Giữ trong sạch nhà Cha

Giữ trong sạch nhà Cha

“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”

Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.

Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).

Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.

Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.

Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.

Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!

Noel Quesson

Tình thương

Tình thương

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.

Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.

Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.

Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin… chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.

Sưu tầm

Nội dung bài nói chuyện của ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội

Nội dung bài nói chuyện của ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội

** Như qúy vị đã biết, trong các ngày từ 19 đến 25 tháng giêng ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, viếng thăm Việt Nam, theo lời mời của ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGMVN.

Lúc 10 sáng ngày 20-1 vùa qua ĐHY đã gặp gỡ các linh mục toàn Giáo tỉnh Hà Nội. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung bài nói chuyện của ngài.

Mở đầu bài nói chuyện ĐHY nói: Anh em thân mến trong chức Linh Mục, tôi xin chào anh em tất cả, và tôi đem đến cho anh em phép lành của ĐTC Phanxicô. Tôi hài lòng được ở trên miền đất được chúc phúc này, miền đất của một Giáo Hội sinh động và vững vàng, nơi máu của nhiều vị tử đạo đã đổ ra một cách anh hùng. Hàng năm vào ngày 24 tháng 11 Giáo Hội cử hành việc tưởng nhớ các Thánh Anrê Dũng Lạc linh mục và 116 bạn tử đạo, tôi có dịp đọc lại bức thư hay đẹp của thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, viết trong ngục gửi các chủng sinh. Tình yêu của ngài đối vớí Chúa Giêsu và Giáo Hội cũng như sự lo lắng mục vụ cho các chủng sinh được giao phó cho ngài, đánh động tôi rất nhiều. Gương sáng của ngài luôn luôn dấy lên trong tôi ước muốn nồng cháy đối với Chúa và việc phục vụ Giáo Hội Ngài. Như là các linh mục có trách nhiệm với các giáo đoàn Việt Nam anh em được mời gọi là “muối đất và ánh sáng” (x. Mt 5,13-15) trong xã hội này. Hãy noi gương các tiền nhân tử đạo anh dũng của anh em và hãy xứng đáng là những người kế vị các ngài.

** Tiếp tục diễn văn ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo đề cập tới công tác rao truyền Tin Mừng. Ngài nói: Anh em thân mến, đề trài rao giảng Tin Mừng vẫn còn và sẽ luôn luôn đáng kể, bởi vì Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Đề tài này đã được ĐTC Phanxicô nhắc lại và nêu bật đặc biệt trong Tông huấn “Niềm vui Phúc Âm”. Tài liệu qúy báu này phải là điểm tham chiếu cho Giáo Hội Việt Nam, được mời gọi đồng thời bưóc đi trên con đường hoán cải và dấn thân rao giảng Tin Mừng. Trong nghĩa đó chúng ta hãy nhớ rằng việc rao giảng Tin Mừng nảy sinh từ Tin Mừng và liên tục tái sinh trong cuộc găp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi đời sống đồng thời trao ban niềm vui sâu xa đích thật luôn hướng tới chỗ truyền thông. ĐTC viết: “Nếu có một ai đã tiếp nhận tình yêu trao ban cho mình ý nghĩa cuộc sống, làm sao lại có thể kìm hãm ước muốn thông truyền nó cho người khác được?” (EG, 8). Rao giảng Tin Mừng là loan báo Chúa Kitô, gặp gỡ Ngài và được Ngài canh tân. Thật là hay, điều ĐTC đã viết trong Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin và lấy lại trong Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm: “Giáo Hội không lớn lên vì chiêu dụ tín đồ nhưng vì hấp dẫn” (s. 14). Như là những người rao giảng Tin Mừng chúng ta sống kinh nghiệm niềm vui Phúc Âm trong việc trở thành con cái của Thiên Chúa, là linh mục của Chúa, trong việc phục vụ tín hữu được giao phó cho cho sự chăm sóc của chúng ta.

** ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo cũng đã đề cập tới tầm quan trọng của đời sống thiêng liêng. Ngài nói: Trước hết tôi muốn nói tới đời sống thiêng liêng của linh mục, bởi vì “nếu chúng ta sống theo Thần Khí, chúng ta cũng bước đi theo Thần Khí”, theo lời thánh Phaolô dậy các tín hữu Galát (5,25). Với các lời này thánh Tông Đồ nhắc cho chúng ta nhớ rằng cuộc sống thiêng liêng của linh mục phải được linh hoạt bởi Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng dẫn đưa chúng ta tới sự thánh thiện, được hoàn thiện bởi lòng bác ái. Chúng ta là linh mục, còn hơn mọi tín hữu khác, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện bởi căn tính của mình: là những người đã được thánh hiến với dầu và được sai đi loan báo sứ điệp tươi vui cho người nghèo. Việc thánh hóa linh mục trước hết hệ tại mối dây thân tình và sâu xa với Chúa Giêsu, là Đầu và là Mục Tử của Giáo Hội. Các linh mục được mời gọi sống tính cách triệt để của Tin Mừng, bước theo Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Trước hết linh mục là một người được mời gọi trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu Thượng Tế và là Linh Mục Đời Đời. Nói cách khác, chúng ta phải yêu như Chúa Giêsu yêu, nghĩ như Chúa Giêsu nghĩ, hành động như Chúa Giêsu hành động, phục vụ như Chúa Giêsu phục vụ, trong mọi lúc của cuộc đời. Là linh mục không phải là một nghề hay một văn phòng bàn giấy có thể chọn thi hành trong một thời gian, rồi thôi. Là linh mục là “một kiểu sống” chứ không phải là một công việc. Vị linh mục sống chức linh mục của mình, nhưng không bao giờ hoàn toàn chiếm hữu nó. Là các linh mục của Thiên Chúa, hơn là các giáo sĩ, nghĩa là những người quen thuộc với một điều kiện tôn giáo trong chức linh mục. Để sống tràn đầy căn tính linh mục, đời sống thiêng liêng của linh mục phải gắn liền với lời cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa. Cầu nguyện và lắng nghe, như Mẹ Maria. Đó là thái độ của người tín thác nơi quyền năng của Thiên Chúa, để cho mình được Thiên Chúa sửa dậy và để cho Thiên Chúa hoạt động trong cuộc đời mình.

** Điểm thứ tư ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo trình bầy trong bài nói chuyện với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội sáng ngày 20 tháng Giêng là cuộc sống luân lý. ĐHY nói: Liên quan tới cuộc sống luân lý tôi muốn nói về việc độc thân linh mục. Sự lựa chọn này phải đuợc nhìn trong bối cảnh của “mối dây mà sự độc thân có với Phép Truyền Chức Thánh, khiến cho vị linh mục trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu Kitô, là Đầu và là Phu Quân của Giáo Hội. Giáo Hội, như là Hôn Thê của Chúa Giêsu Kitô, muốn được linh mục yêu thương một cách toàn vẹn và triệt để như kiểu Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Giáo Hội” (Pastores Dabo Vobis, 29). Hiểu như thế linh mục sẽ tiếp nhận sự độc thân “với quyết định tự do và yêu thương cần liên lỉ canh tân” (ibid.), vì ý thức về sự yếu đuối của điệu kiện là người của mình. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng “để sống tất cả các đòi buộc luân lý, nục vụ và tinh thần của việc độc thân linh mục lời cầu nguyện khiêm tốn và tin tưởng là điều tuyệt đối cần thiết (ibid,). Có một cách duy trì cuộc sống linh mục đó là vun trồng một tương quan huynh đệ với các anh em khác trong chức linh mục. Việc đồng hành và sư nâng đỡ của các linh mục luôn luôn là một ơn thánh và là một cứu giúp quý báu giúp cho chức linh mục và sứ vụ của chúng ta được sinh động. Nơi đâu thiếu một tương quan huynh đệ giữa các linh mục, thì nơi đó luôn luôn bắt đầu một cuộc khủng hoảng. Cần duy trì một tương quan tốt với cả Giám Mục của mình nữa, là cha và là đầu của Giáo Hội địa phương, trong sự qúy trọng và tin tưởng thổ lộ.

** Điểm cuối cùng ĐHY Filoni trình bầy là đời sống mục vụ. Ngài nói với các linh mục: Liên quan tới cuộc sống mục vụ ĐTC Phanxicô đã cảnh báo chúng ta về nguy cơ các linh mục gặp phải là “ám ảnh lo lắng cho thời giờ riêng tư của mình”. Ngài viết : “Điều này xảy ra một cách thường xuyên do sự kiện người ta cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải duy trì các khoảng không độc lập, làm như thể nhiệm vụ rao truyền Tin Mừng là một thuốc độc nguy hiểm, thay vì là một trả lời tươi vui đối với tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng triệu vời chúng ta cho một sứ mệnh và khiến cho chúng ta hoàn toàn và phong phú. Vài người kháng cự lại đến độ cảm thấy cho tới tận cùng hương vị của sứ mệnh và bị lôi cuốn vào sự thờ ơ gây tê liệt” (EG, 81). Để tận hiến toàn cuộc sống và sức lực cho việc phục vụ Giáo Hội, chúng ta cần có tình bác ái mục vụ của Chúa Giêsu, là Đấng đã trao ban mạng sống mình cho đoàn chiên. Chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu trong việc tận hiến chính mình và trong việc phục vụ. Chính lòng bác ái mục vụ mà chúng ta đã được thấm nhuần, sẽ làm cho sứ vụ linh mục của chúng ta được phong phú và sẽ định đoạt kiểu suy tư và hành xử của chúng ta” (Pastores Dabo Vobis, 23). Tình bác ái mục vụ đòi hỏi nơi chúng ta việc hoán cải mục vụ, xin chúng ta “ra khỏi các tiện nghi của mình và có can đảm đi tới các vùng ngoại biên cần ánh sáng Tin Mừng” (EG, 20). Mục tiêu ưu tiên của lòng bác ái mục vụ là những người nghèo, những người bị gạt bỏ ngoài lề, những người bé nhỏ, đau yếu, những người tội lỗi và những người không tin.

Thể rồi trong các thành phố lớn cần chú ý đến các người di cư và các nô lệ mới. Trong sứ điệp gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2015 ĐTC đã đề cập tới nhiều gương mặt của cảnh nô lệ: các công nhân bị biến thành nô lệ, các người di cư, các nam nữ nô lệ tình dục vv… Ngoài ra, trong sứ điệp cho Ngày Đi Cư Tỵ Nạn 2015 lần thứ 101 (3-9-2014) ĐTC đã viết rẳng Chúa Giêsu là “người rao giảng Tin Mừng tuyệt vời, là hiện thân Tin Mừng; và sự ân cần của Ngài đặc biệt hướng tới những người dễ bị tổn thương nhất và bị gạt bỏ ngoài lề, mời gọi tất cả mọi người lo lắng cho các người giòn mỏng nhất và nhận ra gương mặt đau khổ cùa Ngài, nhất là nơi các nạn nhân của các hình thức mới của sự nghèo túng và nô lệ”. Tình bác ái mục vụ khiến cho chúng ta luôn luôn sẵn sàng lãnh nhận bất cứ dấn thân nào cho thiện ích của Giáo Hội và của các linh hồn.

Anh em thân mến trong chức Linh Mục, tôi xin cám ơn lòng nhiệt thành và dấn thân không mệt mỏi của anh em trong công tác rao truyền Tin Mừng. Chúng ta hãy tiến lên, đươc linh hoạt bời tình yêu thương chung đối với Chúa và Giáo Hội Thánh Mẹ chúng ta. Xin Đức Mẹ La Vang che chở và đồng hành với anh em. Chúng ta hãy hiệp nhất trong lời cầu nguyện.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tường thuật ngày đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Sri Lanka (1/3)

Tường thuật ngày đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Sri Lanka (1/3)

** Chiều 12 tháng giêng Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên đường công du Sri Lanka trong ba ngày, rồi sau đó viếng thăm Philippines cho tới 19 tháng giêng. Đây là chuyến công du thứ 7 ngoài Itallia. Chiếc Airbus 330 của hãng hàng không Alitalia chở Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng đã cất cánh rời phi trường quốc tế Fiumicino ỏ Roma lúc 18 giờ 50. Máy bay chở ĐTC đã bay qua không phận của các nước Italia, Albania, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, các Vương quốc A rập thống nhất. Oman và Ân Độ.

ĐTC đã gửi điện tín cho quốc trưởng và nhân dân các quốc gia này. Ngài gửi lời chào thăm và cầu chúc thịnh vượng, hiệp nhất, và thiện ích tinh thần cho dân nước Italia. Ngài còn nhớ các kỷ niệm đẹp trong các chuyến viếng thăm Albania, Thổ Nhĩ Kỳ và bảo đảm với các vị lãnh đạo và quốc dân hai nưóc lời cầu nguyện của ngài. ĐTC nhớ tổng thống và dân nước Hy Lạp trong lời cầu nguyện và khẩn cầu phước lành bình an và tươi vui của Thiên Chúa trên Hy Lạp. Ngài cầu xin phước lành binh an và thịnh vượng của Thiên Chúa cho tổng thống và dân nước Iran, cho quốc vương và các dân tộc của Vương quốc A rập thống nhất, cho quốc vương Oman và thần dân, cũng như cho tổng thống và nhân dân Ấn.

Trên chuyến bay ĐTC đã ra phía sau chào và bắt tay 76 nhà báo và phóng viên quốc tế tháp tùng chuyến viếng thăm của ngài. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ đối với các nhà báo.

Sri Lanka là một quần đảo rộng 65.610 cây số vuông, gồm Ceylon là đảo lớn nhất và vài đảo nhỏ khác như Mannar, Velanai và Neduntivu… Srai Lanka có khoảng 21,2 triệu dân, 75% là người Singale, 15% người Tamil và 9% người Mori.

Colombo đã là thủ đô của Sri Lanka cho tới năm 1978, khi chính quyền di chuyền các bộ về Sri Jayawardenapura Kotte, cách đó 8 cây số. Tên Colombo do người Bồ Đào Nha du nhập năm 1505, có lẽ phát xuất từ tiếng Singale cổ điển “Kolon thota” có nghĩa là “cảng trên sông Kelani”. Cũng có người cho rằng nó bắt nguồn từ kiểu nói Singale “kola-amba-thota” có nghĩa là “cảng với các cây xoài rậm lá”. Colombo đã được các thương gia Roma, Tầu, và A rập biết tới từ hơn 2.000 năm trước. Vào thế kỷ thứ VIII nó bị người A rập chiếm đóng để kiểm soát giao thông giữa các vương quốc Singale và phần còn lại của thế giới. Vào thế kỷ XVI người Bồ Đào Nha đánh đuổi người A rập và xây một pháo đài để bảo vệ việc buôn bán gia vị. Năm 1656 người Hoà Lan đánh chiếm thành phố và biến Colombo trở thành thủ đô các tỉnh duyên hải của Công ty Hoà Lan Đông Ấn Độ cho tới năm 1796. Tiếp theo đó người Anh chiếm Colombo và biến nó trở thành thủ đô của đảo Ceylon thuộc địa của họ. Năm 1948 Sri Lanka được độc lập. Vì địa thế hải cảng của mình Colombo là nơi xuất cảng nhiều sản phẩm quốc gia như trà, cao su, dầu dừa, copra và nhất là đá qúy. Thành phố cũng có các kỹ nghệ chế biến thuốc lá, dầu, các nhà máy tơ sợi và da thuộc.

** Giáo phận Colombo có từ năm 1834 và năm 1886 trở thành Tổng giáo phận. Tổng giáo phận hiện có gần 7,3 triệu dân, trong đó có hơn 667 ngàn theo công giáo, tức chiếm 9,23%, với 127 giáo xứ, 298 linh mục giáo phận, 279 linh mục dòng, 380 tu huynh, 1.400 nữ tu và 284 đại chủng sinh. Tổng giáo phận có 196 cơ sở giáo dục và 560 cơ sở bác ái.

Sau 9 giờ 40 phút bay và vượt chặng đường dài 7.630 cây số máy bay đã đáp xuống phi trường quốc tế Colombo của Sri Lanka lúc 10 giờ sáng giờ địa phương, trễ một giờ so với chương trình dự định.

Tiếp đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt, Sứ Thần Tòa Thánh tại Sri Lanka, ông Aryasinha Ravinatha Đại sứ ngoại thường toàn quyền của Cộng hòa dân chủ xã hội Sri Lanka cạnh Toà Thánh, ĐHY Malcolm Ranjith Patabendige Don, TGM Colombo, kiêm Chủ tịch HĐGM Sri Lanka, các Giám Mục, Tổng thống tân cử Maithripala Sirisena, một số các vị lãnh đạo, một số tín hữu, một ca đoàn và 2.000 trẻ em. Tổng thống đã đón ĐTC tại chân thang máy bay. Hai em bé một trai một gái tiến đến quàng vòng hoa mầu trắng và mầu vàng cho ĐTC.

Ban quân nhạc đã cử quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Sri Lanka. ĐTC và tổng thống đã duyệt qua hàng chào danh dự trong khi đại bác bắn 21 phát chào mừng vị quốc khách.

Trong diễn văn chào mừng ĐTC tân tổng thống Maithripala Sirisena bầy tỏ niềm hân hoan vui sướng của dân nước Sri Lanka được ĐTC viếng thăm. Niềm hạnh phúc và hãnh diện này đặc biệt lớn đối với ông là người mới được bầu làm tổng thống cách đây mấy ngày và bắt đầu nhiệm vụ với chuyến viếng thăm này của ĐTC. Ông xin ngài chúc lành cho dân nước Sri Lanka.

Đáp từ tổng thống ĐTC bầy tỏ vui mừng được viếng thăm Sri Lanka, được gọi là ngọc trai của Ấn Độ dương vì vẻ đẹp thiên nhiên, sự nồng hậu của người dân và sự khác biệt phong phú của các truyền thống văn hóa và tôn giáo của nó.

ĐTC cầu chúc Tổng thống những điều tốt đẹp nhất cho các trách nhiệm mới, và ngài đặc biệt cám ơn sự hiện diện của các vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo cũng như ca đoàn và tất cả những ai khiến cho cuộc viếng thăm này có thể xảy ra. Nhấn mạnh đến mục đích chuyến viếng thăm ĐTC nói:

** Chuyến viếng thăm Sri Lanka của tôi trước hết có tính cách mục vụ. Như là Chủ chăn hoàn vũ của Giáo Hội Công Giáo tôi phải gặp gỡ, củng cố và cầu nguyện với dân công giáo của quốc đảo này. Tột đỉnh của chuyến viếng thăm là việc phong hiển thánh cho chân phước Joseph Vaz, mà gương bác ái kitô và sự kính trọng đối với mọi người không phân biệt chủng tộc và tôn giáo, tiếp tục gợi hứng và dậy dỗ chúng ta ngày nay. Nhưng chuyến viếng thăm của tôi cũng muốn diễn tả tình yêu thương và sư lo lắng của Giáo Hội đối với mọi người dân Sri Lanka, và khẳng định ước mong của Giáo Hội tích cực tham gia vào đời sống của xã hội này.

Tiếp tục bài diễn văn ĐTC nhắc tới thảm cảnh nội chiến của Sri Lanka. Ngài nói thật là một thảm cảnh trong thế giới ngày nay, khi có nhiều cộng đoàn gây chiến với nhau như vậy. Việc không có khả năng hòa giải các khác biệt và bất đồng ý, cũ và mới, đã dấy lên các căng thẳng chủng tộc và tôn giáo, thường đi đôi với bạo lực bùng nổ. Trong nhiều năm trời Sri Lanka đã biết đến các kinh hoàng của cuộc nội chiến, giờ đây đang tìm củng cố hòa bình và chữa lành các vết thương của các năm đó. Thật không dễ thắng vượt được gia tài cay đắng của các bất công, thù nghịch và mất tin tưởng do xung khắc để lại. Chỉ có thể làm được bằng cách thắng sự dữ với sự thiện (x. Rm 12,21) và bằng cách vun trồng các nhân đức khuyến khích hòa giải, liên đới và hòa bình. Tiến trình chữa lành cũng cần bao gồm việc theo đuổi sự thật, không phải để mở ra các vết thương cũ, nhưng như là các phương tiện cần thiết nhằm thăng tiến công lý, việc chữa lành và sư hiệp nhất.

Các bạn thân mến, tôi xác tín rằng tín hữu của các truyền thống tôn giáo khác nhau có một vai trò nòng cốt trong tiến trình hòa giải và tái thiết hiên nay của đất nước. Và ĐTC nhấn mạnh như sau:

Để cho tiến trình đó được thành công mọi thành phần xã hội phải làm việc chung với nhau; mỗi người phải có tiếng nói. Tất cả phải được tự do diễn tả những gì liên quan tới các nhu cầu, các khát vọng và sợ hãi của mình. Điều quan trọng nhất là họ phải được chuẩn bị để chấp nhận nhau, tôn trọng các khác biệt hợp pháp, và học sống như một gia đình. Khi người dân biết lắng nghe nhau một cách khiêm tốn và cởi mở, thì việc chia sẻ các giá trị và các khát vọng trở thành rõ ràng hơn. Khác biệt không còn là sự đe dọa nữa, nhưng là suối nguồn của sự giầu có. Con đường dẫn tới công bằng, hòa giải và hòa hợp xã hội trở thành rõ ràng hơn. Trong nghĩa đó, công việc to lớn của sự hòa giải cũng đụng chạm tới các cơ cấu hạ tầng xã hội, và đáp ứng các nhu cầu vật chất và quan trọng hơn nữa là thăng tiến nhân phẩm, tôn trọng các quyền con người và việc tháp nhập tràn đầy mỗi thành phần xã hội. Tôi hy vọng các vị lãnh đạo chính trị tôn giáo và văn hóa Sri Lanka đo lường mọi lời nói và hành động bởi thiện ích và việc chữa lành mà chúng mang lại, góp phần lâu dài cho sự tiến bộ vật chất và tinh thần của nhân dân Sri Lanka.

Kính thưa tổng thống và các bạn, một lần nữa tôi xin cám ơn sự tiếp đón của qúy vị. Xin cho những ngày chúng ta sống với nhau là những ngày của tình bằng hữu, đối thoại và liên đới. Tôi khẩn cầu phép lành tràn đầy của Thiên Chúa trên Sri Lanka, viên ngọc trai của Ấn Độ dương, và tôi cầu xin cho vẻ đẹp của nó chiếu sang trong sự thịnh vượng và hòa bình cho dân tộc nó.

 

** Sau lễ nghi chào đón, ĐTC đã đi xe díp bọc kính về Tòa Sứ Thần nằm cách đó 28 cây số. Dọc hai bên đường có ít nhất 300.000 người đứng chào đón ĐTC trong bầu khí lễ hội, trong đó cũng có rất nhiều nhà sư Phật giáo và một đoàn 40 con voi trang hoàng rực rỡ như trong ngày lễ hội quốc gia.

Vể tới Tòa Sứ Thần ĐTC đã nghỉ ngơi chốc lát trước khi cử hành thánh lễ riêng. Vì chương trình bị trễ nhiều và trời Sri Lanka nóng tới 31 độ ĐTC đã không đến Tòa Tổng Giám Mục cách đó 4 cây số để gặp gỡ các Giám Mục Sri Lanka. Nhưng ĐHY Pietro Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt ngài đến chào các Giám Mục cùng với các Hồng Y và Tổng Giám Mục thuộc đoàn tùy tùng. Các vị đã được một nhóm 180 đại chủng sinh và một nhóm vũ công tiếp đón và tặng vòng hoa trong vườn tòa Tổng Giám Mục.

** Vào ban chiều lúc 17 giờ ĐTC đã đến thăm xã giao tổng thống Sri Lanka. Tổng thống Maithripala Sirisena vừa thắng cử hôm mùng 8 tháng giêng vừa qua với 51,2% tổng số phiếu, trong khi tổng thống Rajapaksa chỉ đuợc 47,5%. Ông đã chấp nhận ý dân và dọn ra khỏi dinh tổng thống. Tổng thống tân cử đã làm lễ tuyên thệ ngay.

Ông Sirisena sinh năm 1951, bắt đầu tham gia chính trị năm 1989, trở thành dân biểu của đảng Sri Lanka tự do, và từ năm 1994 giữ nhiều chức vụ bộ trưởng. Cho tới tháng 11 năm 2014 vừa qua ông đã là Bộ trưởng Y tế Sri Lanka.

Tổng thống tân cử Sirisena đã đón ĐTC tại cửa chính. Sau khi ngài ký tên vào sổ vàng hai vị lên lầu một để hội kiến riêng. ĐTC viết:
“Tôi khẩn nài ơn can đảm, khôn ngoan và phân định trên những ai phục vụ nhân dân Sri Lanka yêu quý”.

ĐTC đã tặng tổng thống một bản sao Bản đồ hàng hải do ông Bartolomé Oliva vẽ năm 1562, gọi là bản Urbinate latino 283 của Thư Viện Vaticăng. Thủ bản này có các trang kích thước 33 trên 23 mm gồm 14 bản đồ hàng hải mầu vẽ trên các mảnh da thuộc có phẩm chất rất tốt. Tác giả là ông Bartolomé Oliva thuộc một gia đình chuyên nghề vẽ các bản đồ, hoạt động giữa các năm 1538-1588, nhất là trong tỉnh Messina. Bản đồ này được vẽ năm 1562 và cho thấy thế giới như được người Âu châu biết tới hồi thế kỷ XVI. Bộ sưu tập này đuợc Thư Viện Vaticăng mua năm 1657 với các thủ bản khác của thư viện Urbinate.

Lúc 18 giờ ĐTC từ biệt tổng thống để đến Trung Tâm Hội nghị quốc tế BMICH gặp gỡ giới lãnh đạo các tôn giáo toàn nước Sri Lanka. Trung tâm BMICH đã được xây cất giữa các năm 1970-1973 như qùa Trung Quốc tặng dân nước Sri Lanka. Ngoài đại thính đường, khu vực triển lãm, còn có một ngân hàng, một khách sạn, một thư viện và một học viện nghiên cứu. Năm 2013 hội nghị các nước trong Khối Thịnh Vượng Chung đã nhóm họp tại đây. Và năm 2014 tới phiên Đại hội giới trẻ quốc tế.

Tại Sri Lanka Phật giáo chiếm 70% dân số, Ấn giáo chiếm 12,6%, Hồi giáo chiếm 9,7% và Công giáo chiếm 7,16%.

Cho tới thế kỷ thứ III trước công nguyên, đa số dân theo Ấn giáo. Các tín hữu Ấn giáo hiện sống tại miền bắc và miền đông Sri Lanka đa số là người Tamil. Phật giáo nguyên thủy Theravada đã được truyền bá năm 246 trước công nguyên và vào năm 200 được tuyên bố là quốc giáo. Từ giữa thế kỷ XIX Phật giáo tái sinh nhờ các phong trào ái quốc. Hồi giáo được phổ biến cho tới thế kỷ XV nhờ các thương gia A rập kiểm soát các lộ giao thương trong vùng biển nam Ấn, cho tới khi các thừa sai Phanxicô và Bồ Đào Nha tới truyền bá Tin Mừng. Truyền thống kể rằng thánh Toma Tông Đồ đã tới Sri Lanka vào thế kỷ thứ I, sau khi đi ngang qua vùng Kerala và nam Ấn. Các tài liệu kitô đầu tiên có từ năm 1322, khi tu sĩ Phanxicô Odorico da Pordenone ghé Sri Lanka vào năm đó, rồi từ năm 1517 khi các tu sĩ Phanxicô tới truyền giáo tại đây.

** Trong đại thính đường của Trung tâm có các vị lãnh đạo của các tôn giáo và một ngàn tín hữu đại diện các công đoàn Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và Kitô giáo tham dự. ĐTC đã được tiếp đón với các bản nhạc truyền thống do dàn hoà nhạc Hevisi trình tấu. Ngài đã ký tên vào sổ vàng. ĐTC viết “Với lòng biết ơn đối với cơ may gặp gỡ các vị đại diện các tôn giáo khác nhau hiện diện trên vùng đất này, tôi cầu xin Thiên Chúa Toàn Năng linh hứng cho sự cộng tác hài hòa cho thiện ích của nhân dân Sri Lanka.”

Tiếp đến Đức Cha Cletus Perera, đặc trách Ủy ban liên tôn của HĐGM Sri Lanka giới thiệu các vị lãnh đạo và phái đoàn của các tôn giáo. Tiếp theo là bài thánh ca Pirith của Phật giáo, rồi lời chúc lành Ấn giáo, Hồi giáo, lời cầu đại kết, và diễn văn chào mừng của Hòa Thượng Vigithasiri Niyangoda Thero, thủ lãnh Phật Giáo Sri Lanka.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói:

Các bạn thân mến, Tôi biết ơn vì dịp may được tham dự cuộc họp này quy tụ giữa các tôn giáo, bốn cộng đoàn tôn giáo lớn tạo thành cuộc sống của Sri Lanka là: Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và Kitô giáo. Tôi xin cám ơn sự hiện diện và tiếp đón nồng hậu của qúy vị. Tôi cũng xin cám ơn tất cả những ai đã dâng lời cầu nguyện và chúc lành, và một cách đặc biệt tôi bầy tỏ lòng biết ơn ĐC Cletus Chandrasiri Perera và Hòa thượng Vigithasiri Niyangoda Thero vì những lời chào nhãn nhặn của các vị.

Tiếp đến ĐTC nói ngài đến thăm Sri Lanka theo gót các vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II để chứng minh cho tình yêu thương lớn lao và sự lo lắng của Giáo Hội công giáo đối với dân nước Sri Lanka. Và thật là một ơn có thể thăm viếng cộng đoàn công giáo địa phương, cũng cố nó trong niềm tin nơi Chúa Kitô, cầu nguyện và chia sẻ các niềm vui và các khổ đau của nó. Đồng thời cũng là một ơn được gặp gỡ tất cả anh chị em là những người của các truyền thống tôn giáo lớn cũng chia sẻ với chúng tôi một ước muốn của sự khôn ngoan, của chân lý và sự thánh thiện. ĐTC đã trích tài liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng Giáo Hội công giáo tôn trọng sâu xa tất cả mọi tôn giáo, vì không phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó ( Nostra Aetate 2). Và ngài tái khẳng định sự tôn trọng chân thành của Giáo Hội công giáo đối với các truyền thống và niềm tin của các tôn giáo khác. ĐTC nói: chính trong tinh thần tôn trọng đó Giáo Hội công giáo muốn cộng tác với qúy vị và với tất cả những người thiện chí trong việc tìm kiếm sự thịnh vượng cho mọi người dân Sri Lanka. Tôi hy vọng chuyến viếng thăm của tôi sẽ giúp khích lệ và đào sâu các hình thức cộng tác liên tôn và đại kết, đã được làm trong các năm mới đây. Các sáng kiến này đã cống hiến cơ may đối thoại nòng cốt, nếu chúng ta muốn hiểu biết, thông cảm nhau và tôn trọng nhau. Nhưng kinh nghiệm dậy cho thấy rằng để cho cuộc đối thoại được hữu hiệu nó cần phải được xây dựng trên việc trình bầy trọn vẹn và ngay thẳng các xác tín của chúng ta. Chắc chắn cuộc đối thoại như thế sẽ làm nổi bật lên các khác biệt trong các niềm tin, truyền thống và thực hành của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta liêm chính trong việc trình bầy các xác tín của mình, chúng ta sẽ có thể trông thấy rõ ràng hơn những gì chúng ta có chung vói nhau. Các con đường mới sẽ mở ra cho sự qúy trọng, cộng tác với nhau và cả tình bằng hữu nữa.

** ĐTC nói tiếp trong bài diễn văn: Các phát triển tích cực trong quan hệ liên tôn và đại kết có một ý nghĩa đặc biệt và cấp bách tại Sri Lanka. Vì trong qúa nhiều năm người dân nước này đã là nạn nhân của nội chiến và bạo lực. Điều cần thiết hiện nay là việc chữa lành và sự hiệp nhất chứ không phải là các xung đột hay các chia rẽ mới. Chắc chắn việc thăng tiến chữa lành và hiệp nhất là một dấn thân cao quý, bổn phận của tất cả những ai quan tâm đến thiện ích của Quốc gia và toàn gia đình nhân loại. Tôi hy vọng rằng sư cộng tác liên tôn và đại kết sẽ chứng minh rằng để sống trong hòa hợp với các anh chị em mình người ta không được quên căn tính chủng tộc hay tôn giáo của mình.

Có biết bao nhiêu kiểu để tín đồ các tôn giáo khác nhau thực hiện việc phục vụ này! Có biết bao nhiêu nhu cầu cần đáp ứng với dầu thoa dịu của tình liên đới! Tôi đặc biệt nghĩ tới các nhu cầu vật chất và tinh thần của người nghèo, người bần cùng, của những ai âu lo chờ đợi một lời an ủi và trao ban hy vọng. Ở đây tôi nghĩ tới nhiều gia đình tiếp tục khóc than các người thân đã chết.

Nhất là trong lúc này của lịch sử quốc gia anh chị em, có biết bao nhiêu người thiện chí kiếm tìm tái thiết các nền tảng luân lý của toàn xã hội! Ước chi tinh thần cộng tác gia tăng giữa các vị lãnh đạo của các cộng đoàn tôn giáo khác nhau tìm ra sự diễn tả trong một dấn thân đặt để sự hòa giải giữa mọi ngươi dân Sri Lanka vào trong mọi cố gắng canh tân xã hội và các cơ cấu của nó. Vì thiện ích của hòa bình không thể cho phép các niềm tin tôn giáo bị lạm dụng cho lý do của bạo lực hay chiến tranh. Chúng ta phải rõ rang và không mập mờ trong việc mời gọi các cộng đoàn của chúng ta sống trọn vẹn các điều luật của hòa bình và tố cáo các hành động bạo lực khi chúng bị vi phạm.

Các bạn thân mến, tôi xin cám ơn sự tiếp đón nồng hậu và sự chú ý của các bạn. Ước chi cuộc gặp gỡ huynh đệ này củng cố chúng ta tất cả trong nỗ lực sống trong hòa hợp và phổ biến các phúc lành của hòa bình.

** ĐHY Ranjith đã cùng ĐC Perera dẫn ĐTC tới chào và bắt tay hai vị đại lão Hòa Thượng.
Sau khi chào tạm biệt mọi người lúc sau 19 giờ ĐTC đã lên xe trở về Tòa Sứ Thần cách đó 2 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ nhất viếng thăm Sri Lanka.

Báo chí Sri Lanka dã hết lời ca ngợi ĐTC Phanxicô như là “vị lãnh đạo và là người hầu hạ” cúi xuống rửa chân cho người nghèo. Ngoài các bài tường thuật, thông tin tức và giải thích cho người dân Sri Lanka biết ĐTC là ai, nhiệm vụ của ngài là gì, ảnh hưởng của ngài ra sao, các báo còn in rất nhiều bích chương với hình của ĐTC và các lời chú thích.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư 29-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng…Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng ”Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: ”Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như từ Nigeria, Ấn Độ, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình và Ba Tây.

Nhắc tới ngày lễ các Thánh Nam Nữ ngày mùng 1 tháng 11 sắp tới, Đức Thánh Cha xin các tín hữu Ba Lan cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người nam nữ đã biết cộng tác với ơn thánh Chúa và có can đảm làm chứng cho đức tin, đức cậy và đức mến trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy học hỏi nơi họ để trở nên thánh trong thời đại chúng ta.

Ngài khuyến khích các bạn trẻ biết noi gương các Thánh, người đau yếu biết dâng các khổ đau để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những ai cần hoán cải, và các cặp vợ chồng mới cưới lo lắng cho sự trưởng thành của đức tin trong cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Philippines

Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Philippines

Phỏng vấn Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila

Ngày 29-7-2014 Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã loan báo Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Sri Lanka trong các ngày 12-15 tháng giêng năm 2015, và tại Philippines trong các ngày 15-19 tháng giêng năm 2015.

Philippines rộng 300,000 cây số vuông, bao gồm 7,107 đảo lớn nhỏ, có 100 triệu dân thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, trong đó 10 nhóm chính sau đây: Bisayaa hơn 20 triệu người, Tagalog hơn 13 triệu, Ilocani hơn 9 triệu, Hiliganon hơn 8 triệu, Bicolani hơn 3 triệu, Waray-Waray hơn 3 triệu, Kapampangan hơn 2.5 triệu, Hispanofilippini hơn 2.5 triệu, Albay Bicolani hơn 2.1 triệu, và Panggasinan hơn 1.6 triệu. Ngoài ra còn có 11 triệu người Philippines sống tại các nước ngoài, đa số là các công nhân có hợp đồng làm việc.

Nếu chia theo vùng địa lý, Philippines gồm ba miền Luzon, Visayas và Mindanao. Trong nhiều thập niên qua các cải cách kinh tế đã khiến cho lãnh vực thứ ba vượt nông nghiệp là nguồn lợi kinh tế chính, và hiện nay lãnh vực này đem lại hơn phân nửa lợi tức quốc gia. Tuy nhiên Philippines vẫn còn phải đương đầu với nhiều thách đố trong các lãnh vực cơ cấu hạ tầng, y tế và phát triển nhân bản.

Vào thời tiền sử, cách đây 30,000 năm người da đen Philippines đã là các nhóm dân đầu tiên của quần đảo này. Tiếp theo đó có các làn sóng di cư của các dân tộc khác như Malaysia, Ấn độ và người Hồi. Trong khi nền thương mại đã đem theo các ảnh hưởng văn hóa Tàu.

Năm 1521 nhà thám hiểm người Tây Ban Nha là Ferdinando Magellano đến đảo Homonhon, nằm ở mạn đông nam đảo Samar ngày mùng 6 tháng 3 năm 1521, bắt đầu một kỷ nguyên ảnh hưởng của Tây Ban Nha, rồi sau đó là ách thống trị của người Tây Ban Nha trên người dân bản địa. Manila trở thành trung tâm kinh tế của đế quốc Tây Ban Nha tại Á châu. Tên gọi Philippines bắt nguồn từ tên của vua Filippo của Tây Ban Nha. Trong các cuộc thám hiểm của mình ông Ruy López de Villalobos gọi vùng này là các Islas filippinas, các Đảo Philippines, nhằm vinh danh ông Hoàng của vùng Asturie, ban đầu chỉ có ý ám chỉ hai đảo Leyte và Samar. Sau đó từ Filippinas được dùng để chỉ toàn vùng quần đảo này.

Chế độ thực dân của Tây Ban Nha bắt đầu với đoàn quân viễn chinh của Miguel López de Legazpi trấn đóng trên đảo Cebu. Sau đó nhiều căn cứ khác được thành lập tại mạn bắc và trong vịnh Manila trên đảo Luzon. Người Tây Ban Nha xây một thành phố mới tại đây và chế độ thực dân kéo dài hơn ba thế kỷ.

Người Tây Ban Nha đem lại sự thống nhất chính trị của quần đảo trước đó bao gồm các đảo độc lập, và làm nảy sinh ra cộng đoàn sau này là nước Philippines. Chính quyền Tây Ban Nha du nhập các yếu tố của nền văn minh Tây âu như ấn loát và lịch.

Philippines bị độ hộ như là vùng đất của nước Tây Ban Nha Mới từ năm 1565 cho tới năm 1821, và do triều đình Madrid trực tiếp quản nhiệm. Trong thời thực dân Tây Ban Nha có nhiều thành phố được thành lập, các cơ sở hạ tầng được xây cất, việc canh tác và chăn nuôi súc vật mới được đẩy mạnh, và sinh hoạt thương mại trở nên phồn thịnh. Các thừa sai rao giảng Tin Mừng cho người dân bản địa và đa số theo Kitô giáo. Giáo Hội xây cất các nhà thờ, thành lập các giáo xứ, xây các trường tiểu, trung và đại học, cũng như các nhà thương, bệnh xá rải rác trên toàn nước.

Trong hai thế kỷ XIX và XX đã xảy ra một loạt các cuộc xung đột như cuộc cách mạng Philippines chống lại Tây Ban Nha năm 1896, chiến tranh Tây Ban Nha – Hoa Kỳ và chiến tranh Philippines Hoa Kỳ. Năm 1898 Philippines tuyên bố độc lập, trở thành Cộng Hóa Philippines. Tuy nhiên, với Thỏa hiệp Paris năm 1898 kềt thúc cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha, việc kiểm soát Philippines được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Nhưng chính quyền Philippines không chấp nhận thỏa hiệp này và tháng 6 năm 1899 Philippines tuyên chiến với Hoa Kỳ.

Chiến tranh đã gây ra rất nhiều thiệt hại vật chất và nhân mạng cho Philippines. Tổng thống Emilio Aguinaldo bị bắt năm 1901. Đa số các vị lãnh đạo Philippines chấp nhận chiến thắng của Hoa Kỳ, nhưng sự thù nghịch giữa hai bên kéo dài cho tới năm 1913. Chế độ thực dân Hoa Kỳ chính thức bắt đầu năm 1905. Năm 1935 Philippines được phần nào tự trị để chuẩn bị cho ngày độc lập dự kiến vào năm 1946. Nhưng Philippines bị Nhật chiếm đóng trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 có các cuộc biểu tình của sinh viên học sinh chống chính sách cai trị độc tài và gian tham hối lộ của chính quyền khiến tổng thống Ferdinand Marcos ra lệnh thiết quân luật năm 1972. Nhưng cuộc cách mạng của nhân dân năm 1986 đã lật đổ chế độ Marcos và đưa Philippines vào chế độ đân chủ. Tuy nhiên, bất ổn chính trị đã ngăn cản sự tăng trưởng kinh tế của nước này.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila, về chuyến công du này của Đức Thánh Cha.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Giáo Hội và nhân dân Philippines phản ứng ra sao khi Tòa Thánh chính thức loan tin Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Philippines vào tháng giêng năm tới 2015?

Đáp: Nhân dân Philippines yêu mến Đức Thánh Cha và việc loan báo chuyến viếng thăm Á châu, đặc biệt là tại Philippines, vào năm tới đã khiến cho người dân rất vui sướng. Đây thật là một điều tuyệt vời. Các tín hữu không công giáo, các phương tiện tryền thông xã hội, các đài phát thanh truyền hình, tất cả mọi người dân Philippines đều luôn luôn nói tới chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha vào tháng giêng năm tới như là một tháng ơn phúc. Và cũng còn có một lý do khác nữa: ngày 14 tháng giêng năm 1995 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viếng thăm Philippines nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Năm tới đây Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến Philippines ngày 15 tháng giêng, tức 20 năm sau. Nhân dân Philippines sẽ lại trông thấy một vị Đại Diện Chúa Kitô thăm mình, nơi con người của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Hỏi: Đức Thánh Cha nói rằng ngài đến Philippines nhất là để cầu nguyện và gần gũi các nạn nhân của trận bão đổ ập trên Philipines hồi năm ngoái, khiến cho nhiều người chết và gây ra các thiệt hại to lớn. Đức Thánh Cha đến để bầy tỏ sự gần gũi với người dân đau khổ…

Đáp: Vâng đúng thế, một dân tộc đau khổ, đang ở trong tiến trình tái thiết cuộc sống: không phải chỉ tái thiết nhà cửa, các trường học, nhưng đặc biệt là tái thiết cuộc sống. Nỗi khổ đau tiếp tục, nhưng sự gần gũi của tất cả mọi dân tộc thiện chí thật là ngoại thường và là một lý do giúp cho người dân có niềm hy vọng và sức mạnh tiến tới. Tuy nhiên, sự gần gũi của Đức Thánh Cha xảy ra trong một cách thế đặc biệt, bởi vì cách đây một năm Đức Thánh Cha đã làm phép bức chân dung khảm đá mầu của Thánh Pedro Calungsod, trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, sau trận bão, và ngài đã nhắn gửi người dân đau khổ Philippines: ”Anh chị em không mệt mỏi hỏi: Tại sao? Tại sao?” để lôi kéo sự chú ý và đôi mắt của Thiên Chúa Cha”. Đó là sứ điệp đánh động người dân Philippines.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, vào trung tuần tháng 8 Đức Thánh Cha Phanxicô thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên tại Á châu. Ngài đến Nam Hàn để tham dự Ngày Giới Trẻ Á châu và chủ sự lễ phong chân phước cho 124 vị tử đạo Đại Hàn. Giáo phận cũ của Đức Hồng Y đã là nơi tổ chức Ngày Giới Trẻ Á châu lần thứ V. Đức Hồng Y có thể chia sẻ một chút về thực tại này và cho biết sự chờ đợi Đức Thánh Cha tại Á châu ra sao không?

Đáp: Vâng, cách đây 4-5 năm giáo phận trước của tôi đã được chọn như là nơi diễn ra Ngày Giới Trẻ công giáo Á châu. Đó đã là một đại hội bé của người trẻ Á châu, nếu so sánh với Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Tuy nhiên, những ngày ấy đã là là những ngày có nhiều sinh hoạt đào tạo, cầu nguyện, hiệp thông và truyền giáo. Và tôi nghĩ rằng nó cũng xảy ra như thế tại Seoul bên Nam Hàn, với một chi tiết rất đặc biệt đó là sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đây là một yểm trợ cho một Giáo Hội đau khổ nhưng sinh động tại Đại Hàn.

(RG 1-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tân giám mục giáo phận Mỹ Tho: ĐC Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Tân giám mục giáo phận Mỹ Tho: ĐC Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Phòng Báo chí Toà Thánh, trong Công báo ra ngày hôm nay thứ Bảy 26 tháng Bảy 2014, ở mục “Miễn nhiệm và Bổ nhiệm”, đã loan tin: Đức Cha Nguyễn văn Khảm được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Mỹ Tho.

Tiểu sử Đức Cha Nguyễn văn Khảm:

02-10-1952:    Sinh tại Đàn Giản, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội)
1963 – 1972:   Học tại Tiểu chủng viện Thánh Quý, Cái Răng, Cần Thơ
1973 – 1976:   Học tại Đại chủng viện Thánh Tôma, Long Xuyên
1977 – 1979:   Học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Saigon
30-08-1980:    Thụ phong linh mục
1980 – 1983:   Linh mục phụ tá giáo xứ Hà Đông, hạt Xóm Mới
1983 – 1987:   Quản nhiệm giáo xứ Hà Nội, hạt Xóm Mới
1987 – 1999:   Linh mục phụ tá Nhà thờ Chính Toà Tổng giáo phận Saigon
1997:               Giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Saigon
2001 – 2004:   Học Thần học Mục vụ tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ, tốt nghiệp tiến sĩ
2004 – 10/2012: Giám đốc Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Saigon
Tháng 3-2008:   Thư ký điều hành của Hội đồng Giám mục Việt Nam
15-10-2008:    được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Saigon châm ngôn Giám mục: “Hãy theo Thầy”
15-11-2008:    Thánh lễ tấn phong Giám mục tại Đại chủng viện Thánh Giuse Saigon, do Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chủ phong
6/2011 – 19/03/2012: Giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Saigon. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã đảm nhiệm các chức vụ: Phó Tổng Thư ký (nhiệm kỳ 2010–2013 và 2013–2016), Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo (2009–2010), Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội (nhiệm kỳ 2010–2013).

Lòng Chúa Xót Thương

Lòng Chúa Xót Thương

Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.

Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".

Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.

Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:

Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!

Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.

Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.

Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".

Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.

Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.

LM. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Nỗ lực tái tạo hòa bình cho người dân Trung Phi

Phỏng vấn ba vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi

Sáng thứ tư 26-3-2014 vào cuối buổi tiếp kiến chung Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp các vị đại diện của tổ chức ”Chỗ đứng của các tôn giáo cho hòa bình”, gồm Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui, Mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành và Imam Oumar Kobine Layama, lãnh đạo Hồi giáo Bangui. Đức Thánh Cha đã khích lệ các vị hiệp nhất với nhau, gần gũi dân chúng và tiếp tục hoạt động chống lại mọi chia rẽ. Ngài cũng bảo đảm với các vị là sẽ nói chuyện với tổng thống Barack Obama về vấn đề hòa bình Trung Phi. Trước khi tham dự buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha cả ba vị cũng đã gặp Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Từ lâu nay cả ba vị lãnh đạo tôn giáo đã dấn thân cho việc bình định Trung Phi, bằng cách tiếp xúc và gặp gỡ nhiều vị lãnh đạo của cộng đồng quốc tế.

Cộng hòa Trung Phi rộng gần 623 ngàn cây số vuông, có khoảng 4,5 triệu dân gồm nhiều chủng tộc khác nhau trong đó có các nhóm quan trọng nhất như: Baya, Banda, Mandjia, Sara, Fulani, Mboum, M'Baka, Yakoma vv… Theo thống kê năm 2003 Trung Phi có 80,3% tổng số dân theo Kitô giáo gồm 51.4% Tin Lành và 28.9% Công Giáo. Hồi giáo chiếm 15% và đạo thờ vật linh chiếm 9.6%.

Trong khoảng thời gian từ năm 1.000 trước công nguyên tới năm 1.000 sau công nguyên có các nhóm người Ubangi từ phía đông Camerun cho tới Sudan đến định cư dọc sông Oubangi tức Trung Phi ngày nay. Cuối thế kỷ XIX Trung Phi trở thành thuộc địa của Pháp cho tới năm 1960 mới được độc lập. Nhưng từ đó trở đi Trung Phi bất ổn với các vụ tranh giành quyền bính nội bộ và đảo chánh liên tục. Năm 1962 ông David Dacko trở thành tổng thống và thành lập chế độ độc đảng. Năm 1965 đại tá Jean Bedel Bokassa đảo chánh lên nắm quyền. Năm 1972 ông Bokassa quyết định làm tổng thống mãn đời và tự phong mình là hoàng đế. Năm 1979 Pháp tổ chức đảo chánh lật đổ hoàng đế Bokassa và đưa ông Dacko trở lại nắm quyền. Nhưng năm 1981 ông André Kolinba đảo chánh lật đổ tổng thống Dacko, và lên cai trị cùng với hội đồng quân nhân.

Trong các cuộc bầu cử dân chủ năm 1993, ông Ange Félix Patassé đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, năm 2003 ông bị tướng Francois Bozizé đảo chánh lật đổ đang khi công du nước ngoài. Tổng thống Bozizé đắc cử nhiệm kỳ hai năm 2011.

Nhưng tháng 11 năm 2012 một liên minh các nhóm nổi loạn đánh chiếm các thành phố miền bắc và miền trung Trung Phi. Đầu năm 2013 hai bên ký thỏa hiệp chia quyền. Nhưng các nhóm nổi loạn tiến chiếm thủ đô Bangui khiến tổng thống Bozizé phải chạy trốn. Ông Michel Djotosia lãnh tụ lực lượng phiến quân Seleka lên làm tổng thống và giải tán lực lượng Seleka, nhưng các phiến quân từ chối giao nộp vũ khí và tiếp tục các vụ cướp bóc và tàn sát thường dân. Các nhóm dân quân được thành lập trong các làng gọi là lực lượng chống Balaka đánh nhau với lực lượng Seleka. Ngày 18 tháng 2 năm 2014 Liên Hiệp QuỐc quyết định gửi 3,000 quân bảo hòa tới Trung Phi để sát cánh với 6,000 quân bảo hòa của Liên Hiệp Phi châu và 2,000 quân của Pháp, nhằm tái lập hòa bình cho Trung Phi và ngăn chặn các vụ tàn sát thường dân vô tội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ba vị lãnh đao tôn giáo đã dành cho nữ phóng viên Marie Duhamel của chương trình tiếng Pháp đài Vaticăng ngày 26-3-2014. Trước hết là Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui.

Hỏi: Thưa Đức Cha, tình hìmh tại Trung Phi hiện nay ra sao?

Đáp: Dân chúng sợ hãi trốn chạy vào sống trong rừng, lạc lõng bơ vơ và kinh hoàng, đến độ họ không còn có khả năng diễn tả các cảm giác của họ nữa, hay họ bước đi ngoài đường và có nói đấy, nhưng xác tín rằng chẳng có ai lắng nghe họ cả. Nhân danh những người dân khốn khổ này tôi đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo khác lựa chọn đi gặp gỡ các chính quyền, những người quyết định, để họ lắng nghe từ tiếng nói của chúng tôi nỗi âu lo, sự khổ đau, vất vả và bần cùng của người dân ngày càng đông đang khóc than vì tình hình tồi tệ của đất nước Trung Phi. Đó là ý nghĩa sứ mệnh của chúng tôi trước hàng lãnh đạo của thế giới này.

Hỏi: Tiếng than khóc này của dân chúng xin điều gì thưa Đức Cha?

Đáp: Tiếng khóc than này hiện nay xin có an ninh, vì nếu không có an ninh thì không thể trở lại trường học được, các nhà thương không thể tái sinh hoạt, không thể tái hoạt động trong lãnh vực nông nghiệp và cũng không thể tái sinh hoạt trong lãnh vực hành chánh: mọi sự đều tê liệt hoàn toàn như hiện nay. Không có an ninh: chúng tôi đã trông thấy các hậu qủa của nó! Mọi sự đều ở số không. Vì các lực lượng đối nghịnh nhau Seleka và Chống Balaka không thành công trong việc bảo vệ người dân Trung Phi. Chúng tôi đã lên tiếng yêu cầu cộng đồng quốc tế can thiệp để bảo vệ người dân Trung Phi. Trung Phi là thành phần của cộng đồng quốc tế, vì vậy cộng đồng quốc tế không thể đứng nhìn, trong sự thờ ơ hoàn toàn, đứng nhìn người dân chết như súc vật, không thể đứng nhìn như thế mà không nhúc nhích một ngón tay! Đã đến lúc hành động, để mai ngày lịch sử không kết án chúng ta bằng cách hỏi chúng ta rằng: ”Các bạn đã làm gì với các người anh em rồi?”

Hỏi: Đức Cha có thấy một câu trả lời tích cực nào từ Liên Hiệp Quốc hay từ các hàng lãnh đạo mà Đức Cha và các vị lãnh đạo tôn giáo Trung Phi đã gặp không?

Đáp: Chúng tôi đã có các câu trả lời giúp chúng tôi tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Chính ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã nói ông đang chuẩn bị một Nghị quyết đi theo hướng của một sự can thiệp của lực lượng bảo hòa. Chúng tôi cũng đã gặp gỡ các giới lãnh đạo khác, và họ để cho chúng tôi hiểu rằng tất cả họ đều sẵn sàng liên minh với nhau để bắt đầu một hoạt động bảo hòa tại Trung Phi: càng sớm bao nhiều càng tốt bấy nhiêu, bởi vì mỗi ngày qua đi là lại có thêm người dân Trung Phi bị chết.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Oumar Kobine Layama, Imam Hồi giáo thủ đô Bangui, về tương quan giữa các tôn giáo trong tình hình khó khăn hiện nay của Trung Phi.

Hỏi: Thưa Imam, Imam có nhận xét gì về tình hình bạo lực tại Trung Phi hiện nay?

Đáp: Tín hữu phải duy trì lòng tin trong mọi hoàn cảnh, và trước mọi khó khăn chúng ta phải tự hỏi: ”Điều gì đã xảy ra vậy? Chúng ta đã làm gì? Có lẽ vì cung cách hành xử của chúng ta mà Thiên Chúa đã thử thách chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta sống thảm cảnh này chăng? Hay có lẽ để dạy cho chúng ta một bài học để chúng ta học chấp nhận Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh chăng?” Lòng tin không chỉ có trong các lúc hạnh phúc, nhưng nó phải hiện hữu cả trong thời điểm của tai ương nữa. Vì thế, sứ điệp mà tôi muốn nhắn gửi đó là sứ điệp của lòng tin, nó có nghĩa là chịu đựng, kiên nhẫn và khoan nhượng làm thành tính cách và các nhân đức của một tín hữu đích thật. Tôi yêu cầu các anh em hồi khoan nhượng và kiên nhẫn, để Thiên Chúa đem lại hòa bình và đoàn kết xã hội cho chúng ta.

Hỏi: Đã có nhiều lời kêu gọi thánh chiến được đưa ra, nhất là từ nước Mali, Imam nghĩ sao?

Đáp: Vâng, tôi biết lời kêu gọi thánh chiến bên Mali trên các địa chỉ trên mạng, nhưng tôi tự hỏi: thánh chiến chống lại ai? Đó là câu hỏi tôi tự đặt ra: bảo vệ người hồi, nhưng mà chống lại ai? Bởi vì một cách nòng cốt các tín hữu hồi được các tín hữu kitô che chở trong các nhà thờ của họ. Đa số người hồi tìm thấy sự chở che nơi các tu sĩ kitô, tin lành và công giáo, nhưng đa số là bởi các tín hữu công giáo. Vậy thì ra đi ném bom ở đâu? Trong chính các nhà thờ đã che chở các người hồi giáo à? hay là sách nhiễu chính các tu sĩ kitô đã che chở các tín hữu hồi à? Thật sự đó không phải là Hồi giáo mà Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta. Thiên Chúa đã phó thác cho chúng ta một Hồi giáo hòa bình, khoan nhượng và nhẫn nhục, chịu đựng trong tất cả mọi thứ thách. Tôi nghĩ rằng các tín hữu hồi chúng tôi đang đứng trước các khó khăn, bởi vì chúng tôi đã lựa chọn sự thinh lặng đồng lõa; chúng tôi đã không bao giờ tố cáo, trong cộng đoàn của chúng tôi, các lạm dụng, các cung cách hành xử của các người anh em trong lực lượng Seleka. Chúng tôi đã không lãnh lấy trách nhiệm của chúng tôi. Và do đó, ngày nay chúng tôi gặt các hậu qủa mà Thiên Chúa đã gửi tới cho chúng tôi. Vì thế chúng tôi phải duyệt xét lại các thái độ của chúng tôi và hành động theo đó, xin lỗi Thiên Chúa về tất cả những điều liên quan tới chúng tôi, để Thiên Chúa giúp chúng tôi cùng với những người khác tái lập sự gắn bó xã hội. Nếu trong lúc này chúng tôi mất đi niềm tin của mình, thì tình trạng sống của chúng tôi sẽ không thể tốt đẹp hơn: chúng tôi có nguy cơ gặp hết thảm họa này tới thảm họa khác, mặc dù các cố gắng của cộng đồng quốc tế. Trước lương tâm của chúng tôi chính chúng tôi trước hết phải tu họp nhau lại, hòa giải với nhau, để trợ giúp cộng đồng quốc tế lo lắng cho tình trạng sống của chúng tôi.

** Sau cùng là một vài ý kiến của mục sư Nicolas Grékoyamé-Gbangou, Chủ tịch các Giáo Hội Tin Lành Trung Phi.

Hỏi: Thưa mục sư, tại Trung Phi có ”dân quân kitô” không?

Đáp: Đã không có dân quân kitô nào tại Trung Phi cả. Các người thuộc lực lượng chống Balaka là các băng đảng tự vệ tại các làng, và giờ đây vì bắt buộc họ phải biến thành dân quân, để chống lại và ngăn chặn lực lượng Seleka. Không thể nói tới ”dân quân kitô”.

Hỏi: Mục sư có thể trực tiếp nói chuyện với các người này không?

Đáp: Họ hiện diện ở đó rải rác trong khu phố của chúng tôi, và chúng tôi tìm cách làm cho họ trở về với lý trí của họ, để giúp họ hiểu rằng thật ra chỉ có dân chúng là bị thiệt thòi, và điều quan trọng là cần phải ngưng sự thù nghịch.

Hỏi: Tình hình thê thảm trên bình diện an ninh và thực phẩm. Mục sư cầu mong điều gì?

Đáp: Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng quốc tế sẽ lắng nghe tiếng gào thét đau đớn của chúng tôi và của những người đang ở trong các hoàn cảnh khó khăn, và vì thế mau chóng can thiệp để giải quyết tình trạng của những người di tản trong nội địa cũng như những người đã ở lại nhà nhưng sống trong tình trạng nguy hiểm. Chúng tôi nghĩ cần phải tái lập an ninh một cách nhanh chóng, với sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc và tất cả những người thiện chí. Những ai có nhiệm vụ trợ giúp các người gặp khó khăn phải nhanh chóng làm điều đó.

(RG 26-3-2014̣)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 600 LM và chủng sinh sáng ngày 28-3-2014, ĐTC khuyến khích các LM và các giáo xứ tạo điều kiện dễ dàng và sẵn sàng giải tội các tín hữu muốn lãnh nhận bí tích Hòa giải.

Các LM và chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thường niên về bí tích giải tội và các vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc nhở rằng vị giữ vai chính trong sứ vụ hòa giải là Chúa Thánh Linh. Ơn tha thứ mà bí tích này trao ban chính là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông truyền nhờ Thánh Linh của Ngài, vì thế anh em được kêu gọi luôn luôn là những người của Chúa Thánh Linh, là chứng nhân và là người hân hoan và hăng say loan báo sự sống lại của Chúa”.

ĐTC cũng khẳng định ”vai trò của vị giải tội vừa là y sĩ và là thẩm phán, nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng trong tư cách là y sĩ, vị giải tội được kêu gọi chữa lành, và trong tư cách là thẩm phán, vị ấy được kêu gọi xá giải.”

ĐTC ghi nhận rằng ”các tín hữu thường cảm thấy e ngại và cơ cực khi đi xưng tội, vì những lý do thực hành, cũng như vì khó khăn tự nhiên trong việc thú tội với một người khác, vì thế – ĐTC nói – chúng ta cần cố gắng rất nhiều, để không bao giờ trở thành chướng ngại, trái lại tạo điều kiện dễ dàng cho hối nhân đến gần lòng từ bi và ơn tha thứ.”

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy tránh hai thái cực: ngặt nghèo và lỏng lẻo. ”Cả hai điều này đều không mang lại ích lợi cho hối nhân. Trái lại lòng từ bi lắng nghe thực sự bằng con tim của Thiên Chúa và muốn tháp tùng linh hồn trong hành trình hòa giải. Bí tích giải tội không phải là một tòa kết án, nhưng là một sự cảm nghiệm ơn tha thứ và từ bi”.

Sau cùng, ĐTC nói rằng ”Trong tất cả các giáo phận và cộng đoàn giáo xứ cần đặc biệt chăm sóc việc cử hành bí tích tha thứ và cứu độ. Một điều tốt lành là trong mỗi giáo xứ, các tín hữu biết được khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng giải tội cho họ: khi có sự trung thành trong vấn đề này, thì người ta sẽ thấy thành quả. Điều này đặc biệt có giá trị đối với các cộng đoàn dòng tu có thể đảm bảo một sự hiện diện liên tục các cha giải tội”. (SD 28-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

Những ngày vừa qua, bức “Thư Ngỏ” viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x. vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. “Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao”. Nhưng “TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên”, nên “xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên”.

Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó”.

Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?

Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà “ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (Lc 16,8).

Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu” (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?

Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn “người quản gia” với dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó” (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.

Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.

Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng “tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè“, bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.

Câu hỏi: “Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?”.

Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.

1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình

Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.

Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.

Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ… Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: “Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!” (Mt 16, 26).

Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụï người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.

Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: “Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời”. Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự “giàu có”. Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa

Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó“. Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.

3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi“. Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện

Đức Thánh Cha ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện

VATICAN. ĐTC Phanxicô ca ngợi đông đảo các linh mục thánh thiện, âm thầm phục vụ dân Chúa và ngài phê bình báo chí thường chỉ để ý đến thiểu số linh mục phạm lỗi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng thứ hai 27-1-2014, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican.

ĐTC đã diễn giải bài đọc thứ I trong ngày, nói về các chi tộc Israel xức dầu tôn Davit làm Vua. Ngài nêu rõ ý nghĩa thiêng liêng của việc xức dầu và nói rằng: ”Nếu không có sự xức dầu ấy thì Davit chỉ là thủ lãnh của một xí nghiệp, một xã hội chính trị là Vương quốc Israel, chỉ là một nhà tổ chức chính trị. Trái lại, sau khi được xức dầu, Thần Khí Chúa ngự xuống trên Davit và ở lại với ông. Và Kinh Thánh nói: ”Davit ngày càng tăng trưởng trong sức mạnh và Chúa là Thiên Chúa các đạo binh ở với ông”. ĐTC nhận xét rằng ”Đây chính là sự khác biệt của việc xức dầu. Người được xức dầu là người được Chúa chọn. Đó cũng là điều xảy ra trong Giáo Hội với các Giám mục và Linh mục:

”Các Giám mục không được bầu để điều khiển một tổ chức, gọi là Giáo hội địa phương, các vị được xức dầu, và Thần Khí Chúa ở với các vị. Nhưng tất cả các Giám Mục, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi! Chúng ta được xức dầu. Nhưng tất cả chúng ta muốn nên thánh hơn mỗi ngày, trung thành hơn với việc xức dầu ấy. Và người tạo nên Giáo Hội, người mang lại sự hiệp nhất cho Giáo Hội, chính là Đức Giám Mục, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, không phải vì ngài được đa số bỏ phiếu cho, nhưng vì ngài được xức dầu. Và trong sự xức dầu này, một Giáo Hội địa phương được sức mạnh của mình. Và cả các Linh mục cũng được tham dự vào sự xức dầu ấy”.

ĐTC cũng giải thích rằng ”sự xức dầu đưa các Giám Mục và Linh mục đến gần Chúa và mang lại cho các vị niềm vui và sức mạnh ”săn sóc dân Chúa, giúp đỡ dân, sống phục vụ dân”, làm cho các vị được vui mừng cảm thấy ”mình được Chúa chọn, được Chúa hướng dẫn, Chúa hướng dẫn tất cả chúng ta bằng tình yêu thương. Vì thế, khi chúng ta nghĩ đến các Giám mục và các linh mục, chúng ta phải nghĩ các vị được xức dầu”.

”Nếu không như thế, ta sẽ không hiểu được Giáo Hội, và ta cũng không thể giải thích được Giáo Hội tiến bước với sức mạnh của con người. Giáo phận này tiến triển vì có một dân thánh thiện, bao nhiêu sự, và cũng có một vị được xức dầu giúp Giáo phận tiến bước, tăng trưởng. Giáo xứ này tiến triển vì có bao nhiêu hội đoàn và nhiều điều khác, nhưng cũng có một Linh mục, được xức dầu làm cho Giáo xứ tiến triển. Và trong lịch sử chúng ta chỉ biết một phần rất nhỏ, thực tế có bao nhiêu Giám mục thánh thiện, bao nhiêu Linh mục thánh thiện đã hiến thân phục vụ giáo phận, giáo xứ, bao nhiêu người đã nhận được sức mạnh đức tin, sức mạnh tình yêu, hy vọng từ các cha sở vô dân mà chúng ta không biết. Có bao nhiêu Linh mục như thế.. Bao nhiêu cha sở miền quê hoặc cha sở thành thị, với việc xức cầu, đã mang lại sức mạnh cho dân, đã thông truyền đạo lý, đã ban các bí tích, nghĩa là sự thánh thiện”.

ĐTC nhận xét có những người nêu vấn nạn: ”Nhưng thưa cha, con đã đọc trên một tờ báo, một Giám mục đã làm chuyện này, một linh mục đã làm chuyện kia!”. Đúng vậy, tôi cũng đọc điều ấy, nhưng xin bạn hãy nói cho tôi, trên các báo chí có đăng tin về điều mà bao nhiêu linh mục, trong bao nhiêu giáo xứ thành thị và miền quê đã làm, bao nhiều việc bác ái, bao nhiêu công việc các vị đã làm cho dân không?”. Không, những điều ấy không phải là tin tức. Một điều vẫn thường xảy ra là: một cây đổ xuống thì gây nhiều tiếng ồn hơn là cả một rừng cây tăng trưởng. Hôm nay, khi nghĩ đến sự xức dầu cho Davit, chúng ta cũng hãy nghĩ đến các Giám Mục, các Linh mục can đảm, thánh thiện, tốt lành, trung thành của chúng ta và cầu nguyện cho các vị. Chính nhờ các vị mà chúng ta ở đây hôm nay!” (SD 27-1-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio