Trách nhiệm về người anh em

Trách nhiệm về người anh em

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:

Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.

Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.

Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.

Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:

– Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:

– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.

Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:

– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!

Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.

Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.

Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.

Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.

Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.

Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.

Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.

Dìu nhau tiến bước

Dìu nhau tiến bước

Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: "Nếu có Thiên Chúa xin hãy cứu con?". Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến nhiều người bi quan bảo rằng: "Đời là bể khổ", hay ''Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh – Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Quả thực, nếu sinh ra trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại…

Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K' Thủ Lĩnh. Em vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi, nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm, giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.

Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:

"Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,

Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai".

Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K' Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.

Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.

Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.

Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.

Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Chúa. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Thảm cảnh của người dân Nam Sudan ba năm sau ngày độc lập

Thảm cảnh của người dân Nam Sudan ba năm sau ngày độc lập

Phỏng vấn bà Enrica Valentini, giám đốc đài phát thanh Công giáo Nam Sudan

Cách đây ba năm, ngày mùng 9 tháng 7 năm 2011, miền Nam Sudan được độc lập tách rời khỏi miền Bắc và trở thành quốc gia trẻ nhất thế giới. Nhưng rất tiếc người dân nước này đã không được hưởng hòa bình, vì xung đột bùng nổ hồi tháng 12 năm ngoái 2013 giữa tổng thống Salva Kiir, thuộc bộ tộc Dinka, và nguyên phó tổng thống Riek Machar, thuộc bộ tộc Nuer. Bẩy tháng chiến tranh đã khiến cho hơn 10.000 người thiệt mạng và 1 triệu người phải di cư tỵ nạn trên tổng số 8 triệu dân.

Nam Sudan là một vùng có nhiều mỏ dầu hỏa và có tiềm năng kinh tế rất lớn, nhưng hiện đang phải chứng kiến cảnh đói khát nguy hiểm cho tính mạng của 900 ngàn trẻ em. Chính dầu hỏa và các tài nguyên của mình đã khiến cho Nam Sudan liên miên lâm cảnh nội chiến, ban đầu là giữa chính quyền Bắc Sudan là vùng có đa số dân theo Hồi giáo và các bộ lạc miền nam Sudan có đa số dân theo Kitô giáo và đạo thờ vật linh.

Cuộc nội chiến đã rất là khốc liệt trong vùng Darfur giữa các năm 2003-2006 khiến cho gần 200 ngàn người chết và 300 ngàn người phải di cư lánh nạn. Các cuộc giao tranh xảy ra giữa quân đội chímh phủ và hàng chục lực lượng và đảng phái chính trị khác nhau, trong đó có ”Phong trào công lý và bình đẳng” gồm hai nhóm với hãi lãnh tụ, ”Phong trào quốc gia cải cách và phát triển”, ”Mặt trận các lực lượng cách mạng dân chủ”, ”Mặt trận lực lượng cách mạng thống nhất”, ”Phong trào giải phóng Sudan” gồm hai nhóm với hai lãnh tụ, ”Liên minh liên bang dân chủ Sudan”, ”Phong trào hiệp nhất giải phóng Sudan”.

Để đánh chiềm Darfur chính quyền Khartum phát động các cuộc hành quân đánh phá các làng mạc của các bộ lạc trong vùng, khiến cho hai bộ lạc Zaghawa và Fur nổi lên phản kháng để bảo vệ các quyền lợi của họ. Hầu hết người dân sống tại Darfur theo Hồi giáo, bao gồm cả bộ tộc Janjaweed và nhiều thân nhân nhân viên của chính quyền Khartum. Các phiến quân tấn công các đồn bót cảnh sát và đe dọa việc xây hệ thống dẫn dầu mới. Các lực lượng phiến quân được chính quyền Eritrea trợ giúp khí giới áp dảo các binh sĩ của chính quyền Khartum không thiện chiến trong sa mạc. Nhưng không lực của chính quyến Khartum gây ra nhiều tổn thất cho các phiến quân. Năm 2003 ba nhóm ”Quân đội giải phóng Sudan”, ”Phong trào Công lý và Bình đẳng”, và ”Quân đội giải phong nhân dân Sudan” nhập cuộc. Cuộc nội chiến Băc Nam Sudan đã kéo dài trong 20 năm lại bùng lên. Tiếp đến bộ lạc Janjaweed nhập cuộc và thi hành chính sách hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc và đốt phá các làng mạc, khiến cho làn sóng di cư tỵ nạn tăng mạnh. Trong khi đó thì không lực của chính quyền Khartum liên tục bỏ bom và oanh kích khiến cho người dân phải sống giữa hai lằn đạn. Chiến tranh kéo dài cho tới tháng 9 năm 2007 mới chấm dứt với các cuộc thương thuết hòa bình tổ chức tại Sirte bên Lybia. Nhưng đã có 4 nhóm phiến quân không tham dự.

Trong chiến tranh Sudan đã có sự tham gia của nhiều nước A rập và Tây Âu cung cấp khí giới cho chính quyền Khartum, trong khi Nga và Trung Quốc yểm trợ khí giới cho các lực lượng Nam Sudan để nhận nhận được dầu hỏa, cần thiết cho nền kinh tế đang lên của Trung Quốc. Chiến cuộc kéo dài cho tới năm 2011 khi Nam Sudan tuyên bố độc lập. Nhưng sau đó lại xảy ra nội chiến giữa hai lực lượng phò tổng thống và phò phó tổng thống.

Trong các ngày vừa qua Đức Cha Eduardo Hiiboro Kussala, Giám Mục giáo phận Tombura-Yambio bên Uganda giáp giới với Nam Sudan, đã viếng thăm trụ sở trung ương của Hồi Đồng Tòa Thánh ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ”. Đề cập tới tình hình tại Sudan ngài nhận định rằng mặc dù Hiến pháp Sudan bảo đảm sự bình quyền cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng, nhưng các tín hữu kitô bị xem như các công dân hạng nhì. Các giáo sĩ không được cấp thông hành và khi rời khỏi đất nước, họ không biết có được phép trở lại quê hương hay không. Đã có nhiều linh mục tu sĩ bị trục xuất và các Giám Mục không được lên tiếng hay tự do phát biểu tư tưởng. Các tín hữu kytô được tham dự các lễ nghi phụng tự, nhưng nhà cầm quyền Sudan không bảo vệ tự do tôn giáo. Điển hình nhất là trường hợp của bà Meriam Yahia Ibrahim Ishaq mới đây. Đức tin của bà đã được mọi người biết rõ. Bà bị cha là tín hữu hồi giáo bỏ rơi từ năm lên 5 tuổi, và đã lớn lên trong đức tin chính thống của mẹ, rồi xin gia nhập Giáo Hội công giáo hồi năm 2011 chỉ ít lâu trước khi gặp và lập gia đình với chồng là Daniel Wani. Thế nhưng bà bất ngờ bị bắt giam và kết án tử hình vì tội bỏ đạo. Bà đã phải sanh đứa con gái trong tù và được thả ra sau đó chỉ vì áp lực của dư luận thế giới.

Sự kiện tín hữu ky tô bị kỳ thị không phải là điều mới mẻ tại Sudan, nhưng tình hình trở nên tồi tệ hơn kể từ tháng 7 năm 2011, khi miền Nam Sudan tách ra thành một quốc gia độc lập. Giáo Hội công giáo Sudan công khai ủng hộ quyết định này và đã nhiều lần yêu cầu chính quyền Sudan tôn trọng ý chí của dân chúng. Chính vì thế, giáo hội bị xem là có trách nhiệm trong việc này, mặc dù giáo hội chỉ giới hạn trong lời kêu gọi chính quyền bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tự do lương tâm.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và ác bạn bài phỏng vấn bà Enrica Valentini, giám đốc đài phát thanh công giáo Nam Sudan, do Hội Đồng Giám Nước này thành lập.

Hỏi: Thưa bà Enrica, ba năm sau ngày độc lập tình hình Nam Sudan hiện nay ra sao?

Đáp: Tình hình không có mầu hồng khiến cho nhiều người dân ngã lòng chán nản. Mọi niềm hy vọng họ đã có sau khi được độc lập với ước mong đất nước phát triển tốt đẹp hơn, đều đã tan biến hết. Điều mà dân chúng hiện chờ đợi đó là không có một giải pháp cho cuộc xung đột và các khác biệt giữa các phe phái liên hệ trong thời gian ngắn hạn. Nhưng đàng khác, cũng có người còn hy vọng: nhiều người nói rằng còn có ý chí cho một thay đổi, và dịp kỷ niệm độc lập này là một thời điểm giúp tất cả mọi người suy tư. Đề tài đã được chọn cho ngày kỷ niệm độc lập năm nay là ”Một dân tộc, một quốc gia”. Nó như là một lời mời gọi tất cả mọi người nhớ lại rằng ý tưởng độc lập là hiệp nhất con người trong một nước với nhau.

Hỏi: Theo bà, thì trong bối cảnh cuộc khủng hoảng hiện nay tình hình chính trị nam Sudan như thế nào?

Đáp: Cảm tưởng đó là người ta không thực sự muốn ngồi lại với nhau để thảo luận. Liên quan tới các kết qủa của các cuộc thương thảo tại Addis Abeba thì chúng chỉ có trên giấy tờ hơn là trong thực tế, bởi vì mỗi bên đều bám chặt vào các tư tưởng, lập trường và các quyết định của mình… Có một yếu tố khác nữa: đó là trong các tuần qua người ta thảo luận về chủ thuyết liên bang, được coi như là một trong những giải pháp khả thể cho tình hình chính trị Nam Sudan. Nhưng dân chúng không hiểu rõ liên bang là g và ngay cả các giới chức chính trị cũng lờ mờ; người ta không hiểu rõ liên bang có nghĩa là gì. Và sự kiện này lại càng gia tăng căng thẳng hơn nữa.

Hỏi: Thưa bà Valentini, trong tình hình như thế thì Giáo Hội có thể làm gì?

Đáp: Giáo Hội tiếp tục nhấn mạnh trên ỳ nghĩa của từ ”hiệp nhất” và điều này Giáo Hội có thể làm bằng lời nói, nhưng cũng qua gương sáng. Tôi tin rằng sự cộng tác giữa các Giáo Hội khác nhau đã được thực thi trong bao nhiều năm nay, cũng như các cuộc đối thoại hòa bình, là một thí dụ cụ thể mà người dân có thể giữ lại trong tâm trí, và bắt chước lập lại trong cuộc sống thường ngày.

Hỏi: Mới đây từ Nam Sudan đã có các báo động trên bình diện cứu trợ nhân đạo. Theo một loạt các tổ chức phi chính quyền Anh quốc, người dân có nguy cơ gặp nạn đói kém, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Đúng vậy. Có một loạt các yếu tố đưa đến chỗ khiến cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Mùa mưa là lúc dân chúng bắt đầu trồng tỉa, nhưng mùa mưa này đã không được tận dụng tối đa, bởi vì dân chúng đã không thể nhận hạt giống và các dụng cụ canh tác thường được phân phát cho họ. Có một yếu tố khác liên quan tới các người tỵ nạn: họ đã phải rời bỏ ruộng vườn đất đai của họ nên không có ai có thể trồng tiả tại các thửa ruộng ấy. Rất nhiều nông dân hiện đang phải sống trong các trại tỵ nạn nhưng họ lo sợ, không dám đi ra ngoài để trồng tỉa: họ sợ bi trả thù. Trong các vùng khác mưa đã không rơi nhiều như thường lệ, vì thế cả các việc trồng cấy có thể đã phải bắt đầu, không được tốt vì thiếu nước mưa.

Hỏi: Ngoài các khó khăn trên đây vẫn cón có nút thắt khó khăn trong tương quan với Băc Sudan, với chính quyền Khartum. Các khó khăn này ảnh hưởng trên hiện tình của Nam Sudan như thế nào thưa bà Valentini?

Đáp: Khó mà có thể hiểu nổi… Một cách chính thức Băc Sudan đã lựa chọn giải pháp hòa bình, lam sao để vùng này được ổn định, bời vì sự ổn định cũng tạo thuân tiện cho các lợi lộc kinh tế. Nhưng đàng khác, cũng có tin đồn rằng chính quyền Băc Sudan yểm trợ cho các nhóm dân quân khác nhau. Và ở đây nữa cũng không đơn sơ, vì khó mà hiểu được các lực lượng dân quân này có gắn liền với chính quyền Khartum, hay đó chỉ la các phong trào khác nhau chống Khartum hiện diện bên Sudan.

(RG 9-7-2014; ZENIT 11-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cần cầu nguyện nhiều để Irak tránh được xung khắc và phân hóa

Cần cầu nguyện nhiều để Irak tránh được xung khắc và phân hóa

Phỏng vấn ĐTGM Giorgio Lingua, Sứ Thàn Tòa Thánh tại Irak

Từ vài tháng qua tình hình Irak ngày càng trở nên rối ren và bất ổn. Ngày 29 tháng 6 lực lượng Hồi thánh chiến cuồng

tín ISIS tuyên bố thành lập quốc gia hồi giáo Califat nhằm thống nhất hai nước Irak và Siria dưới quyền điều khiển của ông Abou Bakr Al-Baghdadi, lãnh tụ của một nhóm thánh chiến hồi giáo cấp tiến. Ông này được sự ủng hộ của các bộ tộc và các cựu sĩ quan của cố tổng thống Sunnít Saddam Hussein, đã chiếm đóng nhiều phần đất tại Irak kể từ khi nhóm ISIS phát động các cuộc tấn công ngày mùng 9 tháng 6. Ngày mùng 5 tháng 7 nhóm ISIS đã phổ biến video bài giảng của lãnh tụ tự phong Baghdadi trong đền thờ hồi giáo Mossul ngày thứ sáu mùng 4 tháng 7. Ông Baghdadi kêu gọi tín hữu hồi trên toàn thế giới vâng phục ông. Ông nói: ”Tôi là lãnh tụ đươc chỉ định để hướng dẫn qúy vị, nhưng tôi không tốt lành hơn qúy vị; nếu tôi có lý hãy giúp tôi, và nếu qúy vị nghĩ rằng tôi sai, xin cố vấn cho tôi và dẫn tôi vào đường ngay chính. Hãy vâng lời tôi như qúy vị vâng lời Allah nơi qúy vị”.

Abou Bakr Al-Baghdadi sinh năm 1971 tại Samarra, và từ nhiều năm qua đã hoạt động trong bóng tối, nên rất ít người biết rõ thân thế ông ta.

Califat, quốc gia hồi giáo, là một chế độ chính trị có từ thời ngôn sứ Mahomet, nhưng đã biến mất với sự phân tán của đế quốc Ottoman trong thập niên 1920. Lãnh tụ Calif là người kế vị ngôn sứ Mahomet để áp dụng luật Sharia trong các vùng đất của Hồi giáo.

Ông Youssef Al-Qaradaoui, chuyên viên thuyết giáo qatari, thuộc ban lãnh đạo của tổ chức Huynh đệ hồi giáo, khẳng định rằng việc thành lập một quốc gia hồi giáo do một nhóm nổi tiếng vì các hành động tàn bạo và quan điểm cấp tiến không phục vụ chương trình hồi giáo. Tước hiệu calif phải được toàn quốc gia hồi ban cho, chứ không thể bị một nhóm cưởp lấy”.

Trong thời gian qua lực lượng ISIS đã đánh chiếm một phần vùng Ninive cũng như các vùng thuộc các tỉnh Diyala ở mạn đông, Salaheddine ở mạn bắc, Kirkuk ở mạn tây và Mossul. Từ tháng giêng năm nay lực lượng này cũng kiểm soát các vùng của tỉnh Al-Anbar ở mạn tây.

Trong vùng Mossul cách thủ đô Baghdad 350 cây số, nhân danh cuộc chiến chống các ”ngẫu tượng” các binh sĩ của lực lượng ISIS đã phá hủy tất cả các trung tâm thờ từ Sunnít, Suphít và Shiít. Họ cũng chiếm hai nhà thờ chính tòa kitô. Các nhóm phiến quân Siri đã khước từ chấp nhận quốc gia hồi giáo, vì các cuộc hành quyết sơ sài và ước muốn bá chủ của nhóm ISIS.

Các lực lượng quân sự Irak gặp khó khăn trong việc tái chiếm các vùng đã mất, và hiện đang dậm chân tại chỗ quanh vùng Tikrit, là quê sinh của Saddam Hussein.

Trên bình diện chính trị tình hình xem ra bế tắc, trong khi dân nước Irak đang chờ đợi có một tổng thống và một chính phủ mới. Ông Nouri-al Maliki cầm quyền từ năm 2006 tới nay vẫn muốn tái tranh cử. Tuy thắng cuộc bầu cử lập pháp ngày 30 tháng 4 nhưng kiểu cai trị chuyên quyền và lựa chọn gạt bỏ các nhóm thiểu số Sunnít và Kurde trong các năm qua, khiến ông khó có khả năng quy tụ các lực lượng quốc gia khác. Trong khi có nhiều lực lượng muốn chia Irak thành ba nước độc lập dành cho ba nhóm Shiít, Sunnít và Kurde. Chính vì thế ông đã luôn luôn từ chối đề nghị thành lập chính quyền thống nhất có sự tham dự của cả ba nhóm, do các vị lãnh đạo tôn giáo đưa ra.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin công giáo Hoa Kỳ hôm mùng 7 tháng 7 vừa qua Đức Thượng Phụ Louis Sako, Giáo Chủ Công Giáo Canđê, mô tả tình trạng tại đất nước Irak hiện nay có lẽ là ”thời kỳ đen tối và khó khăn nhất trong lịch sử gần đây của Giáo Hội”. Đức Thượng Phụ Sako ví tình trạng Giáo Hội tại đất nước ngài như sự tích trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ngủ trên thuyền trong khi bão tố vùi dập và các môn đệ kinh hãi. Ngài kêu gọi các tín hữu cầu nguyện để những người bị bắt cóc được trở về bình an và cho tương lai của mọi Kitô hữu ở Irak.

Trong cuộc phỏng vấn Đức Thượng Phụ Sako cũng tái kêu gọi trả tự do cho 2 nữ tu và 3 cô nhi bị bắt cóc ngày 28-6 vừa qua tại thành phố Mossul ở miền bắc Irak.

Đức Thượng Phụ cho biết ngài không rõ các nữ tu dòng Nữ Tử Đức Maria và những người bị bắt cóc đang bị giữ ở đâu mặc dù có nhiều phía hứa sẽ giúp đỡ. Ngài cũng xác nhận rằng thành phố Mossul hầu như không còn tín hữu Kitô nữa, và chỉ còn lại khoảng 200 Kitô hữu. Các nhà thờ đóng cửa và không còn thánh lễ chúa nhật.

Dân quân Hồi giáo gọi tắt là Isis đã chiếm nhà thờ chính tòa của Công Giáo Canđê và Chính Thống Siria ở Mossul. Họ tháo gỡ thánh giá ở mặt tiền thánh đường và thay bằng lá cờ đen của Quốc gia Hồi giáo.

Chính quyền Irak đã báo cho Tổ chức nguyện tử năng quốc tế biết các phiến quân hồi cuồng tín đã đánh cắp 40 kg Uranium khỏi đại học Mossul. Nhưng tổ chức này cho biết chất liệu bị đánh cắp không thể trở thành một đe dọa. Rất nhiều kitô hữu đã di tản khỏi thành phố Mossul, khi lực lượng ISIS tiến chiếm thành phố.

Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Giorgio Lingua, sứ Thần Tòa Thánh tại Irak, về hiện tình tại đây.

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, tình hình Irak hiện nay ra sao?

Đáp: Nỗi lo lắng chính của chúng tôi trong lúc này là cung cấp nước uống cho dân chúng đã di tản khỏi Mossul. Tôi biết là trong lúc này người ta đang đào các giếng nước, nhưng không tức khắc có nước ngay. Trên bình diện nhân đạo có rất nhiều điều phải làm một cách đáng khen trong việc tiếp đón các người hồi, bằng cách mở các trường học, các nhà cho những người di tản, ít nhất là trong thời gian tạm thời.

Hỏi: Các cộng đoàn kitô có thể gặp các nguy cơ nào thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh?

Đáp: Nguy hiểm nhất chắc chắn là vùng giáp giới với nơi bị ”nhà nước hồi” kiểm soát, bởi vì người ta không biết họ bằng lòng tới đâu và dừng lại đâu. Các vùng an ninh là các vùng do các lực lượng Kurde kiểm soát.

Hỏi: Theo Đức Sứ Thần thì người ta đang dự phóng một tương lai nào?

Đáp: Thật khó mà nói được. Theo tôi thì nó tùy thuộc rất nhiều nơi những gì mà chính quyền trung ương thành công trong việc đương đầu với tình hình một cách đúng đắn và bao quát, bằng cách rộng mở cho mọi lực lượng đại diện quốc gia. Cần phải có một quốc hội và một chính quyền hoạt động. Chỉ khi đó mới có thể trông thấy những gì phải làm. Tôi tin rằng cũng cấp thiết sự kiện xã hội dân sự ý thức rằng không thể đứng đó mà nhìn và chờ đợi các nhà chính trị làm việc, bởi vì thường khi các nhà chính trị bi các lợi lộc phe phái điều khiển, trong khi xã hội dân sự có thể hướng tới thiện ích chung nhiều hơn.

Hỏi: Xã hội dân sự có thể trợ giúp quốc gia đương đầu với sự xâm lăng đích thật như thế nào, thưa Đức Cha?

Đáp: Nếu có ý muốn bao gồm tất cả mọi người vào trong dự án của một tương lai của Irak, thì cả những người đã xâm lăng cũng sẽ mất đi sự ủng hộ địa phương, bởi vì họ đã tìm thấy sự ủng hộ đó: họ đã vào Irak một cách qúa dễ dàng, bởi vì đã có nhiều bất mãn, trong lúc tất cả mọi lực lượng cảm thấy mình được đại diện trên bình diện trung ương, thì khi đó các lực lượng này sẽ mất đi sự ủng hộ địa phương.

Hỏi: Đức Sứ Thần có muốn đưa ra lời kêu gọi nào không?

Đáp: Tôi tin rằng trong lúc này cần phải cầu nguyện. Cần phải có một phép lạ để tình hình đừng trở thành tồi tệ hơn, và để người ta đừng đi đến một cuộc xung đột vũ trang có thể giải quyết một phần hay tái chiếm một phần lãnh thổ, nhưng sẽ gây ra nhiều nạn nhân mới và các bất bình mới. Cần phải thuyết phục để người ta đừng đi tới một cuộc xung đột vũ trang tàn bạo.

(RG 9-7-2014; CNA 7-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

Lễ Thánh Phêrô và Phaolô

Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi, nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.

Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa, trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: “Này Simon Phêrô, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: “Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập giá mà Phêrô đã trải qua.

Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”, tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật khác:”Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được.

Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận cùng: “Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”. Lời công bố long trọng của Chúa Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi. Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục, tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.

Veritas Radio