ĐTC LƯU TÂM TỚI GIỚI TRẺ VÀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

ĐTC LƯU TÂM TỚI GIỚI TRẺ VÀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ

VATICAN: Trong buổi tiếp kiến dành cho các Giám Mục Bồ Đào Nha những ngày vừa qua ĐTC Phanxicô đã chia sẻ với các vị âu lo của ngài đối với giới trẻ và việc dậy giáo lý cho họ.

ĐTC đã cho biết như trên trong buổi phỏng vấn dài dành cho nữ phóng viên Aura Miguel của Radio Renascenza Bồ Đào Nha. Ngài khẳng định rằng cần phải làm cho người trẻ lớn lên và đồng hành với họ, với sự thận trọng đối thoại với họ và làm sao để việc dậy giáo lý cho họ không chỉ thuần lý thuyết. Giáo lý phải có ba ngôn ngữ: ngôn ngữ của cái đầu, của con tim và của đôi tay. Làm sao để người trẻ biết đức tin là cái gì, cảm nghiệm nó trong trái tim và dùng nó để làm các việc cụ thể: nghĩa là “suy nghĩ điều mình cảm thấy và làm, cảm thấy điều mình suy nghĩ và làm, và làm điều mình cảm thấy và suy nghĩ”.

Trả lời câu hỏi có viếng thăm Bồ Đào Nha nhân dịp mừng kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima hay không, ĐTC bầy tỏ uớc mong đến Fatima. Ngài nói: “Đức  Mẹ xin chúng ta luôn luôn cầu nguyện, lo lắng cho gia đình và tuân giữ các giới răn của Chúa, và sống đơn sơ như các trẻ em. Đức Bà là Mẹ tự tỏ hiện ra cho các trẻ em, và luôn luôn tìm kiếm các linh hồn đơn sơ.”

Liên quan tới hiện tượng di cư tỵ nạn khiến cho Âu châu lo lắng, ĐTC nói đó chỉ là một chỏm nhỏ của tảng băng khổng lồ. Thế giới đang chứng kiến các người tỵ nạn trốn chạy chiến tranh, đói khổ, nhưng lý do nền tảng là một hệ thống xã hội kinh tế xấu xa và bất công. Đề cập đến vấn đề môi sinh ngài nhấn mạnh rằng con người phải là tâm điểm của xã hội kinh tế và chính trị, bởi vì hệ thống kinh tế thống trị ngày nay đã loại bỏ con người ra ngoài lề và để tiền bạc vào trung tâm. Nó là thần tượng thời thượng hiện nay. Cần phải đi tới các lý do. Ở dâu lý do là đói khổ thì phải tạo ra công ăn việc làm. Ở đâu lý do là chiến tranh thì phài tìm kiếm hoà bình và làm việc cho hoà bình. Ngày nay thế giới gây chiến với chính mình. Cần phải tiếp đón các anh chị em di cư tỵ nạn như họ là, và tìm cách cho họ một nơi cư ngụ va giúp họ hội nhập xã hội.

ĐTC cũng tố cáo nền văn hóa thoải mái dẫn đến tình trạng số sinh giảm sút quá thấp trong vài quốc gia âu châu như Italia, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Trong khi đó thì số người già gia tăng. Khi có chỗ trống, khi không sinh con, thì người di cư tới chiếm chỗ của chúng. Theo ĐTC thách đố lớn nhất của Âu châu là phải trở thành mẹ trở lại chứ không phải là bà Âu châu. Âu châu có một nền văn hóa đặc biệt phải tái chiếm khả năng lãnh đạo, chỉ đường. Âu châu chưa chết, chỉ hơi là bà một chút thôi, nhưng có thể trở thành mẹ. Có đúng thật là Âu châu đã sai lầm, khi chối bỏ các gốc rễ kitô của minh. Trong đời ai cũng lầm lỡ, nhưng Âu châu còn kịp giờ để trở thành Âu châu mẹ biết lo lắng cho giới trẻ, nhất là người  trẻ thất nghiệp. Các dòng tu có đặc sủng giáo dục, các giáo dân giáo chức hãy tạo ra các trường học cấp thiết để giúp ngưởi trẻ học nghề giúp họ tìim ra công ăn việc làm, như hệ thống giáo dục của dòng Don Bosco.

Liên quan tới làn sóng của chủ nghĩa cá nhân khiến cho người ta nghĩ rằng tự do là làm điều mình muốn, và gieo vào đầu trẻ em ý niệm hạnh phúc là không có vấn đề, ĐTC nói một cuộc sống không vấn đề là một cuộc sống nhàm chán. Nhu cầu đương đầu và giải quyết các vấn để là bẩm sinh nơi con người. Cần phải giáo dục cho người trẻ biết các quyền lợi và nghĩa vụ của họ, và biết liều lĩnh. Để giáo dục cần dùng cả hai chân: một chân dựa vững vàng trên mặt đất, chân kia giơ lên và bước tới, rồi tìm điểm tựa cho vững và cứ thế tiếp tục. Liều lĩnh. Tại sao? Vì tôi có thể vấp ngã. Nhưng hãy đứng lên và tiếp tục bước tới! Trong nghĩa này Giáo Hội cũng phải đi ra, phải liều lĩnh. Nếu một giáo hội, một giáo xứ, một giáo phận, môt dòng tu sống khép kín trong chính mình, thì sẽ đau yếu, và chúng ta có một giáo hội teo quắt, với các điều luật cứng nhắc, không có óc sáng tạo, được bảo đảm nhưng không chắc chắn. Trái lại một giáo hội, một giáo xứ  xuất hành và truyền giáo có thể gặp một tai nạn như xảy ra cho bất cứ ai đi ra. Nhưng giữa một Giáo Hội đau yếu và môt Giáo Hội bị tai nạn, tôi thích Giáo Hội bị tai nạn hơn, vì ít nhất nó đã đi ra. Trả lời câu hỏi có phải vì thế mà ngài được bầu làm Giáo Hoàng không, ĐTC cuời trả lời nhà báo: “Điều đó chị phải hỏi Chúa Thánh Thần”.

Về các chờ mong đối với Năm Thánh Lòng Thương Xót, ĐTC nói ngài ước mong mọi người đều tới để cảm nghiệm tình yêu và ơn tha thứ của Chúa. ĐTC cho biết thư gửi cho ĐTGM Fisichella và Tự Sắc khiến cho các tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu nhằm đơn giản hóa và tạo dễ dàng cho đức tin của giáo dân để họ cảm thấy Giáo Hội là mẹ (SD 14-92015).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Bánh Thánh Thể

Bánh Thánh Thể

Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.

Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.

Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:

Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.

Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.    

Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.

Sưu tầm

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô

ĐTC gặp gở các đại biểu

SANTA CRUZ. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn đại biểu thuộc các Phong trào dân chúng nhóm tại Santa Cruz, Bolivia, chiều ngày 9-7-2015, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ chống lại các hình thức thực dân mới và đưa ra nhiều đề nghị ”cách mạng” cải tiến nền kinh tế thế giới.

ĐTC đã đến khu vực Hội chợ triển làm Expo Feria ở thành phố Santa Cruz khoảng 5 giờ rưỡi chiều để gặp gỡ các tham dự viên Cuộc gặp gỡ thế giới kỳ 2 của các Phong trào nhân dân. Trung tâm này có diện tích 5 ngàn mét vuông và có hội trường Gaurayo có thể chứa được 3 ngàn người.

Tại đây trong những ngày từ 7 đến 9-7-2015 đã diễn ra cuộc gặp gỡ lần thứ 2 các Phong trào dân chúng, được tổ chức với sự cộng tác của Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Tham dự sinh hoạt này có các đại biểu của các phong trào dân chúng đến từ các nước trên thế giới như giới lao động bấp bênh, và giới kinh tế không chính thức, đại diện các tầng lớp nông dân không ruộng đất, những người dân tại các khu phố nghèo, các thổ dân, và di dân. Ngoài ra cũng có một đoàn đại diện những người dấu tranh thuộc các phong trào xã hội.

Trong số các tham dự viên từ phía Tòa Thánh có ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; Đức GM Marcelo Sanchez Sorondo, người Argentina, Chưởng Ấn Hàm lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của các phong trào dân chúng này đã được tổ chức tại Vatican hồi tháng 10 năm ngoái, và trong số các tham dự viên cũng có tổng thống Evo Morales của Bolivia.

Khi ĐTC đến nơi vào lúc quá 5 giờ rưỡi chiều, ngài đã được 6 tham dự viên, 3 nam 3 nữ, trao tặng Văn kiện chung kết của Hội nghị và cũng được trình bày tổng quát nội dung văn kiện. Cả tổng thống Evo Morales cũng lên tiếng trong dịp này và ông đã phát biểu 30 phút, trước khi ĐTC trình bày lập trường của ngài.

Diễn văn của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phong trào này hồi tháng 10 năm ngoái (2014) tại Vatican trong một bầu không khí huynh đệ, quyết định, dấn thân, khao khát công lý. Và bây giờ cuộc gặp gỡ thứ hai này nhắm tạo cơ hội để thảo luận về những cách thức tốt đẹp hơn để vượt thắng những tình trạng bất công trầm trọng đang làm cho bao nhiêu người bị gạt bỏ trên thế giới phải chịu đau khổ.

Thực trạng cần thay đổi

1. Trước tiên ĐTC nhận xét rằng chúng ta đang cần một sự thay đổi. Đây là những vấn đề chung cho mọi nước Mỹ châu la tinh và toàn thể nhân loại. Các vấn đề có tính chất hoàn cầu và không một nước nào một mình có thể giải quyết được:

– Chúng ta có biết nhìn nhận rằng tình trạng hiện nay không tốt trong một thế giới có bao nhiêu nông dân không có ruộng đất, bao nhiêu gia đình không có nhà ở, bao nhiêu công nhân viên không có quyền lợi, nhiều người bị thương tổn trong phẩm giá của họ hay không?

– Chúng ta có nhận ra rằng tình trạng hiện nay không tốt vì bao nhiêu cuộc chiến tranh điên rồ bùng nổ và bạo lực huynh đệ tương tàn gia tăng trong các khu phố của chúng ta hay không? Vì đất đai, nước, không khí và tất cả những sinh vật trong thiên nhiên đang liên tục bị đe dọa hay không?

Những thực tại tàn phá ấy tương ứng với một chế độ đang trở thành hoàn vũ, một chế độ áp đặt tiêu chuẩn lợi lộc bằng bất kỳ giá nào, không nghĩ đến sự gạt ra ngoài lề xã hội hoặc phá hủy thiên nhiên. Ngày nay sự lệ thuộc lẫn nhau trên trái đất đòi phải có những câu trả lời hoàn cầu cho các vấn đề địa phương. Sự hoàn cầu hóa niềm hy vọng, nảy sinh từ các dân tộc và gia tăng giữa người nghèo, phải thay thế sự hoàn cầu hóa tình trạng gạt ra ngoài lề và sự dửng dưng!

ĐTC nhận xét rằng ngay cả nơi những nhóm thiểu số đang thu hẹp, tưởng rằng mình được hưởng lợi nhờ chế độ ấy, nhưng thực tế họ cũng đang cảm thấy bất mãn và nhất là buồn sầu. Nhiều người đang chờ đợi một sự thay đổi giải thoát họ khỏi sự sầu muộn cá nhân chủ nghĩa ấy khiến họ trở thành nô lệ. Có lẽ nó đang gây thiệt hại không thể chữa lành cho hệ thống kinh tế. Sự ham hố vô độ đối với tiền bạc đang thống trị. Việc phục vụ công ích bị loại xuống hàng thứ yếu. Khi tư bản trở thành thần tượng và điều khiển những chọn lựa của con người, khi sự tham lam tiền bạc kiểm soát toàn bộ chế độ kinh tế đã hội, làm hư hỏng xã hội, phá hủy tình huynh đệ giữa con người với nhau, thúc đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác và đe dọa cả căn nhà chung của chúng ta.

Trước những tin tức đen tối hằng ngày, chúng ta tin rằng mình chẳng có thể làm được gì, nên chỉ cần chăm sóc mình và gia đình bé nhỏ của mình với tình thương yêu. Nhưng tương lai của nhân loại phần lớn ở trong khả năng tổ chức và thăng tiến những sáng kiến khác, trong nỗ lực hằng ngày tìm kiến 3 điều là: công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và trong sự tham gia tích cực vào những tiến trình thay đổi lớn trên bình diện quốc gia, miền và hoàn cầu.

Trách nhiệm của các Phong trào dân chúng

Sau khi trình bày thực trạng trên đây, ĐTC nói với các vị lãnh đạo các phong trào dân chúng rắng:

2. Anh chị em là những người phổ biến sự thay đổi, những tiến trình thay đổi. Phải quan niệm sự thay đổi không phải như một cái gì một ngày kia sẽ xảy tới, vì ta đề ra những chọn lựa này hay chọn lựa khác về phương diện chính trị hoặc vì ta thiết lập cơ cấu xã hội này hay cơ cấu kia. Một sự thay đổi cơ cấu mà không có sự hoán cải chân thành trong thái độ và trong tâm hồn thì sớm muộn gì cũng trở thành một thứ bệnh bàn giấy, hư hỏng và sụp đổ. Mỗi người chúng ta chỉ là thành phần của một toàn bộ phức tạp và khác nhau, tác động trên nhau trong thời gian. Chúng ta phải chú ý đến những con người cụ thể, với khuôn mặt và danh tánh. Chúng ta rùng mình trước bao nhiêu đau khổ và cảm động vì ”chúng ta đã thấy và đã nghe” không phải những con số thống kê lạnh lùng, nhưng là những vết thương của nhân loại đau khổ, những vết thương của chúng ta, thân thể chúng ta. Điều này rất khác với sự đề ra những lý thuyết trừu tượng hoặc thái độ phẫn nộ ”tao nhã”. Sự gắn bó với khu phố, đất đai, lãnh thổ, công ăn việc làm, công đoàn, nhận ra mình trong khuôn mặt người khác, sự gần gũi hằng ngày, với những lầm than cơ cực và những cử chỉ anh hùng thường nhật, và điều giúp thực thi sứ mạng không phải đi từ những ý tưởng hay ý niệm, nhưng từ cuộc gặp gỡ chân thành giữa con người với nhau, vì ta không yêu thương những ý niệm hay ý tưởng, nhưng ta yêu thương con người.

ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải làm việc trong viễn tượng không phe phái, và tìm cách giải quyết tận căn các vấn đề tổng quát là nạn nghèo đói, chênh lệch và loại trừ. Như thế các phong trào dân chúng trở thành một giải pháp khác với thứ hoàn cầu hóa loại trừ. Giáo Hội không thể và không được xa lạ với tiến trình ấy trong việc loan báo Tin Mừng. Sự cộng tác với các phong trào dân chúng, trong niềm tôn trọng nhau, có thể tăng cường những cố gắng và củng cố các tiến trình thay đổi.

Những đề nghị của ĐTC

Sau cùng, ĐTC đề cập đến một vài thách đố quan trong trong thời điểm lịch sử hiện nay. Ngài xác quyết rằng Giáo Hoàng cũng như Giáo Hội không có độc quyền giải thích thực tại xã hội hoặc đề nghị những giải pháp cho các vấn đề hiện nay. Đúng hơn, không có một công thức. Vì thế, ĐTC đề nghị 3 nghĩa vụ lớn”

1. Thứ I là đặt kinh tế phục vụ các dân tộc. Con người và thiên nhiên không phải phục vụ tiền bạc. Không chấp nhận một thứ kinh tế loại trừ và bất chính trong đó tiền bạc thống trị thay vì phục vụ. Nền kinh tế này giết hại, gạt bỏ, phá hủy Mẹ Trái đất. Nền kinh tế phải là một sự quản lý tốt căn nhà chung. Một nền kinh tế thực sự có tính chất cộng đồng, lấy hứng từ Kitô giáo, phải bảo đảm phẩm giá cho các dân tộc, ”một sự thịnh vượng không loại trừ thiện ích nào”. Công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và cả việc giáo dục, sức khỏe, đổi mới, những sáng tác nghệ thuật và văn hóa, truyền thông, thể thao và giải trí. Cần cơ cấu hóa toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối để những khả năng và đòi hỏi của mỗi người được diễn tả thích hợp trong chiều kích xã hội. Đó không phải là một ảo tưởng hay tưởng tượng.

Những tài nguyên trong thế giới, kết quả của lao công thuộc các thế hệ các dân tộc và là hồng ân trong công trình tạo dựng, dư đủ cho sự phát triển toàn diện mỗi người và tất cả mọi người. Trái lại hệ thống hiện hành theo đuổi những mục tiêu khác. Do sự gia tăng vô trách nhiệm các nhịp độ sản xuất, tăng cường trong kỹ nghệ và nông nghiệp những phương pháp gây hại cho Mẹ Trái Đất, nhân danh mức sản xuất, người ta tiếp tục phủ nhận không cho hằng tỷ anh chị em được hưởng các quyền cơ bản nhất về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chế độ này làm thương tổn dự phóng của Chúa Giêsu. Sự phân phối công bằng các hoa trái của trái đất và lao công của con người không phải chỉ là một sự thương người. Đó là một nghĩa vụ luân lý. Đối với các Kitô hữu, sự dấn thân như thế càng mạnh mẽ hơn, vì đó là một giới răn.

Nghĩa vụ thứ hai là liên kết các dân tộc chúng ta trên hành trình hòa bình và công lý. Các dân tộc trên thế giới muốn làm chủ vận mạng của mình. Họ muốn tiến bước trong an bình trên con đường tiến về công lý. Họ không muốn sự bảo hộ hoặc những sự xen mình, trong đó kẻ mạnh nhất bắt những kẻ yếu phải tùng phục. Họ yêu cầu rằng nền văn hóa, ngôn ngữ, các tiến trình xã hội và các truyền thống tôn giáo của họ được tôn trọng. Không quyền bính nào – trong thực tế hoặc được thiết lập – có quyền tước đoạt các nước nghèo khỏi quyền thực thi trọn vẹn chủ quyền của mình, và khi xảy ra như thế, họ thấy đó là những hình thức thực dân mới làm thương tổn nghiêm trọng khả năng hòa bình và công lý, vì ”hòa bình không những dựa trên sự tôn trọng các quyền con người, nhưng còn trên sự tôn trọng các quyền của các dân tộc, đặc biệt là quyền độc lập” (Toát yếu xã hội, 157).

Trong những năm gần đây, sau bao nhiêu hiểu lầm, nhiều nước Mỹ châu la tinh đã thấy sự gia tăng tình huynh đệ giữa các dân tộc, để làm cho chủ quyền của mình được tôn trọng, chủ quyền của mỗi nước, và chủ quyền của vùng này nói chung. Nhưng ta phải rất để ý, vì chế độ thực dân mới có những khuôn mặt mới. Đó là quyền lực vô danh của thần tiền bạc: các liên minh, một số hiệp ước được gọi là tự do mậu dịch và sự áp đặt các phương thế tiết kiệm ngày càng làm cho các công nhân và người nghèo phải thắt lưng buộc bung. Cũng vậy, sự tập trung độc quyền các phương tiện truyền thông tìm cách áp đặt những kiểu mẫu tiêu thụ và một thứ đồng nhất về văn hóa, là một sắc thái khác của chế độ thực dân mới. Đó là chế độ thực dân ý thức hệ. Như các GM Phi châu đã nói, nhiều khi chúng chủ trương biến các nước nghèo thành những mảnh của một cơ cấu, một phần của một guồng máy khổng lồ.

Không có vấn đề trầm trọng nào của nhân loại có thể được giải quyết nếu không có sự đối tác giữa các quốc gia và dân tộc trên bình diện quốc tế. Nhưng sự đối tác không có nghĩa là áp đặt, không được ép nước này phải phục vụ và tùng phục quyền lợi của nước khác. Chế độ thực dân, cũ và mới, biến các nước nghèo thành những người cung cấp nguyên liệu và công nhân rẻ tiền, nó gây ra bạo lực, nghèo đói, cưỡng bách di dân, vì nó chối bỏ quyền được phát triển toàn diện. Đó là một sự bất chính và bất chính thì sinh ra bạo lực mà không có ngành cảnh sát, quân đối hoặc mật vụ nào có thể ngăn chặn được.

Chúng ta hãy chống lại những hình thức thực dân cũ và mới. Chúng ta hãy ủng hộ chấp nhận cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc và các nền văn hóa.

Sau cùng, ĐTC nhìn nhận có những sự ác do các tín hữu Kitô gây ra trong dòng lịch sử. Ngài nói: ”Tôi muốn nói thật là rõ ràng, như thánh Gioan Phaolô 2, tôi khiêm tốn xin lỗi, không những vì những xúc phạm của Giáo Hội, nhưng vì những tội ác chống lại các dân tộc bản xứ trong thời kỳ gọi là chinh phục Mỹ châu. Tôi cũng xin tất cả mọi người, tín hữu hay không tín hữu, nhớ đến nhiều GM, LM và giáo dân đã và đang còn loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu với lòng can đảm và hiền từ, tôn trọng và trong an bình; khi rời bỏ cõi đời này, họ đã để lại những công trình thật cảm động, thăng tiến nhân bản và yêu thương, nhiều khi ở cạnh các dân tộc bản xứ hoăc tháp tùng các phong trào bình dân cho đến độ tử đạo. Giáo Hội, các con cái nam nữ của mình là thành phần của căn tính các dân tộc Mỹ châu la tinh. Căn tính mà tại đây cũng như tại các nước khác, một số quyền lực quyết liệt muốn xóa bỏ, đôi khi vì đức tin của chúng ta có tính chất cách mạng, vì đức tin chúng ta thách thức bạo quyền của thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta kinh hoàng nhận thấy như tại Trung Đông và các nơi khác trên thế giới ngưới ta bách hại, tra tấn, ám sát các anh chị em chúng ta vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng phải tố giác điều đó: trong cuộc thế chiến thứ 3 từng mảnh này mà chúng ta đang sống, có một thứ diệt chủng đang xảy ra và phải chặn đứng lại.

Nghĩa vụ thứ ba, có là lẽ quan trọng nhất mà chúng ta phải đảm nhận hôm nay, đó là bảo vệ Mẹ Trái Đất của chúng ta.

Chúng ta cảm thấy thất vọng gia tăng vì các hội nghị thượng đỉnh quốc tế nối tiếp nhau mà không có tiến bộ quan trọng nào. Có một mệnh lệnh khẩn thiết về luân lý đạo đức rõ rệt, không thể trì hoãn được phải hành động mà chưa được đáp ứng. Ta không thể để cho một số lợi lộc – nó có tính chất toàn cầu nhưng không hoàn vũ – áp đặt trên các nước, bắt các nước và các tổ chức quốc tế phải tùng phục và tiếp tục thiên nhiên. Các dân tộc và các phong trào được kêu gọi lên tiếng, động viên và đòi hỏi một cách ôn hòa nhưng kiên trì, yêu cầu chấp nhận những biện pháp thích hợp.

ĐTC kết thúc dài 55 phút. Sau cùng ngài nói: ”Xin anh chị em nhớ rằng niềm hy vọng không đánh lừa và xin nhớ cầu nguyện cho tôi. Nếu ai không thể cầu nguyện, thì xin hãy nghĩ đến tôi một cách tích cực!”. Trước đó ngài cũng nói rằng: ”Với thông điệp của ngài, tương lai không ở trong những kẻ cường quyền, nhưng trong tay các dân tộc”.

Sau cuộc gặp gỡ với hàng ngàn đại diện của các phong trào dân chúng, ĐTC đã về tòa TGM Santa Cruz để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP- Radio Vatican

 

Đức tin là sức mạnh giải thoát và cứu rỗi

Đức tin là sức mạnh giải thoát và cứu rỗi

Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta sống trong xác tín về sự phục sinh: Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên sự dữ và cái chết, và Người muốn đưa chúng ta về nhà Cha, nơi sự sống ngự trị. Sứ điệp thật rõ ràng và có thể tóm tắt trong một câu hỏi: Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành chúng ta và cho chúng ta sống lại hay không?

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: Phúc Âm hôm nay giới thiệu trình thuật sống lại của một bé gái 12 tuổi, con của một trong những trưởng hội đường do thái. Ông gieo mình dưới chân Chúa Giêsu và van nài Người: “Đứa con gái của tôi đang chết; xin hãy đến đặt tay trên nó để nó được cứu và sống” (Mt 5,23). ĐTC giải thích lời xin này của người cha đáng thương như sau:

Trong lời cầu này chúng ta cảm nhận được nỗi lo lắng của mọi người cha đối với sự sống và hạnh phúc của con cái mình. Nhưng chúng ta cũng cảm thấy niềm tin to lớn của ông nơi Chúa Giêsu. Và khi tin con gái đã chết đến, Chúa Giêsu nói với ông: “Đừng sợ, hãy tin thôi!” (c. 36). Lời này trao ban can đảm. Ngài cũng nói với chúng ta biết bao nhiêu lần: “Đừng sợ, hay chỉ tin thôi!”

Vào nhà Chúa đuổi mọi người đang khóc than ra, rồi hướng tới bé gái đã chết và nói: “Bé gái, Ta truyền cho con hãy dậy!” (c. 41). Và cô bé tức thì ngồi dậy và bắt đầu bước đi. Ở đây ta thấy quyền năng tuyệt đối của Chúa Giêsu trên cái chết, mà đối với Ngài nó như là một giấc ngủ từ đó có thể thức dậy.

Bên trong câu chuyện này thánh sử đã lồng vào một giai thoại khác: đó là việc chữa lành người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm. Vì căn bệnh này mà theo nền văn hóa thời đó khiến cho bà bị  ô uế, bà phải tránh đụng chạm mọi người: người đàn bà tội nghiêp, bà đã bị kết án chết trên bình diện dân sự. Người đàn bà vô danh này giữa đám đông theo Chúa Giêsu, tự nhủ: “Nếu tôi chỉ sờ vào gấu áo Người thôi, thì tôi sẽ được cứu thoát” (c. 28). Và đã xảy ra như vậy: nhu cầu được giải thoát thúc đẩy bà dám làm, và có thể nói đức tin giật được từ Chúa ơn khỏi bệnh. Ai tin sờ vào Chúa Giêsu, thì kín múc được từ Ngài Ơn thánh cứu thoát. Đức tin là điều này: sờ vào Chúa Giêsu và kín múc từ Ngài ơn thánh cứu thoát. Ngài cứu chúng ta, Ngài cứu sự sống tinh thần, Ngài cứu chúng ta khỏi biết bao vấn đề. Chúa Giêsu nhận ra điều đó và Ngài tìm gương mặt của người đan bà này giữa đám đông. Bà đến trước mặt Ngài run rẩy và Ngài nói với bà: “Này con, đức tin của con đã cứu con” (c.34). Đó là tiếng nói của Cha trên trởi nói nơi Chúa Giêsu: “Con gái, con không bị chúc dữ, con không bị khai trừ, con là con gái Ta”. Mỗi khi Chúa Giêsu đến gần chúng ta, và chúng ta tới gần Ngài, chúng ta nghe các lời này: “Con là  con Cha. Cha cứu con. Con đã được khỏi. Và mỗi lần Chúa Giêsu đến gần chúng ta, khi chúng ta đi đến với Ngài với niềm tin, chúng ta cảm thấy điều này từ Thiên Chúa Cha: “Hỡi con, con là con trai Ta, con là con gái Ta! Con đã được khỏi. Ta tha cho tất cả, cho mọi người. Ta chữa lành mọi người và chữa lành tất cả”.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

Hai giai thoại này – một việc khỏi bệnh và một sự sống lại – có một trung tâm duy nhất: đức tin. Sứ điệp rõ ràng và có thể được tóm tắt trong một câu hỏi: chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành chúng ta và có thể đánh thức chúng ta dậy từ cái chết hay không? Toàn Phúc Âm được viết trong ánh sáng của niềm tin này: Đức Giêsu đã sống lại, đã chiến thắng cái chết, và vì chiến thắng của Ngài chúng ta cũng sẽ phục sinh. Niềm tin này đối với các kitô hữu tiên khởi đã chắc chắn, có thể bị lu mờ đi và trở thành không chắc chắn đến độ có vài người lẫn lộn sự sống lại với việc tái đầu thai. Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta sống trong xác tín về sự sống lại: Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên sự dữ và cái chết, và muốn đưa chúng ta về nhà Cha, nơi sự sống ngự trị.

Chúng ta tất cả sẽ gặp nhau trên nhà Cha. Và ở đó chúng ta sẽ gặp mọi người, tất cả chúng ta ở quảng trường này hôm nay, chúng ta sẽ gặp nhau trong nhà Cha, trong sự sống Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

Sự sống lại của Chúa Kitô hoạt động trong lịch sứ như nguyên lý của sự canh tân và niềm hy vọng. Bất cứ ai thất vọng và mệt mỏi cho tới chết, nếu tín thác nơi Chúa Giêsu và tình yêu Ngài, có thể bắt đầu sống trở lại. Cả việc bắt đầu trở lại một cuộc sống mới, thay đổi cuộc sống cũng là một kiểu sống dậy, phục sinh.

Đức tin là một sức mạnh của sự sống, nó trao ban sự tràn đầy cho nhân loại tính của chúng ta; và ai tin nơi Chúa Kitô phải được nhận ra, bởi vì họ thăng tiến sự sống trong mọi hoàn cảnh, để làm cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối nhất, sống kinh nghiệm tình yêu thương giải phóng và cứu thoát của Thiên Chúa.

Chúng ta hãy xin Chúa, qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, ơn đức tin mạnh mẽ và can đảm, thúc đẩy chúng ta trở thành những người phổ biền niềm hy vọng và cứu sống giữa các anh chị em khác.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau: các tham dự viên cuộc tuần hành với khẩu hiệu “Một trái đất, một gia đình”. Họ cầm các lá xanh to bằng giấy bìa. ĐTC khích lệ sự cộng tác giữa mọi người và hiệp hội của các tôn giáo khác nhau trong việc thăng tiến một môi sinh toàn vẹn. Ngài cám ơn Liên hiệp các tổ chức kitô phục vụ quốc gia Italia, hiệp hội “Các tiếng nói của chúng ta”, và các tổ chức khác thuộc nhiều nước đang cùng nhau trao đổi về việc săn sóc căn nhà chung là trái đất.

Ngài cũng chào một nhóm tín hữu Bolivia sống tại Italia, nhóm trẻ Ibiza đang chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức; nhóm các nữ hưóng đạo sinh thuộc Hiệp hội quốc tế công giáo. ĐTC khen họ là những phụ nữ giỏi và hoạt động tốt; nhóm các ông bà nội ngoại Sydney, thuộc hiệp hội các người gia di cư tại Australia cùng các con cháu; nhóm các trẻ em nạn nhân vụ nổ lò nguyên tử Chernobyl và các gia đình vùng Este và Ospedaletto tiếp đón các em; các thành viên hiệp hội đi môtô vùng Cardito, và các người yêu thích xe hơi cổ. Trước đó hàng trăm môtô và xe hơi cổ đã diễn hành qua các đường phố chính ở Roma.

Sau cùng ĐTC chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tươi vui và xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hạt giống âm thầm

Hạt giống âm thầm

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người ngoại giáo, nên sau bài giảng cha tươi cười hỏi:

– Anh chị em có thắc mắc gì không?

Một người đưa tay đặt câu hỏi:

– Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có Đức Mẹ đồng trinh không?

– Có.

– Câu hỏi thứa hai: Các ông có vâng lời và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng không?

– Có.

– Câu hỏi thứ ba: Là linh mục, các ông có giữ mình khiết tịnh và sống độc thân không?

– Có.

– Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công Giáo cả.

Cha Petijean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:

– Bây lâu nay, có ai giảng dạy cho anh em không?

– Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo, hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội Thánh sai đến không.

Kể từ đó, Giáo Hội Nhật Bản được tái sinh sau 200 năm cấm đạo. Hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng đất Nhật Bản từ 200 năm trước vẫn âm thầm nẩy mầm, mọc lên và sinh hoa kết quả.

Sự kiện lịch sử này đưa chúng ta đến hai dụ ngôn về hạt giống trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên bằng cách nào, thì người ấy không biết. Nước Thiên Chúa cũng giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế giới. Nhưng gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.

Hai dụ ngôn đều cho thấy đây là Nước của Thiên Chuá, chứ không phải nước của con người, nên hạt giống Nước ấy lớn lên và sinh hoa kết quả là do sức tăng trưởng của nội tại của mình, do quyền năng của Thiên Chúa chứ không do tại sức của của con người. Và vì thế, chắc chắn kết quả chung cuộc sẽ lớn lao bất ngờ hơn so với hạt giống bé nhỏ ban đầu.

Có những loại phong lan ủ rễ trong lòng đất hàng chục năm trước khi nở ra những cành lá xanh và bông hoa xinh đẹp, quý hiếm. Bộ rễ của cây to thường phát triển chậm, nhưng có thể mọc xuyên qua vách đá hoặc xi măng, không có gì có thể ngăn cản nổi. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa có thể tăng trưởng chậm, lâu dài và âm thầm. Loài người có thể không nhận ra sự tăng trưởng của Nước ấy, nhưng chắc chắn Nước Thiên Chúa vẫn luôn tăng trưởng không ngừng, âm thầm nhưng mãnh liệt, không có gì có thể ngăn chặn được. Nước của Thiên Chúa vẫn luôn phát triển cả bề trong lẫn bề ngoài, cả chất lượng lẫn số lượng. Nước Thiên Chúa hôm nay vẫn chỉ nhỏ bé, nhưng Thiên Chúa đang làm cho Nước ấy lớn lên, trở thành nơi nương náu cho muôn dân muôn nước.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đến rao giảng sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa, thế mà hơn 2000 năm đã trôi qua, dường như Nước Thiên Chúa vẫn còn quá xa. Hội Thánh nỗ lực xây dựng Vương quốc của tình yêu, công lý và hoà bình. Nhưng biết đến bao giờ vương quốc ấy mới đến? Đôi khi xem ra lịch sử thay vì tiến lên thì lại thụt lùi tụt dốc. Tội lỗi vẫn còn đó, lòng hận thù, bất công vẫn còn đó. Hội Thánh là dấu chỉ của Nước Chúa trên trần gian, nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh vẫn chỉ là “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 2,32) giữa cộng đoàn nhân loại. Dân số thế giới vẫn gia tăng với những bước nhảy vọt, còn các Kitô hữu không tăng bao nhiêu, thậm chí ở một vài nơi lại sụp đổ từng mảng lớn và tỉ lệ lại càng chênh lệch lớn hơn.

Trong bối cảnh đó, đôi lúc chúng ta không khỏi ưu tư và nôn nóng. Càng nhiệt tình và thiện chí thì càng dễ thất vọng và mất kiên nhẫn. Phải chăng Thiên Chúa không còn can thiệp vào lịch sử này nữa? Phải chăng sự im lặng của Thiên Chúa chứng tỏ Ngài bất lực? Tin Mừng là một giải pháp vô ích và phải chăng Thiên Chúa đã chết?

Lời Chúa công bố hôm nay chính là Tin Mừng cho Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh là bí tích của Nước Thiên Chúa, tức là dấu chỉ và là tôi tớ phục vụ cho Nước Chúa, nên Hội Thánh nghe được từ Lời Chúa hôm nay một sứ điệp quan trọng: tín thác và kiên nhẫn. Vì Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa, nên Hội Thánh luôn tín thác vào sự tác động quyền năng của Thiên Chúa. Hội Thánh – tức là mọi Kitô hữu- không được tự hào về thánh tích của mình, không được quyền nghĩ rằng Nước Chúa sẽ đến là do khả năng của mình, do nỗ lực hay sáng kiến của mình.

Thánh Vinh Sơn – Phaolô nói: “Công việc của Chúa được thực hiện từ từ không hay biết”. Chúng ta không được sốt ruột, đừng ai tự cho mình là cần thiết: “Không có ta mặt trời sẽ không mọc, sau ta là lụt đại hồng thuỷ”. Cũng đừng quá vội vã, quay cuồng, lo lắng vì thấy hoạt động của mình như không đi đến đâu! Ngày cũng như đêm, hạt giống gieo vào lòng đất cứ âm thầm đâm chồi nẩy mộng. Cũng đừng thất vọng khi không thấy kết quả trước mắt. Lỗi lầm của người tông đồ là dựa trên tài sức của mình hơn là vào sức mạnh của Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể xây dựng trong một ngày, nhưng trường kỳ từ ngày này sang ngày khác. Thái độ nôn nóng đôi khi là dấu hiệu của sự kiêu hãnh vì nghĩ rằng sự tiến bộ là do công lao của mình. Không biết kiên nhẫn đợi chờ có thể dẫn Hội Thánh đến những chọn lựa nghịch với Tin Mừng để tìm sức mạnh của quyền lực, giàu sang và chắc chắn không sớm thì muộn sẽ gặp phải thất bại.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác trong niềm tin. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin vào sự hướng dẫn của Chúa đối với với lịch sử, để tất cả vũ trụ đi tới sự viên mãn chung cuộc của mùa gặt phong phú cuối cùng. Niềm tin mời gọi chúng ta tiến bước, bền chí lên đường reo rắc hạt giống Lời Chúa, vì biết rằng: “Tôi trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa mới là người làm cho mọc lên” (1Cr 3,6). Tôi chỉ góp phần rất bé nhỏ, con Thiên Chúa mới làm cho hạt giống Nước Chúa lớn lên theo cách của Thiên Chúa. Có khi chính trong lúc ta tưởng ngờ- như Giáo Hội Nhật Bản đã phải trải qua 200 năm âm thầm và kiên nhẫn chờ đợi ngày tái sinh.

Trong Thánh lễ chúng ta được đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể. Chúa Giêsu chính là hạt giống Nước Trời được gieo vào lòng ta. Hạt giống ấy hôm nay nhỏ bé nhưng sẽ âm thầm lớn lên trong chúng ta. Có Chúa sống trong ta, cuộc đời ta sẽ trổ sinh hoa trái, xanh tươi, hoa lá cành, đem lại bóng mát, niềm tin và hạnh phúc cho mọi người.

Hơi thở của Thiên Chúa

Hơi thở của Thiên Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.

Anh chị em thân mến,

Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.

Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.

“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.

Thưa anh chị em,

Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.

Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.

Anh chị em thân mến,

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.

Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48). Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9). Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Huyền thoại tình yêu “Họa mi và bông hồng đỏ” kể rằng.

Một sớm mùa hè, con họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ :”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi“. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Hoạ mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?

– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình

– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Hoạ mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò. (Wiliam Oscar Wilde).

Họa mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp : có chứ.

Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chỉ là một nhịp đập của tim

Chỉ là một nhịp đập của tim

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:

1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.

Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.

2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.

Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.

Anh em là chứng nhân

Anh em là chứng nhân

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.

Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.

Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.

Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến. Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.

Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế. Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.

Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.

Chuyện Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi…)?

Làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều cần?

Cầu Nguyện

Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,

Xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."

Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.

Sứ điệp Lòng Thương xót cho người ngày này

Sứ điệp Lòng Thương xót cho người ngày này

Sứ điệp lòng thương xót cho con người ngày nay mang tính khẩn cấp đặc biệt. Thiên Chúa đã gởi một sứ điệp khẩn cấp đến với thế hệ chúng ta. Người muốn chúng ta đón nhận và thi hành.

Liệu chúng ta có quyền dùng ý chí tự do để sống theo ý mình, không quan tâm đến kế hoạch của Chúa và không đón nhận sứ điệp từ trời này không? Liệu chúng ta có quyền phớt lờ bao lời mời gọi tha thiết và mệnh lệnh của các Đức Thánh Cha, giờ là lúc trở về với lòng Chúa thương xót không? Có phải con người ngày nay đã rất trưởng thành, rất trần tục và rất độc lập đến độ không còn cần đến lòng Chúa thương xót đã được loan báo theo cách thức mới và khẩn cấp qua vị “Tông đồ và Thư ký” của lòng thương xót là nữ tu Faustina không?

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II chỉ thị: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”

• Thánh Nữ Faustina – “Tông Đồ và Thư Ký” của Lòng Chúa Thương Xót

Qua nữ tu Faustina, Chúa cho biết rõ là Ngài muốn lòng thương xót ấy phải được tôn vinh: Hãy ca ngợi và tôn vinh lòng thương xót của Ta (NK, 206); Ta đòi hỏi người ta tôn kính lòng thương xót của Ta (NK, 742) ; Nếu họ không tôn thờ lòng thương xót của Ta, họ sẽ tàn lụi đi (NK, 965); Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ (NK, 998); Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật (NK 1572). Đối với các linh mục công bố và tán dương lòng thương xót của Ta, Ta sẽ ban cho những quyền năng lạ lùng (NK, 1521); Đối với ai loan truyền lòng thương xót của Ta, Ta sẽ bảo vệ họ trong giờ chết (NK, 1540); Ta sẽ xử theo lòng thương xót của Ta vào giờ chết của họ (NK, 379); Danh tánh của họ được ghi trong cuốn sách sự sống này (NK, 689). Người cam đoan rằng: Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta (NK,723).

Loan truyền Tin Mừng Lòng Chúa Thương Xót chính là thực hiện lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16; Lc 24,47; Mt 28,19; Cv 1,8). Đã là lệnh truyền của Chúa thì bất cứ ai, dù thích hay không thích, muốn hay không muốn, cũng phải thi hành. Không thể dựa vào cảm tính của mình, hay nhân danh bất cứ quyền lực nào mà khước từ, ngăn cản, thậm chí chống phá công cuộc loan truyền Lòng Chúa Thương Xót. Đã là lệnh truyền thì ta có bổn phận phải thi hành, khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, như Phaolô quả quyết: “Rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Không tin, không loan truyền Lòng Chúa Thương Xót, tôi đang tự kết án mình, chuốc lấy án phạt vào mình. Thật khốn cho tôi!

Phêrô và Gioan bị các thủ lãnh Do Thái, kỳ mục và kinh sư điệu ra trước Thượng Hội Đồng cấm tuyệt đối hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa, nhưng hai ông đáp lại: “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi : trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,19-20); Phêrô và các tông đồ dù bị nghiêm cấm không được rao giảng Tin Mừng và mạng sống bị đe dọa, chết thì chết, vẫn khẳng khái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Các Tông đồ bị đánh đòn vì loan báo Tin mừng, nhưng “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 40-41).

Cũng như các Tông đồ, Faustina gặp biết bao hiểu lầm, nghi ngờ, chống đối từ chính chị em trong Dòng khi loan báo lòng Chúa Thương Xót. Lúc đó Chúa phải trấn an: “Con được hợp nhất với Cha; con đừng sợ gì cả. Con hãy biết rằng Satan căm ghét con; nó căm hờn mọi linh hồn, nhưng đặc biệt căm thù con, bởi vì con đã giật khỏi quyền thống trị của nó quá nhiều linh hồn” (NK, 412).

“Công cuộc này sẽ giật khỏi nanh vuốt hắn rất nhiều linh hồn, và đó là lý do khiến thần dữ nhiều khi cũng ra sức cám dỗ những người lành ngăn trở công cuộc… Satan căm hờn với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khủng khiếp biết bao! Hắn chống đối với toàn bộ công cuộc này.” (NK,812)

Gamalien là một kinh sư được toàn dân kính trọng, cũng lên tiếng cảnh báo Thượng Hội Đồng: “Tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ để cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa thì quý vị không thể nào phá hủy được; không khéo quý vị lại trở thành những kẻ chống Thiên Chúa” (Cv 5,38-39). Faustina cũng xác tín: “Tôi biết được chính Chúa đang xúc tiến toàn bộ công việc. Chúa đã khởi sự thế nào thì Người sẽ tiếp tục thực hiện như vậy. Càng thấy những khó khăn chồng chất, tôi càng an tâm hơn. Ô, nếu toàn bộ vấn đề này không phục vụ hữu hiệu cho vinh quang Thiên Chúa và lợi ích các linh hồn, thì có lẽ Satan đã không điên cuồng chống đối đến thế. Giờ đây tôi đã biết Satan căm ghét Lòng Thương Xót hơn bất kỳ điều gì khác. Đó là cực hình đáng sợ nhất của nó. Tuy nhiên Lời Chúa sẽ không qua đi ; điều Người phán vẫn sống động; những khó khăn sẽ không thể đè bẹp công cuộc của Thiên Chúa, nhưng làm sáng tỏ công việc của Người mà thôi… ” (NK, 764).

Thánh Phaolô tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa tuyệt mỹ biết bao sau khi thánh nhân nói rằng kế hoạch và khát khao của Thiên Chúa là “mọi người đều được hưởng lòng thương xót”. Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa thật sâu thẳm!…Vì mọi sự đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại, và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen (x. Rm 11,33-36).

“Ta tự thân là lòng thương xót”, Thiên Chúa diễn tả về lòng thương xót của Ngài cho thánh Faustina như thế (NK 281, 300, 1074, 1148, 1273, 1739, 1777). Thánh Gioan nói “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16). Cả hai cách diễn tả bổ sung cho nhau. Thiên Chúa tự thân là tình yêu và khi tình yêu được tuôn đổ trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa, đó là lòng thương xót. Lòng thương xót là tình yêu được tuôn đổ. Đó là tên gọi thứ hai của tình yêu (Gioan Phaolô II, Dives In Misericordia).

Chúa vui thích với danh hiệu “Lòng Thương Xót” (NK, 300), vì nó diễn tả thật tuyệt mỹ Ngài là ai và sự mong chờ tuôn đổ lòng thương xót ấy cho ta. Ngài cũng gọi mình là “Hoàng Đế của Lòng Thương Xót” (NK 1075, 1541), và ám chỉ trái tim đầy thương xót của Ngài (NK 177, 1074, 1152, 1447, 1520, 1588, 1602, 1682, 1728, 1739, 1777).

Tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa là lý do và mục đích chính của đời nữ tu Faustina (NK 835, 1604, 1242). Chị tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa trong mọi lời nói, việc làm và lời cầu nguyện. Đó cũng phải là sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hôm nay.

• Hãy Đi và Làm Nhân Chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, Nguồn Hy Vọng của Mọi Người và của Toàn Thế Giới

Đại Hội Tòa Thánh Thế Giới về Lòng Chúa Thương Xót lần thứ I tổ chức tại Roma từ ngày 2 đến 6 tháng 4-2008 mang dấu ấn của Đức Bênêđictô XVI. Ngài chúc lành và cổ võ sáng kiến quan trọng này trong đời sống Giáo Hội. Đức Bênêđictô XVII đã khai mạc Đại Hội với thánh lễ cầu cho Đức Gioan Phaolô II, một tông đồ vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót, và long trọng trao huấn lệnh trong ngày bế mạc Đại Hội :

“Các bạn thân mến, Đại Hội Tòa Thánh Thế Giới về Lòng Thương Xót lần thứ I kết thúc sáng nay với buổi cử hành thánh thể trong vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Tôi chân thành cảm ơn các vị tổ chức, cách riêng giáo phận Rôma và gởi tới toàn thể các vị tham dự lời chúc mừng điều giờ đây trở thành một mệnh lệnh: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới. Chúa Phục sinh ở cùng các bạn luôn mãi!” (Thông điệp Regina Caeli, 6/6/2008).

Huấn lệnh của Đức Bênêđictô XVI là “Hãy đi và làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa” chứ không phải lòng thương xót của con người chúng ta. Chứng từ lòng thương xót phải xuất phát từ Thiên Chúa, vì ngài khẳng định “Lòng Chúa Thương Xót chính là nguồn hy vọng cho mọi người và cho toàn thế giới”. Việc của ta là tín thác vào lòng thương xót của Ngài, đồng thời biết xót thương tha nhân.

Khi nói đến “mệnh lệnh” hoặc “huấn lệnh” thì nó mang nghĩa là “một lệnh truyền, một chỉ thị, hoặc một huấn thị có thẩm quyền, một hướng dẫn rõ ràng, một giáo huấn, một cho phép”. Do đó những lời của Đức Bênêđictô XVI mang sức mạnh của một mệnh lệnh không chỉ dành cho 4.000 tham dự viên nhưng còn nhắm đến tất cả các tín hữu trên toàn thế giới.

Sứ điệp và hình thức tôn sùng đặc biệt Lòng Chúa Thương Xót mà Đức Giêsu ban cho nữ tu Faustina vào thập niên 1930 được ghi lại trong cuốn “Nhật Ký Lòng Thương Xót Chúa Nơi Linh Hồn Tôi” của thánh Faustina. Sứ điệp này kêu mời ta hãy tín thác vào Chúa Giêsu, hãy đón nhận Lòng Chúa Thương Xót và chia sẻ cho tha nhân. Khi công bố mệnh lệnh: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới, Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh đó một sứ điệp khẩn cấp cho thời đại chúng ta. Đã là một mệnh lệnh khẩn cấp từ ĐTC ban ra thì mọi tín hữu trung thành với Giáo Hội, với ĐTC đều phải thi hành, không có bất cứ lý do gì để khước từ hay chống đối.

Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đi theo sứ điệp này, đặc biệt khi tuyên bố Chúa Nhật thứ II sau Phục Sinh là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa tại lễ phong thánh cho nữ tu Faustina vào ngày 30/4/2000. Để làm nổi bật sự khẩn thiết của sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa cho thời đại hôm nay, ngài nói: “Hôm nay tôi muốn chuyển sứ điệp này vào thiên niên kỷ mới”, và vào ngày 17-8-2002 khi thánh hiến Đền Thờ Quốc Gia Lòng Chúa Thương Xót tại Lagiewniki, Ba Lan, ĐTC cũng phó thác thế giới cho Lòng Chúa Thương Xót và khẳng định: “Xa lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không có nguồn hy vọng cho loài người”. Tương tự, Đức Bênêđictô XVI cũng nhấn mạnh “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là nguồn hy vọng cho mỗi người và toàn thế giới”.

Đức Bênêđictô XVI đi theo sự dẫn bước của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong việc làm nổi bật sứ điệp của Lòng Chúa Thương Xót trong thời đại này. Vào ngày 28/7/2008, trong dịp tôn vinh linh mục Michael Sopocko, là cha giải tội và linh hướng của thánh Faustina, lên bậc Chân phước, ngài nói : “Theo sự hướng dẫn của cha, nữ tu Faustina đã diễn đạt trải nghiệm thần bí và những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu trong cuốn Nhật Ký nổi tiếng. Xin tạ ơn về những cố gắng, về bức ảnh với lời “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” đã được vẽ và gởi đi cho thế giới. Đầy tớ Chúa đây được biết đến như một linh mục, người thầy và người cổ động cho việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót đầy nhiệt thành… Vị tiền nhiệm yêu quý của tôi, Đức Gioan Phaolô II chắc chắn rất vui mừng trong cuộc phong Chân phước này tại quê nhà. Ngài là người đã giao phó thế giới cho Lòng Chúa Thương Xót. Đó chính là điều tại sao tôi lập lại ước vọng của Ngài: “Chớ gì Thiên Chúa, Đấng Giầu Lòng Thương Xót chúc phúc cho tất cả quý vị”.

Vào ngày 20/4/2005, trong sứ điệp đầu tiên làm Giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI bày tỏ niềm tri ân vì món quà của Lòng Chúa Thương Xót được lãnh nhận nhờ sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II: “Lúc này đây niềm tri ân sâu xa về hồng ân của Lòng Chúa Thương Xót vượt trên tất cả trong trái tim tôi. Tôi coi đây là một đặc ân mà Vị Tiền Nhiệm đáng kính, Đức Gioan Phaolô II đã nhận cho tôi. Tôi dường như cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của ngài đang nắm tay tôi. Tôi như thấy đôi mắt của ngài đang mỉm cười và nghe được trong lúc này lời ngài gọi riêng tôi : Đừng sợ !”

• Lòng Chúa Thương Xót là một Quà Tặng Cho Nhân Loại

Lòng Chúa Thương Xót là một quà tặng cho nhân loại như trong thông điệp Đức Gioan Phaolô II chuẩn bị cho Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa ngày 3/4/2005 trước khi ngài qua đời: “Như là món quà tặng cho nhân loại mà đôi lúc dường như bị hoang mang và lấn át bởi quyền lực sự dữ, bởi ích kỷ và sợ hãi, nhưng Chúa Phục Sinh đã ban tình yêu của Ngài xuống để khỏa lấp, để hòa giải và mở lại trái tim cho tình yêu. Một tình yêu biến đổi cõi lòng và đem lại bình an. Thế giới cần hiểu ra và chấp nhận Lòng Chúa Thương Xót biết bao !”

Khi so sánh lời của Đức Gioan Phaolô II tại Lagiewniki năm 2002: “Lửa của Lòng Thương Xót cần được chuyển đến cho thế giới”, và của Đức Bênêđictô XVI năm 2007: “Trong thời đại hôm nay, nhân loại cần một lời công bố mạnh mẽ và chứng tá về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”, chúng ta thấy hai vị chủ chăn trong Giáo Hội đều có chung một chủ đề và nội dung. Lửa của lòng thương xót là những chứng tá về lòng thương xót rất cần cho thế giới hôm nay.

Ban biên tập của National Catholic Register đã viết trong dịp lễ Lòng Chúa Thương Xót 15/4/2007 như sau :

“Tình yêu đến độ đam mê của Thiên Chúa đối với con người cũng đồng thời là tình yêu tha thứ. Tình yêu đó quá lớn đến nỗi quay lại chống đối với chính Ngài, tình yêu của Ngài chống lại sự công bình của Ngài.

Đây quả là mệnh đề khởi điểm và căn bản về Lòng Chúa Thương Xót – một kiểu tuyên bố mà một người có thể trông đợi được quy về Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, điều đó đã được Đức Bênêđictô XVI viết trong thông điệp đầu tiên: Deus Caritas Est / Thiên Chúa là Tình Yêu.

Bảy năm sau kể từ lần đầu Đức Gioan Phaolô II công bố thành lập Chúa Nhật Lòng Thương Xót, vậy mà nhiều linh mục hãy còn thận trọng về ngày lễ ấy. Tại sao họ còn do dự? Có tư tưởng cho rằng Lòng Chúa Thương Xót chỉ là việc sùng kính riêng của một người Ba Lan, xảy ra vì Đức Gioan Phaolô làm Giáo hoàng, chứ không phải xảy ra cho mọi người.

Đọc những lời của Đức Bênêđictô XVI  về Lòng Chúa Thương Xót phải bỏ ngay đi nhận xét thiển cận đó. Đúng hơn, tính phổ biến của lòng đạo đức này có phần đóng góp của Đức Gioan Phaolô II. Đức Bênêđictô XVI dường như muốn quy chiếu sự vĩ đại của Đức Gioan Phaolô II vào việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót”.

Khi được phóng viên Đài Truyền hình Quốc gia Ba Lan hỏi về “Những khoảnh khắc ấn tượng nhất trong đời Giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II”, Đức Bênêđictô XVI đã nhắc đến một trong số những di sản chính của vị Tiền Nhiệm là “Ngài đã tạo nên một nhận thức mới về sự vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót”.

Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa 15/4/2007, Đức Bênêđictô XVI đã chọn tổ chức sinh nhật của mình dù rằng sinh nhật của ngài là 16/4. Ngài nói: Hãy có đức tin nơi Lòng Chúa Thương Xót! Từng ngày hãy trở nên con cái của Lòng Chúa Thương Xót. Lòng Thương Xót là chiếc áo ánh sáng Chúa đã ban cho ta ngày Rửa Tội. Ta không được phép để ánh sáng này bị dập tắt, trái lại nó phải sáng lên trong ta mỗi ngày để đem Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho trần gian.

Theo ĐTC, trước khi làm chứng nhân cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, ta phải đích thân lãnh nhận quà tặng của Lòng Thương Xót Chúa. Tất cả những ai khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, đều nhận được “Một quà tặng lớn lao của Lòng Chúa Thương Xót”. Hãy để cho ánh sáng của Lòng Thương Xót ngày Rửa Tội “lớn lên trong ta từng ngày” bằng việc thực hành lòng thương xót.

• “Việc Tôn Kính Lòng Chúa Thương Xót là Chiều Kích Toàn Bộ của Đức Tin và Kinh Nguyện Kitô Giáo”

Có nhiều người cho rằng việc sùng kính này chỉ là phong trào “chợt đến chợt đi”, chỉ là việc đạo đức tùy phụ, không làm cũng không sao, nhưng Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong thông điệp Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót 23-4-2006 rằng “Việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót không phải là lòng sùng kính bậc hai, nhưng là chiều kích toàn bộ của đức tin và kinh nguyện Kitô giáo”.

Vào Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót 30-3-2008, ĐTC gởi thông điệp: “Lòng Thương Xót là Hạt Nhân Trung Tâm của Sứ Điệp Tin Mừng; đó là chính thánh danh của Thiên Chúa, là khuôn mặt Ngài tự mạc khải trong Cựu Ước và đầy đủ với Đức Giêsu Kitô, sự nhập thể sáng tạo và tình yêu cứu độ”.

Thánh Faustina ghi lại trong Nhật Ký những lời của Chúa diễn tả nỗi khát khao vĩ đại là chia sẻ lòng thương xót cho các linh hồn. Ngài khao khát các linh hồn (NK 206, 1182, 1521, 1784) và tiếp tục tuôn đổ lòng thương xót (NK 50, 177, 699, 703, 1074, 1159, 1190, 1689, 1784), kêu hét đến mệt lả (NK 177) như ngọn lửa đang cháy bên trong mình (NK 50, 177,186, 1074, 1190, 1521). Nỗi khát khao lớn nhất được dành cho tội nhân (NK 206, 378, 723, 1146, 1275, 1665, 1739, 1784), đặc biệt cho người khốn khổ (NK 723, 1182, 1182, 1273, 1541). Lòng thương cảm của Ngài thì chan chứa (NK 1148, 1190, 1777), với vòng tay mở rộng và chờ đợi (NK 206, 1541, 1728, 1777). Ngài không loại trừ ai (NK 1076, 1182, 1728), chỉ đòi hỏi tin cậy, niềm tin cậy không giới hạn.

Như Mẹ Têresa Calcutta thường nhận xét : cái nghèo nhất là không biết Đức Kitô. Vì thế, ta cần giúp tha nhân tìm kiếm Thiên Chúa trong khuôn mặt đầy Lòng Thương Xót của Đức Kitô. Ta hãy cầu nguyện xin Chúa giúp ta “tiêm nhiễm” Lòng Thương Xót của Chúa.

Nếu ta muốn tỏa lan Lòng Chúa Thương Xót theo lời Đức Thánh Cha và Giáo Hội, Tin Mừng về Lòng Thương Xót này phải trở thành điểm nhắm của ta vì chúng ta không chỉ được kêu gọi để loan báo nhưng còn để sống Lòng Thương Xót ấy. Đức Benedictô mô tả Đức Gioan Phaolô như “tông đồ vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót”, người “đã có trực giác tiên tri về nhu cầu mục vụ khẩn cấp” đối với Lòng Chúa Thương Xót trong thời đại này. Đức Gioan Phaolô II được ca ngợi như vị ngôn sứ của Lòng Chúa Thương Xót bằng chính điều ngài làm.

Ngày 6/4/2008, trong vai trò chủ tịch đại hội, cử hành thánh lễ bế mạc đại hội lòng thương xót tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, Đức hồng y Christoph Schonborn nói: “Quá trình thành công của Kitô giáo không phải là chuyện chiến thắng quân đội hoặc chính trị. Đúng hơn đó là chiến thắng của lòng thương xót sống động. Chỉ trong cách ấy bạn mới có thể thâm tín. Ngôn từ có thể đẹp nhưng cuối cùng vẫn chỉ là ngôn từ. Tuy nhiên, những hành động của lòng thương xót lại là những gì thật hiển nhiên”. Ngài vui mừng kêu lên: “Thật là xúc động khi nhìn thấy Lòng Chúa Thương Xót lan tỏa khắp thế giới”.

Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2005 ở Cologne bên Đức, ĐTC mời gọi họ tới gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô trong và nhờ Giáo Hội, đặc biệt bằng việc đến với Chúa Giêsu Thánh Thể nơi “Nhà Tạm của Lòng Thương Xót”.

Trong lần thăm viếng mục vụ Ba Lan, gặp gỡ 500.000 bạn trẻ ngày 27/5/2006 tại công viên Blonie, ở Kralow, Đức Bênêđictô XVI đã ủy thác “Ngọn Lửa Lòng Thương Xót” cho đám đông giới trẻ tham dự, để họ là “những sứ giả của Tình Yêu và Lòng Chúa Thương Xót trong thế giới” (Diễn văn chung 31/5/2006).

• Thay Lời Kết : Ta cần phải Sống Lòng Thương Xót Mỗi Ngày

Khi nhận được Lòng Thương Xót từ Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi tiến bước vào thế giới như những con người của lòng thương xót và thứ tha. Như Thiên Chúa đã bày tỏ lòng thương xót cho ta thế nào thì ta cũng được gọi để bày tỏ lòng thương xót ấy cho tha nhân, đặc biệt cho những ai tối cần đến. Nếu không, chứng tá cho Lòng Chúa Thương Xót sẽ mất đi độ tin cậy và sự toàn vẹn. Chúa nói với Faustina: “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm, thứ hai – bằng lời nói, thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta. Chính nhờ cách này mà một linh hồn có thể tôn vinh và tôn kính lòng thương xót của Ta.” (NK, 742).

Đức Bênêđictô XVI nhắc nhủ: “Ta cần phải sống lòng thương xót mỗi ngày, đồng thời cho phép Lòng Chúa Thương Xót biến đổi ta nên những người có lòng thương xót. Để rồi thế giới này đến lượt tự nó sẽ được biến đổi bởi sự khải hoàn của Lòng Thương Xót sống động”.

Theo gương thánh Faustina và theo lời kêu gọi của các vị chủ chăn trong Giáo Hội, ta có thể quảng bá việc tôn kính lòng thương xót Chúa, lần chuỗi lòng thương xót, cử hành lễ kính lòng thương xót, dâng những khổ đau của ta làm hy lễ tình yêu cho tha nhân. Ta cũng có thể nên sạch nơi “Tòa Thương Xót” của bí tích Hòa Giải. Ta cũng có thể kêu gọi mọi người đến với lòng thương xót của Chúa, khích lệ tất cả, đặc biệt các tội nhân hãy tin cậy vào lòng thương xót ấy. Ta có thể tham dự Đại Hội Thế Giới về Lòng Thương Xót hoặc giúp tổ chức cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót trong các xứ đạo. Ta có thể làm một tông đồ, một nhân chứng của lòng thương xót bằng chính cuộc sống của ta. Chúa đang kêu mời ta sống chứng tá lòng thương xót từng ngày trong gia đình, trong cộng đoàn, ngoài xã hội, khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, hãy có lòng thương xót đối với tha nhân như Thiên Chúa xót thương ta. Cầu nguyện và tín thác nơi Chúa phải là điều quan trọng khi theo đuổi hoạt động như thế.

Vượt lên trên, ta hãy phấn đấu cho “lòng thương xót sống động của Chúa đi tới khải hoàn” để đáp ứng huấn lệnh của Đức Bênêđictô XVI: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới.

Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS

Thanh tẩy

Thanh tẩy

Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18,000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.

Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.

Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.

Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.

Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?

Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.

Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.

Sưu tầm

Chữa người phong cùi

Chữa người phong cùi

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

– Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

– Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.

Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.

Veritas Radio

Con cái là hồng ân của Chúa. Một xã hội không có con là một xã hội không ký ức và không tương lai

Con cái là hồng ân của Chúa. Một xã hội không có con là một xã hội không ký ức và không tương lai

** Con cái là hồng ân của Chúa, chứ không phải là một vấn đề sinh học truyền sinh, cũng không phải là một trong các kiểu tự thực hiện chính mình, lại càng không phải là việc chiếm hữu của cha mẹ. Con cái là một ơn…Một xã hội hà tiện thế hệ, không yêu thích có con cái vây quanh, nhất là coi con cái như một nỗi lo âu, một gánh nặng, một liều lĩnh, là một xã hội trầm cảm, không có ký ức và không có tương lai.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại công trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua. Hôm qua cũng là lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Mở đầu buổi tiếp kiến ĐTC đã mời mọi người cùng ngài đọc một kinh Kính Mừng kính Đức Mẹ.

Trong bài giáo lý ĐTC đã nói về con cái trong gia đình. Ngài trích một câu trong sách Isaia miêu tả cảnh gia đình hạnh phúc: “Con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. Khi dó ngươi sẽ nhìn và sẽ rạng rỡ, tim ngươi sẽ hồi hộp và nở lớn” (Is 60,4-5a). Đây là một hình ảnh tuyệt vời của niềm hạnh phúc đạt được trong cảnh gặp gỡ giữa cha mẹ và con cái, cùng tiến bước về một tương lai tự do và hòa bình, sau một thời gian thiếu thốn và chia cách. Thật thế, có một ràng buộc chặt chẽ giữa niềm hy vọng của một dân tộc và sự hài hòa giữa các thế hệ. Niềm vui của con cái khiến cho con tim của cha mẹ hồi hộp và rộng mở cho tương lai. ĐTC nói:

** Con cái là niềm vui của gia đình và của xã hội. Chúng không phải là một vấn đề sinh học truyền sinh, cũng không phải là một trong biết bao kiểu tự thực hiện chính mình, lại càng không phải là một chiếm hữu của cha mẹ. Không, con cái là một ơn, chúng là một món qùa, hiểu chưa? Con cái là một ơn. Mỗi người là duy nhất và không thể lập lại được; đồng thời nó cũng được gắn liền với nguồn gốc của mình một cách không thể nhầm lẫn được. Thật vậy, là con trai con gái theo chương trình của Thiên Chúa có nghĩa là mang theo trong mình ký ức và niềm hy vọng của một tình yêu đã thực hiện chính mình bằng cách thắp sáng lên sự sống của một con người khác, độc đáo và mới mẻ. Và đối với các cha mẹ mỗi một đứa con là chính nó, khác biệt. Xin anh chị em cho phép tôi nhớ tới một kỷ niệm gia đình. Tôi còn nhớ mẹ tôi đã nói về chúng tôi là năm anh chị em: “Tôi có năm người con”, Khi người ta hỏi bà: “Bà thích đứa nào nhất?” Bà trả lời: “Tôi có năm đứa con như năm ngón tay”. Bà chỉ các ngón tay và nói: “Nếu người ta đánh ngón này, nó làm tôi đau; nếu người ta đánh ngón kia, nó làm tôi đau. Cả năm ngón đều làm tôi đau. Tất cả chúng là con tôi, nhưng tất cả đều khác nhau như các ngón của bàn tay”. Gia đình tôi là như thế đấy! Các con khác nhau, nhưng tất cả là con.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: ta yêu một người con, bởi vì nó là con, chứ không phải vì nó đẹp, lành mạnh, tốt, không phải vì nó suy tư như tôi, hay nhập thể các ước mong của tôi. Một người con là một người con, một sư sống đã được sinh ra bởi chúng ta nhưng được chỉ định cho nó, cho thiện ích của nó, cho thiện ích của gia đình, của xã hội và của toàn nhân loại. Từ đó cũng phát xuất ra sự sâu thẳm của kinh nghiệm nhân bản là con trai và con gái, cho phép chúng ta khám phá ra chiều kích nhưng không của tình yêu, không ngừng làm cho chúng ta ngạc nhiên. Đó là vẻ đẹp được yêu trước: trước khi làm đuợc bất cứ gì để xứng đáng điều ấy, trước khi biết nói hay biết nghĩ và cả trước khi chào đời nữa!

** Biết bao nhiêu lần tôi thấy các bà mẹ ở công trường giơ bụng cho tôi coi và xin tôi chúc lành cho họ… các đứa trẻ này đã được yêu thương trước khi chúng vào đời. Đó là sự nhưng không, đó là tình yêu; chúng được yêu thương trước khi sinh ra, như tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng yêu chúng ta trước. Chúng được yêu trước: trước khi làm đuợc bất cứ gì để xứng đáng điều ấy, trước khi biết nói hay biết nghĩ và cả trước khi chào đời nữa.
Là con cái là điều kiện nền tảng để nhận biết tình yêu của Thiên Chúa, là suối nguồn cuối cùng của phép lạ đích thật này.

Trong linh hồn của mỗi người con, cho dù có dễ bị tổn thương tới đâu, Thiên Chúa đặt để dấu ấn của tình yêu đó, là nền tảng phẩm giá cá nhân, một phẩm giá mà không có gì và không có ai sẽ có thể phá hủy được.

Ngày nay các người con xem ra khó tưởng tượng ra tương lai. Trong các bài giáo lý trước đây tôi đã nhấn mạnh rằng các người cha có lẽ đã thụt lùi một bước và con cái đã trở nên chắc chắn trong việc bước tới. Chúng ta có thể học tương quan tốt giữa các thế hệ từ Cha trên Trời, là Đấng để cho từng người trong chúng ta tự do, nhưng không bao giờ để chúng ta một mình. Và nếu chúng ta sai lầm, thì Người tiếp tục theo chúng ta với lòng kiên nhẫn mà không giảm thiểu tình yêu đối với chúng ta. Cha thiên quốc không lui bước; Ngài muốn rằng con cái Ngài can đảm và tiến bước.

Về phía mình con cái không được sợ dấn thân xây dựng một thế giới mới: chúng thật đúng, khi ước ao nó tốt lành hơn là thế giới chúng đã nhận lãnh. Nhưng điều này đươc làm mà không xấc láo, không yêu sách. Cần phải biết thừa nhận giá trị của con cái, và phải luôn luôn tôn kính cha mẹ.

Điều răn thứ tư xin con cái – và chúng ta tất cả là con cái – thờ kính cha mẹ (x, Xh 20,12). Điều răn này đến ngay sau các điều răn liên quan tới Thiên Chúa. Qủa thế, nó chứa đựng một cái gì thánh thiêng, một cái gì nằm ở gốc rễ của mọi loại tôn trọng khác giữa con người. Và trong kiểu nói kinh thánh của điều răn thứ tư người ta còn thêm: “để cho ngươi được sống lâu trong đất Thiên Chúa ban cho ngươi”. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Mối dây nối kết mạnh mẽ giữa các thế hệ là bảo đảm cho tương lai, và bảo đảm của một lịch sử nhân bản thực sự. Một xã hội con cái không thờ kính cha mẹ là một xã hội không danh dự, bị chỉ định tràn đầy những người trẻ khô cằn và tham lam. Nhưng một xã hội hà tiện việc sinh sản, không yêu thích được vây quanh bởi con cái, nhất là coi chúng là một mối lo âu, một gánh nặng, một liều lĩnh, là một xã hội trầm cảm. Nếu một gia đình quảng đại có nhiều con cái bị coi như là một gánh nặng, thì có cái gì đó không ổn! Chúng ta hãy nghĩ tới biết bao xã hội ở Âu châu này: đó là các xã hội trầm cảm, bởi vì chúng không muốn có con, không có con, mức sinh không tới một phần trăm. Tại sao vậy? Mỗi người hãy suy nghĩ và trả lời.

Việc sinh con cái phải có tinh thần trách nhiệm, như Thông điệp Humanae vitae của Chân phước Phaolô VI dậy, nhưng có nhiều con hơn không thể tự động trở thành một lựa chọn trách nhịệm. Sự sống trở thành trẻ trung và có được các năng lực bằng cách nhân nhiều lên: nó trở thành giầu có chứ không nghèo nàn đi! Con cái học lo lắng cho gia đình, trưởng thành trong việc chia sẻ các hy sinh của nó, lớn lên trong việc đánh giá các ơn của nó. Kinh nghiệm tươi vui của tình huynh đệ linh hoạt lòng tôn trọng và việc chăm sóc cha mẹ, mà chúng ta phải biết ơn. Biết bao anh chị em hiện diện ở đây có con cái và chúng ta tất cả là con. Chúng ta hãy làm một điều, hãy giữ một phút thinh lặng. Mỗi người trong chúng ta hãy nghĩ tới con cái mình trong tim, nếu có con, hãy suy nghĩ trong thinh lặng. Và tất cả chúng ta nghĩ tới cha mẹ của chúng ta và cảm tạ Thiên Chúa vì ơn sự sống. Trong thinh lặng, ai có con cái thì nghĩ tới chúng, và chúng ta tất cả nghĩ tới cha mẹ mình. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ của chúng ta và chúc lành cho con cái anh chị em.

** Rồi ĐTC kết luận bài huấn dụ: Xin Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu đã trở thành con trong thời gian, giúp chúng ta tìm ra con đường dãi toả một cách mới mẻ kinh nghiệm nhân bản là con đơn sơ và to lớn này. Trong việc nhân thế hệ nhiều lên có một mầu nhiệm phong phú sự sống của tất cả mọi nguời đến từ chính Thiên Chúa. Chúng ta phải tái khám ra nó, bằng cách thách thức thành kiến, và sống nó trong đức tin và trong sự tươi vui toàn thiện. Và tôi nói: thật là xinh đẹp biết bao, khi tôi đi ngang qua giữa anh chị em và trông thấy các người cha và người mẹ giơ con lên để được chúc lành; đây là một cử chỉ hầu như thiên linh. Xin cám ơn anh chị em vì làm như thế.

ĐTC đã chào nhiều nhóm tín hữu. Hôm qua có nhiều huynh đoàn các nơi mặc sắc phục bình dân mang theo cờ đứng thành hàng rào danh dự chào ĐTC khi ngài đi lên khán đài.

Chào các đoàn hành hương Pháp ĐTC nói ngài hiệp ý với các tín hữu hành hương Lộ Đức cầu nguyện cho các gia đình của họ, và xin cho mọi người luôn biết quảng đại tiếp nhận sự sống.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Colombia Argentina và Mehicô ngài cũng xin Mẹ Lộ Đức ban ơn an ủi và sức mạnh giúp mọi người tiến về quê trời.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho mọi người biết lễ Đức Mẹ Lộ Đức cũng là Ngày quốc tế các bệnh nhân. ĐTC chúc các bạn trẻ sông trong thực tế nhưng cũng biết hướng mắt về trời; người đau yếu cảm nhận được lời Giáo Hội cầu nguyện cho họ, và các đôi tân hôn yêu thương sự sống, cả khi nó có mang dấu vết sự giòn mỏng và bệnh tật đi nữa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

** Năm 2014 vừa qua đi với biết bao căng thẳng gây ra bởi chiến tranh, xung đột và bạo lực đủ loại, trong đó có thảm cảnh các cuộc nội chiến tại Iraq, Syria và Ukraine, cũng như tại Trung Phi, Somalia, Afghanistan và nhiều nơi khác. Biến cố Hoa Kỳ tái lập ngoại giao với Cuba, mở lại tòa đại sứ và bỏ cấm vận sau 53 năm đoạn tuyệt ngoại giao và thù hận, như được hai quốc trưởng tuyên bố ngày 17 tháng 12 xem ra là tin vui duy nhất của năm 2014. Có ánh sáng hy vọng nào cho năm 2015 vừa mới bắt đầu hay không?

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của ông Natalino Ronzitti, nguyên giáo sư Luật quốc tế đại học Luiss và cố vấn khoa học Học viện bang giao quốc tế Italia.

Hỏi: Thưa giáo sư Ronzitti, năm 2014 đã có quá nhiều chiến tranh xung khắc gây chết chóc thương đau cho người dân trên thế giới, đặc biệt trong vùng Trung Đông. Không có sự kiện nào tích cực hay sao?

Đáp: Có chứ. Ít nhất có thể nêu bật hai sự kiện: trước hết là việc Hoa Kỳ và Cuba tái lập liên lạc ngoại giao với nhau sau hơn nửa thế kỷ cấm vận. Thứ hai là sự cởi mở của Hoa Kỳ đối với Iran. Khi nào Iran vĩnh viễn từ bỏ ý muốn có vũ khí nguyên tử, thì Hoa Kỳ cũng sẽ bỏ cấm vận đối với Iran.

Thế rồi khi nhìn vào tình hình thế giới, chúng ta cũng thấy có các sự kiện tích cực khác, chẳng hạn như liên quan tới việc chiến đấu chống lại nạn cướp biển, đã có các tiến bộ hữu hiệu khiến cho nạn cướp biển giảm nhiều. Điều này là một thiện ích cho các dịch vụ thương mại quốc tế. Còn có một sự kiện khá quan trọng khác nữa, thường không được biết tới: đó là Thỏa hiệp quốc tế về buôn bán vũ khí đã bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24 tháng 12 vừa qua. Thỏa hiệp này không loại bỏ việc buôn bán khí giới, nhưng điều hợp nó. Đây là một bước tiến tích cực, bởi vì người ta đã thử đưa ra một Hiệp ước tương tự vào thời của Hiệp hội các quốc gia, nhưng nó đã không bao giờ có hiệu lực. Trái lại, lần này Thỏa hiệp đã có hiệu lực, tất cả mọi nước thành viên của Liên Hiệp Âu châu đã phê chuẩn, và người ta hy vọng rằng có sự tuân giữ đại đồng.

Hỏi: Thưa giáo sư, 2015 cũng là năm của Hội nghị tái duyệt xét Thỏa hiệp không để vũ khí hạt nhân lan tràn triệu tập vào mùa xuân bên New York. Có dấu hiệu nào đến từ hội nghị này hay không?

Đáp: Rất tiếc là trong lãnh vực này thì không có nhiều hy vọng. Tuy nhiên, có một sự kiện tích cực đó là ít nhất chương trình nghị sự đã được chấp nhận, và như thế Hội nghị sẽ tiến hành. Sẽ rất ư là nguy hiểm, nếu các hội nghị loại này không được triệu tập.

Hỏi: Trong trường hợp có các dấu hiệu xích lại gần nhau giữa Hoa Kỳ và Iran, theo giáo sư, nó có tạo ra một hậu quả domino trong vùng hay không?

Đáp: Liên quan tới hiệu quả domino thì khó mà nói, nhưng nó có thể gây ra một hiệu qủa đáng kể đối với việc tái lập hòa bình, đặc biệt trong vùng Vịnh Ba Tư, là vùng đã trải qua các tranh cãi biên giới, tranh cãi đường thủy, và sự kiện các quốc gia thứ ba muốn nhảy vào vùng Vịnh. Vì thế có thể nói nó có một hiệu qủa nào đó. Nhưng nếu quý vị ám chỉ một giải pháp khả thể cho cuộc xung đột gây hậu qủa domino liên quan tới Nhà nước Hồi IS và liên quan tới Siria và Iraq, thì đương nhiên là khó mà nói được. Bởi vì ở đây các xung khắc vẫn đang tiếp diễn, và phong trào khủng bố này đang kiểm soát một vùng rộng lớn. Ngoài chuyện liên quan tới “Bin Laden” thực tế mà nói đây là lần đầu tiên một phong trào nổi loạn mang huy hiệu khủng bố kiểm soát được một vùng đất đáng kể. Theo tôi, trong trường hợp này sẽ không có một hiệu qủa domino, nếu không phải là trong nghĩa tất cả các quốc gia trong vùng cùng liên minh với nhau giúp đánh bại phong trào quốc gia hồi IS này. Nhưng đương nhiên liên quan tới điều này chúng ta không thể nói tới hòa bình, bởi vì nó sẽ bị thua sức mạnh của vũ khí. Và không có phương thế nào khác giúp đánh bại phong trào khủng bố này cả.

** Trong khi đó bên châu Mỹ Latinh có một mặt trận khác, trong đó tiến trình hòa bình tiếp tục được củng cố, mặc dù hiện nay vẫn không thiếu các vụ bạo lực và đó là trường hợp nước Colombia. Sau đây là một vài nhận xét của ông ông Raul Caruso, giáo sư khoa Chính trị kinh tế Đại học Công giáo Milano, kiêm giám đốc mạng lưới âu châu các “Khoa học gia cho hòa bình”.

Hỏi: Thưa giáo sư Caruso, giáo sư nghĩ gì về trường hợp của Colombia, là quốc gia đã có cuộc nội chiến lâu nhất thế giới, kéo dài 60 năm qua?

Đáp: Nước Colombia là một quốc gia đã bị xâu xé bởi một cuộc xung khắc triền miên hết thập niên này sang thập niên khác giữa quân chính phủ và các lực lượng bán quân sự và phiến quân, với những giai đoạn khó khăn và vài lúc gia tăng. Tuy nhiên, cũng đã có các cuộc thương thuyết hòa bình đang tiến hành bên Cuba, và xem ra Cuba trong lúc này là vùng phân chia ranh giới của biết bao nhiêu hy vọng. Rõ ràng là Colombia khiến cho chúng ta cũng nghĩ tới một khía cạnh khác nữa: đó là quốc gia này đang ở trong một tình trạng rất khó khăn về mặt chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, bất công xã hội, và đương nhiên là các nút thắt chính của tiến trình hòa bình đi qua việc giải quyết nạn bất công xã hội sâu xa, đã biến thành tinh thể tại Colombia từ nhiều năm qua.

Hỏi: Thưa giáo sư, các cuộc thương thuyết tiếp tục, thực ra chúng đã không bao giờ bị gián đoạn, nhưng mặc dù vậy đã không có đình chiến giữa các phe liên hệ, như vậy là thế nào?

Đáp: Cuộc xung đột tại Colombia rất đặc biệt, bởi vì các cuộc hòa đàm đã bắt đầu từ lâu, nhưng tổng thống Santos và cả các phiến quân đã luôn luôn khẳng định rằng các hoạt động chiến tranh bình thường vẫn tiếp tục. Đã không có cuộc ngưng chiến thực sự nào, chỉ có một cuộc ngưng bắn đơn phương thực sự từ phía các Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia FARC và Quân đội giải phóng quốc gia ELN là tổ chức du kích mác xít, nhân dịp bầu cử tổng thống cách đây vài tháng. Nhưng một cách kỹ thuật đã không có các cuộc thương thuyết hòa bình theo sau một cuộc ngưng bắn đích thực, như chúng ta thường nghĩ. Do đó, khi xảy ra các vụ bạo lực không cần tưởng tượng rằng chúng gây thiệt hại cho các cuộc thương thuyết hòa bình đang diễn tiến.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã công du Sri Lanka, là quôc gia cũng đã bị xâu xé bởi cuộc nội chiến trong bao nhiêu năm trời. Trong các thời gian qua xem ra đã có tiến trình hòa giải giữa các lực lượng đối nghịch, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Quốc gia đảo Sri Lanka tuy bé nhỏ, nhưng là một trường hợp rất đặc biệt, bởi vì cuộc nội chiến đã kéo dài tại đây ít nhất 25 năm. Hiện nay tình hình đang trở lại bình thường liên quan tới hòa bình, đến độ tin tức mấy ngày vừa qua cho biết đường xe lửa nối liền Bắc Nam đã được mở trở lại. Như thế tiến trình hòa bình tiếp tục, cả trong viễn tượng tái hội nhập đang thành hình trong xã hội Sri Lanka.

(RG 1-1-2015)
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Trên chuyến bay dài gần 15 tiếng từ Manila về Roma, ĐTC đã mở cuộc họp báo dài hơn 1 tiếng đồng hồ với 76 ký giả tháp tùng, để tổng kết chuyến viếng thăm tại Philippines và ngài cũng đề cập đến nhiều vấn đề thời sự: từ nạn tham nhũng trong các tổ chức dân sự và Giáo Hội đến vấn đề ”thực dân hóa gia đình về ý thức hệ”, từ lý thuyết về giống (Gender theory) cho đến vấn đề ngừa thai. Ngài cũng nói đến một loạt những cuộc tông du có thể thực hiện trong năm nay, 2015.

– Trả lời câu hỏi: ”Dân Philippines đã học được nhiều từ các sứ điệp của ĐTC. Vậy ĐTC đã học đưc điều gì nơi dân Philippines? Ngài đáp:

”Những cử chỉ.. những cử chỉ làm cho tôi cảm động. Không phải những cử chỉ theo nghi thức, nhưng là những cử chỉ xuất phát từ con tim, hầu như những cử chỉ ấy làm rơi lệ (ĐGH rướm lệ). Đức tin, tình yêu, gia đình, tương lai, nơi cử chỉ của những người cha nâng bổng các đứa con của họ.. như thể họ nói: đây là kho báu của tôi, đây là tương lai của tôi và làm việc và chịu đau khổ vì kho báu này thật là điều bõ công”. Một cử chỉ độc đáo, xuất phát từ con tim.

Điều thứ hai làm tôi xúc động nhiều: lòng nhiệt thành không giả bộ, niềm vui, sự hân hoan, khả năng mừng lễ. Dù dưới trời mưa. Một trong những người trong ban nghi lễ phụng vụ nói với tôi là rất cảm động, vì thấy những người giúp lễ ở Tacloban, dưới trời mưa, vẫn không bao giờ mất nụ cười. Một niềm vui không giả dối, không phải là một nụ cười gượng gạo, nhưng đó là một nụ cười đàng sau đó có cuộc sống bình thường, có những đau khổ, các vấn đề. Những người mẹ mang những đứa con bệnh tật.. Bao nhiêu trẻ em tàn tật, với những tật nguyền có thể gây ấn tượng, họ không giấu kín con của họ, họ mang đến để ĐGH chúc lành: đây là con tôi, bé tàn tật như thế, nhưng đó là con tôi. Tất cả những bà mẹ làm điều ấy, nhưng cách họ làm khiến tôi xúc động. Một cử chỉ của tình mẫu tử, phụ tử… Philippines là một dân tộc biết chịu đau khổ và có khả năng trỗi dậy, tiếp tục tiến bước. Hôm qua (18-1-2015), trong cuộc nói chuyện với thân phụ cô Krystel, thiếu nữ thiện nguyện bị thiệt mạng ở Tacloban, tôi cảm thấy được khích lệ vì điều mà ông nói: ”Cháu đã chết trong lúc phục vụ”. Ông tìm những lời để diễn tả sự chấp nhận tình trạng bị mất con như vậy”.

Những cử chỉ đã đánh động sâu xa con tim của ĐGH Phanxicô cũng là những cử chỉ của các nạn nhân sống sót sau cuồng phong ở Tacloban. Ngài nói: ”Khi nhìn thấy toàn thể dân Chúa cầu nguyện sau thiên tai ấy, tôi cảm thấy như bị tiêu diệt, hầu như không nói nên lời nữa”.

– Và thực sự khi gợi lại điều ấy, ĐGH vẫn còn cảm thấy xúc động, nhưng giọng nói của ngài thay đổi khi một ký giả hỏi ngài: đâu là những cuộc viếng thăm ngài d định thực hiện trong những tháng tới đây. Như thói quen, ngài chỉ trả lời lướt qua, và cho biết đây chỉ là những dự án đang ở trong vòng cứu xét:

”Tôi chỉ trả lời như giả thuyết. Chương trình dự tính là đến thăm Cộng hòa Trung Phi và Uganda. Hai nước trong năm nay. Tôi nghĩ là cuộc viếng thăm sẽ diễn ra vào khoảng cuối năm, vì lý do thời tiết, làm sao để thời tiết không bị mưa làm cho cuộc viếng thăm trở nên khó khăn hơn. Cuộc viếng thăm này hơi bị trể, vì có vấn đề bệnh dịch Ebola. Thật là trách nhiệm lớn khi tổp chức các cuộc tập họp lớn vì có nguy cơ bị lây bệnh. Tại hai nước vừa nói không có vấn đề”.

ĐTC cũng cho biết ngài có thể thăm 3 nước Mỹ châu la tinh, dự kiến cho năm nay – vẫn còn ở trong vòng dự định – đó là Ecuador, Bolovia và Paraguay. ”Rồi năm tới (2016), nếu Chúa muốn, tôi muốn thăm Chile, Argentina và Uguray, nhưng chưa dự kiến gì cả.”

Vì lý do thực tiễn trong việc tổ chức (cần thêm 2 ngày), ĐTC loại bỏ giả thuyết ngài sẽ đến California để phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra O.F.M. Lễ tôn phong sẽ diễn ra trong Đền thánh quốc gia ở Washington. Cũng vì lý do tương tự, không có vấn đề từ Mêhicô đi vào Hoa Kỳ, tuy rằng cử chỉ đó có thể có giá trị ”huynh đệ” đối với những người nhập cư. ”Đi vào Hoa Kỳ từ biên giới Mêhicô sẽ là một điều đẹp như một dấu chỉ huynh đệ, nhưng bạn biết rằng đi Mêhicô mà không đến viếng Đức Mẹ (Guadalupe) thì sẽ là một thảm trạng, ”một chiến tranh sẽ bùng nổ!.. Tôi nghĩ tôi sẽ thăm 3 thành phố Hoa Kỳ thôi.”

ĐTC cũng cho biết ngài không đến El Salvador để phong chân phước cho Đức Cha Oscar Romero (TGM San Salvador).

– Trả lời câu hỏi về việc nhiều lần ngài tố giác nạn tham ô hối lộ, ĐTC tái khẳng định rằng đó là một điều ác, một hành động xấu xa có những hậu quả tai hại, đó là một ”vấn đề thế giới” thường ẩn nấp dễ dàng trng các tổ chức, các cơ quan, không kể nơi mỗi cá nhân, và tệ nạn này thường tạo nên nạn nhân nhiều nhất nơi người nghèo. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi những kẻ thối nát thuộc về Giáo Hội và ở trong Giáo Hội. ĐGH Phanxicô kể lại một giai thoại khi ngài còn làm GM ở Buenos Aires, khi hai quan chức chính phủ đến gặp và đề nghị sẽ chuyển một ngân khoản lớn (400.000 USD) cho những ”Villas miserias” (những khu phố nghèo) mà ngài thành lập, với điều kiện là ngài phải lấy một nửa số tiền đó bỏ vào ngân hàng để trao cho họ. Ngài đã nói với họ những lời này:

”Quí vị biết là chúng tôi trong các giáo hạt không có tài khoản ở ngân hàng; quí vị phải gửi tiền ở tòa Giám Mục với giấy chứng nhận”. Họ đáp: ”Ồ chúng con không biết như vậy”. Rồi họ ra đi.. Tham nhũng thật là điều dễ làm. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này: tội lỗi thì có, tham nhũng thì không! Không bao giờ được tham nhũng. Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ cho những tín hữu Công Giáo ấy, gây gương mù vì sự tham nhũng của họ. Đó cũng là một tai ương trong Giáo Hội, nhưng cũng có bao nhiêu vị thánh, những vị thánh tội nhân, nhưng không tham nhũng.. Nhưng chúng ta cũng hãy nhìn sang phía bên kia, Giáo Hội Thánh Thiện”.

– Một ký giả Italia đã nhắc đến tấm gương cách đây 40 năm một vị Hồng Y (Léger) đã từ bỏ mọi sự đi đến ở nơi người cùi và phục vụ họ. ĐHY ấy là người duy nhất. Tại sao rất khó noi gương phục vụ người nghèo, kể cả đối với các Hồng Y?

ĐTC đáp: ”Về sự thanh bần, tôi nghĩ là Giáo Hội ngày càng phải nêu gương hơn về vấn đề này, từ khước mọi thứ trần tục. Đối với chúng tôi, những người được thánh hiến, các giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân có lòng tin thực sự, thì sự đe dọa trầm trọng nhất chính là tinh thần trần tục. Thật là điều đau buồn dường nào khi thấy một người thánh hiến, một người của Giáo Hội, một nữ tu, có tinh thần thế gian trần tục như vậy. Thật là xấu! Đó không phải là con đường của Chúa Giêsu, nhưng là của một tổ chức phi chính phủ (ONG) gọi là Giáo Hội. Đó không phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu, nhưng là con đường của ONG”.

– Hai ký giả xin ĐGH làm sáng tỏ hai nhận xét mà ngài đã nói trong cuộc họp báo trên đường từ Colombo, Sri Lanka, đến Manila. Một câu hỏi về 'cú đm' cho người dám xúc phạm đến mẹ ngài – như từ vài ngày nay, báo chí vẫn đăng như một tựa đề -, nghĩa là ”đâu là những giới hạn của tự do ngôn luận. ĐGH tái khẳng định rằng ”trên lý thuyết” tất cả đều đồng ý về việc giơ má bên kia trong trường hợp bị khiêu khích, nhưng thực tế chúng ta là những con người và vì thế sự xúc phạm lập đi lập lại có thể tạo nên một phản ứng sai lầm. Vì thế, ĐGH quả quyết, có thái độ thận trọng, đó không phải là một điều xấu.

– Trả lời câu hỏi về thành ngữ mà ĐGH sử dụng, ”thực dân ý thức hệ”, ngài kể lại một sự kiện cách đây 20 năm, một bà bộ trưởng giáo dục đã yêu cầu (các tổ chức quốc tế) cho vay mượn một ngân khoản lớn để thiết lập những trường học cho người nghèo ở vùng nông thôn. Các tổ chức ấy cho mượn tiền với điều kiện là phải du nhập vào trường học một cuốn sách giáo khoa dạy lý thuyết về giống. Bà bộ trưởng ấy cần tiền và đó là điều kiện.. Bà trả lời là đồng ý, nhưng bà cũng ”khôn ngoan”, bà cho soạn một cuốn sách thứ II, có chiều hướng khác, và cho phân phát cùng với cuộc sách thứ I về lý thuyết giống.

ĐTC nhận xét: ”Đó thực là một sự thực dân hóa ý thức hệ: họ đi vào một dân tộc với một ý tưởng chẳng có liên hệ gì với dân chúng; đúng vậy, nó có liên hệ với những nhóm dân, nhưng không phải với nhân dân, và người ta thực dân hóa nhân dân với một ý tưởng thay đổi hoặc muốn thay đổi một não trạng hoặc một cơ cấu (…). Dầu sao đó không phải là điều mới mẻ. Các chế độ độc tài trong thế kỷ trước cũng đã làm như vậy. Họ đề ra các lý thuyết của họ. Các bạn hãy nghĩ đến ”Balilla”, đến giới trẻ Hitler. Họ đã thực dân hóa dân chúng và muốn làm như vậy. Bao nhiêu là đau khổ. Các dân tộc không được đánh mất tự do của mình”.

– Một đề tài khác được đề cập đến trong cuộc họp báo là vấn đề ngừa thai. Ký giả hỏi:

ĐTC đã nói về bao nhiêu trẻ em và niềm vui của ngài, nhưng theo các cuc thăm dò, phần lớn dân Philippines nghĩ rằng sự tăng trưởng quá lớn về dân số là một trong những lý do tạo nên nghèo đói ti nước này. Bình thường một phụ nữ sinh hơn 3 đứa con. Lập trường của Giáo hội về vấn đề ngừa thai là một trong những điều mà nhiều ngưi không đồng ý với Giáo Hội.” ĐTC đáp:

”Tôi nghĩ rằng con số 3 người con cho mỗi gia đình mà bạn nói, theo những điều mà các chuyên gia nói, là con số quan trọng để duy trì dân số. Khi xuống dưới mức đó thì người ta rơi vào thái cực khác, đó là điều đang xảy ra ở Italia, nơi mà tôi nghe nói – không biết có đúng không, – vào năm 2024 sẽ không đủ tiền để trả lương hưu.. Chìa khóa để trả lời – Giáo hội sử dụng và tôi cũng sử dụng – đó là sinh sản có trách nhiệm và mỗi người trong cuộc đối thoại với mục tử của mình tìm cách thực hiện việc làm cha làm mẹ trách nhiệm. Thí dụ mà tôi đã vừa nhắc đến là người phụ nữ đang mang thai đứa con thứ 8 và bà đã có 7 người con sinh bằng giải phẫu (parto cesareo). Làm như thế là vô trách nhiệm. Bà nói: ”Không, nhưng con tin tưởng nơi Thiên Chúa..”. Đúng vậy, Thiên Chúa ban cho bà các phương tiện, nhưng xin lỗi, có người nghĩ rằng để là tín hữu Công Giáo tốt, thì chúng ta phải như ”thỏ”. Phải sinh sản có trách nhiệm: vì thế trong Giáo Hội có những nhóm hôn nhân, những chuyên gia trong vấn đề này, và có các vị mục tử và tôi biết có bao nhiêu lối thoát hợp pháp, giúp trong vấn đề này. Một điều khác: đối với những người nghèo nhất, con cái là một kho tàng, dĩ nhiên là phải thận trọng, nhưng người con chính là một khó tàng. Sinh sản có trách nhiệm, nhưng cũng phải nhìn đến lòng quảng đại của người cha và người mẹ nhìn thấy nơi con cái họ là một kho tàng”.

ĐTC cũng nhắc đến thông điệp ”Humanae vitae” của Đức Phaolô 6, một vị ngôn sứ, chứ không phải là một vị Giáo Hoàng ”khép kín”. Ngài nói:

”Đức Phaolô 6 nhìn chủ thuyết tân Malthus (cho rằng nghèo đói là do dân số quá đông gây ra) đang lan tràn bấy giờ. Chủ thuyết ấy tìm cách kiểm soát nhân loại từ phía các cường quốc.

– Về lời ngài kêu gọi các nước Hồi giáo có lập trường chống lại các nhóm khủng bố, ĐTC nói là ngài tin tưởng rằng với thời gian, nhiều ”người tốt” trong thế giới Hồi giáo sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Ngài cũng minh xác về việc không tiếp kiến Đc Đạt Lai Lạt Ma, vì ”thói quen trong nghi thức ngoại giao của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh” không đón tiếp các vị Quốc Trưởng hoặc các vị ở cấp tương đương như vậy, khi các vị ấy đến Roma để tham dự một cuộc gặp gỡ quốc tế. ”Trong những ngày hội nghị thượng đỉnh FAO ở Roma, tôi không tiếp vị quốc trưởng nào. Không phải tôi không tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma vì sợ Trung Quốc. Ngài đã xin được tiếp kiến – và chúng tôi có quan hệ – nhưng lý do ở đây không phải là từ khước một nhân vật hoặc vì sợ Trung Quốc. Chúng tôi cởi mở và muốn có hòa bình với tất cả mọi người. Vậy quan hệ với Trung Quốc thế nào? Chính Phủ Trung Quốc thông thạo và cả chúng tôi cũng thông thạo và chúng tôi tiến hành sự việc từng bước một, cũng như sự việc tiến hành trong lịch sử. Chúng tôi không biết, nhưng họ biết rằng tôi sẵn sàng tiếp kiến hoặc đi tới Trung Quốc. Họ biết điều đó”.

Vào cuối cuộc họp báo, ĐTC đã chúc mừng sinh nhật bà Valentina Alazraki, ký giả truyền hình của Mexico, niên trưởng các ký giả tháp tùng ngài trên các chuyến bay. Ngài tặng quà riêng cho bà và cũng tặng bà và tất cả các ký giả tháp tùng một bánh ngọt lớn để mừng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.

1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
 
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsutự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsuđã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsulà “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).

Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).

Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.

2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội

Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.

Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).

Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).

Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).

a. Được tha thứ tội lỗi
 
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha : nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.

Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như : đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối… và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).

b. “Trở nên thụ tạo mới”
 
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).

Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:

– Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.
– Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.
– Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.

Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.

Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động… để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).

Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh :được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).

3. Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân – Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.

Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).

Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).

“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Grêriô Nadien, Bài giảng 40,3-4).

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.

Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.

Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.

Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
 
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Món quà

Món quà

Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?

Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.

Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.

Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.

Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.

Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.

Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.

Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.

Sưu tầm

Tôi tớ

Tôi tớ

Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?

Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.

Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:

Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.

Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.

Sưu tầm

Niềm vui của chúng ta là chính Đức Giê-su

Niềm vui của chúng ta là chính Đức Giê-su

VATICAN. Trưa ngày Chúa nhật 14.12.2014, như thường lệ, ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12h trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy đón nhận Đức Giêsu vì Ngài là niềm vui sẽ đến với mọi gia đình.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của ĐTC, ngài nói:

“Anh chị em và các con rất thân mến.

Hai tuần của Mùa Vọng vừa qua đã mời gọi chúng ta phải tỉnh thức thiêng liêng để dọn đường cho Chúa đến. Trong Chúa Nhật thứ ba của Mùa Vọng này, phụng vụ kêu mời chúng ta hãy có một thái độ nội tâm khác để đón chờ Chúa đến, đó là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu được gói gọn trong câu nói: “Cùng với Đức Giêsu niềm vui sẽ đến nhà”.

Trái tim của con người luôn khao khát sự hân hoan. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Nhưng đâu là sự vui mừng mà Kitô hữu được kêu gọi để sống và minh chứng? Đó là niềm vui được ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Kể từ lúc Đức Giêsu bước vào trong lịch sử, với sự giáng sinh của Ngài nơi Bê-lem, nhân loại đã nhận lãnh hạt mầm của Nước Chúa, hệt như mảnh đất đón nhận hạt giống, hứa hẹn sẽ thu hoạch trong tương lai. Chẳng cần phải tìm kiếm nơi nào khác! Đức Giêsu đã đến để mang lại niềm vui cho tất cả mọi người và mọi thời. Đó không phải là niềm vui chỉ hy vọng có được nơi thiên đàng bởi vì nơi đây trên mặt đất này chúng ta sầu muộn nhưng trên thiên đàng chúng ta sẽ hoan hỷ. Không, không! Không phải niềm vui như thế, nhưng là niềm vui đã hiện thực hóa và được cảm nghiệm ngay bây giờ, bởi vì chính Đức Giêsu là niềm vui, và nhà chúng ta có Đức Giêsu thì sẽ có niềm vui. Một điều khác là: “Nếu không có Đức Giêsu có niềm vui không? Không! Ngài là Đấng Phục Sinh, đang sống và lao tác trong và giữa chúng ta một cách đặc biệt nơi Lời Chúa và các Bí tích.

Tất cả chúng ta đã được rửa tội, là con cái của Giáo Hội, chúng ta được kêu gọi để thường xuyên nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta, để giúp đỡ tha nhân khám phá hay tái khám phá ra Ngài nếu như họ đã lỡ quên lãng. Đó là một sứ mạng cao đẹp, giống như của Gioan Tiền Hô vậy: hướng dẫn con người đến với Đức Kitô- chứ không đến với chính bản thân chúng ta!- bởi vì Người là đích điểm mà trái tim con người hướng đến khi tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc.

Thánh Phao lô, trong phụng vụ hôm nay, đề cập đến những điều kiện để trở nên “sứ giả của niềm vui”: hãy cầu nguyện không ngừng, tạ ơn Chúa luôn luôn, hãy chiều theo Thánh Linh, tìm kiếm điều lành và tránh xa điều dữ (1 Tx 5, 17-22). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Đức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống, thậm chí đó là những hoàn cảnh khó khăn và nặng nề nhất. Người ta chưa bao giờ nghe nói đến một vị thánh buồn hay là một vị thánh với gương mặt thiểu não. Người ta chưa bao giờ nghe nói đến điều đó! Đó sẽ là một sự vô lý. Một Kitô hữu là một người có con tim đầy bình an bởi vì người đó biết đặt để niềm vui của mình nơi Thiên Chúa thậm chí cả khi phải trải qua những thời khắc khó khăn trong cuộc sống. Có đức tin không có nghĩa là sẽ không gặp phải những giây phút khó khăn nhưng là có sức mạnh để đương đầu với chúng với suy nghĩ rằng chúng ta không hề cô độc. Đây là bình an mà Thiên Chúa ban tặng cho con cái của Ngài.

Cùng hướng về Giáng Sinh đã cận kề, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm chứng rằng Đức Giêsu không phải một nhân vật của quá khứ; Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa ngày nay vẫn tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành của con người; những cử chỉ của Ngài – những Bí tích – là sự tỏ bày của lòng âu yếm, của sự an ủi và tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với từng con người. Nguyện xin Đức Trinh nữ Maria, “Nguồn vui của chúng ta”, luôn mang lại cho chúng ta những tin vui của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi sự nô lệ, bên trong cũng như bên ngoài.”

Sau kinh Truyền Tin, ĐTC đã gửi lời chào đến tất cả khách hành hương đến từ Roma, từ nước Ý và từ nhiều nơi trên thế giới. ĐTC gửi lời chào những tín hữu Ba Lan và ngài hiệp thông một cách thiêng liêng với những ai hôm nay đã thắp lên “ngọn nến của Giáng Sinh” và tái khẳng định dấn thân cho đoàn kết, một cách đặc biệt, trong Năm Đức Ái được cử hành ở Ba Lan.

Kế đến, ĐTC chào thăm nồng nhiệt những trẻ em đã đến để lãnh nhận phép lành, do Trung Tâm Diễn Thuyết của Roma tổ chức. ĐTC cám ơn vì sự hiện diện của các em và chúc mừng Giáng Sinh các em! Đồng thời, ĐTC nhắn nhủ các em khi cầu nguyện ở nhà, trước hang đá, hãy nhớ đến ngài, cũng như ngài hứa sẽ nhớ đến các em. Ngài nhắn nhủ rằng cầu nguyện là hơi thở của linh hồn: tìm những phút giây trong ngày để mở lòng với Chúa là rất quan trọng, thậm chí chỉ với những lời nguyện vắn gọn và đơn sơ của dân Chúa. Vì thế, ĐTC đã tạo một bất ngờ cho các em khi tặng cho tất cả trẻ em nơi quảng trường Thánh Phêrô: một cuốn sách nhỏ bỏ túi trong đó có một vài lời nguyện, cho những thời điểm khác nhau trong ngày và cho những hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Có vài người đã tự nguyện đóng góp những cuốn sách này. ĐTC nhắc nhở các em hãy lấy mỗi người một cuốn và luôn mang theo bên mình các em, như là trợ giúp để sống kết hiệp với Chúa suốt cả ngày.

Buổi chiều cùng ngày, ĐTC đã đến thăm giáo xứ Thánh Giuse Aurelio ở Roma. ĐTC đến giáo xứ lúc 16h và chuyến viếng thăm của Ngài bắt đầu với cuộc gặp gỡ với trẻ em. Trong suốt cuộc gặp gỡ, ngài đã chia sẻ với các em kinh nghiệm của ngài trong cuộc gặp gỡ với Chúa Hài Đồng. Ngài nói về việc Rước lễ lần đầu của mình, cách đây 70 năm, vào ngày 08.10.1944. Sau đó, Ngài gặp gỡ cộng đoàn Nomadi, một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi. Ngài kêu gọi cộng đoàn này đừng đánh mất hy vọng bởi vì Đức Giêsu chính là niềm hy vọng. Sau đó, ĐTC đã gặp gỡ khoảng 60 bệnh nhân. Tiếp đến, ĐTC gặp gỡ các gia đình có con em được rửa tội trong năm vừa qua. Cuối cùng, ĐTC cử hành thánh lễ tại giáo xứ trước khi trở về Vatican lúc 20h cùng ngày.

Jos. Nguyễn Huy Mai

Vương quốc tình yêu

Vương quốc tình yêu

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vương quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?

2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?

3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?

4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt