáu, 20-11 tới đây, là Ngày Thế giới bảo vệ các quyền của trẻ em. Nghĩa vụ của tất cả mọi người là bảo vệ các trẻ em, và đặt thiện ích của các em trên mọi tiêu chuẩn khác, để không bao giờ các em phải chịu những hình thức nô lệ và ngược đãi. Tôi cầu mong Cộng đồng quốc tế có thể quan tâm canh chừng những điều kiện sống của các trẻ em, nhất là tại những nơi các em bị các nhóm võ trang tuyển mộ; cần làm sao để có thể giúp đỡ các gia đình bảo đảm cho mỗi trẻ em nam nữ quyền được cắp sách đến trường và được giáo dục”.

Ngày Thế giới bảo vệ các quyền của trẻ em do Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20-11 năm 1989, qua việc phê chuẩn Hiệp ước quốc tế về các quyền của trẻ em.

Cũng trong buổi tiếp kiến sáng 21-11-2015 ĐTC nhắc nhở rằng:

”Ngày 21-11, Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Maria chí thánh dâng mình vào Đền Thờ. Trong dịp này, chúng ta cảm tạ Chúa vì hồng ân ơn gọi của những người nam nữ, trong các đan viện chiêm niệm và trong các am ẩn sĩ, dâng hiến cuộc sống cho Thiên Chúa. Để các cộng đồng chiêm niệm có thể chu toàn sứ mạng quan trọng trong kinh nguyện, trong thinh lặng cần cù làm việc, chúng ta đừng để họ bị thiếu sự gần gũi tinh thần và vật chất của chúng ta”. (SD 18-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm phiên khoáng đại thứ 6 và 7

Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm phiên khoáng đại thứ 6 và 7

Thượng Hội Đồng Giám Mục ngày thứ 6 và 7

VATICAN. Thứ bẩy 10-10-2015, Thượng HĐGM đã dành hai phiên khoáng đại thứ 6 và thứ 7, sáng và chiều để lắng nghe các nghị phụ phát biểu ý kiến về phần hai của Tài liệu làm việc.

Phần này mang tựa đề ”Sự phân định ơn gọi gia đình”, và đề cập tới những khía cạnh như: Chúa Giêsu và gia đình: đặc tính bất khả phân ly như hồng ân và nghĩa vụ; gia đình hình ảnh Chúa Ba Ngôi, chiều kích truyền giáo của gia đình; đặc tính bất khả phân ly của hôn phối va niềm vui sống chung, lòng từ bi thương xót đối với các gia đình bị thương: sứ mạng của Giáo Hội, v.v.

Sau hai phiên khoáng đại thứ bẩy hôm qua, chúa nhật hôm nay, 11-10, các nghị phụ được nghỉ, và trong hai ngày thứ hai và thứ ba này, các vị lại nhóm trong các nhóm nhỏ để thảo luận về phần 2 của Tài liệu làm việc.

Phúc trình của 13 nhóm

Sáng thứ sáu vừa qua, 9-10, các đại diện 13 nhóm nghị phụ đã trình bày kết quả các cuộc thảo luận nhóm về khía cạnh lắng nghe các thách đố về gia đình, tức là phần đầu của Tài liệu làm việc và đã đưa ra hơn 200 đề nghị sửa chữa phần đầu của Tài liệu này, cũng như những điểm mới cần nhấn mạnh.

– Qua phúc trình của các nhóm, người ta thấy một số nhận xét nổi bật như: phần trình bày của tài liệu làm việc nhấn mạnh nhiều quá tới những khía cạnh tiêu cực mà các gia đình ngày nay đang gặp phải, và nhiều nghị phụ đề nghị làm nổi bật hơn vẻ đẹp và sức sinh động của gia đình, bớt nói về các cuộc khủng hoảng, nhưng nói nhiều hơn về hy vọng.

 – Một nhận xét nổi bật thứ hai liên quan đến việc mục vụ gia đình: sở dĩ gia đình ngày nay bị khủng hoảng, có lẽ vì trong Giáo Hội đã có những thiếu sót trong việc giáo dục về đức tin. Theo một nghĩa nào đó, Giáo Hội phải chịu trách nhiệm về tình trạng gia đình ngày nay, vì đã có những tư tưởng hầu như ”như thời trung cổ” đối với gia đình, không phù hợp với thực tại, quá nhấn mạnh về luật lệ, qui tắc, và thiếu một cái nhìn toàn diện.

– Có vài nhóm nghị phụ nhận xét rằng lối đề cập vấn đề như trong phần I của tài liệu làm việc có tính chất quy hướng về Âu Châu, đặt nặng quá nhiều các khía cạnh tây phương, lối trình bày như thế ít thu hút và cũng có phần lộn xộn, nhất là trong việc xác định mình muốn nói với ai. Vì thế, các nghị phụ ấy muốn văn kiện chung kết của Thượng HĐGM có tính chất ”tươi mát”, rõ ràng, đơn sơ hơn, không có tính chất chuyên môn, nhưng dễ hiểu đối với tất cả mọi người”.

– Một số nhóm yêu cầu đào sâu phần trình bày lý thuyết về giống (gender Theory), đang được các thế lực quốc tế cổ võ hoặc áp đặt trong các hệ thống giáo dục tại các nước, và lý thuyết này đe dọa tương lai của hôn nhân và gia đình, vì cho rằng sự khác biệt nam nữ chỉ là kết quả của văn hóa, phong tục và giáo dục, chứ không có nền tảng sinh lý tự nhiên nào.

Nhiều nghị phụ kêu gọi tăng cường việc mục vụ cho người di dân và tị nạn, với những hệ lụy đối với đời sống gia đình của họ. Cũng vậy, cần quan tâm hơn tới những người già cả và tàn tật, các trẻ em bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ.

– Nhóm tiếng Pháp thứ hai, do ĐHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, điều hợp, đề nghị có sự can thiệp của Huấn quyền Hội Thánh để làm cho vấn đề gia đình sáng tỏ hơn về mặt thần học và giáo luật.

Nhóm thứ hai tiếng Anh, đề nghị làm sao để mỗi Giáo Hội địa phương tìm cách xác định những hoàn cảnh của những gia đình ở ngoài lề xã hội và đáp ứng về mục vụ. Nhóm nghị phụ tiếng Đức cũng nêu bật điều này là làm sao trong văn kiện chung kết của Thượng HĐGM có sự tôn trọng những đặc tù và khác biệt về văn hóa giữa lòng Giáo Hội vì cần có một phân tích và phán đoán khác nhau.

Có một số nhóm nhận xét rằng 3 tuần lễ Thượng HĐGM là thời gian quá ngắn, không đủ để cứu xét tất cả các vấn đề được nêu lên. Ngoài ra, có những nghị phụ đặt câu hỏi: không biết những cuộc thảo luận hoặc những đề nghị của mỗi nhóm, có được Ủy ban soạn văn kiện chung kết để ý tới hay không. Hoặc như Đức Cha Jean-Paul Vesco OP, người Pháp, GM giáo phận Oran bên Algérie, vốn ủng hộ việc cho các cặp ly dị tái hôn rước lễ, kêu gọi cần làm sao để Công nghị GM thế giới này không rơi vào tình trạng ”trái núi đẻ ra con chuột”! (SD 9-10-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma

ĐTC trả lời cuộc phỏng vấn của các nhà báo quốc tế trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay tử Philadelphia về Roma

Cũng như trong mọi chuyến công du khác, trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma chiều ngày 27 tháng 9 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một bài phỏng vấn dài về nhiều vấn đề khác nhau liên quan tới chuyến viếng thăm mục vụ cũng như tình hình thế giới và các vấn đề của Giáo Hội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung bài phỏng vấn này. Cha Federico Lombardi Giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, đã ngỏ lời chào ĐTC như sau: “Thưa ĐTC, xin chào mừng ĐTC đến giữa chúng con và dành thời giờ cho chúng con sau chuyến viếng thăm rất mệt nhọc đòi hỏi nhiều dấn thân. Chúng con xin bắt đầu ngay với các câu hỏi. Người đầu tiên là một chị ở đây đã viết một bài về ĐTC trên báo Times nên chị đã được chuẩn bị rất kỹ về chuyến công du của ĐTC. Chị sẽ hỏi bằng tiếng Anh và anh Matteo sẽ dịch ra tiếng Ý cho ĐTC. “

ĐTC chào các nhà báo và nói: “Xin cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Anh chị em phải chạy từ chỗ này tới chỗ nọ. Còn tôi thì ngồi ở trong xe… Xin cám ơn  anh chị em nhiều lắm.

Xin cám ơn ĐTC rất nhiều., Con là Elisabetta Dias của báo Time Magazine, Chúng con rất tò mò muốn biết: đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của ĐTC tại Hoa Kỳ. Cái gì tại Hoa Kỳ đã khiến cho ĐTC ngạc nhiên nhất, và có cái gì khác với các chờ mong của ĐTC hay không?

Đáp: Vâng, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi: tôi chưa bao giờ đến Hoa Kỳ. Điều khiến tôi ngạc nhiên đó là sự nồng ấm của dân chúng, họ thật là dễ thương: đây là một điều đẹp và cũng khác nữa. Tại Washington có một sự tiếp đón nồng nhiệt nhưng hơi hình thức một chút; tại New York thì một chút qúa mức, và tại Philadelphia thì rất rõ ràng. Ba cách thức khác nhau, nhưng cùng một sự tiếp đón. Tôi rất bị đánh động bởi lòng tốt, sự tiếp đón, và trong các lễ nghi tôn giáo bởi lòng đạo đức và sùng đạo. Người ta thấy là dân chúng cầu nguyện, và điều này đã đánh động tôi rất nhiều, nhiều lắm. Thật là đẹp!

ĐTC có nhận thấy một thách đố từ phía Hoà Kỳ mà ĐTC đã không chờ đợi không? Có vài khiêu khích nào không?

Đáp: Không. Cám ơn Chúa, không. Không. Không. Mọi sự đểu tốt đẹp. Không có khiêu khích nào. Mọi người đều rất có giáo dục, không có lời nguyền rủa nào, không có điều gì xấu xa. Không, Không. Nhưng chúng ta phải tiếp tục làm việc với dân tộc có đức tin này, như họ đã làm việc cho tới nay, đúng không? Bằng cách đồng hành với dân tộc trong tươi vui và trong những lúc khó khăn, khi không có việc làm, khi bị ốm đau… Thách đố của Giáo Hội – bây giờ thì tôi hiểu đúng – thách đố của Giáo Hội ngày nay là sống như Giáo Hội vẫn luôn luôn sống: gần gũi dân chúng, gần gũi nhân dân Hoa Kỳ. Chứ không phải một Giáo Hội cách biệt dân chúng. Không. Gần gũi, gần gũi. Và đây là một thách đố mà Giáo Hội Hoa Kỳ đã hiểu rõ, đã hiểu rõ và muốn làm.

Cha Lombardi giới thiệu nhà báo thứ hai là anh David O’Reilly của báo “Philadelphia Inquirer” là một trong các nhật báo lớn của Philadelphia. Anh hỏi

– Thưa ĐTC, Philadelphia như ĐTC biết – đã trải qua một giai đoạn xấu với các vụ lạm dụng tính dục: nó còn là một vết thương mở. Con biết có nhiều người tại Philadelphia ngạc nhiên vì trong bài nói chuyện với các Giám Mục tại Washington ĐTC đã cống hiến cho các vị sự an ủi và củng cố. Con tin rằng tại Philadelphia người ta muốn hỏi: “Tại sao ĐTC lại đã cảm thấy cần phải củng cố và an ủi các Giám Mục như vậy?

 Đáp: Tại Washington tôi đã nói chuyện với tất cả các Giám Mục Hoa Kỳ. Đã có tất cả các Giám Mục toàn nước. Tôi đã cảm thấy cần bầy tỏ sự cảm thương, bởi vì đã xảy ra một điều hết sức xấu xa, và biết bao Giám Mục đã đau khổ, bởi vì các vị đã không biết điều này, và khi chuyện bùng nổ ra, các vị đã rất là đau khổ: là các người của Giáo Hội, của cầu nguyện và chủ chăn đích thực.. Và tôi đã nói bằng cách trích sách Khải Huyền rằng tôi biết các vị “đang đến từ một nỗi khổ tâm lớn lao”. Nhưng không phải chỉ là nỗi khổ đau tình cảm: đó là điều hôm nay tôi đã nói với các người đã bị lạm dụng. Nó đã là .. tôi không nói là “một việc chối đạo”, nhưng hầu như là một việc phạm thánh! Khi… nhưng chúng ta biết là các lạm dụng tính dục xảy ra khắp nơi: trong môi trường gia đình, trong môi trường hàng xóm, trong các trường học, trong các nơi tập thể thao thể dục, khắp nơi… Nhưng khi một linh mục phạm một lạm dụng như thế, thì là điều rất nặng, bởi vì ơn gọi linh mục là làm cho đứa bé trai bé gái đó lớn lên, hướng về Thiên  Chúa, hướng tới sự trưởng thành tình cảm, hướng tới sự thiện. Thay vì làm điều đó, thì vị linh mục lại đè bẹp nó, lại làm điều dữ. Chính vì vậy mà nó như là một sự phạm thánh. Và vị linh mục đó đã phản bội ơn gọi của mình, phản bội tiếng gọi của Chúa. Vì thế Giáo Hội mạnh tay trong lúc này: không được bao che, cả những người bao che cũng có lỗi trong các chuyện này. Cả vài Giám Mục đã che dấu điều này cũng có lỗi! Đây là một điều vô cùng xấu xa. Và các lời an ủi không phải để nói rằng: “Thôi, cư yên trí, không là gì đâu!”: không, không, không! Đã là điều đó, nhưng thật là một điều xấu xa biết bao nhiêu, và tôi tưởng tượng được  anh em đã khóc biết chừng nào”: các lời nói của tôi đã ở trong nghĩa đó. Và hôm nay tôi đã nói rất mạnh.

Câu hỏi tiếp theo là của chị Maria Antonietta Collins

– Thưa ĐTC, ĐTC đã nói tới sự tha thứ, rằng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta và chúng ta thường là những người xin tha thứ. Con muốn hỏi ĐTC khi trông thấy ĐTC ở trong đại chủng viện, có rất nhiều linh mục đã phạm tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và đã không xin lỗi các nạn nhân của mình. ĐTC có tha thứ cho các vị ấy không? Và ĐTC hiểu, từ phiá bên kia, các nạn nhân và gia đình họ không tha thứ được hay không muốn tha thứ thì sao?

Đáp: Nếu một người đã hành động xấu, ý thức được điều mình đã làm và không xin lỗi, thì tôi xin Thiên Chúa giữ người đó trong sổ. Tôi tha thứ, nhưng người đó không nhận được sự tha thứ, họ bị đóng kín với ơn tha thứ rồi. Trao ban tha thứ là một chuyện, nhưng nhận được ơn tha thứ lại là chuyện khác. Và nếu vị linh mục đó đóng kín với ơn tha thứ, thì không nhận được sự tha thứ, bởi vì đã dùng khóa đóng cửa từ bên trong, và điều còn lại chỉ là cầu nguyện để Chúa mở cánh cửa đó ra. Cần phải sẵn sàng tha thứ, nhưng không phải tất cả mọi người đều nhận được nó, biết nhận nó, hay sẵn sàng nhận nó. Thật là nặng nề điều tôi đang nói.  Và điều này giải thích tại sao có người kết thúc cuộc sống mình một cách nặng nề, xấu xa, không nhận được một sự vuốt ve của Thiên  Chúa. Câu hỏi thứ hai đã là?

Đó là ĐTC có hiểu các nạn nhân và gia đình họ không thể tha thứ hay không muốn tha thứ cho tội lạm dụng đó hay không?

Đáp: Có, tôi hiểu họ, tôi cầu nguyện cho họ, và tôi không xét đoán họ. Tôi không xét đoán họ, tôi cầu nguyện cho họ. Có một lần trong các buổi họp này tôi đã gặp nhiều người khác nhau và có một bà đã hỏi tôi: “Khi mẹ chồng con, không đó đã bà…,  khi mẹ con biết là họ đã lạm dụng tính dục con, bà đã nguyền rủa Thiên Chúa, bà đã mất đức tin và đã chết như người vô thần”. Tôi hiểu người đàn bà ấy. Tôi hiểu bà ta. Và Thiên  Chúa còn tốt hơn tôi hiểu bà ấy. Tôi chắc chắn như vậy. Thiên  Chúa đã chấp nhận bà ấy. Bời vì cái đã bị rờ tới, cái đã bị tàn phá đã là chính thịt xác của bà, thịt xác của con gái bà. Tôi hiểu bà ấy. Tôi không xét đoán người nào đó không thể tha thứ. Tôi cầu nguyện và xin Thiên  Chúa, bởi vì Thiên Chúa là một người vô địch trong việc tìm một con đường hưóng tới giải pháp – tôi xin Ngài sửa nó. Xin lỗi tôi đang nói tiếng Tây Ban Nha…

Anh Andres Beltramo của hãng tin Notimex hỏi:

– Thưa ĐTC, tất cả chúng con đã nghe ĐTC nói nhiều về tiến trình hoà bình tại Colombia, giữa lực lượng FARC và chính quyền. Giờ đây đã có một thoả hiệp lịch sử. ĐTC có cảm thấy mình có một chút phần trong thỏa hiệp này không? Và ĐTC đã nói là sẽ đi Colombia, khi có được một thoả hiệp: bây giờ có nhiều người dân Colombia đang chờ đợi ĐTC… Và con có một câu hỏi nhỏ nữa: ĐTC cảm thấy gì sau một chuyến viếng thăm dầy đặc như vậy và giờ đây máy bay ra đi?

Đáp: Xin trả lời câu hỏi thứ nhất: khi tôi nhận được tin hồi tháng 3 là thỏa hiệp sẽ được ký kết, tôi đã thưa với Chúa: “Chúa ơi, xin cho chúng con tới tháng 3, và cho họ tới với ý hướng tốt đẹp này”, bởi vì còn thiếu các điều nhỏ nhặt, nhưng mà có ý chí. Từ cả hai phía. Có ý chí. Kể cả từ phía nhóm nhỏ có ý chí: cả ba lực lượng đều đồng ý. Chúng ta phải tới tháng ba, tới thoả hiệp vĩnh viễn. Đó đã là đích điểm của công lý quốc tế – như anh biết – Tôi đã vô cùng hài lòng. Và tôi đã cảm thấy mình là thành phần, trong nghĩa tôi đã luôn luôn muốn điều này, và tôi đã nói chuyện với tổng thống Santos về vấn đề này, và Tòa Thánh – chứ không phải chỉ có mình tôi – Toà Thánh rất cởi mở và trợ giúp như Toà Thánh có thể.

Câu hỏi thứ hai, nhưng điều này hơi cá nhân một chút, nhưng tôi phải thành thật. Khi máy bay rời phi trường sau chuyến viếng thăm của tôi, nhiều cái nhìn của biết bao người đến với tôi và tôi muốn cầu nguyện cho họ và thưa với Chúa: Con đã đến đây để làm một cái gì đó, đề làm điều lành. Có lẽ con đã làm điều dữ, xin tha lỗi cho con. Nhưng xin Chúa giữ gìn tất cả dân chúng đã nhìn con, dã nghĩ những điều con đã nói, đã nghe cả những lời chỉ trích con, tất cả mọi người… Tôi cảm nhận được điều đó . Tôi không biết. Nó đến như vậy. Nhưng xin lỗi nó hơi cá nhân một chút. Điều này không thể nói trên báo…

Tiếp đến là anh Thomas Jansen của hãng tin công giáo Đức

– Thưa ĐTC, con muốn hỏi một điều liên quan tới cuộc khủng hoảng di cư vào Âu châu: nhiều nước đang xây dựng các hàng rào ngăn cách mới với kẽm gai. ĐTC nói gì về tiến triển này?

Đáp: Anh đã dùng từ “cuộc khủng hoảng”. Nó trở thành một tình trạng khủng hoảng sau một tiến trình dài. Điều này đã bùng nổ từ nhiều năm nay rồi, bởi vì các chiến cuộc khiến cho dân chúng phải ra đi, phải trốn chạy, là các cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm trời. Đói: cái đói đã là cái đói từ nhiều năm rồi… Nhưng khi tôi nghĩ tới Phi Châu – điều này hơi đơn sơ quá, nhưng tôi xin nói như thí dụ – tôi nghĩ Phi châu là lục địa bị khai thác bóc lột. Và giờ đây thay vì khai thác một lục địa hay một quốc gia hoặc một vùng đất, thì đầu tư để người dân có công ăn việc làm hầu tránh được cuộc khủng hoảng này. Đúng thế, có một cuộc khủng hoảng người tỵ nạn, như tôi đã nói tại Quốc Hội Mỹ, chưa từng thấy kể từ Đệ Nhị Thế Chiến tới nay. Nó là cuộc khủng hoảng lớn nhất. Liên quan tới các hàng rào, anh biết các bức tường kết thúc như thế nào. Mọi bức tường, mọi bức tường đều sụp đổ, hôm nay, ngày mai, trong 100 năm nữa. Nhưng chúng sẽ sụp đổ. Đó không phải là một giải pháp. Bức tường không phải là một giải pháp. Trong lúc này đây Âu châu gặp khó khăn: đúng thật như thế. Chúng ta phải thông minh, bởi vì có cả làn sóng di cư tràn tới và không dễ tìm ta các giái pháp. Nhưng với sự đối thoại giữa các quốc gia, cần phải tỉm ra giải pháp. Các bức tường không bao giờ là các giải pháp. Trái lại, các cây cầu thì luôn luôn là giải pháp. Luôn luôn. Tôi không biết, điều mà tôi nghĩ về các bức tường, các hàng rào … chúng kéo dài ít lâu, không lâu, nhưng chúng không phải là một giải pháp. Vấn đề còn đó, còn đó với nhiều thù hận hơn. Đó là điều tôi nghĩ.

Anh Jean Marie Guénois, phóng viên của nhật báo Le Figaro, đại diện cho nhóm nhà báo nói tiếng Pháp hỏi ĐTC

Thưa ĐTC, chắc chắn là ĐTC không thể nói trước các cuộc thảo luận của các nghị Phụ tham dự Thượng Hộị Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình khai mạc vào đầu tháng 10 tới này. Nhưng chúng con muốn biết, trước khi Thượng Hội Đồng nhóm họp, trong con tim mục tử của mình, ĐTC có thực sự muốn có một giải pháp cho các tín hữu đã ly dị tái hôn hay không? Chúng con cũng muốn biết Tự Sắc liên quan tới việc hủy bỏ hôn nhân được dễ dàng hơn có khép lại việc thảo luận này hay không. Và sau cùng ĐTC trả lời những người sợ rằng với việc cải cách này, có việc tạo thực thụ ra một cái gọi là “ly dị công giáo” hay không?

Đáp: Tôi xin bắt đầu với câu hỏi cuối cùng. Trong việc cải tổ các vụ án hôn phối và của mô thức, tôi đã đóng cửa con đường hành chánh, qua đó việc ly dị có thể bước vào. Và có thể nói rằng những người nghĩ tới ly dị công giáo sai lầm, bởi vì tài liệu cuối cùng này đã đóng cửa cho việc ly dị đã có thể vào – nó đã dễ hơn – đối với con đường hành chánh. Sẽ luôn luôn có con đường phán xử. Liên quan tới tài liệu, tôi không nhớ nó có phải là tàì liệu thứ ba hay không. Nếu tôi sai thì xin anh sửa …

– Vâng thưa ĐTC, câu hỏi liên quan tới ý niệm “ly dị công giáo” và Tự Sắc có đóng cửa đối với việc thảo luận trong Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới về gia đình hay không?

Đáp: Đây là điều đa số các nghị Phụ đã yêu cầu trong Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi năm ngoái: đó là làm cho các vụ án được nhẹ nhàng hơn, mau chóng hơn, bởi vì có các vụ xét xử đã kéo dài cả 10-15 năm trời. Một phán quyết, rồi lại một phán quyết khác, sau đó còn có khiếu nại, và khiếu nại, rồi có một khiếu nại khác nữa, và không bao giờ chấm dứt… Hai phán quyết khi nó có giá trị và không có khiếu nại, đã do ĐGH Lambertini Biển Đúc XVI đưa ra, bởi vì tại miền Trung Âu châu – tôi không nói tên nước – đã có vài lạm dụng, và để ngăn chặn các lạm dụng này, ĐGH Biển Đức XV đã đưa ra luật ấy.  Nhưng đó không là điểu nòng cốt đối với vụ án. Các vụ án thay đổi, luật thay đổi và trở nên tốt hơn: người ta luôn luôn cải tiến tốt hơn. Trong lúc này thì cần cấp thiết làm việc ấy. Thế rồi ĐGH Pio X cũng đã khiến cho nó trở thành nhẹ nhàng hơn, và ngài đã muốn làm cái gì đó, nhưng đã không có thời giờ và khả năng thực hiện.

Các Nghị Phụ đã yêu cầu điều khiến cho các vụ án huỷ bỏ hôn nhân không thành sự được nhẹ nhàng mau chóng hơn. Và tôi dừng trên điều này. Tài liệu này, Tự Sắc này khiến cho các vụ án trong thời gian được dễ dàng hơn, nhưng nó không phải là một cuộc ly dị, bởi vì hôn nhân không thể lìa tan, khi nó là bí tích, và điều này Giáo Hội không thể thay đổi. Nó là một tín lý. Nó là một bí tích bất khả đoạn tiêu. Tiến trình luật pháp là để chứng minh rằng cái xem ra là bí tích ấy đã không phải là một bí tích: chẳng hạn vì thiếu tự do, hay thiếu trưởng thành hoặc vì tâm bệnh … có biết bao nhiêu lý do khiến cho việc nghiên cứu điều tra đi tới chỗ nói rằng: “Không, đã không có bí tích tích, chẳng hạn, bởi vì người đó đã không tự do. Xin đơn cử một thí dụ, bây giờ thì không như vậy nữa, nhưng trong một vài lãnh vực của xã hội thường xảy ra – ít nhất là tại Buenos Aires đã xảy ra – có các cuộc hôn nhân khi thiếu nữ có thai. “Quý vị phải lấy nhau”. Tại Buenos Aires, tôi đã khuyên các linh mục của tôi – rất mạnh mẽ hầu như tôi cấm các vị làm đám cưới trong các điều kiện này. Chúng tôi gọi các đám cưới đó là “các hôn nhân vội vã”, để che lấp, để cứu vãn mọi vẻ bề ngoài. Và đứa trẻ sinh ra và có vài hôn nhân xuôi chảy, nhưng không có sự tự do. Rồi nếu nó không xuôi chảy, họ chia tay… và “tôi đã bị bó buộc làm đám cưới, bởi vì tôi phải che đậy cho tình trạng này”: và đây là một trường hợp của việc hủy bỏ hôn nhân không thành. Có biết bao nhiêu lý do để huỷ bỏ hôn nhân – anh chị em có thể tìm hiểu trong Internet, có tất cả các lý do trong đó. Thế rồi có vấn đề của các hôn nhân thứ hai, của nhũng ngưòi đã ly dị nhưng lại tái lập gia đình. Anh chị em có Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, điều mà người ta thảo luận, theo tôi nó hơi quá đơn sơ một chút, khi nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục … rằng giải pháp cho các người này là họ có thể rước lễ. Đây không phải là giải pháp,  không phải là giải pháp duy nhất. Không. Điều mà Tài Liệu Làm Việc của THĐGM đề nghị thì nhiều biết bao! Nhưng cả vấn đề hôn nhân của các người đã ly dị  cũng không phải là vấn đề duy nhất. Trong Tài Liệu Làm Việc có biết bao vấn đề khác nữa. Chẳng hạn người trẻ không lấy nhau, không muốn lấy nhau. Đó là một vấn đề mục vụ đối với Giáo Hội. Có vấn đề khác là sự trưởng thành tình cảm cho hôn nhân. Có một vấn đề khác là đức tin. Tôi có tin rằng điều này là “cho luôn mãi” không?. “Vâng, vâng, vâng, tôi tin điều đó.” Nhưng tôi có tin vào điều đó không? Việc chuẩn bị hôn nhân – tôi, tôi đã nghĩ tới điều này biết bao nhiêu lần: để trở thành linh mục có việc chuẩn bị 8 năm; thế rồi nó không là điều vĩnh viễn, vì Giáo Hội có thể lấy đi tình trạng linh mục của tôi. Đối với những người lập gia đình, cho suốt cuộc đời, người ta làm bốn buổi dậy, bốn lần…? Có điều gì đó không ổn. Điều ấy Thượng Hội Đồng Giám Mục phải suy nghĩ chín chắn chuẩn bị hôn nhân như thế nào: nó là một trong những điều khó khăn nhất. Và có biết bao nhiêu vấn đề… Nhưng tất cả chúng được liệt kê trong Tài Liệu Làm Việc. Nhưng tôi thích câu anh hỏi liên quan tới “ly dị công giáo”: không, không có ly dị công giáo đâu. Hoặc nó đã không phải là hôn nhân – và điều này là tiêu hôn, hôn nhân đã không hiện hữu – mà nếu nó đã hiện hữu, thì nó không thể tan lià. Điều đó rõ ràng nhé. Xin cám ơn anh.

Tới lượt anh Terry Moran của đài ABD News, một trong các mạng lưới thông tin lớn nhất Hoa Kỳ. Anh hỏi:

Thưa ĐTC, ĐTC đã viếng thăm các Tiểu Muội người nghèo, và người ta nói với chúng con rằng ĐTC đã bầy tỏ sự ủng hộ của ĐTC đối với các chị, cả trên bình diện tư pháp nữa. Thưa ĐTC, ĐTC ủng hộ cả những người – bao gồm cả các nhân viên chính quyền – vì   lương tâm tốt lành của họ, vì lương tâm cá nhân của họ, họ nói rằng họ không tuân giữ các luật lệ xác định hay chu toàn các bổn phận của nhân viên chính phủ, chẳng hạn như ký giấy cho phép hôn nhân của các cặp đồng phái? ĐTC có ủng hộ các đòi hỏi này của quyền tự do tôn giáo không?

Đáp: Tôi không thể có trong trí tất cả các trường hợp có thể có liên quan tới sự phản kháng của lương tâm. Nhưng có, tôi có thể nói rằng sự phản kháng của lương tâm là một quyền, và nó nằm trong mọi quyền con người. Nó là một quyền, và nếu một người không cho phép thực thi việc phản kháng của lương tâm, là khước từ một quyền. Trong mọi cơ cấu tư pháp phải có quyền phản kháng của lương tâm, bởi vì nó là một quyền, một quyền con người. Ngược lại là chúng ta đi tới chỗ lựa lọc các quyền: đây là một quyền có phẩm chất, đây là một quyền không có phẩm chất, điều này…  Nó là một quyền con người. Đối với tôi xem ra luôn luôn – điều này chống lại tôi nhé – luôn luôn đã khiến tôi xúc động khi tôi còn bé – tôi đã đọc nó nhiều lần, khi tôi đọc tác phẩm “Bài ca của Roland”, khi tất cả mọi người hồi giáo xếp hàng, và trước họ có cây cột Rửa Tội, giếng Rửa Tội hay là thanh gươm, và họ phải lựa chọn. Họ dã không có quyền phản kháng lương tâm… Không, đây là một quyền, và chúng ta, nếu chúng ta muốn xây dựng hòa bình, thì phải tôn trọng tất cả mọi quyền con người!

Điều này bao gồm cả các nhân viên chính quyền có phải không ạ?

Nó là một nhân quyền. Nếu nhân viên chính quyền là một bản vị con người, thì họ có quyền đó. Nó là một nhân quyền mà.

Bây giờ tới lượt anh Stefano Maria Paci, thuộc nhóm tiếng Ý của đài Sky News

Thưa ĐTC, tại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ĐTC đã dùng các lời lẽ rất mạnh mẽ tố cáo sự thinh lặng của thế giới truớc cuộc bách hại các kitô hữu bị mất nhà cửa, bị đuổi đi, mất tài sản, bị bắt làm nô lệ và bị sát hại cách tàn bạo. Giờ đây tổng thống Hollande đã loan báo Pháp bắt đầu bỏ bom các căn cứ của Nhà nước Hồi ISIS bên Siria. ĐTC nghĩ gì về hành động quân sự này ? Thế rồi con cũng có một tò mò nữa : ông thị trưởng Marino của thành phố Roma, thành phố của Năm Thánh, đã tuyên bố rằng ông đến tham dự Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình, Thánh Lễ, vì đã được ĐTC mời. Xin ĐTC cho biết câu chuyện ra sao ?

 

Đáp : Tôi xin bắt đầu với câu hỏi cuối : Tôi đã không mời ông thị trưởng Marino. Rõ chưa ? Tôi đã không làm điều đó, và tôi đã hỏi những người tổ chức, họ cũng đã không mời ông ấy. Ông ta đã tới và tuyên xưng mình là công giáo, và đã tới một cách tự phát. Đã là như vậy. Nhưng mà rõ ràng rồi chứ ?

 

Còn câu hỏi kia, à nó liên quan tới việc bỏ bom. Đúng thật là tôi đã nhận được tin này hôm kia và tôi đã không đọc. Thật sự là tôi không biết rõ tình hình sẽ ra sao. Tôi đã nghe nói là Nga đã ở trong một vị thế, Hoa Kỳ thì chưa rõ ràng… tôi không biết phải nói với anh cái gì, thật vậy, bởi vì tôi đã không hiểu rõ câu chuyện. Nhưng khi tôi nghe từ « bỏ bom », chết, máu… mà, tôi xin lập lại điều tôi đã nói trước Quốc Hội Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc : xin tránh các điều đó, nhưng… tôi không biết, tôi không phán đoán tình hình chính trị, bởi vì tôi không hiểu biết.

 

Cha Lombardi nói : Bây giờ tới phiên chị Miriam Schmidt của Hãng thông tấn Đức. Chị hỏi :

 

Thưa ĐTC, con muốn hỏi một câu về các tương quan của Toà Thánh với Trung Quốc và về tình hình tại nước này khá khó khăn đối với Giáo Hội Công Giáo. ĐTC nghĩ gì về điều này ?

 

Đáp : Trung Quốc là một quốc gia lớn đem lại cho thế giới một nền văn hóa lớn và biết bao điều tốt đẹp. Tôi đã nói một lần trên máy bay, khi từ Đại Hàn về rằng tôi thích đi Trung Quốc : tôi yêu mến nhân dân Trung Quốc, tôi cầu chúc có thể có các khả thể liên lạc tốt… Các liên lạc tốt ! Chúng tôi đã đếm các khả thể liên lạc đó, chúng tôi đã nói về chúng… Tiến tới. Nhưng đối với tôi có một quốc gia bạn như Trung  Quốc là nước có biết bao văn hóa và biết bao khả thể làm tốt, sẽ là  một niềm vui.

 

Tiếp theo là anh Sagrario Ruiz de Apodaca Anh hỏi :

 

Thưa ĐTC, lần đầu tiên ĐTC viếng thăm Hoa Kỳ, ĐTC đã nói trước Quốc Hội, đã nói trước Hội Đồng Liên Hiệp  Quốc, đã có các buổi tắm đám đông… ĐTC có cảm thấy mạnh mẽ hơn không ? Và con cũng muốn hỏi ĐTC, bởi vì chúng con đã nghe ĐTC nói tới việc minh nhiên vai trò của các nữ tu và của chị em phụ nữ trong Giáo Hội Mỹ : chúng ta sẽ có bao giờ trông thấy phụ nữ linh mục trong Giáo Hội Công Giáo không, như vài nhóm tại Hoa kỳ yêu cầu và như xảy ra trong các Giáo Hội Kitô khác ?

 

Đáp : Vâng. Các nữ tu Hoa Kỳ đã làm các điều kỳ diệu trong lãnh vực giáo dục, trong lãnh vực sức khỏe. Nhân dân Hoa Kỳ yêu mến các nữ tu : tôi không biết họ yêu mến các linh mục cỡ nào, nhưng họ yêu mến các nữ tu, họ yêu mến các chị biết bao. Và các nữ tu rất giỏi, các chị là các phụ nữ giỏi, giỏi, giỏi.  Mỗi chị theo dòng của mình, theo các luật lệ của dòng, có các khác biệt, nhưng các chị giỏi, và vì thế tôi đã cảm thấy bó buộc phải cám ơn các nữ tu về những gì các chị đã làm. Trong các ngày này có một nhân vật quan trọng tại Hoa Kỳ đã nói với tôi rằng : « Những gì mà tôi có về văn hóa trưóc hết chính là nhờ các nữ tu. » Các nữ tu có các trường trong mọi khu phố, giầu, nghèo, các chị làm việc với người nghèo và trong các nhà thương… Còn câu hỏi thứ hai ?

 

ĐTC có cảm thấy mạnh mẽ hơn sau khi ở Hoa Kỳ, với chương trình dầy đặc và sau khi đã có sự thành công này… ?

 

Đáp : Tôi không biết là mình có thành công hay không. Nhưng tôi sợ chính mình, bởi vì nếu tôi sợ chính tôi, tôi luôn luôn cảm thấy – tôi không biết – mình yếu đuối, trong nghĩa không có quyền bính, quyền bính cũng mau qua : hôm nay có, ngày mai không có … Thật quan trọng nếu với quyền bính bạn có thể làm tốt. Và Chúa Giêsu đã định nghĩa quyền bính : quyền bính thực sự là phục vụ, làm các việc phục vụ, làm các việc khiêm tốn nhất. Tôi phải tiếp tục tiến tới trên con đường phục vụ, bởi vì tôi cảm thấy rằng tôi không làm tất cả những điều tôi phải làm. Đó là ý nghĩa mà tôi có về quyền bính.

 

Thứ ba : vấn đề các phụ nữ làm linh mục : điều đó không thể làm được. Thánh Gioan Phaolô II trong các thời gian thảo luận, sau khi đã suy nghĩ lâu dài, đã nói rõ ràng là không, không phải bởi vì các phụ nữ không có khả năng. Nhưng hãy nhìn vào Giáo Hội thì thấy  phụ nữ quan trọng hơn nam giới, bởi vì Giáo Hội là phụ nữ. « La » Chiesa chứ không phải « Il » Chiesa : Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, và Đức Mẹ quan trọng hơn các Giáo Hoàng, hơn các giám mục, hơn các linh mục. Đó là một điều mà tôi phải thừa nhận : chúng ta hơi chậm trễ trong việc soạn thảo một nền thần học về phụ nữ. Chúng ta phải tiến tới nền thần học này. Điều đó thì có, nó thật như vậy.

 

Câu hỏi sau cùng của chị Matilde Imberti, phóng viên Radio France. Chị là người cuối cùng trong danh sách các nhà báo quốc tế xin phỏng vấn ĐTC. Chị hỏi.

 

– Thưa ĐTC, tại Hoa Kỳ ĐTC đã trở thành một ngôi sao. Giáo Hoàng là một ngôi sao  có tốt cho Giáo Hội không ạ ?

 

Đáp : Giáo Hoàng phải… Chị có biết tước hiệu mà các Giáo Hoàng đã và phải sử dụng  không ? « Tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa ». Nó hơi khác với ngôi sao một chút. Các vì sao đẹp để ngằm nhìn, tôi thích nhìn các vì sao khi trời mùa hè thanh quang… Nhưng Giáo Hoàng phải là phải là « tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa. » Đúng, trong các phương tiện truyền thông người ta dùng kiểu nói này, nhưng có một sự thật khác : có biết bao nhiêu ngôi sao mà chúng ta đã thấy, nhưng rồi chúng tắt lịm và rơi rụng… Nó là một điều mau qua. Trái lại là « tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa », điều này đẹp » Nó không qua đi ! Tôi không biết… Tôi nghĩ nó như thế.

 

Kết luận bài phỏng vấn cha Lombardi đã cám ơn ĐTC về sự sẵn sàng ngài dành cho các nhà báo trong bài phỏng vấn dài 50 phút. Ngài ca ngợi sự dẻo dai của ĐTC trong chuyến viếng thăm và cả trong cuộc nói chuyện vừa qua. Và chúng ta tiếp tục theo ngài : chưa hết với chuyến công du này. Chuyến công du này kết thúc, nhưng còn Thượng Hội Đồng Giám Mục, và có biết bao nhiêu chuyện khác nữa. Và chúng ta muốn theo ĐTC với nhiều yêu thương trìu mến, qúy trọng, hy vọng trợ giúp ngài trong việc phục vụ các tôi tớ Thiên Chúa của ĐTC.

 

ĐTC nói : « Cám ơn rất nhiều công việc của  anh chị em, lòng kiên nhẫn, lòng tốt của anh chị em. Xin cám ơn. Tôi sẵn sàng… Tôi cầu nguyện cho anh chị em. Xin cám ơn sự trợ giúp của anh chị em. »

 

SD 28-9-2015

 

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Logo ngày giới trẻ 2016

VATICAN. Trong sứ điệp công bố sáng ngày 28-9-2015 nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 sẽ được cử hành cấp hoàn vũ vào cuối tháng 7 năm tới tại Cracovia, Ba Lan, TC Phanxicô mời gọi các bạn trẻ mang ngọn lửa từ bi thương xót của Chúa Kitô vào đời sống thường nhật và thực thi mỗi tháng một công việc bác ái.

Sau đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7)

 Các bạn trẻ rất thân mến,

 Chúng ta đã tới giai đoạn chót trong cuộc lữ hành tiến về Cracovia, nơi chúng ta sẽ cùng nhau cử hành Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 vào tháng 7 năm tới (2016). Hành trình dài và đòi nhiều cố gắng này được lời Chúa Giêsu hướng dẫn, rút từ ”Bài giảng trên núi”. Chúng ta đã khởi sự hành trình này hồi năm 2014, cùng nhau suy niệm về Mối Phúc thứ I: ”Phúc cho những người có tinh thần thanh bần vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Đề tài cho năm 2015 là ”Phúc cho ai có tâm hồn thanh khiết, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Trong năm đang ở trước mặt, chúng ta muốn để cho mình được Lời này soi sáng: ”Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7).

 1. Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Với chủ đề này, Ngày Quốc Tế giới trẻ Cracovia năm 2016 được tháp nhập vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, trở thành một Năm Thánh thực sự và riêng cho người trẻ trên bình diện thế giới. Đây không phải là lần đầu tiên Đại hội giới trẻ quốc tế trùng vào một Năm Thánh. Thực vậy, chính trong Năm Thánh Cứu Độ 1983/1984, thánh Gioan Phaolô 2 đã triệu tập lần đầu tiên các bạn trẻ toàn thế giới vào Chúa Nhật Lễ Lá. Rồi trong Đại Năm Thánh 2000, hơn 2 triệu người trẻ từ 165 quóc gia đã họp mặt tại Roma để cử hành Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 15. Như đã xảy ra trong 2 trường hợp trước đây, tôi chắc chắn rằng Năm Thánh giới trẻ ở Cracovia sẽ là một trong thời điểm nổi bật của Năm Thánh này!

 Có sẽ vài người trong các bạn tự hỏi: ”Năm Thánh này được cử hành trong Giáo Hội là gì? Sách Lêvi đoạn thứ 25 giúp hiểu ”Năm Vui Mừng đối với dân Israel có nghĩa là gì? Cứ 50 năm, người Do Thái thổi kèn hân hoan (jobel) triệu tập họ (jobil) cử hành một năm thánh, như một thời kỳ hòa giải (jobal) đối với tất cả mọi người. Trong thời kỳ này, người ta phải phục hồi quan hệ tốt với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên, dựa trên tinh thần nhưng không. Vì thế, trong số các vấn đề, người ta cổ võ sự tha thứ nợ nần, đặc biệt trợ giúp những ai lâm vào tình trạng lầm than, cải tiến các quan hệ giữa con người với nhau và giải phóng những người nô lệ. Chúa Giêsu Kitô đã đến để loan báo và thực hiện thời đại vĩnh cửu của ơn Chúa, mang đến cho người nghèo tin vui, sự giải thoát cho các tù nhân, cho người mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được tự do (Xc Lc 4,18-19). Nơi Ngài, nhất là trong Mầu Nhiệm Vượt qua, ý nghĩa thâm sâu nhất của Năm Thánh được viên mãn. Khi Giáo Hội nhân danh Chúa Kitô tuyên bố Năm Thánh, tất cả chúng ta đều được mời gọi cống hiến dồi dào các dấu chỉ sự hiện diện và sự gần gũi của Thiên Chúa, thức tỉnh nơi các tâm hồn khả năng nhìn điều thiết yếu. Đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ”là thời kỳ để Giáo Hội tìm lại ý nghĩa sứ mạng mà Chúa đã ủy thác trong Ngày Phục Sinh: đó là trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa Cha” (Bài giảng Kinh Chiều I Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, 11-4-2015)

 2. Thương Xót như Chúa Cha

 Khẩu hiệu Năm Thánh đặc biệt này là ”Thương xót như Chúa Cha” (Xc Misericordiae Vultus, 13), và chủ đề Ngày Quốc Tế giới trẻ lần tới cũng tương ứng với chủ đề của Năm Thánh. Vì thế chúng ta tìm cách hiểu rõ hơn ý nghĩa lòng thương xót của Chúa. Để nói về lòng thương xót, Cựu Ước dùng nhiều từ ngữ khác nhau, trong đó những từ ý nghĩa nhất là hesed và rahamim. Từ thứ nhất được áp dụng cho Thiên Chúa, diễn tả lòng trung tín không ngừng của Ngài đối với giao ước cùng dân Ngài, Dân mà Ngài yêu thương và tha thứ mãi mãi. Từ thứ hai, rahamim, có thể được dịch là ”lòng”, đặc biệt nhắc nhớ cung lòng người mẹ và làm cho chúng ta hiểu tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài như tình thương của một người mẹ đối với con mình. Ngôn sứ Isaia diễn tả điều ấy với chúng ta: ”Một phụ nữ lại quên con mình đến độ không cảm động vì người con từ lòng mình sao? Cho dù họ có quên đi nữa, Ta sẽ không bao giờ quên con” (Is 49,15). Một tình yêu thuộc loại này bao hàm việc dành chỗ cho tha nhân ở trong lòng mình, cảm thấy, chịu đau khổ và vui mừng với tha thân. Trong ý niệm Kinh Thánh về lòng thương xót cũng bao hàm một tình yêu cụ thể, trung thành, nhưng không và biết tha thứ. Trong đoạn này của ngôn sứ Osean, chúng ta có một thí dụ rất đẹp về tình yêu Thiên Chúa, được so sánh với tình thương của một người cha đối với con mình: ”Khi Israel còn là một trẻ nhỏ, Ta đã thương yêu nó và đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập, nhưng hễ Ta càng gọi thì chúng càng xa Ta; […] Ta đã tập cho Efraim bước đi, Ta cầm tay nó, nhưng chúng không hiểu rằng Ta đã chăm sóc chúng. Ta đã lôi kéo chúng bằng những mối liên hệ nhân nghĩa, bằng những liên hệ ân tình, đối với chúng Ta như người nâng một đứa bé áp vào má, Ta cúi mình trên nó để đút nó ăn” (Hs 11,1-4). Mặc dù thái độ sai lầm của đứa con, đáng bị trừng phạt, nhưng tình yêu của người cha trung tín và luôn tha thứ cho người con thống hối. Như chúng ta thấy, trong lòng thương xót luôn kèm theo sự tha thứ; lòng thương xót không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một thực tại cụ thể qua đó Chúa bày tỏ tình thương của Ngài như tình thương của một người cha và một người mẹ cảm động đến tận thâm tâm vì người con mình. […] Lòng thương xót đến từ thẳm sâu tâm hồn như một tình cảm sâu đậm, tự nhiên, đầy dịu dàng và cảm thương, nhân nhượng và tha thứ” (Misericordiae Vultus, 61).

 Tân Ước nói với chúng ta về lòng thương xót của Chúa (eleos) như tổng hợp ”công trình mà Chúa Giêsu đã đến để thực hiện trong trần thế nhân danh Chúa Cha” (Xc Mt 9,13). Lòng thương xót của Chúa chúng ta được biểu lộ trên hết khi Ngài cúi mình trên sự lầm than của con người và chứng tỏ sự cảm thương của Ngài đối với người cần được cảm thông, chữa lành và tha thứ. Trong Chúa Giêsu tất cả đều nói về lòng thương xót. Đúng hơn, chính Chúa là lòng thương xót. Trong chương 15 của Tin Mừng Luca, chúng ta có thể thấy 3 dụ ngôn về lòng thương xót: dụ ngôn con chiên lạc, dụ ngôn đồng tiền bị mất, và dụ ngôn được biết đến như ”dụ ngôn người con trai hoang đàng”. Trong 3 dụ ngôn ấy, điều gây ấn tượng mạnh cho chúng ta là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui mà Ngài cảm thấy khi tìm lại một người tội lỗi và tha thứ cho họ. Đúng vậy, niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ! Ở đây có tổng hợp toàn thể Tin Mừng. ”Mỗi người chúng ta là con chiên lạc, là đồng tiền bị mất; mỗi người chúng ta là người con trai hoang đàng đã làm hư mất tự do của mình ”khi theo những thần tượng giả dối, những ảo ảnh hạnh phúc, và đã mất tất cả. Nhưng Thiên Chúa không quên chúng ta, Chúa Cha không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài là người cha kiên nhẫn, luôn chờ đợi chúng ta! Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, nhưng luôn trung tín. Và khi chúng ta trở về cùng Ngài, Ngài đón nhận chúng ta như những người con, trong nhà Ngài, vì không bao giờ Ngài ngừng chờ đợi chúng ta với tình yêu thương, dù là một lúc. Và con tim của Ngài vui mừng vì mỗi người con trở về. Con tim Ngài mừng rỡ vì Ngài hân hoan. Thiên Chúa có niềm vui ấy, khi một trong chúng ta là những kẻ tội lỗi đến cùng Ngài và xin lỗi” (Angelus 15-9-2013).

 Lòng thương xót của Thiên Chúa rất cụ thể và tất cả chúng ta được kêu gọi đích thân cảm nghiệm. Khi tôi 17 tuổi, một hôm phải đi với các bạn, tôi đã quyết định ghé vào một nhà thờ trước. Tại đó tôi đã thấy một linh mục mở tâm hồn tôi trong tòa giải tội. Cuộc gặp gỡ ấy đã thay đổi đời tôi! Tôi đã khám phá thấy rằng khi chúng ta cởi mở tâm hồn với lòng khiêm tốn và minh bạch, chúng ta có thể chiêm ngắm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi đã xác tín rằng nơi con người của vị linh mục ấy, Thiên Chúa đang chờ đợi tôi, trước khi tôi đi bước đầu để đến nhà thờ. Chúng ta tìm Chúa, nhưng chính Chúa luôn đi trước chúng ta, Ngài luôn tìm kiếm chúng ta, và thấy chúng ta trước. Có lẽ có người trong chúng ta có một gánh nặng trong tâm hồn và nghĩ: tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều kia. Các bạn đừng sợ! Chúa đang chờ đợi các bạn! Chúa là Cha, Ngài luôn chờ đợi chúng ta! Thật là đẹp dường nào khi gặp trong bí tích hòa giải vòng tay thương xót của Chúa Cha, khám phá tòa giải tội như nơi chốn của lòng Thương Xót, để cho mình được tình thương từ bi của Chúa đánh động, Đấng luôn tha thứ cho chúng ta!

 Còn bạn, hỡi người bạn trẻ, nam và nữ, bạn chẳng bao giờ thấy cái nhìn yêu thương vô biên đặt trên bạn sao, cái nhìn yêu thương vượt lên trên mọi tội lỗi, giới hạn, thất bại của bạn, và tiếp tục tín nhiệm bạn và nhìn cuộc sống của bạn với niềm hy vọng sao? Bạn có ý thức về giá trị của bạn trước mặt một Thiên Chúa, vì yêu thương, đã ban cho bạn tất cả sao? Như thánh Phaolô đã dạy chúng ta, ”Thiên Chúa chúng tỏ tình thương của Ngài đối với chúng ta qua sự kiện, khi chúng ta còn là ngừơi tội lỗi, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,8). Nhưng chúng ta có thực sự hiểu sức mạnh của những lời ấy không? Tôi biết thánh giá Giới Trẻ thật là quí giá đối với các bạn, thánh giá này là món qua của thánh Gioan Phaolô 2 và ngay từ năm 1984 đã tháp tùng tất cả cuộc gặp gỡ thế giới của các bạn. Bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu cuộc hoán cải chân thành và đích thực đã nảy sinh trong cuộc sống của bao nhiêu bạn trẻ từ cuộc gặp gỡ với thánh giá trơ trụi ấy! Đây là câu trả lời: thánh giá là dấu chỉ hùng hồn nhất về lòng thương xót của Thiên Chúa! Thánh gia làm chứng cho chúng ta về mức độ tình thương của Thiên Chúa đối với ”nhân loại là yêu thương vô biên! Trong thánh giá, chúng ta có thể động chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa và để cho mình được chính lòng thương xót động chạm đến! Ở đây tôi muốn nhắc đến giai thoại 2 kẻ bất lương bị đóng đanh cạnh Chúa Giêsu: một người ngạo mạn, không nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, chế nhạo Chúa. Trái lại người khác nhìn nhận mình đã lầm lỗi, ngỏ lời với Chúa và nói: ”Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến con khi Ngài vào trong Nước của Ngài. Chúa Giêsu nhìn ông ta với lòng thương xót vô biên và trả lời ông: ”Ngày hôm nay, anh sẽ được ở cùng tôi trên thiên đàng” (Xc Lc 23,32.39-43). Chúng ta đồng hóa mình với ai trong hai người ấy? Với kẻ ngạo mạn và không nhìn nhận lỗi lầm của mình ư? Hay là với người kia, nhìn nhận mình cần lòng thương xót của Chúa và khẩn cầu với tất cả tâm hồn? Nơi Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì chúng ta trên thánh giá, chúng ta luôn tìm được tình yêu vô điều kiện, nhìn nhận cuộc sống chúng ta như một thiện ích và luôn ban cho chúng ta cơ hội bắt đầu lại.

 3. Niềm vui đặc biệt được là dụng cụ lòng thương xót của Chúa

 Lời Chúa dạy chúng ta rằng ”Cho đi thì phúc hơn là nhận lãnh” (Cv 20,35). Chính vì lý do đó, Mối Phúc thứ 5 tuyên bố: phúc cho những người có lòng thương xót. Chúng ta biết rằng Chúa yêu thương chúng ta trước. Nhưng chúng ta chỉ thực sự có phúc, hạnh phúc, nếu chúng ta đi vào lý luận của Thiên Chúa về việc trao tặng, theo tiêu chuẩn tình yêu nhưng không, nếu chúng ta khám phá rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô biên để làm cho chúng ta có thể yêu mến như Ngài, vô giới hạn. Như thánh Gioan đã nói: ”Hỡi các con rất quí mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu là bởi Thiên Chúa: ai yêu thương, thì được sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. [..] Tình yêu hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Ngài như hy tế đền tội cho chúng ta. Hỡi các con rất quí mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, cả chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,7-11).

 Sau khi đã giải thích một cách rất tóm tắt cách thức Thiên Chúa thực thi lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta, tôi muốn đề nghị với các bạn cách thức cụ thể để chúng ta có thể trở thành dụng cụ của lòng thương xót của Chúa đối với tha nhân.

 Tôi nghĩ đến gương của chân phước Piergiorgio Frassati. Người đã nói: ”Chúa Giêsu viếng thăm tôi mỗi buổi sáng trong khi rước lễ, tôi viếng thăm đáp lễ Ngài một cách nghèo nàn mà tôi có thể, khi viếng thăm những người nghèo”. Piergiorgio là một người trẻ đã hiểu thế nào là có một con tim từ bi, nhạy cảm đối với những người túng thiếu nhất. Người trao tặng họ hơn cả những điều vật chất; Người tặng họ chính bản thân mình, dành cho họ thời giờ, lời nói, khả năng lắng nghe. Piergiorgio phục vụ người nghèo một cách rất kín đáo, không bao giờ tỏ cho người khác thấy. Người sống thực lời dạy của Phúc Âm: ”Trong khi con làm phúc, tay trái đừng biết việc tay phải của con làm, để việc làm phúc của con ở trong vòng kín đáo” (Mt 6,3-4). Các bạn hãy nghĩ rằng một ngày trước khi qua đời, vì bị bệnh nặng, Piergiorgio còn căn dặn về cách thức giúp đỡ những người bạn nghèo túng của mình. Trong lễ an táng, thân nhân và các bạn hữu kinh ngạc vì thấy sự hiện diện của bao nhiêu người nghèo mà họ không biết, những người nghèo ấy đã được thanh niên Piergiorgio quan tâm và giúp đỡ.

 Tôi luôn thích liên kết các Mối Phúc của Tin Mừng với chương thứ 25 của Phúc Âm theo thánh Mathêu, khi Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta những công việc từ bi và nói rằng chúng ta sẽ bị phán xét dựa trên các công việc ấy. Vì thế tôi mời gọi các bạn hãy tái khám phá những công việc bác ái về thể lý: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần trụi y phục, đón tiếp những người ngoại kiều, giúp đỡ các bệnh nhân, viếng thăm những người bị cầm tù, chôn kẻ chết. Và chúng ta đừng quên những công việc bác ái tinh thần: khuyên bảo kẻ ngờ vực, giảng dạy kẻ dốt nát, cảnh giác kẻ có tội, an ủi kẻ sầu muộn, tha thứ những xúc phạm, kiên nhẫn chịu đựng những người làm phiền ta, cầu xin Chúa cho kẻ sống và kẻ chết. Như các bạn thấy, lòng từ bi thương xót không phải là thái độ xề xòa cái gì cũng tốt, và cũng chẳng phải là tình cảm ủy mị. Ở đây có một sự kiểm chứng xem chúng ta có phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không, chúng ta có đáng tín nhiệm trong tư cách là Kitô hữu trong thế giới ngày nay hay không?

 Với các bạn trẻ là những người rất cụ thể, tôi đề nghị trong 7 tháng đầu của năm 2016, mỗi tháng các bạn hãy chọn một công việc từ bi bác ái thể lý và tinh thần để thực thi. Hãy để cho kinh nguyện của thánh nữ Faustina soi sáng, thánh nữ là tông đồ lòng thương xót của Chúa trong thời đại chúng ta ngày nay:

 ”Lạy Chúa, xin giúp con làm cho đôi mắt con trở nên từ bi, làm sao để con không bao giờ nuôi dưỡng ngờ vực và không xét đoán theo những vẻ bề ngoài, nhưng biết nhận ra điều đẹp đẽ trong tâm hồn tha nhân và trợ giúp họ (..).

 Xin làm cho thính giác của con từ bi, để con cúi mình trên những nhu cầu của tha nhân, cho đôi tai con không dửng dưng đối với những đau khổ và tiếng rên xiết của tha nhân (..)

 Xin làm cho lưỡi con được từ bi và không bao giờ nói xấu người khác, nhưng có một lời an ủi và tha thứ đối với mỗi người (…).

 Xin làm cho đôi tay con từ bi và đầy những hành động tốt (..) cho đôi chân con từ bi, để con luôn chạy đến giúp đỡ tha nhân, chiến thắng sự lười biếng và mệt mỏi của con (…)

 Xin làm cho tâm hồn con từ bi, để con tham phần vào mọi đau khổ của tha nhân (Nhật ký 163).

 Vì thế sứ điệp Lòng thương xót của Chúa trở thành một chương trình sống rất cụ thể và yêu sách, vì bao hàm những công việc. Và một trong những công việc từ bi hiển nhiên nhất, nhưng có lẽ thuộc vào số những việc khó thực hành nhất, đó là tha thứ cho người đã xúc phạm tới chúng ta, người ta gây điều ác cho chúng ta, những người mà chúng ta coi là kẻ thù. ”Bao nhiêu lần tha thứ dường như là điều khó khăn dường nào! Nhưng tha thứ chính là dụng cụ được đặt trong bàn tay yếu đuối của chúng ta để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn. Từ bỏ sự oán hận, giận dữ, bạo lực và trả thù, chính là những điều kiện cần thiết để sống hạnh phúc” Dung mạo thương xót, 9).

 Tôi gặp bao nhiêu người trẻ nói mình mệt mỏi vì thế giới đang chia rẽ dường nào, trong đó các phe đụng độ nhau, bao nhiêu là chiến tranh, và có cả những kẻ dùng tôn giáo của mình để biện minh cho bạo lực. Chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta được từ bi thương xót với những kẻ làm điều ác cho chúng ta. Như Chúa Giêsu trên thánh giá đã cầu nguyện cho những kẻ đã đóng đinh Ngài: ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Con đường duy nhất để chiến thắng sự ác chính là lòng từ bi thương xót. Công lý là cần thiết, nhưng tự nó không đủ. Công lý và từ bi phải đi song đôi với nhau. Tôi mong ước dường nào cho tất cả chúng ta được hiệp nhất trong một kinh nguyện chung, từ thâm tâm chúng ta, khẩn cầu xin Chúa thương xót chúng ta và toàn thế giới!

 4. Cracovia đang chờ đợi chúng ta!

 Chỉ còn vài tháng nữa là đến cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Ba Lan. Cracovia, thành phố của thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina Kowalska, đang chờ đợi chúng ta với vòng tay và con tim rộng mở. Tôi tin rằng Chúa Quan Phòng đã hướng dẫn chúng ta cử hành Năm Thánh giới trẻ tại đó, nơi hai vị đại tông đồ lòng thương xót của Chúa thời nay đã sống. Đức Gioan Phaolô 2 đã trực giác thấy rằng đây là thời đại của lòng thương xót. Vào đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài, ngài đã viết thông điệp ”Thiên Chúa giàu lòng xót thương”. Trong Năm Thánh 2000, ngài đã phong thánh cho nữ tu Faustina, và thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa, vào chúa nhật thứ hai Phục Sinh. Và năm 2002, ngài đã đích thân khánh thành tại Cracovia Đền thánh Chúa Giêsu Thương xót, phó thác thế giới cho lòng Thương Xót của Chúa và cầu mong sứ điệp này đi tới tất cả mọi người trên trái đất và được tràn đầy niềm hy vọng trong tâm hồn. Cần thông truyền cho thế giới ngọn lửa thương xót ấy. Trong lòng thương xót của Chúa, thế giới sẽ tìm được an bình, và con người tìm được hạnh phúc!” (Bài giảng lễ cung hiến Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa ở Cracovia, 17-8-2002).

 Các bạn trẻ rất thân mến, Chúa Giêsu thương xót, được họa trong bức ảnh mà dân Chúa tôn kính ở Đền thánh Cracovia dâng kính Ngài, đang chờ đợi các bạn. Chúa tín nhiệm và chờ đợi các bạn! Chúa có bao nhiêu là điều quan trọng để nói với mỗi người các bạn.. Đừng sợ ngắm nhìn đôi mắt đầy tình thương vô biên của Ngài đối với các bạn và hãy để cho cái nhìn thương xót của Chúa đi tới các bạn, Người sẵn sàng tha thứ tội lỗi của các bạn, một cái nhìn có khả năng thay đổi cuộc đời của các bạn và chữa lành những vết thương trong tâm hồn các bạn, một cái nhìn thỏa mãn khát vọng sâu xa trong tâm hồn trẻ trung của các bạn:

 ”Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!”. Các bạn hãy để cho lòng thương xót vô biên của Chúa đánh động để trở thành những tông đồ của lòng thương xót qua các công việc, lời nói và kinh nguyện, trong thế giới chúng ta bị thương vì lòng ích kỷ, oán thù và bao nhiêu điều tuyệt vọng. Hãy mang ngọn lửa tình thương xót của Chúa Kitô mà thánh Gioan Phaolô 2 đã nói, vào trong các môi trường đời sống thường nhật của các bạn và cho đến tận bờ cõi trái đất. Trong sứ mạng này, tôi tháp tùng các bạn bằng những lời cầu chúc và kinh nguyện, tôi phó thác tất cả các bạn cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Từ Bi thương xót, trong giai đoạn chót của hành trình chuẩn bị tinh thần cho Ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới tại Cracovia. Tôi thành tâm chúc lành cho tất cả các bạn.

 Vatican ngày 15 tháng 8 năm 2015

 Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời

 Phanxicô

 G. Trần Đức Anh OP, dịch từ nguyên bản tiếng Ý

Ngày cuối cùng của ĐTC tại Cuba và ngày đầu tiên trên đất Mỹ

Ngày cuối cùng của ĐTC tại Cuba và ngày đầu tiên trên đất Mỹ

Tổng thống Barack Obama nói chuyện với ĐTC trong lễ nghi tiếp đón tại khuôn viên Tòa Bạch Ốc

MỤC: THEO GÓT (TG765)

Tường thuật sinh hoạt cuối cùng của ĐTC tại Cuba và lễ nghi tiếp đón ĐTC tại Washington DC.

Như chúng tôi đã loan báo trong các buổi phát hôm qua, trong ngày 22 tháng 9 sau thánh lễ cử hành lúc 8 giờ sáng tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, ĐTC đã đi xe đến nhà thờ chính tòa cách đền thánh 19 cây số để gặp gỡ các gia đình. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong hình thức một buổi cử hành Lời Chúa.

ĐTC đã vào nhà thờ chính tòa qua cửa sau và đi thẳng đến bàn thờ. Sau lời chào của ĐTGM Garcia Ibánhez là chứng từ của một gia đình Cuba. Giảng sau Phúc Âm kể lại phép lạ hóa nước thành rượu ngon tại tiệc cưới làng Cana, ĐTC đã khích lệ mọi người  săn sóc, che chở gia đình và đồng hành với nó. Vì gia đình không phải là một vấn đề, nhưng là một cơ may, một phước lành cho từng người, cho xã hội và cho toàn nhân loại.

Sau khi cám ơn các gia đình và toàn dân Cuba vì sự tiếp đón chân tình và nồng nhiệt, khiến cho ngài cảm thấy được sống trong bầu khí gia đình ấm cúng như ở nhà trong suốt mấy ngày viếng thăm Cuba, ĐTC quảng diễn ý nghĩa sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới làng Cana. Ngài nói: Các lễ cưới là những thời điểm đặc biệt trong cuộc sống của nhiều người. Đối với những người cao niên hơn, ông bà cha me, thì đó là một dịp để gặt hái kết qủa việc gieo vãi. Nó trao ban niềm vui cho tâm hồn, khi trông thấy con cái lớn lên và có thể thành lập gia đình riêng. Nó là cơ may trông thấy trong một lúc tất cả những gì người ta đã tranh đấu và nó đáng công. Đồng hành với con cái, nâng đỡ chúng, khích lệ chúng, để chúng có thể quyết định xây dựng cuộc sống của chúng, thành lập gia đình, là một nhiệm vụ cao cả của các bậc cha mẹ. Rồi tới lượt họ, các đôi vợ chồng trẻ này sống trong niềm vui. Tất cả tương lai bắt đầu. Và tất cả có “mùi vị” của ngôi nhà mới, của niềm hy vọng. Trong các đám cưới luôn luôn gặp gỡ nhau quá khứ mà chúng lãnh nhận như gia tài và tương lai chờ đón chúng ta. Luôn luôn mở ra cơ may cám ơn vì tất cả những gì đã cho phép chúng ta đạt tới ngày nay với chính tình yêu mà chúng ta đã nhận lãnh.

Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài trong một đám cưói, trong một gia đình

Và Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài trong một đám cưới. Ngài tự tháp nhập vào lịch sử này của việc gieo vãi và gặt hái, của các giấc mơ và tìm tòi, của các cố gắng và dấn thân, của các công việc mệt nhọc đã cầy xới đất đai để sinh hoa kết quả. ĐTC giải thích thêm như sau:

Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài bên trong một gia đình, bên trong một cộng đoàn gia đình. Chính trong lòng các gia đình của chúng ta mà Ngài tiếp tục tự tháp nhập vào, tiếp tục là thành phần. Ngài thích ở trong gia đình.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói : Thật là hay, khi quan sát thấy Chúa Giêsu cũng tự biểu lộ trong các bữa ăn chiều. Ăn với nhiều người khác nhau, viếng thăm các nhà khác nhau, đối với Chúa Giêsu, đã là một nơi đặc biệt ưa thích để làm cho người ta hiểu biết  chương trình của Thiên  Chúa. Ngài đến nhà các bạn hữu – Marta và Maria – nhưng không lựa chọn, không quan trọng đối với Ngài nếu có các người biệt phái hay người tội lỗi, như ông Dakêu. Ngài không chỉ hành động như thế, nhưng khi gửi các môn đệ đi loan báo tin vui Nước Thiên Chúa, Ngài nói với các vị : « Các con hãy ở lại trong nhà đó, ăn uống những gì họ có » (Lc 10,7). Các đám cưới, các cuộc thăm viếng các gia đình, các bữa ăn chiều, cái gì đặc biệt trong các thời điểm này của cuộc sống con người, bởi vì Chúa Giêsu ưa thích tự biểu lộ trong đó.

Tôi nhớ trong giáo phận trưóc của tôi có nhiều gia đình giải thích cho tôi rằng thời điểm duy nhất họ có để sống với nhau thường là bữa ăn chiều, khi họ đi làm việc về, và các trẻ em làm bài tập ở trường xong. Đó đã là một lúc đặc biệt của cuộc sống gia đình. Người ta bình luận ngày sống, điều mỗi người đã làm, người ta dọn dẹp nhà cửa, quần áo, tổ chức các việc làm chính cho các ngày tiếp theo, con nít cãi nhau… đó là thời điểm. Đó là các thời điểm, trong đó một người đi làm việc về, cả mệt nhọc nữa, và có vài cãi vã, tranh luận, xảy ra vài cãi vã giữa vợ chồng, nhưng không có gì phải sợ. Tôi sợ những cặp vợ chồng nói với tôi rằng họ không bao giờ cãi nhau hay tranh luận với nhau: hiếm, hiếm lắm. Nhưng Chúa Giêsu lựa chọn các lúc ấy để chỉ cho chúng ta thấy tình yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu lựa chọn các khoảng không đó để bước vào trong các nhà và giúp chúng ta khám phá ra Thần Khí sống và hành động trong các nhà và trong các sự việc thường ngày của chúng ta. Chính trong nhà mà chúng ta học sống tình huynh đệ, chúng ta học sống tình liên đới, chúng ta học không độc tài. Chính trong nhà mà chúng ta học tiếp đón và đánh giá cao cuộc sống như một phước lành, và mỗi người cần các người khác để tiến tới. Chính trong nhà mà chúng ta sống kinh nghiệm sự tha thứ, và chúng ta đuợc mời gọi tha thứ liên tục, để cho mình được biến đổi. Thật là hay, khi thấy trong nhà không có chỗ cho các « mặt nạ », chúng ta là điều chúng ta là, và trong một cách này hay cách khác, chúng ta được mời gọi tìm điều tốt đẹp nhất cho các người khác.

Gia đình là giáo hội tại gia

Chính vì thế cộng đoàn kitô gọi các gia đình là các giáo hội tại gia, bởi vì chính trong hơi ấm của nhà mà đức tin thấm nhập mọi góc cạnh cuộc sống, soi sáng mọi không gian, xây dựng cộng đoàn. Vì chính trong các thời điểm như thế con người đã bắt đầu khám phá ra tình yêu thương cụ thể và hoạt động của Thiên Chúa.

ĐTC nói thêm trong bài giảng thánh lễ tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng : Trong nhiều nền văn hóa ngày nay, các khoảng không đó đang biến mất, các thời điểm gia đình đó đang biến mất, từ từ tất cả hướng tới chỗ tách rời nhau, tự cô lập, thưa dần đi các thời điểm chung, để hiệp nhất với nhau, để ở trong gia đình. Và như thế người ta không biết chờ đợi, không biết xin phép, không biết xin lỗi, không biết cám ơn nữa, bởi vì nhà trở nên trống rỗng, không phải trống rỗng người, nhưng trống rỗng các tương quan, trống rỗng các tiếp xúc nhân bản, trống rỗng các cuộc gặp gỡ, giữa cha mẹ ông bà, cháu chắt, anh em… Cách đây ít lâu có một người làm việc với tôi kể rằng vợ ông và các con đi nghỉ hè và ông ở nhà một mình, vì ông phải làm việc trong các ngày đó. Ngày đầu tiên nhà vắng lặng « bình an », ông hạnh phúc vì không có gì vô trật tự. Ngày thứ ba khi tôi hỏi ông ra sao, thì ông trả lời : « Con muốn tất cả họ trở về ». Ông cảm nhận rằng không thể sống mà không có vợ con. Và đây là diều đẹp, đẹp. ĐTC quảng diễn thêm sự cần thiết của gia đình trong cuộc sống chúng ta như sau :

Không có  gia đình, không có hơi ấm của nhà, cuộc sống trở thành trống rỗng, bắt đầu thiếu các mạng lưới nâng đỡ chúng ta trong các khó khăn, các mạng lưới dưỡng nuôi chúng ta trong cuộc sống thường ngày và động viên cuộc chiến đấu cho thịnh vượng. Gia đình cứu chúng ta khỏi hai hiện tượng, hai điều xảy ra ngày nay: sự gẫy vụn, nghĩa là sự chia rẽ, và đám đông hoá. Trong cả hai trường hợp con người biến thành các cá nhân cô lập, dễ bị lèo lái và cai trị. Và khi đó chúng ta tìm thấy trong thế giới xã hội các chia rẽ, các đổ vỡ, các chia ly hay việc đám đông hóa cao độ, là các hậu quả của sự đổ bể của các mối dây gia đình; khi mất đi các tương quan khiến cho chúng ta trở thành con người, dậy chúng ta là người. Và như thế một người quên nói: cha, má, con trai, con gái, ông nội, bà ngoại… như thế nào. Người ta mất ký ức về các liên lạc này là nền tảng cuộc sống. Chúng là nên tảng tên gọi mà chúng ta có.

Gia đình là trường dậy tính nhân bản, trường dậy lưu tâm tới các nhu cầu của tha nhân, chú ý tới cuộc sống của người khác. Khi chúng ta sống tốt trong gia đình, các ích kỷ nhỏ -- chúng có, bởi tất cả chúng ta đều ít nhiều ích kỷ -- nhưng khi người ta không sống một cuộc sống gia đình, thì sinh ra những người, mà chúng ta có thể định nghĩa như thế này: “tôi chủ từ, tôi trợ động từ, tôi trạng từ, với tôi, cho tôi” hoàn toàn tập trung nơi chính mình, không biết tới tình liên đới, huynh đệ, công việc chung, tình yêu thương, việc thảo luận với các anh chị em khác. Họ không biết tới những điều đó. Tuy có nhiều khó khăn gây đau buồn cho các gia đình của chúng ta trên thế giới ngày nay, nhưng chúng ta làm ơn đừng quên điều này, và ĐTC gióng lên lời kêu gọi sau đây:

Các gia đình không phải là một vấn đề nhưng là một cơ may và là một phước lành

Các gia đình không phải là một vấn đề, nhưng trước hết chúng là một cơ may. Một cơ may mà chúng ta phải săn sóc, che chở và đồng hành. Đây là một kiểu để nói rằng các gia đình là một phước lành. Khi bạn bắt đầu sống gia đình như là một vấn đề, thì bạn mỏi mệt, không bước đi nữa, bởi vì bạn hoàn toàn tập trung nơi chính bạn.

Ngày này người ta thảo luận nhiều về tương lai, về thế giới nào chúng ta muốn để lại cho con cháu chúng ta, về xã hội nào chúng ta muốn cho chúng. Tôi tin rằng có thể tìm ra một trong những câu trả lời, khi nhìn gia đình đã chia sẻ chứng từ với chúng ta, từng người trong chúng ta: chúng ta muốn dể lại một thế giới của các gia đình. Đó là gia tài tốt đẹp nhất: chúng ta để lại một thế giới của gia đình. Chắc chắn là không có gia đình nào hoàn hảo cả, không có các đôi vợ chống hoàn hảo, cha mẹ hoàn hảo, cũng không có các con cái hoàn hảo, và nếu không gây xúc phạm,  thì tôi cũng nói không có các mẹ chồng, mẹ vợ nào hoàn hảo cả. Không có. Không có. Nhưng điều này không ngăn cản  có một câu trả lời cho ngày mai. Thiên  Chúa kích thích  yêu thương, và tình yêu thì luôn luôn dấn thân với các người mình yêu. Chính vì vậy chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các trường học đích thật của ngày mai. Chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các khoảng không của tự do. Chúng ta hãy săn sóc các gia đình của chúng ta, là các trung tâm nhân bản thực sự.

ĐTC chúc lành cho tất cả các bà mẹ đang mang thai

Tiếp tục bài giảng ĐTC đã đưa ra một đề nghị mục vụ rất dễ thương. Ngài nói: Tới đây tôi nghĩ tới một hình ảnh trong các buổi tiếp kiến ngày thứ tư hàng tuần, khi tôi đi chào tín hữu, có biết bao nhiêu bà mẹ mang thai giơ bụng cho tôi và nói: “Cha ơi, cha có chúc lành cho con con không?” Bây giờ tôi xin đề nghị một điều với tất cả các phụ nữ “mang thai của hy vọng”, bời vì một đứa con là một niềm hy vọng: xin các chị em ấy trong lúc này đây hãy giơ tay sờ bụng mình. Ở đây nếu có ai, thì hãy làm như thế. Hay các phụ nữ có thai đang theo dõi qua đài phát thanh hay truyền hình xin cũng hãy làm như vậy. Và tôi, tôi ban phép lành  cho từng bà mẹ, cho từng đứa con trai con gái đang chờ đợi trong bụng mẹ. Như thế xin mỗi phụ nữ mang thai hãy giơ tay sờ vào bụng mình, và tôi ban phúc lành nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Và tôi cầu chúc cháu sinh ra, xinh đẹp và khoẻ mạnh, lớn tốt, và chị em có thể nuôi đạy cháu. Chị em hãy vuốt ve đứa con đang chờ đợi.

Bí tích Thánh Thể là bữa ăn chiều của gia đình Chúa Giêsu là Giáo Hội

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Tôi không muốn kết thúc mà không nhắc tới Bí Tích Thánh Thể. Anh chị em đã nhận thấy rằng Chúa Giêsu muốn dùng bữa ăn chiều như khoảng không của việc tưởng niệm Ngài. Ngài chọn một lúc cụ thể của cuộc sống gia đình như không gian sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta. Một lúc được sống và mọi người có thể hiểu: đó là bữa ăn chiều.

Và Bí tích Thánh Thể là bữa ăn chiều của gia đình Chúa Giêsu, từ chân trời này tới chân trời kia của trái đất tụ họp nhau để lắng nghe Lời Ngài, và được nuôi dưỡng với Mình Chúa Giêsu là Bánh Sự Sống của các gia đình chúng ta. Ngài muốn luôn luôn hiện diện bằng cách dưỡng nuôi chúng ta với tình yêu thương của Ngài, nâng đỡ chúng ta với đức tin của Ngài, trợ giúp chúng ta với niềm hy vọng của Ngài, để trong mọi trạng huống cuộc đời chúng ta có thể sống kinh nghiệm Ngài là Bánh thật của Trời.

Trong vài ngày nữa tôi sẽ tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình  và chỉ còn không đầy một tháng nữa là Thương Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về đề tài Gia Đình. Tôi mời gọi anh chị em cầu nguyện. Tôi xin anh chị em làm ơn cầu nguyện cho hai ý chỉ này, để chúng ta tất cả biết trợ giúp nhau và lo lắng cho gia đình, để chúng ta ngày càng biết khám phá ra Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa sống giữa dân Người bằng cách làm cho mỗi gia đình và tất cả các gia đình trở thành nơi ở của Ngài. Tôi tin tưởng nơi lời cầu nguyện của anh chị em. Xin cám ơn anh chị em.”

Vào cuối lễ sau khi cùng đọc kinh Lạy Cha, ĐTC dã ban phép lành cho mọi người hiện diện và dân chúng toàn thành phố Santiago.

Người dân Cuba thật dễ thương và tốt lành

ĐTGM Santiago đã tháp tùng ĐTC đi xuống gian giữa nhà thờ chính toà ra ngoài quảng trường nhỏ đối diện với Công Viên Céspendes để chào và ban phép lành cho hàng ngàn tín hữu thám dự buổi gặp gỡ từ bên ngoài. ĐTC nói: “Tôi xin chào anh chị em và xin cám ơn anh chị em về sự tiếp đón nồng nhiệt. Người dân Cuba thật dễ thương, tốt lành, và họ làm cho bạn cảm thấy như ở nhà vậy. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều. Và tôi muốn nói lên một lời hy vọng. Một lời hy vọng mà có lẽ sẽ làm cho chúng ta quay đầu lui quay đầu tới. Nhìn về đàng sau: ký ức. Nhớ tới những người đã cho chúng ta vào đời, và đặc biệt là các ông bà. Xin chào các ông bà nhiều lắm.  Chúng ta đừng quên các ông bà. Các ông bà là ký ức sống động của chúng ta. Và nhìn về phía trước: các trẻ em và người trẻ là sức mạnh của dân tộc. Một dân tộc săn sóc các ông bà, trẻ em và giới trẻ của mình,  thì có chiến thắng được bảo đảm! Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em. Xin hãy để tôi ban phép lành cho anh chị em, nhưng với một điều kiện. Anh chị em phải trả cái gì nhé: tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Đó là điều kiện. Xin  Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chúc lành cho anh chị em. Xin tạm biệt và cám ơn anh chị em!

Lúc 12 giờ 15 phút ĐTC đã ra phi trường quốc tế Antonio Maceo của Santiago, nơi diễn ra lễ nghi từ biệt Cuba.

Hiện diện trong lễ nghi tiễn biệt có các Giám Mục Cuba, tổng thống Raul Castro, một số giới chức dân sự và  một nhóm tín hữu. ĐTC đã đàm đạo với tổng thống Raul Castro vài phút trong phòng khánh tiết danh dự của phi trường trước khi diễn ra nghi thức tiễn biệt.

Ban nhạc cử hành quốc thiều Vatican và quốc thiều Cuba. ĐTC bắt tay chào từ biệt tổng thống và mọi người, trước khi với tay lấy cái cặp đen của ngài bước tới máy bay. Tổng thống Raul Castro đã đi theo ĐTC tới chân thang máy bay và bắt tay từ biệt ngài lần nữa. Chiếc Airbus A-330 của hãng hàng không Alitalia đã cất cánh rời phi trường quốc tế Santiago lúc 12 giờ 30 để trực chỉ thủ đô Washington DC của Hoa Kỳ, cách đó 2,103 cây số.

Từ Santiago de Cuba sang Washington DC. Bầu khí chờ đợi và tiếp đón tại Hoa Kỳ

Từ nhiều ngày qua các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đã dành rất nhiều chỗ cho ĐTC Phanxicô và chuyến viếng thăm của ngài. Phóng viên chương trình Ý ngữ đài Vaticăng Massimiliano Menichetti cho biết tại Philadelphia, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ quốc tế  các gia đình, có những biểu ngữ lớn với hình ĐTC Phanxicô tươi cười giơ ngón cái lên trời và hàng chữ “He is coming -- Ngài đang tới”. Cũng đã có các buổi canh thức cầu nguyện chuẩn bị tinh thần trong các giáo xứ công giáo và bầu khí rất tươi vui như lễ hội. Và dĩ nhiên là có các biện pháp an ninh rất chặt chẽ, nhưng cao và mạnh nhất là sự cảm động. Bà Muriel Bowser,  thị trưởng Washington, đã cho phổ biến một video thông cáo nói rằng: “Tôi rất xúc động vì ĐTC Phanxicô đến New York, như là thị trưởng thành phố lớn này, tôi kết hiệp với việc phục vụ đam mê của ĐTC. Tôi cũng đồng ý với xác tín của ngài rằng chúng ta phải trợ giúp những người dễ bị tổn thương nhất, những người bị gạt bỏ ra ngoài, các phụ nữ và trẻ em phải sống trên các đường phố và trong các nhà dưỡng lão của chúng ta. Trong tinh thần của ĐTC Phanxicô và trong sự tận tụy phục vụ tha nhân của ngài, tôi đưa ra thách đố vùng miền Washington DC để nó hiệp nhất: cùng nhau chúng ta mạnh mẽ hơn và cùng nhau chúng ta có thể làm điều đó”.

Trước quảng trường công viên Madison tại New  York có một bức tường cao nhất thế giới có hình của ĐTC Phanxicô dài 54 mét, do họa sĩ Van Hecht-Nielsen 41 tuổi vẽ, với hàng chữ “Chào mừng ĐGH Phanxicô” Nó là biểu ngữ chính chào ĐTC khi ngài tới đây chủ sự thánh lễ trong sân vận động quay ra đại lộ thứ 7. Ông Bill de Blasio thị trưởng New York nói: “Chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng đã chưa bao giờ trông thấy điều gì tương tự trước kia, và chúng tôi chào mừng ĐTC, chúng tôi ôm hôn ngài, và chúng tôi chờ mong giờ ngài đến. Tôi chắc chắn rằng các người nam nữ và tất cả các bạn bè tụ họp nhau nơi đây sẽ có khả năng làm cho một loạt các biến cố ngoại thường này hoạt động và khiến cho chúng được an ninh. Tôi nghĩ chuyến viếng thăm của ĐTC sẽ trao ban cho chúng ta xăng dầu cho việc cải thiện thành phố của chúng ta trong tương lai”.

Tất cả các nhật báo chính trên toàn nước Mỹ và tại địa phương đều chờ đợi biến cố ĐTC Phanxicô tới Hoa Kỳ. Người ta đưa ra nghi vấn trên bình diện chính trị, vì ĐTC Phanxicô sẽ là vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử phát biểu trước Quốc Hội Mỹ. Người ta giả thuyết các đề tài mà ngài cũng sẽ nói trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trước hết là vấn đề di cư, môi sinh, kinh tế và gia đình, và lý do chuyến công du của ngài tại Hoa Kỳ. ĐTC được mọi người dân Hoa Kỳ chờ đợi và chào đón hai bên đường, chứ không phải chỉ có tín hữu công giáo mà thôi. Đã có các địa chỉ Internet được tạo ra, và có thể áp dụng cho điện thoại di động, cũng như có các đài truyền hình phát 24 trên 24 giờ đồng hồ tường thuật các sinh hoạt của ĐTC. Có hàng ngàn người thiện nguyện dấn thân trợ giúp. Riêng tại Philadelphia các chuẩn bị sau cùng đã hoàn tất vì ngày 22 tháng 9 khai diễn đại hội quốc tế các gia đình. Ông thị trưởng Michael Nutter cho biết mọi sự đã sẵn sàng, và sẽ có hơn 1 triệu người đang tuốn về thành phố của Quả chuông tự do. Điều chúng tôi chờ đợi, ông nói, đó là con mắt của thế giới hướng nhìn thành phố Philadelphia để theo dõi cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình và chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Hoa Kỳ. Đây là một thời điểm không thể tin được, chúng tôi sẵn sàng. Tóm lại, bầu khí chờ đợi ĐTC Phanxicô tại Hoa Kỳ là một bầu khí tươi vui của lễ hội.

Bà Delia Gallagher, một trong những nhà báo lão thành của đài truyền hình quốc tế CNN theo dõi chuyến công du của ĐTC, cho biết có sự chờ đợi rất lớn đối với chuyến công du lịch sử này của Đức Phanxicô, vị Giáo Hoàng rất nổi tiếng. Người ta cũng chú ý nhiều đến các đề tài mà ngài có thể đề cập đến như di cư, chế độ tư bản, khí hậu, là những đề tài mà người Mỹ cảm nhận mạnh mẽ. Điều ngài nói trước Quốc Hội có thể bị người này người kia lèo lái cho cuộc tranh cử tổng thống, và sẽ được các chính trị gia lập lại trong các diễn văn của họ và trong khi dân chúng nói chuyện với nhau. Nghĩa là cũng có sự chú ý loại này xem ĐTC nghĩ gì và điều ngài nói sẽ được dân chúng chấp nhận ra sao, vì người ta có các quan điểm khác nhau liên quan tới các đề tài này.

Bà Gallagher cũng cho biết dân chúng rất vui mừng về chuyến viếng thăm vì ĐGH Phanxicô là người rất được thương mến, cả những người không phải là tín hữu công giáo cũng cảm thấy hãnh diện vì Hoa Kỳ được Đức Phanxicô viếng thăm. Đài truyền hình CNN tạo ra riêng một chương trình theo dõi chuyến công du của ĐTC 24 trên 24 giờ và sẽ trình chiếu mọi biến cố từ đầu cho tới cuối. Đài CNN có hàng ngàn nhà báo và phóng viên sẽ dốc toàn lực cho biến cố trọng đại này.

Riêng bà là nhà báo đã làm việc cho đài CNN từ 17 năm qua, chưa bao giờ bà lại cảm thấy có sự háo hức lớn như thế nơi dân chúng Mỹ. Và Hoa Kỳ sẽ đón tiếp ĐTC Phanxicô với gương mặt tươi cười, và chú ý tới những gì ngài sẽ nói với các tín hữu công giáo và mọi người. Bà cầu mong các sứ điệp của ĐTC sẽ giúp người dân Mỹ cùng nhau suy tư về những giá trị siêu việt, thánh thiêng, và có thể trợ giúp Hoa Kỳ nhiều hơn.

Giáo Hội công giáo Hoa Kỳ hiện có khoảng 71 triệu 800 ngàn tín hữu trên tổng số hơn 312 triệu dân. Giáo hội có hơn 19,000 giáo xứ, 40,967 linh mục, 5,485 đại chửng sinh, 17,589 Phó tễ vĩnh viễn, 17,342 tu huynh, 50,862 nữ tu. Số tín hữu nói trên sống trong 31 tổng giáo phận và 146 gíáo phận theo lễ nghi latinh, 2 tổng giáo phận và 15 giáo phận theo lễ nghi đông phương. Trên bình diện giáo dục Giáo Hội có 150,000 giáo chức dậy trong các trường đại học, trung học và tiểu học với 2.7 triệu sinh viên học sinh.

Sau 3 giờ 30 phút bay, máy bay chở ĐTC đã đáp xuống phi trường Andrews Air Force Base của thủ đô Washington DC lúc 16 giờ, giờ địa phương.

ĐTGM Carlo Maria Viganò, Sứ Thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, đã cùng viên trưởng lễ nghi lên máy bay để chào ĐTC. Đón tiếp ĐTC tại phi trường có tổng thống Barack Obama, phu nhân hai ái nữ, đại sứ ngoại thường của Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, ông Kenneth Francis Hackett, ĐHY Donald William Wuert, TGM Washington. Cùng hiện diện cũng có thị trưởng Quận Columbia, các thống đốc tiểu bang Maryland và Virginia, và một nhóm trẻ em. Từ phiá Giáo Hội có ĐTGM Joseph Edward Kurtz chủ tịch HĐGM Mỹ, hai ĐC Tổng thư ký và phó tổng thư ký, các Giám Mục Phụ tá tổng giáo phận Washington  và ĐGM giáo hạt quân đội.

Thành phố Washington có hơn 563,000 dân cư và được chọn làm thủ đô Hoa Kỳ năm 1790, vì nằm giữa các tiểu bang kỹ nghệ miền bắc và các tiểu bang kỹ nghệ miền nam. Quận Columbia đuợc gọi theo tên của nhà thám hiểm Cristoforo Colombo, và có trật tự hành chánh đặc biệt do chính quyền Liên bang điều khiển, và các đại biểu trong Quốc Hội không có quyền bỏ phiếu.  Trung tâm điểm của thủ đô là đồi Capitol, nơi có trụ sở Quốc Hội. Từ đó có bốn đại lộ chia thành phồ thành 4 khu vực. Washington cũng là trụ sở của chính quyền Liên bang với Tòa Bạch Ốc, là dinh tổng thống, Bộ ngoại giao, Ngũ giác đài hay Bộ quốc phòng. Thủ đô Washington cũng nổi tiếng vì có thư viện  lớn nhất thế giới với 29 triệu cuốn sách và 58 triệu thủ bản. Vườn bách thảo tại đây có 26.000 loại cây. Các viện bảo tàng Smithsonian Institution có các bộ sưu tầm lớn tới độ mỗi lần chỉ trưng bầy được 1%  các tác phẩm nghệ thuật, ngoài ra còn có nhiều viện bảo tàng và các hành lang nghệ thuật khác và ba phi trường. Ngày 11 tháng 9 năm 2001 Ngũ giác đài cũng đã bị khủng bố và hư hại cùng một lần với Tháp Song Sinh.

Tổng giáo phận Washington được thành lập năm 1939 có hơn 630,000 tín hữu trên tổng số hơn 2 triệu 867 ngàn dân cư. Giáo phận có 139 giáo xứ và 1 cứ điểm truyền giáo. Nhân lực gồm 406 linh mục giáo phận, 405 linh mục dòng, 660 tu huynh, 489 nữ tu, 265 phó tế vĩnh viễn và 76 đại chủng sinh, 149 cơ sở giáo dục và 108 trung tâm bác ái.

Lúc 16g15' ĐTC đã đi xe về Toá Sứ Thần Toà Thánh cách đó 26 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Sáng thứ tư 23 tháng 9 lúc 9 giờ sáng ĐTC đã rời Tòa Sứ Thần để đến tòa Bạch Ốc cách đó hơn 4 cây số, nơi diễn ra lễ nghi tiếp đón chính thức. Tòa Bạch Ốc là tư dinh của các  tổng thống Mỹ do tổng thống George Washington xây năm 1792 và hoàn thành năm 1800 sau khi ông qua đời. Kiến trúc sư là ông Pierre L’Enfant một người Pháp thiện nguyện quân trong Quân đội cách mạng năm 1777 của các đoàn người thực dân Mỹ. Năm 1814 toà nhà bị quân Anh đốt phá và cánh phía tây bị hoả hoạn thiêu rụi năm 1929. Tòa Bạch ốc cao 5 tầng có 132 phòng, 8 cầu thang và 3 thang máy. Năm đầu bếp ở đây có thể dọn bữa cho 140 thực khách ngồi và 1,000 thực khách đứng. Ngoài ra tòa Bạch Ốc còn có khoảng đất cho sân Tennis, một đường chạy bộ, một hồ tắm, một phòng chiếu phim và một phòng chơi ném boule. Ai muốn, có thể ghi danh tham dự các cuộc viếng thăm hưóng dẫn.

ĐTC Phanxicô được tổng thống Obama và phu nhân đón tiếp tại tiền sảnh toà Bạch Ốc  và tháp tùng tới khán đài trong công viên bên cạnh nơi có khoảng 20,000 người tham dự lễ nghi chào đón chính thức. Cùng hiện diện cũng có các Hồng Y Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục Phụ tá tổng giáo phận Washington. ĐTC và tổng thống đã duyệt qua hàng chào danh dự trong khi đại bác bắn 21 phát chào mừng vị thượng khách. Ban quân nhạc cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Hoa Kỳ.  Tiếp đến tổng thống Barack Obama đã đọc diễn văn chào mừng ĐTC.

Tự do là một chinh phục vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Mọi người cần dấn thân bảo vệ sự tự do đó khỏi mọi nguy cơ bị đả thương

Đáp từ tổng thống ĐTC nói: như là người con của một gia đình di cư ngài vui mừng được là khách của Hoa Kỳ, có đa số dân gốc di cư. Ngài chuẩn bị cho các ngày gặp gỡ và đối thoại này với hy vọng lắng nghe và chia sẻ nhiều giấc mơ và các niềm hy vọng của nhân dân Hoa Kỳ.

Trong chuyến viếng thăm này, ĐTC nói,  tôi sẽ được hân hạnh phát biểu trước Quốc Hội, nơi tôi hy vọng, như là người anh em của quốc gia này, có thể nói lên một lời khích lệ những ai được mời gọi hướng dẫn tương lai của quốc gia này trong sự trung tín với các nguyên tắc thành lập. ĐTC cũng nhắc tới việc tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình tại Philadelphia để cử hành và nâng đỡ các cơ cấu hôn nhân và gia đình trong một thời điểm khó khăn của lịch sử nền văn minh của chúng ta. Đề cập tới phần đóng góp của các tín hữu công giáo Mỹ ĐTC nói:

Thưa ngài Tổng thống, cùng với các công dân khác tín hữu công giáo Hoa Kỳ đã dấn thân xây dựng một xã hội thực sự khoan nhượng và bao gồm mọi người, bảo vệ các quyền của các cá nhân và các cộng đoàn, và đẩy lùi mọi hình thái kỳ thị bất công. Cùng với nhiều người thiện chí khác nữa của nền dân chủ vĩ đại này, các tín hữu công giáo mong chờ rằng các nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng và trật tự một cách khôn ngoan, tôn trọng các âu lo sâu xa nhất của họ và các quyền lợi gắn liền với sự tự do tôn giáo. Sự tự do này là một trong những chinh phục qúy báu nhất của nưóc Mỹ. Và như các anh em Giám Mục Mỹ của tôi đã nhắc nhớ, tất cả mọi người đều được mời gọi tỉnh thức, chính vì là các công dân tốt, để duy trì và bảo vệ quyền tự do đó khỏi bất cứ gì có thể gây nguy hiểm hay làm tổn thương cho nó.

Cần thành toàn một số dấn thân có tầm quan trọng đối với toàn nhân loại và các thế hệ tương lai: bảo vệ cẩi tiến môi sinh, thăng tiến tôn trọng nhân quyền, phát triển, hoà bình, công lý, tự do và thịnh vượng

Tiếp dến ĐTC đã ca ngợi tổng thống Obama có sáng kiến giảm việc gây ô nhiễm môi sinh. Đây là một điều cấp thiết cần giải quyết, chứ không thể để cho thế hệ tương lai. Lịch sử đã đặt để chúng ta vào một thời điểm nòng cốt cho việc săn sóc “ngôi nhà chung”. Tuy nhiện chúng ta còn có thời giờ để đương đầu với các thay đổi bảo đảm cho “một sự phát triển có thể chịu đựng nổi và toàn diện, bởi vì chúng ta biết rằng các sự việc có thể thay đổi” (Laudato si’ 13). Các thay đổi đòi buộc  từ phía chúng ta một sự thừa nhận nghiêm chỉnh và có trách nhiệm đối với loại thế giới, mà chúng ta muốn để lại không phải chỉ cho con cháu chúng ta, mà cho cả hàng triệu người phải sống dưới một hệ thống lơ là với nó. Căn nhà chung của chúng ta đã là phần của nhóm bị loại bỏ đang kêu thấu tới trời, và ngày nay đang gõ cửa các nhà, các thành phố và các xã hội của chúng ta. Lấy lại lời của mục sư Martin Luther King chúng ta có thể nói rằng chúng ta đã không chu toàn vài dân thân và giờ đây là lúc phải hoàn thành các dấn thân đó.

Do lòng tin chúng ta biết rằng “Đấng Tạo Hóa không bỏ rơi chúng ta, Ngài không bao giờ lùi bước trong chương trình tình yêu của Ngài, Ngài không hối hận đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại còn có khả năng cộng tác để xây dựng căn nhà chung” (ibid. 13). Như là các kitô hữu đuợc linh hoạt bởi xác tín này, chúng ta hãy tìm dấn thân cho việc săn sóc ý thức và có tinh thần trách nhiệm đối với căn nhà chung của chúng ta.

ĐTC nói tiếp trong diễn văn đáp từ: Các nỗ lực làm được mới đây để hoà giải các tương quan đã bị bẻ gẫy và việc mở ra các con đường cộng tác mới bên trong gia đình nhân loại diễn tả các bước tiến tới tích cực trên con đường của hòa giải, công lý và tự do. Tôi cầu chúc rằng tất cả mọi người nam nữ thiện chí của quốc gia vĩ đại và thịnh vượng này nâng đỡ các cố gắng của cộng đoàn quốc tế nhằm bào vệ những người yếu đuối nhất trên thế giới này và thăng tiến các mô thức phát triển toàn vẹn và bao gồm, như thế các anh chị em của chúng ta ở khắp nơi có thể biết tới phuớc lành của hòa bình, thịnh vượng, mà Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi con cái Ngài.

Kính thưa tổng thống, một lần nữa tôi xin cám ơn ngài về sự tiếp đón, và tôi tin tưởng nhìn vào các ngày viếng thăm này trên đất nước của quý quốc. Xin  Thiên Chúa chúc lành cho nước Mỹ.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay tán thưởng của những người hiện diện. Một ca đoàn đã hát bài thánh ca “Chúa là sự sống của con” để chào mừng ĐTC và toàn cử tọa.

Sau lễ nghi chào đón, ĐTC và tổng thống đã vào thư phòng bầu dục đàm đạo riêng với nhau, trao đổi quà tặng, giới thiệu các thân nhân và chụp hình lưu niệm. ĐTC đã tặng tổng thống bức khắc bằng đồng kỷ niệm Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình giống  huy hiệu Giáo hoàng được làm cho dịp này.

Trong một phòng khác đồng thời cũng diễn ra cuộc hội kiến giữa ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry có sự tham dự của ĐTGM Phụ tá Becciu, ĐTGM ngoại trưởng Toà Thánh Paul Richard Gallagher và ĐTGM Sứ Thần Tòa Thánh tại Washington.

Sau lễ nghi chào đón chính thức tại tòa Bạch Ốc ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính toà thánh Mátthêu Tông Đồ  để gặp các Giám Mục Hoa Kỳ rồi đến Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm chủ sự thánh lễ phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải -- Vatican Radio