Đức Giáo hoàng Phanxicô viết thư cho một nữ tù nhân trẻ người Chilê

Đức Giáo hoàng Phanxicô viết thư cho một nữ tù nhân trẻ người Chilê

The letter that Pope Francis wrote to a young mother in prison.

Santiago, Chilê – Cách đây một năm, một nữ tù nhân ở Chilê đã viết thư cho Đức Giáo hoàng Phanxicô xin cầu nguyện và chị đã ngạc nhiên khi nhận được thư trả lời của ngài.

Ngày 27/7 vừa qua, Đức cha Luis Infanti, Giám mục địa phương nơi có nhà tù ở Coyhaique, vùng Aysén ở miền nam Chilê, đã đến thăm nhà tù và trao cho Nicol, một người mẹ trẻ đang ở tù, lá thư của Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Câu chuyện băt đầu vào năm ngoái, khi Đức Sứ thần Tòa thánh Ivo Scapolo thăm nhà tù và đã gợi ý cho Nicol viết một lá thư cho Đức Giáo hoàng và ngài sẽ chuyển cho Đức Giáo hoàng. Trong thư, người phụ nữ trẻ đã kể cho Đức Thánh Cha nghe về tình trạng của cô ở trong tù cũng như bản án của cô. Cô đã xin ngài cầu nguyện nhiều cho cô và các tù nhân đang sống với cô ở đó.

Lá thư của cô Nicol ngay lập tức đã được chuyển đến Tòa Thánh và thư Đức Giáo hoàng trả lời cho cô cũng được gửi đến Tòa sứ thần ở Chilê. Nhưng vì những trục trặc nên cô đã không nhận được lá thư của Đức Thánh Cha cho đến giữa tháng 7 năm nay.

Trong lá thư, Đức Thánh Cha đã cám ơn Nicol về sự tin tưởng của cô đối với ngài cũng như về lời cầu nguyện từ nơi giam cầm của cô và đó là điều ngài rất cần. Ngài cũng hứa chắc với cô là ngài nhớ đến cô và con trai Fernando trong lời cầu nguyện và xin Chúa ban cho cô ánh sáng đức tin và sức mạnh đến từ hy vọng, và cô có thể cảm nghiệm sự an ủi của Thiên Chúa xót thương trong sự gần gũi của những người cô yêu thương.

Nicol chia sẻ là cô không nghĩ là Đức Thánh Cha trả lời thư của cô và cô muốn thưa với ngài là cô đã lập gia đình và có một bé gái 2 tháng tuổi. (CNA 2/8/2016)

Hồng Thủy Op

Đức Cha Mar Jacob Muricken hiến thận cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ

Đức Cha Mar Jacob Muricken hiến thận cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ

Bishop Mar Jacob Muricken

Nhiều tấm gương về lòng thương xót được nhắc đến cách đặc biệt trong Năm Thánh này, trong đó có tấm gương của Đức cha Mar Jacob Muricken, 52 tuổi, người Ấn độ, Giám mục phụ tá của Giáo phận Palai thuộc Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương Syro-Malabar. Đức cha đã chọn cách cử hành Năm Thánh Lòng thương xót đến môt mức độ tuyệt vời mà ít có người có thể nghĩ đến, đó là hiến tặng một quả thận của mình cho một tín hữu Ấn giáo nghèo khổ.

Anh Sooraj Sudhakaran, 30 tuổi, là một tín hữu Ấn giáo bị suy thận nặng từ 2 năm qua. Anh là người lao động chính trong gia đình và phải làm việc để nuôi mẹ và vợ của mình. Cha của Sooraj qua đời vị bị rắn cắn, còn anh của Sooraj  thì chết vì bị nhồi máu cơ tim. Người Ấn độ ở tầng lớp cùng đinh này vừa bị bịnh nặng lại vừa bị thất nghiệp, do đó anh đã phải bán cả nhà cửa của mình để có tiền chi trả cho chi phí lọc thận. Anh Sooraj đã gõ cửa Hiệp hội tặng thận của Ấn độ, một cơ quan xã hội giúp tìm những người hiến tặng thận để cấy ghép cho các bịnh nhân, để xin được giúp đỡ. Hiệp hội này đã sắp xếp cho 15 Linh mục và 6 nữ tu hiến tặng thận cho những người không có liên hệ với mình, cho các bịnh nhân đang cần được thay thận. Tại đây, anh Sooraj đã nhận được tin vui. Đức cha Muricken của giáo phận Palai sẽ hiến tặng một quả thận của ngài cho anh.

Quyết định hiến thận của Đức cha xuất phát từ một sự kiện vào năm ngoái, khi cha Davis Chiramel, chủ tịch Hiệp hội tặng thận của Ấn độ đã được giáo phận Palia mời đến thuyết trình trong một hội nghị đặc sủng và Đức cha Muricken cũng tham dự hội nghị này. Cha Chiramel đã kể lại việc cha đã hiến tặng thận cho C. G. Gopinathan, một tín hữu Ấn giáo mà cha không quen biết vào năm 2009. Đức cha Muricken đã được đánh động bởi tấm gương quảng đại của cha Chiramel. Sau đó, Đức cha đã điện thoại cho cha Chiramel và bày tỏ ước muốn hiến tặng thận của mình. Đức cha đã ghi tên mình vào danh sách tình nguyện hiến tặng của Hiệp hội hiến tặng thận của Ấn độ.

Qua cha Chiramel, Đức cha Muricken biết được tình trạng khốn khổ của anh Sooraj và quyết định giúp anh, đặc biệt là trong Năm Thánh Lòng Thương xót này. Đức cha tặng cho anh quả thận của ngài và ngài cũng đã chi trả các chi phí xét nghiệm và phụ trợ cho việc điều trị. Tiến trình phẫu thuât cấy ghép đã bắt đầu từ hôm 1 tháng 6 vừa qua tại bịnh viện tư ở Kochi thuộc bang Kerala, Ấn độ.

Việc hiến tặng thận của Đức cha đã được nhiều người thuộc các tín ngưỡng khác nhau nhìn nhận và cảm phục. Cha Anithottathil Gervasis, bí thư của Giáo phận Palai nhận xét việc làm của Đức cha Muricken là một hành động quên mình trong tinh thần của Năm Thánh Lòng thương xót. Sự quảng đại của Đức cha đã dạy chúng ta cách thực tiễn một mẫu gương luân lý trong việc đi ra khỏi bản thân mình để cứu sự sống”. Cha cũng cho biết, Đức cha Muricken là một trong những Giám mục đơn sơ nhất. Hành động vủa ngài không phải là một trò quảng cáo câu like. Hiện tại Đức cha hạnh phúc và chỉ xin mọi người cầu nguyện để ngài có thể tiếp tục làm việc và làm chứng cho Chúa Ki-tô với đồng bào mình.

Còn cha Chiramel, người đã sắp đặt cho việc tặng thận của Đức cha đã chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên một Giám mục hiến tặng thận cho một tín hữu Ấn giáo. Thật là ý nghĩa khi Đức cha thực hiện điều này trong Năm Thánh Lòng Thương xót, theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô là yêu thương mọi người không phân biệt giai cấp hay tín ngưỡng”. Cha Chiramel rõ ràng rất vui với quyết định và món quà chưa từng có của Đức cha Muricken. Cha nói: “anh Sooraj đã nhận sự sống từ Đức cha Muricken, người đang xây một cây cầu của tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa”.

Một thương gia trong vùng thì nhận xét việc hiến thận khi đang còn sống của Đức cha đòi phải có một sự can đảm mạnh mẽ và nó đáng giá hơn nhiều lần việc quyên tặng tiền bạc hay của cải cho các tổ chức. Qua hành động của mình, Đức cha đã nêu tấm gương, đặc biệt cho các giới lãnh đạo, biết đặt tình yêu trong hành động của họ hơn là chỉ có những lời nói xuông.

Về phần mình, chia sẻ với hãng tin Công giáo Hoa kỳ, Đức cha Muricken cho biết mình không hề lo lắng về cuộc phẫu thuật cắt thận và ngài nghĩ là việc làm của mình chỉ là một hy sinh nhỏ cho một người anh em. Ngài nói: “nếu tôi có thể cứu sống anh ta thì cả gia đình anh sẽ được cứu”. Đức cha cũng chia sẻ là ngài đã nhận được nhiều sự khích lệ của các Giám mục. Đức Cha nói: “Đức Thánh Cha Phanxicô lập đi lập lại, kêu gọi hãy làm cho Chúa Giêsu trở nên hữu hình qua các hành động thương xót.” Đức cha không quan tâm đến việc người được ngài tặng thận không phải đồng đạo với mình. Ngài hy vọng việc làm của mình là một thông điệp mạnh mẽ cho mọi người xung quanh để họ cũng sẵn sàng hiến tặng các cơ phận. Đức cha xin cầu nguyện cho ngài. (CNA 1/6/2016)

Hồng Thủy OP

Liêm chính, một nhân đức quý hiếm trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Liêm chính, một nhân đức quý hiếm trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Swiss-Bank

Liêm chính, một nhân đức hiếm có trong xã hội tôn thờ tiền bạc

Từ vài tuần qua đã xảy ra vụ động đất khiến cho nhiều giới chức chính trị, doanh thương và nam nữ nghệ sĩ cũng như các nhà thể thao quốc tế bắt đầu cảm thấy chao đảo.

Đó là vụ Panama papers, gồm 11.5 triệu tin tức tài liệu liên quan tới việc trốn thuế của nhiều nhân vật quan trọng trên thế giới, đã bị đánh cắp hay do một tổ chức chuyển tới cơ quan báo chí điều tra gồm nhiều thành viên, trong đó có cả tuần san Expresso của Italia. Và thế là các nhật báo thế giới cho chạy các hàng tít nóng bỏng khiến cho Panama trở thành một trong các thiên đường trốn thuế nổi tiếng.

Đây là vụ tin tức trốn chạy lớn nhất trong lịch sử tài chánh thế giới. Chúng liên quan tới 200,000 tổ chức làm ăn ở hải ngoại do văn phòng Mossack Fonseca, có trụ sở tại thành phố Panama, tạo ra tại 21 thiên đàng trốn thuế: từ quần đảo Caraibi cho tới các nước nhỏ tại Thái Bình Dương, từ đảo Chypre cho tới sa mạc Nevada bên Hoa Kỳ. Chủ nhân của chúng là hàng chục ngàn khách hàng và công dân thuộc 200 quốc gia trên thế giới.

Cuộc điều tra đã bắt đầu từ một năm qua, từ khi 11,5 triệu tin tức điện tử được chuyển cho nhật báo Nam Đức Sudeutsche Zeitung, và được nhật báo này chia sẻ với các nhật báo khác, thành viên của tổ chức báo chí điều tra quốc tế. Các giới chức thuế vụ của nhiều quốc gia như Đức và Hoa Kỳ đã bắt đầu đưa ra các biện pháp đối phó.

Trong số ra ngày 8 tháng 4 tuần san Expresso đã công bố danh sách 100 trên 800 các nhà kinh doanh, thương mại, giới tài chánh, thể thao, nghệ sĩ và các chuyên viên làm ăn Italia dính líu trong vụ này, kể cả vài nhân vật chính trị như Luca Corderro di Montezemolo, Carlo Verdone chủ tịch hãng máy bay Alitalia, hay nhà vẽ kiểu thời trang Valentino.

Các tin tức liên quan tới các hoạt động trốn thuế từ năm 1977 tới 2015 cho thấy một bản tường trình chưa từng có về các dòng sông tiền bạc chảy qua hệ thống toàn cầu. Các ngân khoản khổng lồ hàng ngàn tỷ mỹ kim này là tiền trốn thuế, gian tham hối lộ, hay của cả các tổ chức tội phạm.

Các vụ xì căng đan này đã khiến cho một vài người phải từ chức như trường hợp của thủ tướng Islen. Trong khi thủ tướng Cameron của Anh quốc phải tường trình trước Quốc Hội, và trong các ngày qua đã xảy ra các cuộc xuống đường biểu tình của dân chúng đòi ông từ chức. Trong số các chính trị gia bị nghi ngờ mở các trương mục tại Panama hay một thiên đàng trốn thuế nào khác ở nước ngoài cũng có các chính khách cộng sự viên của tổng thống Nga Vladimir Putin,  tổng thống Ucraina Petro Poroschenko, gia đình của tổng thống Ilham Aliyev của Azerbaigian, con cả của tổng thống Pakistan Nawaz Sharif, và thân nhân của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, cũng như tân tổng thống Argentina Mauricio Macri, nguyên thị trưởng Buenos Aires, và là một doanh thương. Ông Macri là người quản trị và chủ tịch một công ty tại Bahamas do văn phòng Mossack Fonseca quản lý. Phát ngôn viên của tổng thống Argentina cho biết công ty ấy thuộc gia đình tồng thống và tổng thống không có cổ phần cá nhân trong đó. Lập trường tương tự cũng đã được phát ngôn viên của tổng thống Poroshenko công bố. Ông cho biết hai công ty tại British Virgin Islands  cũng như hai công ty khác trên đảo Chypre và Hoà Lan không liên quan gì tới hoạt động chính trị của tổng thống, là một doanh thương có một hãng sản xuất thực phẩm lớn.

Trong thế giới thể thao cũng có những thành viên của tổ chức túc cầu quốc tế FIFA. Chẳng hạn như văn phòng luật pháp của ông Juan Pedrro Damiani, thành viên của uỷ ban luân lý của tổ chức FIFA, có các tương quan thương mại với ông Eugenio Figueredo, phó chủ tịch của tổ chức. Cũng như ngôi sao túc cầu Lionel Messi có công ty Mega Star Enterprises Incorporation, tài tử Xinê Jackie Chan cũng dã nhờ văn phòng Fonseca mở cho 6 công ty ở nước ngoài. Văn phòng Fonseca cũng đứng ra mua chiếc tầu du lịch của vua Salman bin Adbulaziz Al Saud của A Rập Sauđi và của vua Mohammed VI của Marốc.

Trong số các nhà băng liên lụy trong vụ Panama Papers có các nhà băng UBI, Unicredit,  và các nhà băng lớn như UBS của Thuỵ Sĩ và HSBC của Anh quốc phục vụ các khách hàng của mình.

Ngày 12 tháng 4 vừa qua các văn phòng của tổ chức Mossack Fonseca đã bị cảnh sát Panama khám xét. Vụ khám xét bất thình lình này đã do ông chưởng lý ra lệnh để kiếm soát các hoạt động bất hợp pháp của văn phòng. Vụ khám xét này xảy ra một ngày trưóc phiên họp tại Paris của các điều tra viên thuộc 28 quốc gia nhằm phát động một hoạt động quốc tế điều tra dựa trên sự thúc đầy của các vén mở của vụ Panama Papers. Nó nhắm mục đích đề ra một chiến thuật toàn cầu chống lại việc trốn thuế trên các chiều kích rộng rãi.

Văn phòng Mossack Fonseca quả quyết mình đã không vi phạm luật lệ nào, vì chỉ tạo ra các trương mục ở nưóc ngoài cho các thân chủ và các sinh hoạt khác không dính líu tới các trương mục này. Tổng thống Juan Carloss Varela của Panama đã bầy tỏ sẵn sàng khiến cho lãnh vực tài chánh của đất nước được minh bạch hơn, và bênh vực tâm quan trọng sinh tử của nó đối với nền kinh tế quốc gia. Ông cũng yêu cầu nước Pháp xét lại việc đưa Panama vào trong danh sách các nước không cộng tác liên quan tới việc thông tin tức tài chánh.

Thật ra, không phải bây giờ người ta mới biết tới các vụ trốn thuế của hầu hết các nhân vật giầu trong xã hội. Sở dĩ Thuỵ Sĩ đã không bao giờ biết đến chiến tranh trong hơn 8 thế kỷ, vì nó là nơi cất giữ tiền bạc tài sàn của hàng lãnh đạo thế giới, của các nước dân chủ cũng như của các nước độc tài. Và nó chỉ là một trong các thiên đàng trốn thuế trên hành tinh này. Thế mới biết liêm chính là nhân đức hiếm hoi biết bao trong thế giới nằm dưới quyền thống trị và chỉ huy của Thần Tiền!

Linh Tiến Khải

 

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 13

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 13

Chia Sẻ Cơm Áo

13.3 Phân Tích:

13.3.1 Bài Tập C-1:

        Em hãy nêu lên những nguyên do và hậu quả của việc chia sẻ cơm áo trong một cộng đồng nào đó, ví dụ, một làng nhỏ, một bộ lạc trong rừng, một thị trấn, hay một thành phố.

ChiaSeComAo

13.3.2 Bài Tập C-2:

Hãy cho biết ngoài cơm ăn và áo mặc chúng ta còn nên giúp cho những người kém may mắn hơn chúng ta những điều gì?  Tại sao chúng ta nên giúp những điều đó?

boy eating on ground


5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

Mother Teresa Calcuta

Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta (Agnes Gonxhe Bojaxhiu) chào đời ngày 26-8-1910 tại Skopje thuộc Cộng Hòa Macedonia trong một gia đình trung lưu người Albania đến từ Kosovo. Thời xuân trẻ, mẹ gia nhập dòng Đức Trinh Nữ MARIA cũng được gọi là dòng Các Nữ Tu Loreto bên Ái-nhĩ-lan với tên dòng là Mary Teresa. Mẹ được gởi đi truyền giáo bên Ấn Độ và đặt chân đến Calcutta ngày 6-1-1929. Tại đây mẹ vừa dạy học vừa làm hiệu trưởng một trường học. Trong khung cảnh đói khổ của người dân Ấn, năm 1946, mẹ dấn thân làm việc tông đồ giữa người nghèo tại Calcutta và năm 1948 mẹ thành lập hội dòng Nữ Thừa Sai Bác Ái. 15 năm sau, ngành nam của hội dòng chào đời với tên Tu Huynh Thừa Sai Bác Ái. Năm 1979 mẹ nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình và qua đời ngày 5-9-1997 tại Calcutta. Mẹ được Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

 Sau đây xin giới thiệu chứng từ của Đức Hồng Y Angelo Comastri, Quản Đốc đền thờ Thánh Phêrô, về Chân Phước mẹ Têrêxa Calcutta.

 Từ lúc còn trẻ, tôi có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêxa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

 – Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

 – Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Mẹ Têrêxa liền nắm chặt hai bàn tay tôi rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

 – Con à, nếu không có THIÊN CHÚA hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà THIÊN CHÚA đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!

 Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó. Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa .. Năm 1979, mẹ Têrêxa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay THIÊN CHÚA. Mẹ Têrêxa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi. Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn. Biết rõ thế nên không ai nỡ trách sao mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!

 Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Têrêxa Calcutta dừng lại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các Nữ Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêxa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:

 – Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?

 Mẹ Têrêxa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

 – Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu THIÊN CHÚA. Thế thôi!!! Anh cho là quá ít sao???

 Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng .. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêxa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

 – Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?

 – Dạ rồi! chàng ký giả đáp.

 – Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con cái chưa?

 – Thưa mẹ, ba đứa!

 – Tốt lắm! Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!

 Năm 1988 mẹ Têrêxa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma. Năm ấy tôi là Cha Sở của họ đạo.

 Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ. Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ MARIA. Bầu trời trong xanh. Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười. Mẹ Têrêxa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:

 – Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp. Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp!

 Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau. Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Têrêxa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Têrêxa nói:

 – Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!

 Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

 – Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!

 Nhưng mẹ Têrêxa quyết liệt trả lời:

 – Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!

 Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:

 – Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!

 Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Têrêxa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa.

 Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái. Mẹ giải thích:

 – Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu. Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU! Những con tim thật trong sạch!

 Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Têrêxa đến đảo Isola d'Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện. Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo .. Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:

 – Thưa Cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con. Con có cảm tưởng chính THIÊN CHÚA đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này!

 Quay sang mẹ Têrêxa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói. Mẹ Têrêxa nhẹ nhàng đáp:

 – Xin Cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, THIÊN CHÚA vẫn nhìn ông. Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài! THIÊN CHÚA lÀ TÌNH YÊU!

 Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Têrêxa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Têrêxa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 … Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán cùng các môn đệ rằng: ”Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: ”Hãy đến, hỡi những kẻ CHA Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn, Ta khát, các con đã cho uống, Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước, Ta mình trần, các con đã cho mặc, Ta đau yếu, các con đã viếng thăm. Ta bị tù đày, các con đã đến với Ta”. Khi ấy, người lành đáp lại rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng thăm Chúa đâu?” Vua đáp lại: ”Quả thật, Ta bảo các con: những gì các con đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Matthêu 25,31-40).

 (”Tertium Millennium”, Agenzia d'Informazione, n.3, Settembre/1997, trang 3-4).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Bánh Thánh Thể

Bánh Thánh Thể

Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.

Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.

Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:

Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.

Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.    

Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.

Sưu tầm

Bánh Hằng Sống

Bánh Hằng Sống

Nhà văn James Colaianni ghi lại một chuyện như sau:

Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.

Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.

Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.

Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.

Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.

Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi."

Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.

Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).

Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.

Thật là một điều bất hạnh khi phải hành trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.

Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh. Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.

Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?

Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng với cái vé cuộc đời.

Sưu tầm

Bánh bởi trời

Bánh bởi trời

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Loan báo Tin Mừng

Loan báo Tin Mừng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.

Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.

Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.

Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.

Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.

Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.

Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.

Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

Pope Francis and Ecuador's President Rafael Correa walk after Pope Francis landed in Quito

Theo thông tấn xã AFP đưa tin, ĐTC Phanxicô đã vừa đến nước Ecuador vào trưa ngày Chúa Nhật ngày 5 tháng 7 năm 2015 vào lúc 2:43 giờ địa phương. Đây là chuyến viếng thăm các nước Nam Mỹ kể từ 2 năm trước. Trong chuyến này Ngài cũng sẽ đi thăm nước Bolivia và Paraguya sau đó, Ngài cũng sẽ chú trọng về hoàn cảnh của các người nghèo.

Chiếc máy bay dân sự của hãng Alitalia chở Ngài và đoàn tùy tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế Mariscal Sucre tại Quito. ĐTC đã được Tổng Thống Rafael Correa đón rước tại phi trường. ĐTC sẽ chủ tế thánh lễ tại Ecuador vào ngày thứ Hai và cũng sẽ gặp gở tổng thống Rafael Correa tại tư dinh.

Nước Ecuador có 16 triệu dân, lúc trước có khoảng 94% theo đạo Công Giáo nhưng gần đây số người theo đạo Công giáo bị giảm dần chỉ còn 80%, vì một số đã chuyển sang đạo Tin Lành, một trong những lý do chánh là một số người dân bản xứ rất mệt mỏi trước sự thiếu chăm sóc từ hàng giáo phẩm. ĐTC dự kiến ​​sẽ quan tâm đặc biệt đối với các cộng đồng dân bản xứ này .

Trước khi lên máy bay Ngài có nói " Tôi muốn làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng và mang lại sự dịu dàng và chăm sóc của Thiên Chúa, " và Ngài còn nói thêm "Đặc biệt là trẻ em có nhu cầu, người già, người bệnh, người bị bắt giam, người nghèo, những người là nạn nhân của nền văn hóa thối nát này . "

Đây là cuộc thăm viếng lần thứ 2 sau lần đầu vào năm 1985 đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đến.

 

Video ĐTC đến Ecuador

Đánh giá theo lý lịch

Đánh giá theo lý lịch

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.

Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.

Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.

Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.

Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.

Việc lớn, việc nhỏ

Việc lớn, việc nhỏ

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.

Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.

Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.

Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.

Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.

Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.

Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!

Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu – Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu – Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.

Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.

Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.

Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.

Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.

Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.

Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.

Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.

Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.

Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.

Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.

Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Nơi Chúa hẹn gặp ta

Nơi Chúa hẹn gặp ta

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Là con người sống trong không gian và thời gian, chúng ta thường suy nghĩ và tưởng tượng theo chiều kích của không gian và thời gian. Vì thế, khi Kinh Thánh nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” hoặc như “người bay” tự động cất bổng mình lên trời, để rồi không biết dừng lại ở hành tinh nào khi ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì sau khi sống lại 40 ngày, Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Các phi hành gia đầu tiên vào vũ trụ cho biết họ chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy Thiên Chúa!

Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.

Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công vụ Tông đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh: ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu đã được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ này nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.

Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin Mừng hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng “Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Kitô giáo sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bầu cho chúng ta trên trời (Dt 7,25) và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại (Ga 12, 32).

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Có một con người mang tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chẳng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không chỉ là phần thưởng cho con người, là sự “bù lỗ” cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.

Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).

Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ lên trời, không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời… Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời” (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.

Vui sướng biết bao: “Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta khi gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.

Ái mộ những sự trên trời

Ái mộ những sự trên trời

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.

Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Như cành liền cây

Như cành liền cây

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh Lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Toà Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh Lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu Châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.

Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn..

Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe doạ, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ta trồng người như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao người lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm” (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, vì dân Israel như nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x. ls, 1-7).

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là “cây nho thật” và “Chúa Cha là người trồng nho”, để xác minh rằng: đây là cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trồng tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:

“Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn”… “Thầy là cây nho, anh em là cành”.

Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.

Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là “cành nho phải sinh hoa trái”. Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”.

Thế nào là sinh hoa kết trái? Chúng ta có thể tìm thấy cây trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.

Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên một sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến Phục Sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.

Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người Kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.

Hiến mạng cho chiên

Hiến mạng cho chiên

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.

Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.

Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:

“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,

Tôi chẳng thiếu thốn gì…

Dầu qua lũng âm u,

Tôi sợ gì nguy khốn,

Vì có Chúa ở cùng..”

Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).

Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Không có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.

Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được”(Ga 10,28).

Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!

Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.

Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.

Công bố Tông Sắc Năm Thánh về lòng thương xót

Công bố Tông Sắc Năm Thánh về lòng thương xót

VATICAN. Chiều thứ bẩy 11-4-2015, Tông sắc của ĐTC ấn định Năm Thánh Ngoại thường về lòng thương xót của Chúa đã được công bố tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Năm Thánh này sẽ bắt đầu từ ngày 8-12 năm nay và kết thúc vào ngày 20-11-2016, lễ Chúa Kitô Vua.

Tông sắc dài mang tựa đề ”Misericordiae vultus” (Khuôn mặt thương xót) qua đó, ĐTC giải thích những lý do khiến ngài tuyên bố Năm Thánh đặc biệt về lòng thương xót, đồng thời đề ra những đường hướng giúp sống Năm Thánh tốt đẹp nhất.

Trước khi bắt đầu kinh chiều, tại tiền đường Đền thờ gần cửa Năm Thánh, trước sự hiện diện của gần 40 Hồng Y và 30 giám mục cùng các chức sắc khác, ĐTC đã đọc lời nguyện rồi trao Tông Sắc cho ĐHY Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô, và 3 Đền thờ khác, 3 Hồng y Tổng trưởng Bộ Giám mục, Đông Phương và Truyền giáo, cũng như cho đại diện các Giáo Hội rải rác trên thế giới và cho 7 Đức Ông Công chứng viên Tông Tòa.

Một Đức Ông Công chứng đã đọc một vài đoạn trong Tông Sắc trước Cửa Năm Thánh ở cuối đền thờ thánh Phêrô.

Tông sắc gồm 3 phần: trong phần đầu ĐTC đào sâu ý niệm Thương xót, trong phần hai ngài trình bày một số gợi ý để cử hành Năm Thánh. Sau cùng phần ba chứa đựng một số lời kêu gọi.

Nội dung Tông Sắc ”Miresicordiae vultus”

I- Phần thứ I: ý niệm Lòng Thương xót

Trong phần này, ĐTC nhấn mạnh rằng việc mở cửa Năm Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô sẽ diễn ra vào ngày 8-12 năm nay vì hai lý do: thứ nhất vì ngày ấy trùng vào Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, là Đấng được Thiên Chúa muốn là ”người thánh thiện và không tỳ ố trong tình thương” ”để nhân loại không bị lẻ loi và lệ thuộc sự ác”. Thứ hai, ngày 8 tháng 12 tới đây cũng là ngày kỷ niệm 50 năm bế mạc Công đồng chung Vatican 2 là Công đồng đã ”phá đổ những bức tường thành khép kín Giáo Hội trong thời gian quá lâu trong một thành trì đặc ân”, để đưa Giáo Hội ”loan báo Tin Mừng một cách mới mẻ”, sử dụng ”liều thuốc thương xót, thay vì dùng những võ khí ngặt nghèo”, như Đức Gioan 23 đã nói.

Trong mỗi giáo phận cũng có một Cửa Thánh

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô loan báo rằng chúa nhật 13-12 năm nay, chúa nhật thứ 3 mùa vọng, ngài sẽ mở Cửa Năm Thánh tại Nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma, tức là Vương cung thánh đường thánh Gioan Laterano. Sau đó các Cửa Năm Thánh tại các Vương cung thánh đường giáo hoàng khác ở Roma cũng được mở ra. Ngoài ra, ĐTC qui định rằng trong mỗi giáo phận và cả các Đền thánh cũng sẽ mở Cửa Thương Xót như thế trong trọn Năm Thánh, để Năm Thánh này cũng có thể được cử hành ở cấp địa phương, ”như một dấu chỉ hiệp thông của toàn thể Giáo Hội”.

Lòng thương xót, xà nhà của Giáo Hội

ĐTC viết: lòng thương xót là ”Con đường liên kết Thiên Chúa với con người, vì mở rộng tâm hồn cho niềm hy vọng được yêu thương mãi mãi, mặc dù có những giới hạn do tội lỗi chúng ta”; lòng thương xót là ”luật căn bản ở trong tâm hồn mỗi người”; là ”xà nhà nâng đỡ cuộc sống của Giáo Hội”; ”là lý tưởng sống và là tiêu chuẩn xác định xem niềm tin của chúng ta có đáng tín nhiệm hay không”. Có nhiều định nghĩa ĐTC Phanxicô dành cho lòng thương xót, ngài nhấn mạnh rằng lòng thương xót ”không phải là một dấu chỉ sự yếu nhược, nhưng đúng hơn là phẩm tính toàn năng của Thiên Chúa”. Lòng thương xót của Thiên Chúa là ”vĩnh cửu” vì ”đời đời con người sẽ luôn ở dưới cái nhìn thương xót của Chúa Cha”. Trong Chúa Giêsu, ”tất cả đều nói về lòng thương xót và không gì bị thiếu sự cảm thương”, vì ”con người của Chúa Giêsu không là gì khác hơn là tình thương, một tình thương trao ban nhưng không”.

Về điểm này, ĐTC nhấn mạnh một điều quan trọng: lòng thương xót ”không phải chỉ là hành động của Chúa Cha, nhưng còn trở thành tiêu chuẩn để hiểu ai là những người con đích thực của Chúa”. Trong thực hành, ”tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống lòng thương xót vì lòng thương xót đã được áp dụng cho chúng ta trước tiên”: vì thế, ”tha thứ những xúc phạm người ta làm cho chúng ta.. chính là một mệnh lệnh mà các tín hữu Kitô không thể tránh né hoặc bỏ qua”. ĐTC nhận xét rằng bao nhiêu lần, tha thứ dường như là điều khó khăn, nhưng ”tha thứ chính là phương tiện đặt trong những bàn tay mong manh của con người để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn”, ”để sống hạnh phúc”.

ĐTC viết thêm rằng: cả ”uy tín, sự đáng tín nhiệm của Giáo Hội cũng tiến qua con đường từ bi thương xót và cảm thương”: ”có lẽ trong thời gian quá dài, chúng ta đã quên ấn định và sống con đường thương xót”, chiều theo cám dỗ ”luôn đòi hỏi công lý và chỉ có công lý”, trong lúc nơi nền văn hóa hiện nay, ”kinh nghiệm về sự tha thứ ngày càng trở nên khan hiếm”. Từ đó, ĐTC nhắn nhủ Giáo Hội hãy đảm nhận trách vụ ”vui mừng loan báo sự tha thứ”, ”là sức mạnh làm tái sinh vào cuộc sống mới và mang lại can đảm để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng”

Khẩu hiệu của Năm Thánh là: hãy có lòng thương xót như Chúa Cha

Tiếp tục Tông Sắc, ĐTC nhắc nhở rằng chủ đề lòng thương xót là điều mà ngài đặc biệt quí chuộng, đến độ đã chọn khẩu hiệu GM của ngài là ”Miserando atque eligendo” (Người cảm thương và chọn [Ông Matthêu], đây là một thành ngữ ”vẫn luôn gây ấn tượng mạnh cho tôi”. Rồi ĐTC trích dẫn thông điệp ”Dives in misericordia” (Thiên Chúa giàu lòng xót thương) của Đức Gioan Phaolô 2. ĐTC nhấn mạnh ”sự cấp thiết phải loan báo và làm chứng về lòng thương xót trong thế giới ngày nay” với một ”lòng hăng say mới mẻ và bằng một hoạt động mục vụ được đổi mới”, vì đó là ”điều có tính chất quyết định đối với Giáo Hội và đối với uy tín việc loan báo của Giáo Hội”. ”Nơi nào Giáo Hội hiện diện, thì nơi đó lòng thương xót của Chúa Cha phải trở thành điều hiển nhiên tỏ tường”, ”và nơi nào có các tín hữu Kitô, thì bất kỳ ai cũng có thể tìm được một ốc đảo từ bi thương xót”.

Phần thứ I trong Tông Sắc của ĐTC kết thúc với lời nhấn mạnh về khẩu hiệu của Năm Thánh, nghĩa là ”Các con hãy có lòng thương xót như Chúa Cha”, câu này trích từ Tin Mừng theo thánh Luca, đoạn 6 câu 36. Đây chính là ”một chương trình sống rất đòi hỏi, đầy hoan lạc và an bình”. ĐTC tái kêu gọi các tín hữu hãy có khả năng ”lắng nghe Lời Chúa.. để có thể chiêm ngắm lòng thương xót của Chúa và đón nhận lòng thương xót như chính lối sống của mình”.

II- Sang phần thứ II của Tông Sắc, ĐTC trình bày chủ đề:

“Làm thế nào để sống Năm Thánh một cách tốt đẹp nhất”. Ngài đưa ra một số chỉ dẫn thực hành, ví dụ:

– Đi hành hương, vì hành hương sẽ là một ”dấu chỉ nói lên sự kiện cả lòng thương xót cũng là một mục tiêu cần đạt tới, nó đòi hỏi sự dấn thân và hy sinh”.

– Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, nhưng hãy tha thứ và cho đi, xa tránh tật xấu nói hành nói xấu người khác, tránh những lời nói vì ghen tương, phân bì, và hãy đón nhận điều tốt lành ở nơi mỗi người, trở thành khí cụ tha thứ.

– Cởi mở tâm hồn đối với những môi trường bên lề cuộc sống, mang lại an ủi, cảm thương, liên đới và quan tâm đến những người đang sống trong những tình trạng bấp bênh, đau khổ trên thế giới ngày nay”, ”quan tâm đến bao nhiêu anh chị em bị tước đoạt phẩm giá”, “Ước gì tiếng kêu của họ trở thành tiếng kêu của chúng ta và cùng nhau chúng ta có thể phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ”.

– Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, để ”thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói”. Đàng khác, ĐTC nhấn mạnh sứ mạng của Chúa Giêsu là: mang lại an ủi cho người nghèo, loan báo sự giải thoát cho các tù nhân của các chế độ nô lệ tân thời, trả lại thị giác cho người co cụm vào mình, trả lại phẩm giá cho người bị tước mất, có khả năng ”chiến thắng sự dốt nát mà hàng triệu người đang phải chịu trên thế giới, nhất là các trẻ em không được trợ giúp cần thiết để thoát khỏi cảnh nghèo”. Như thánh Gioan Thánh Giá đã nói, ”vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái”.

– Trong các giáo phận, hãy gia tăng sáng kiến cầu nguyện và thống hối ”24 giờ cho Chúa”, sáng kiến này cần cử hành vào những ngày thứ sáu và thứ bẩy tuần thứ tư mùa chay. Đặc biệt ĐTC nêu bật rằng bao nhiêu người trẻ đang đến gần bí tích Hòa Giải là bí tích giúp ”động chạm một cách cụ thể lòng thương xót cao cả của Thiên Chúa”, nhờ đó nhiều người trẻ cảm thấy có thể ”tái khám phá ý nghĩa cuộc sống của mình”.

Các linh mục được phép tha những tội dành quyền giải cho Tòa Thánh

Có một đoạn trong đó ĐTC bàn về đề tài tha tội: nhất là ngài cầu mong rằng ”các vị giải tội hãy trở thành dấu chỉ đích thực về lòng thương xót của Chúa Cha”, không phải bằng cách 'sáng tác' theo hứng trong nghĩa vụ này, nhưng bằng cách trở thành những ”hối nhân đầu tiên tìm ơn tha thứ”. ”Vì thế, mỗi vị giải tội, như người trung thành phục vụ ơn tha thứ của Thiên Chúa, phải đón nhận các tín hữu ”như người cha trong dụ ngôn người con trai hoang đàng”, hoặc ”như một người cha chạy ra gặp con mình, dù người con ấy đã phung phí của cải của cha”. Vì thế, các vị giải tội ”đừng đặt những câu hỏi không thích hợp”, ”nhưng biến đón nhận nơi tâm hồn mỗi hối nhân lời kêu cầu trợ giúp và xin tha thứ”, các vị giải tội được mời gọi luôn luôn trở thành dấu chỉ sự tối thượng của lòng thương xót, ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, và dù thế nào đi nữa”.

Tiếp đến ĐTC loan bào rằng trong Mùa Chay Năm Thánh, ngài sẽ gửi các Thừa sai của lòng thương xót, tức là những linh mục mà ngài ”ban quyền được tha cả những tội dành quyền giải cho Tòa Thánh”. Ngài giải thích rằng ”các thừa sai ấy là dấu chỉ sự quan tâm từ mẫu của Giáo Hội đối với dân Chúa, và sẽ là những vị kiến tạo nơi mọi người ”một cuộc gặp gỡ đầy tình người, nguồn mạch sự giải thoát, đầy tinh thần trách nhiệm để khắc phục những chướng ngại và trở lại cuộc sống mới của bí tích rửa tội”. Đồng thời ĐTC yêu cầu tổ chức ”các cuộc đại phúc” trong các giáo phận, để những thừa sai vừa nói đến loan báo niềm vui của ơn tha thứ”.

 Ân xá

 Một yếu tố đặc biệt của Năm Thánh là Ân xá, ân xá chứng tỏ rằng ”sự tha thứ của Thiên Chúa đối với các tội lỗi của chúng ta không có giới hạn”. Thực vậy trong bí tích Hòa Giải, tội lỗi bị xóa bỏ nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa, với ân xá, tội nhân được giải thoát khỏi ”dấu vết tiêu cực”, khỏi mọi tàn tích do hậu quả của tội, tàn tích còn lại nơi đường lối cư xử và tư tưởng của chúng ta. Theo nghĩa đó, người được ân xá, thì có khả năng hành động trong tình bác ái, tăng trưởng trong tình thương, thay vì tái sa ngã phạm tội.

III- Trong phần thứ ba của Tông Sắc, ĐTC đưa ra một số lời kêu gọi:

– Với những thành phần thuộc những nhóm tội phạm, ngài viết: ”Vì thiện ích của anh chị em, tôi xin anh chị em hãy thay đổi cuộc sống.. đừng tiếp tục dửng dưng đối với lời kêu gọi hãy cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. ”Tiền bạc không mang lại hạnh phúc chân thực. Nó chỉ là một ảo tưởng và bạo lực sử dụng để tích lũy tiền bạc đẫm máu không làm cho người ta quyền năng và cũng chẳng trở nên bất tử. Không ai có thể tránh thoát sự phán xét của Thiên Chúa.”

– Với những người gây ra hoặc đồng lõa với sự tham nhũng, ĐTC nói: ”Đây là lúc thuận lợi để thay đổi cuộc sống! Chỉ cần đón nhận lời mời gọi hoán cải và tùng phục công lý trong khi Giáo Hội trao tặng lòng thương xót”. Ngoài ra, ĐTC cũng nhấn mạnh rằng sự tham nhũng là ”một tai ương làm cho xã hội ung thối, một tội trọng kêu thấu tới trời, vì nó làm thương tổn tận gốc rễ cuộc sống cá nhân và xã hội. ”Nó là một sự miệt mài ở lại trong tội lỗi, muốn thay thế Thiên Chúa bằng ảo tưởng tiền bạc như một hình thức quyền năng; tham những là một ”công trình của đen tối, được nâng đỡ bằng sự ngờ vực và mưu mô”: nó là một cám dỗ mà không ai có thể cảm thấy mình được miễn nhiễm. Từ đó ĐTC kêu gọi hãy loại trừ tai ương tham nhũng ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội, bằng cách sử dụng khôn ngoan, cảnh giác, lương thiện, minh bạch, cùng với sự can đảm tố giác.

– Về việc đối thoại liên tôn, ĐTC nhắc nhở rằng: Do thái giáo và Hồi giáo đều coi lòng thương xót là một trong những phẩm tính cao trọng nhất của Thiên Chúa và hai tôn giáo này cũng tin rằng không ai có thể giới hạn lòng thương xót của Chúa, vì những cánh cửa của Chúa mở rộng. ĐTC cầu mong rằng Năm Thánh có thể ”tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc gặp gỡ với hai tôn giáo ấy và với những truyền thống tôn giáo cao quí khác, làm cho mọi người cởi mở hơn đối với sự đối thoại, loại bỏ mọi hình thức khép kín, khinh rẻ, khu trừ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị.

– Về tương quan giữa công lý và lòng thương xót: đây không phải là hai khía cạnh tương phản với nhau, nhưng là hai chiều kích của cùng một thực tại duy nhất, hai khía cạnh này phát triển đến độ đạt tới tột đỉnh trong tình yêu sung mãn. Chúa Giêsu đã tách rời khỏi quan niệm vụ luật thuần túy, hoặc thái độ chỉ lo tuân giữ luật lệ, Chúa Giêsu chứng tỏ rằng ”đại hồng ân lòng thương xót tìm kiếm những người tội lỗi để cống hiến cho họ ơn tha thứ và cứu độ”. ĐTC giải thích rằng: “Công lý của Thiên Chúa chính là sự tha thứ của Chúa”, và đó chính là vị thế tối thượng của lòng thương xót, là chiều kích cơ bản trong sứ mạng của Chúa Giêsu, vì ”không phải sự tuân giữ luật mang lại ơn cứu thoát, nhưng là niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô”. Theo nghĩa đó, ”lòng từ bi không trái với công lý”, vì qua đó, Thiên Chúa cống hiến cho tội nhân cơ hội ”hồi tỉnh lại, hoán cải và tin tưởng”. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là ”hạ giá công lý hoặc làm cho công lý trở nên thừa thãi, trái lại: ai lầm lỗi thì phải đền bù, chịu hình phạt. Có điều là sự kiện này không phải là mục đích, nhưng là khởi đầu của một cuộc hoán cải, để họ cảm nghiệm được sự dịu dàng của ơn tha thứ. Xét cho cùng, tình thương ở nơi nền tảng của một nền công lý đích thực”.

Kết luận

Trong phần kết luận Tông Sắc, ĐTC nhắc đến hình ảnh Đức Maria, ”Mẹ Thương Xót”, cuộc sống của Mẹ được uốn nắn nhờ sự hiện diện của lòng thương xót nhập thể. Là hòm bia giao ước giữa Thiên Chúa và loài người, Mẹ Maria chứng thực rằng lòng thương xót của Con Thiên Chúa không có giới hạn và đi tới mỏi người không trừ một ai. Trong cùng viễn tượngấy, ĐTC cũng nhắc đến thánh nữ Faustina Kowalka, là ”vị đã được kêu gọi đi vào chiều sâu lòng thương xót của Chúa”.

Tông sắc của ĐTC kết thúc với lời mời gọi ”hãy để cho Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên, Chúa là Đấng không bao giờ mỏi mệt trong việc mở rộng cánh cửa tâm hồn của Người cho loài người. Vì thế, nghĩa vụ đầu tiên của Giáo Hội là dẫn đưa tất cả mọi người vào trong mầu nhiệm cao cả Lòng Thương xót của Thiên Chúa, chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa Kitô, nhất là trong thời điểm như ngày nay, đầy những hy vọng lớn lao và những mâu thuẫn mạnh mẽ.

Chúa nhật 12-4-2015, cùng Tông Sắc của ĐTC sẽ được công bố trong lễ nghi phụng vụ tại 3 Đại vương cung thánh đường ở Roma: tại Đền thờ thánh Gioan Laterano lúc 5 giờ chiều, do ĐHY Giám quản Agostino Vallini chủ sự; tại Đền thờ Đức Bà Cả do ĐHY Santos Abril y Castello, trong thánh lễ lúc 10 giờ sáng cùng với Kinh Sĩ đoàn của Đền thờ này; còn tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, trong thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi sáng do ĐHY James Michael Harvey chủ sự.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cuộc Thương Khó

Cuộc Thương Khó

Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.

Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.

Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.

Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.

Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.

Baraba và Đức Giêsu

Baraba và Đức Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.

Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.

Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.

Thưa anh chị em,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.

Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.

Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.

Anh chị em thân mến,

Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”

Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.

Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.

Hạt lúa mục nát

Hạt lúa mục nát

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.

Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.

2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?

3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?

4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt