Đức Thánh Cha kêu gọi thay đổi công nghệ khai thác quặng mỏ

Đức Thánh Cha kêu gọi thay đổi công nghệ khai thác quặng mỏ

VATICAN. ĐTC kêu gọi các giới hữu trách công nghệ khai thác mỏ hãy cải tổ toàn diện, nhất là tại các nước nghèo nhất, để tôn trọng quyền lợi của các cộng đoàn địa phương và bảo vệ môi trường.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp chào mừng các tham dự viên cuộc hội thảo quốc tế đang tại Vatican từ ngày 17 đến 19-7-2015 về chủ đề ”Giáo Hội và các quặng mỏ”: hiệp với Thiên Chúa chúng ta lắng nghe một tiếng kêu.

Sứ điệp của ĐTC được ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, là cơ quan tổ chức cuộc hội thảo, tuyên đọc trong buổi khai mạc sáng ngày 17-7 vừa qua. ĐTC viết:

”Anh chị em đã muốn họp nhau ở Roma trong ngày suy tư này liên quan đến một đoạn trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm” (nn.187-190) để làm vang vọng tiếng kêu của nhiều cá nhân, gia đình và cộng đoàn, đang chịu đau khổ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì những hậu quả tiêu cực của các hoạt động khai thác quặng mỏ. Một tiếng kêu cho những vùng đất bị mất; một tiếng kêu vì sự khai thác tài nguyên phong phú từ lòng đất, nhưng không mang lại sự sung túc cho dân chúng địa phương, khiến họ tiếp tục ở trong tình trạng nghèo khổ; một tiếng kêu đau thương phản ứng lại bạo lực, những đe dọa và tham nhũng; một tiếng kêu phẫn nộ và kêu cứu vì những vi phạm các quyền con người, bị chà đạp trắng trợn hoặc kín đáo, liên quan đến sức khỏe của dân chúng, các điều kiện làm việc, và nhiều khi làm nô lệ và nạn buôn người, nuôi dưỡng hiện tượng mại dâm thê thảm; một tiếng kêu đau buồn và bất lực vì sự ô nhiễm nước, không khí và đất; một tiếng kêu không được cảm thông vì không có những tiến trình bao gồm và nâng đỡ từ phía các chính quyền dân sự, địa phương và quốc gia, là những người có nghĩa vụ cơ bản phải thăng tiến công ích”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Toàn bộ lãnh vực khai thác mỏ chắc chắn được kêu gọi thực hiện một sự thay đổi toàn bộ mô hình của mình để cải tiến tình trạng tại nhiều nước. Có thể cộng tác vào công trình này có các chính quyền của những nước nguyên quán của các công ty liên quốc và những nước nơi các công ty ấy hoạt động, các giới chủ xí nghiệp và những nhà đầu tư, các chính quyền địa phương canh chừng hoạt động khai thác mỏ quặng, các công nhân và các đại diện của họ, các chuỗi cung ứng quốc tế với những người trung gian khác nhau, những người tiêu thụ hàng hóa đối tượng của các hoạt động khai thác khoáng sản. Tất cả những người ấy được kêu gọi hãy có một thái độ được linh hoạt nhờ sự kiện chúng ta họp thành một gia đình nhân loại duy nhất, ”tất cả có liên hệ với nhau, và sự chăm sóc đích thực cho chính cuộc sống chúng ta cũng như các quan hệ của chúng ta với thiên nhiên là điều không thể tách rời khỏi tình huynh đệ, công lý và lòng trung thành đối với người khác” (ibid. 70) (SD 17-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican về khai thác quặng mỏ

Cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican về khai thác quặng mỏ

VATICAN. Tham dự cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican từ 17 đến 19-7-2015 có khoảng 30 đại diện các cộng đoàn bị thương tổn vì quặng mỏ, từ Mỹ châu đến Á châu, qua Phi châu. Ngoài ra cũng có đại diện của một số HĐGM, các dòng tu và CIDSE là liên hiệp quốc tế các tổ chức phát triển và liên đới.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, vị chủ tọa cuộc Hội thảo, cho biết sinh hoạt này nhắm phối hợp các sáng kiến khác nhau trên bình diện địa phương để tiến tới một sáng kiến mới trên bình diện quốc tế, nhân danh Tòa Thánh, để có thể đối thoại với các giới lãnh đạo các công ty khai thác quặng mỏ.

Trong cuộc họp báo giới thiệu cuộc hội thảo này với giới báo chí ban sáng cùng ngày 17-7, một số nạn nhân của các hoạt động khai thác quặng mỏ ở Ấn độ, Brazil, Chile và Cộng hòa dân chủ Congo, đã trình bày chứng từ. Chẳng hạn bà Patricia Generoso Thomas, người Brazil, đã giải thích về sự kiện một xí nghiệp quặng mỏ đã làm ô nhiễm nước uống tại thành phố nơi bà sinh sống ở bang Minas Gerais.

Một chứng từ khác của ông Héritier Wembo Nyamo, người Congo, thuật lại sự kiện ông bị quăng vào lửa, bị tra tấn và dọa giết vì đã biểu tình và đòi một môi trường để làm việc sau khi một công ty liên quốc đến khai thác quặng mỏ kim loại đã trục xuất nhiều dân cư trong vùng. Hiện nay ông Nyamo không thể hành nghề tìm vàng nữa. Ông nói ”Tôi có vợ con và một em gái phải nuôi”.

Về phần ĐHY Turkson, ngài tố giác những áp lực, và dọa nạt mà một số tham dự viên đã phải chịu, sau khi xin hộ chiếu. Nhiều người khác bị bạo hành, bị giết hoặc bị trả thù. Tin về những sự kiện đó đã được gởi tới Hội đồng Tòa Thánh. Vì thế, – ĐHY nói – cần phải đón nhận tiếng kêu của những người bị xách nhiễu như thế do những kẻ làm việc mà không theo đuổi một mục tiêu thực sự là nhân bản. Trách nhiệm về những vụ ấy chính là những người đầu tư, các chủ xí nghiệp, ngân hàng chính trị gia và chính quyền của những nước có các quặng mỏ hoặc những nước có trụ sở trung ương của các công ty liên quốc về quặng mỏ. (Apic 17-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một

Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một

Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở “với Người” (Mc 3,14).

Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?

Chúa sai họ đi.

Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy “Đức Giêsu với các môn đệ”, tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc “kêu gọi” các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã “thiết lập Nhóm Mười Hai” để ở với Người và để Người “sai họ đi”. Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương… tâm thu… máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của Chúa.

“Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est” chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là “sự sai đi”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không? Tôi có thường sống “với Chúa” trong suy niệm, trong nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa “sai đi” vào đời sống thướng nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?

Người sai đi từng hai người một.

Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình” (Gv 4,9).

Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. “Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?

Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.

Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, “Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: “Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu… nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy… có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (l Cr 2,1-5).

Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự “làm nhẹ bớt” để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.

Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.

Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.

Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận” trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: “Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác” Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các con”. “Chúng ta chớ nên ảo tưởng”.

Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: “Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác”. Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,… điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.

Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ “ở với Người”. Nội dung của nỗ lực “truyền giáo” gồm 3 giai đoạn:

1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.

2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.

3. Hoạt động giúp người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.

Hoán cải

Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người không thích “thay đổi” cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp “mitanoa” dịch ra là “hoán cải”, có nghĩa là “đổi ngược tinh thần”. Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện hành? “Các Ngài đã kêu to” “ékèruxan” phải thay đổi cuộc sống “Metanoôsin”.

Trừ quỷ

Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những “nhà truyền giáo” những người được Chúa “sai đi” không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.

Chữa lành

Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.

Rao giảng Tin Mừng.

Không phải chỉ là “giảng dạy” mà đặc biệt còn là “giải thoát”. Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?

Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.

Chú giải của Noel Quesson

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Mở đầu Sứ điệp Phục Sinh 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhắc lại lời thiên thần nói với các bà đến thăm mộ Chúa: “Các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Chúa Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống lại… Các bà hãy đến xem chỗ Người đã nằm” (Mt 28,5-6). Từ đó, ĐTC nhấn mạnh: “Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, là Tin vui tuyệt hảo: Chúa Giê-su, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại! Biến cố này là nền tảng của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta: nếu Chúa Ki-tô không sống lại, Ki-tô giáo chẳng còn ý nghĩa; toàn bộ sứ mệnh của Giáo hội sẽ mất hết động lực, bởi vì Giáo hội đã khởi đầu từ đó và luôn bắt đầu lại từ đó. Sứ điệp mà các Ki-tô hữu mang đến cho thế giới này là: Chúa Giê-su, Tình yêu nhập thể, đã chết trên thập giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa Cha đã cho Người sống lại và đặt Người làm Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giê-su, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót chiến thắng tội lỗi, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự thật chiến thắng dối trá, sự sống chiến thắng sự chết.”

Bao nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ Thiên Chúa Tình Yêu giàu lòng thương xót nhân loại như thế nào. Xin cùng nhìn lại giờ phút cuối cùng trên thập tự giá, Chúa Giê-su đã ban 7 lời cuối thể hiện tình yêu vô lượng của Thiên Chúa. Suy niệm 7 lời cuối của Đức Giê-su, thấy rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận, và vì thế có thể coi đó là 7 DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.

Dấu ấn 1- “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).
 
Lề luật của Do-thái quy định: Luật báo phục tương xứng:Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (x. Đnl 19:21); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Chiếu theo Lề luật đó, thì những kẻ sỉ nhục, nhạo báng, đóng đinh giết Chúa Giê-su, cũng phải chịu sự báo phục tương xứng. Và khi Chúa tử nạn, thì đám người đó cũng phải chết theo.

Bước sang thời Tân Ước, chính Chúa Giê-su cũng cho biết ngày cánh chung (x. Mt 25, 31-46) Con Người sẽ ngự đến, “Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái” (Mt 25, 32-33). Chiếu theo sự phân xử đó, thì chắc chắn đám người đã đóng đinh, sỉ nhục, nhạo báng Đức Giê-su, sẽ phải đứng ở bên trái Người và rất đáng được Đức Vua (Quan Tòa Chung Thẩm) kết án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.” Vậy mà Đức Vua Giê-su trên thánh giá đã không xử như thế, trái lại còn cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Như vậy thì phải hiểu vấn đề như thế nào?

Thực ra Lời tiên báo về ngày tận thế chỉ là lời cảnh báo cho người tín hữu biết mà lo “làm lành, lánh dữ” trước khi đã quá muộn. Chỉ những kẻ cố tình phạm tội mới bị kết án. Lời Chúa xin tha tội cho những kẻ đã đóng đinh Người trên thập giá, đã chứng minh điều đó (“vì chúng không biết việc chúng làm”, tức là không cố ý phạm tội). Cũng chính Đức Giê-su đã khẳng định: ”Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha” (Lc 12, 19). Một cách cụ thể thì Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là vô lượng, vô biên. Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi xúc phạm đến Chúa, nên Người đã ban Thánh Thần soi sáng và thêm sức mạnh để ăn năn sám hối. Tuy nhiên nếu đã biết đó là tội mà còn cố tình phạm tội (tức là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần) thì tất nhiên án phạt thích đáng là không tránh khỏi.

Sách Giáo lý HTCG (số 1864) giải thích rõ: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31; Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ Lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.”

Suy niệm Lời cuối thứ nhất của Đức Giê-su khi bước vào đỉnh điểm của cuộc Thương Khó, thì thấy đó chính là một dấu ấn đậm nét về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Điều đó nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, mọi tội lỗi đã mắc phạm sẽ được tha hết, nếu biết ăn năn dốc lòng chừa. Nhưng cũng đừng vì thế mà ỷ lại rồi khất lần “để đến ngày mai sẽ tính”, bởi ngày Đấng Xét Xử Công Chính sẽ đến như kẻ trộm, “vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). Nhà “phù thủy tin học” Steve Jobs, giám đôc điều hành công ty máy tính Apple, trước khi chết, đã để lại một lời khuyên mà ông vẫn coi là một châm ngôn: “Hãy sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng của cuộc đời”. Ông giải thích: “Nếu bạn sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, đến lúc nào đó bạn sẽ tin tưởng rằng mọi điều bạn làm đã đúng”. Như vậy thì người Ki-tô hữu đừng để đến ngày mai những việc mà hôm nay có thể làm được, nhất là việc sám hối để canh tân con người và đời sống của mình.

Dấu ấn 2- “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).
 
Từ Lời cuối thứ nhất có thể suy ra Lời cuối thứ hai (“Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.” – Lc 23, 43). Đến những kẻ đã đóng đinh và giết Đức Giê-su, mà Người còn xin Chúa Cha tha cho chúng, thì những người tội lỗi đầy mình (như 2 tên trộm) Chúa cũng không chấp tội. Duy chỉ có điều là người phạm tội phải biết ăn năn, nếu muốn được tha tội. Cuộc đối thoại giữa hai tên trộm với nhau và với Chúa Giê-su đã nói rõ về điều này: “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 39-43).

Sự kiện này gợi nhớ lại khi còn đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã bị bọn kinh sư và Pha-ri-sêu phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Họ còn “lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”, khiến “Đức Giê-su đáp lại họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 30-32). Sứ vụ của Đức Giê-su là xuống trần gánh lấy tội lỗi của loài người, chịu khổ hình và chịu chết để giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Duy chỉ có điều loài người tội lỗi có nhìn ra con người thật của mình không và từ đó ăn năn sám hối, như người trộm lành để được hưởng ơn cứu độ. Đó mới thực sự là chân lý, là cứu cánh cho cuộc sống chan đầy tội lỗi của nhân trần.

Thêm một dấu ấn minh chứng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Người tín hữu hãy nhìn cho rõ hình ảnh 2 tên trộm cướp, để thấy được rằng là con người thì ai ai cũng có tội. Vậy thì hãy từ bỏ ngay cái thói kiêu căng hợm hĩnh của tên trộm dữ, mà kiên quyết học theo người trộm lành, dốc một lòng tin tưởng vào Đấng Cứu Độ đã chịu khổ hình vì tội lỗi của nhân loại. Nhiên hậu hãy tha thiết cầu xin Người, như người trộm lành năm xưa: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhớ đến con, xin cứu con khỏi án phạt đời đời, để con được vào Nước của Ngài”.

Dấu ấn 3-“Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ của con” (Ga 19, 27).
 
Người Mẹ nào mà không đau khổ khi mất con, nhất là Người Con đó hoàn toàn vô tội mà bị xử tử bằng khổ hình ô nhục. Hiểu được nỗi đau khổ đó của Đức Mẹ, nên Chúa mới trao phó thánh Gio-an cho Đức Mẹ như một nguồn an ủi cho nỗi đau đứt ruột của Người Mẹ mất đi Người Con duy nhất. Đến như thánh Gio-an và nói chung là các môn đệ, trước khổ nạn thập hình của Thầy, tất cả đều như đám gà con mất mẹ. Đức Giê-su đã trao phó các môn đệ của mình cho Mẹ của Người là để các môn đệ có nơi nương tựa, có người chăm sóc. Đó mới chỉ là nhìn theo nhân sinh quan, nhưng cao hơn một bậc, nhìn theo nhãn quan siêu hình học, thì sẽ thấy Lời trao phó này còn hàm nghĩa sâu rộng hơn nhiều: Đức Giê-su trước khi về cùng Chúa Cha, Người đã lo cho Hội Thánh mà Người thiết lập, và trao phó cho Đức Mẹ giữ gìn chăm sóc. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, trao cho Mẹ thiên chức Mẹ Giáo Hội của Thiên Chúa thì còn gì chuẩn xác hơn?

Nhờ thế, các Tông đồ “đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1, 14). Cho đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì hoa trái của sự cầu nguyện giữa Mẹ và các con đã hiển hiên: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Nếu không nhờ dấu ấn đặc biệt này (trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ), thì thử hỏi chỉ với 12 vị Tông đồ tiên khởi (đã chọn ông Mát-thi-a thay thế Giu-đa It-ca-ri-ốt – Cv 1, 15-26), Giáo Hội có thể phát triển vượt bậc được như ngày nay không?

Khi Đức Giê-su trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ, thì cũng có nghĩa Người muốn cho người tín hữu thấy được chỉ có Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mới đủ sức chở che, dẫn dắt đàn con cái trên hành trình tiến về quê Trời vĩnh cửu. Một cách cụ thể, Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ phải hiểu và thực hành cho được châm ngôn sống: “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Lời Đức Giê-su dạy khi còn rao giảng Tin Mừng: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5); mà muốn đến với Thầy để có thể làm được những việc Thầy trao phó, thì rất cần phải có Cây Cầu Nối, Đấng Trung Gian, đó chính là Đức Mẹ, không thể khác hơn. Hiểu được như vậy thì tại sao người Ki-tô hữu không hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội “rước Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19, 27) như thánh Gio-an thủa xưa?

Dấu ấn 4-“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34).
 
Chúa chịu đựng mọi sự sỉ nhục của đám đông, sự bỏ rơi của các môn đệ và cả sự nhạo cười của những kẻ cùng bị đóng đinh với Ngườị. Trong khi đó, thì lại không thấy Chúa Cha hiện ra như khi Đức Ki-tô chịu phép rửa trên sông Gio-đan (x. Mt 3, 13-17), hay khi Người cầu nguyện trên núi Ta-bo (x. Lc 9, 28-36). Sự kiện này gợi nhớ đến lần cầu nguyện trên núi Cây Dầu (vườn Ghết-sê-ma-ni), Đức Ki-tô cũng đã lo lằng đến độ đổ cả mồ hôi máu ra và cầu xin “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26, 39). Mới chỉ nghĩ tới thôi mà đã lo lắng như thế, thì giờ đây trực tiếp uống “chén đắng” làm sao tránh khỏi ưu phiền tuyệt vọng và vì thế Chúa mới than thở gần như trách móc: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”

Lời than thở này phản ánh đúng thực chất bản tính loài người. Thực vậy, Chúa Giê-su “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người trong chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (Hiến chế “Mục Vụ về Giáo Hội – Gaudium et Spes”, số 22). Có một câu hỏi được đặt ra: “Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người, chịu khổ hình và chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Như vậy thì tại sao Người còn than thở gần như trách móc Chúa Cha như vậy?” Như đã phân tích, Chúa Giê-su Nhập Thể “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người”, nên tới giờ phút lên đến đỉnh điểm của sự cô đơn tuyệt vọng, Người than thở như vậy cũng là lẽ thường tình. Tuy nhiên, ngay sau đó, bản tính Thiên Chúa lại nhắc nhở đến sứ mệnh của Người. Và Đức Giê-su tiếp tục “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8).

Tuy đây là Lời Đức Giê-su than thở cùng Đức Chúa Cha xuất phát từ nhân tính của Người; nhưng nếu nhìn vào thiên tính sẽ thấy Đức Giê-su đã “vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập tự”, thì chẳng lẽ công trình cứu chuộc nhân loại sẽ trở nên vô ích vì bị Chúa Cha “bỏ rơi” sao? Lại thêm một dấu ấn sáng ngời cho Lòng Chúa Thương Xót (Đức Ki-tô đã hấp hối mà vẫn không quên sứ vụ trọng đại mà Chúa Cha trao phó). Người Ki-tô hữu cần khắc sâu trong tâm khảm dấu ân trọng đại này, bởi không thể có sự kiện “Chúa Cha bỏ rơi Người Con” và vì thế Người Con Cả (Trưởng Tử Giê-su) tất nhiên cũng không quên đàn em thơ dại và yếu ớt, nên đã trao phó cho Mẹ Người chăm sóc. Hai dấu ấn 3 và 4 như một hệ luận tất yếu minh nhiên Lòng Chúa Thương Xót.

Dấu ấn 5- “Ta khát!” (Ga 19, 28).
 
Cái khát của Chúa Giê-su là hậu quả đau đớn của cực hình trên thập giá. Khi trình thuật sự kiện này, Thánh sử Gio-an viết: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19, 28). Thánh Gio-an nghĩ rằng cái khát của Chúa Giê-su đã đưa lên tột đỉnh ý nghiã của Kinh Thánh, đúng như Lời Chúa hằng nhấn mạnh: Tất cả mọi việc diễn ra trong công trình cứu độ dều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Lc 4, 21; Ga 19, 24.28.36-37). Thực vậy, Lời Chúa Giê-su đã gợi đến lời than trong Thánh Vịnh 69, trong đó tác giả là người “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân”. Tác giả nói rất rõ bị người đời thóa mạ, ruồng bỏ, đến độ “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69, 22). Sau khi nói “Ta khát” thì quả thực đám đông đã làm đúng như lời Thánh vịnh đã tiên báo: “Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người” (Ga 19, 29).

Đó là nói về tất cả sự kiện diễn ra trên Núi Sọ đều ứng nghiệm Lời Kinh Thánh. Tuy nhiên, ngoài cái khát thể lý ra, Đức Giê-su trước khi chấm dứt sứ vụ tại trần gian để trở về cùng Chúa Cha, thì Người còn một cơn khát tinh thần luôn bốc lửa trong Thánh Tâm Người: Ấy chính là cơn khát lo cho Giáo Hội (mà Người đã khai sinh) được no thỏa hồng ân, vững bước trên hành trình đem hoa trái Tình Yêu Cứu Độ đến cho “mọi loài thụ tạo”. Loài người đã đáp ứng cái khát thể lý của Đức Giê-su bằng giấm chua, mật đắng (sỉ nhục, nhạo cười, đóng đinh, đưa giấm cho Người uống), thì cũng chẳng khác đáp ửng cái khát tinh thần của Chúa bằng tội lỗi ngập đầu và sự chết đời đời.

Lời Chúa “Ta khát” rất cần phải được in dấu ấn thật sâu đậm trong tâm khảm mỗi tín hữu Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã khao khát cho dân Người được hưởng đầy đủ Lòng Chúa Thương Xót trong mọi tình huống cuộc đời trần thế (cả tinh thần lẫn vật chất). Vậy thì xin hãy khao khát được tin nghe và thực hành liên lỉ Lời Chúa, để đáp ứng cơn khát của bản thân cũng như của anh em xa gần.

Dấu ấn 6- “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
 
Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” cho biết công trình của Chúa Giê-su “đã hoàn tất” theo nghĩa không còn gì để làm thêm nữa, đã chấm dứt. Đồng thời cũng hàm chứa ý nghịa là một “chung kết” theo nghĩa là “cùng đích” của tất cả những gì Lời Chúa đã tiên báo: hy vọng của Kinh Thánh về một Đấng Cứu Chuộc đã được đáp ứng tận tình. Rõ ràng sứ vụ Chúa Cha trao phó đã được Chúa Giê-su thực hiện hoàn hảo. Giờ phút cuối cùng trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su đã nói lời này với chính mình, đồng thời cũng cho mọi người biết Người đã hoàn tất sứ vụ. Tuy nhiên, Đức Giê-su có chấm dứt hoàn toàn mối bận tâm về hành trình cứu độ nhân loại hay không, thì lại là chuyện khác.

Thật vậy, sau khi Đức Giê-su phán: “Mọi sự đã hoàn tất”, Thánh sử Gio-an ghi: “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”, trong khi Thánh Mat-thêu ghi: “trút linh hồn”, còn Thánh Lu-ca và Mac-cô đều ghi là “Người tắt thở”. Điều này cho thấy Thánh sử Gio-an – nhờ được Thần Khí mạc khải – đã có ngụ ý riêng: Nếu chỉ là trút hơi thở cuối cùng thì ghi như thánh Mat-thêu, Lu-ca, Mac-cô là đủ; nhưng ở đây thánh Gio-an còn muốn người đọc (các tín hữu) hiểu sâu hơn và xa hơn: Tới giờ phút cuối cùng của cuộc sống trần thế, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giê-su vẫn còn lưu tâm tới điều Người đã truyền (Lời thứ ba): “Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ con” (Ga 19, 27). Mà vì thế nên “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”. Đó chính là: Người đã trao phó Chúa Thánh Linh (Thần Khí) cho Đức Mẹ và Giáo Hội mà Thánh Gio-an là đại diện trong giờ phút cực trọng này.

Một cách cụ thể thì Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” chỉ là nói về sứ vụ của Người nơi trần thế đã xong, nhưng Lòng Thương Xót của Chúa vẫn trải dài trong không gian và thời gian, “trải qua đời nọ tới đời kia” cho đến thiên thu vạn đại. Và như thế, dấu ấn chung cuộc về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ phai lạt, dù cho có thiên binh vạn mã của sự dữ, của Sa-tan cũng không xóa mờ được.

Dấu ấn 7-“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46)
 
Thời điểm nghiêm trọng đã điểm: “Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa.” Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23, 44-46). Lời cuối cùng và cũng là dấu ấn đậm nét nhất của Đức Giê-su trên thánh giá (“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”), chính là một lời kinh nguyện quen thuộc của người Do-thái trích dẫn từ cuốn Thánh Vịnh (xc. Tv 31, số 6). Điều đó cho thấy Chúa Giê-su luôn kết hợp với dân Người, và bày tỏ sự cậy trông nơi Chúa Cha bằng những lời mà tất cả mọi người có thể hiểu được dễ dàng.

Nếu chỉ nhìn vào Đức Giê-su với Lời cuối cùng này thì chỉ thấy lòng thương cảm trào dâng trước cảnh Người Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải chết trong ô nhục, cay đắng vì tội lỗi loài người. Tuy nhiên, mở rộng sụ quan sát ra toàn cảnh Núi Sọ, sẽ thấy ngoài quang cảnh thiên sầu địa thảm ra, còn có một cảnh tượng về con người: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về. Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23, 47-49). Đó là những nhân chứng đầu tiên cho vinh quang Thập Giá. Nói khác hơn đó là những hoa quả đầu mùa của Lòng Chúa Thương Xót tuôn trào nhựa sống từ Cây Nho Giê-su Ki-tô vậy.

Khoảng 10 ngày sau, thì hiện thực diễn ra đúng như Lời hứa trao Thần Khí của Chúa Giê-su: “Vào ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Hoa trái của Cây Nho Giê-su thật sự nở rộ “Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo”. Cộng đoàn tín hữu đầu tiên hình thành “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 2, 41-43). Và cho đến ngày nay thì Giáo hội vì luôn được “tràn đầy ơn Thánh Thần” phát triển vượt bậc tới năm châu bốn biển, cũng là nhờ Đấng Cứu Độ đã “trao Thần Khí” vậy.

KẾT LUẬN
 
Bảy Lời cuối của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá, như bảy dấu ấn về Lòng Thương Xót Chúa dành cho Giáo Hội và nói chung là toàn thể nhân loại. Tuy là Lời Chúa Giê-su dành cho loài người, nhưng phải hiểu đây chính là “ấn tín” Chúa Thánh Thần đóng trên mỗi Ki-tô hữu. Sách Giáo lý HTCG (số 698) đã cho biết định nghĩa về “Ấn tín”: “Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng “xức dầu”. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Ðức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30).

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy cầu xin Đức Giê-su Thiên Chúa cho thông hiểu về những dấu ấn quan trọng này, bởi chính “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, số 105).

Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin cho sứ điệp của Chúa qua bẩy lời cuối cùng trên thập giá, như bảy dấu ấn khắc sâu vào tâm khảm chúng con. Cúi xin Chúa ban Thần Khi cho chúng con để chúng con hiểu rằng chính 7 dấu ấn Lòng Chúa Thương Xót sẽ đem lại cho chúng con niềm hy vọng vững vàng. Ôi! Lạy Chúa! Xin ban đức tin cho chúng con, bởi đức tin chính là niềm hy vọng vào Ơn Cứu Chuộc của Chúa (*). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

JM. LÂM THY ĐVD

Chú thích: (*) xc. Thông điệp “Spe Salvi – Đức Tin là Hy vọng” (số 2)

 

Thế giới học được gì từ hai thế chiến?

Thế giới học được gì từ hai thế chiến?

Sáng thứ bẩy 13 tháng 9 Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong tại Redipuglia và cử hành thánh lễ tại nghĩa trang các tử sĩ nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ.

Redipuglia là nghĩa trang quân đội lớn nhất tại Italia với mộ của hơn 100 ngàn tử sĩ của Thế chiến thứ nhất, trong đó có 30 ngàn chiến sĩ vô danh. Nghĩa trang này chỉ cách biên giới nước Slovenia vài cây số, và được khánh thành ngày 13 tháng 9 năm 1938. Sau khi viếng thăm nghĩa trang Áo-Hung, đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm, vào lúc 10 giờ Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ đồng tế tại đài tưởng niệm với các vị Giám Mục đặc trách các giáo hạt quân đội Italia và các nước cùng nhiều Giám Mục khác. Cuối thánh lễ Đức Thánh Cha đọc kinh cầu cho các binh sĩ tử trận và các nạn nhân chiến tranh. Ngài cũng trao cho mỗi Giám Mục hiện diện một ngọn đèn để thắp sáng trong các lễ tưởng niệm Đệ Nhất Thế Chiến tại các giáo phận liên hệ.

Đệ Nhất Thế Chiến đã bùng nổ ngày 28 tháng 7 năm 1914, và chấm dứt ngày 11 tháng 11 năm 1918. Các cuộc đụng độ diễn ra tai Âu châu, Trung Đông, nhiều đảo Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ, theo các phản ứng liên minh dây chuyền giữa các nước. Đã có hơn 70 triệu người bị động viên, trong số này có 60 triệu tại các nước Âu châu, và hơn 9 triệu binh sĩ ngã gục tại chiến trường, không kể khoảng 7 triệu thường dân bị thiệt mạng.

Mặt khác trong các ngày 31 tháng 8 đến mùng 2 tháng 9 vừa qua, các Giám Mục Đức và Ba Lan đã cùng cử hành các lễ nghi tưởng niệm 75 năm Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.

Thế Chiến Thứ II bắt đầu ngày mùng 1 tháng 9 năm 1939, khi quân đội Đức Quốc Xã tấn công Ba Lan, và chiến tranh đã kéo dài 6 năm khiến cho 62 triệu người chết, trong đó có 25 triệu binh sĩ: 17 triệu người thuộc khối đồng minh và 8 triệu người thuộc khối Trục gồm Đức, Ý và Nhật Bản. Khối đồng minh có 33 triệu thường dân bị chết, trong khi khối Trục có 4 triệu thường dân thiệt mạng.

Hai thế chiến đã khiến cho gần 80 triệu người chết, hàng chục triệu người khác bị thương hay tàn phế, và bao nhiêu triệu người phải sống trong cảnh nghèo túng, đói khát, bệnh tật, khốn khổ, vì các quốc gia lâm chiến đã dốc đổ tài lực và sát tế nhân lực cho thần chiến tranh và tàn phá. Hàng trăm thành phố làng mạc đã bị bỏ bom bình địa, tan hoang. Biết bao nhiêu hy sinh, mồ hôi, máu và nước mắt của hàng bao thế kỷ xây dựng, vun trồng, với bom đạn của chiến tranh chỉ trong chớp nhoáng đã biến thành tro bụi. Nam giới bị động viên, đất đai bị bỏ hoang không người canh tác, phụ nữ và trẻ em phải nai lưng làm việc trong các hãng chế tạo khí giới hay canh tác cầm chừng không đủ thực phẩm cung cấp cho gia đình. Toàn dân phải thắt lưng buộc bụng hy sinh cho chiến tranh.

Nhìn vào lịch sử nhận loại người ta thấy đã không có thế kỷ nào nhiều chiến tranh và xung khắc như thế kỷ 20 với hơn 180 cuộc chiến lớn nhỏ, trong đó hàng chục chiến cuộc vẫn còn tiếp diễn trong thế kỷ 21 hiện nay. Từ vài tháng qua với sự kiện các lực lượng hồi cuồng tín thành lập Nhà Nước Hồi bên Siria và Irak cũng như bên Nigeria, thi hành chiến sách diệt chủng tôn giáo và bộ tộc với các cuộc tàn sát tập thể dã man, xử bắn hàng ngàn binh sĩ, chặt đầu cắt cổ cả trẻ thơ, tước đoạt nhá cửa, ruộng vườn và tài sản của các kitô hữu vá các nhóm hồi thiểu số, và đuổi họ ra đi với hai bàn tay trắng. Các lực lượng ISIS ước mơ tài lập đế quốc Ottoman đã bị hủy bỏ năm 1920, để tiến tới chỗ hồi giáo hóa và thống trị toàn thế giới. Các đe dọa và khiêu khích của Nhà nước Hồi đã khiến cho Hoa Kỳ, Anh, Pháp Đức, Ba Lan, Italia và các quốc gia Arập Bắc Phi thành lập liên minh chống các lực lượng ISIS.

Bên cạnh đó lại còn thêm cuộc khủng hoảng tại Ucraina với chiến tranh ly khai và cuộc xâm lăng của quân đội Nga tại Crimea. Tuy Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu châu đã đưa ra các biện pháp trừng phạt kinh tế, nhưng xem ra nước Nga không nao núng, vì biết rằng chính quyền của tổng thống Barack Obama không ở trong thế mạnh do nhiều vấn đề khác nhau, và các quốc gia trong Liên Hiệp Âu châu vẫn còn kiệt quệ, chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chành trầm trọng kéo dài từ năm 2008 tới nay. Khi xua quân xâm lăng Ucraina ông Vladimir Putin cũng đã tính toán các nước cờ nhằm thực hiện giấc mộng tái lập đế quốc ”Nga vĩ đại”. và giành lại vai trò lãnh đạo đã mất trên bàn cờ chính trị thế giới, sau khi đế quốc cộng sản Liên Xô sụp đổ. Và Ucraina, quốc gia thành viên cựu khối Varsava, là con cờ thăm dò đầu tiên. Tổng thống Putin qúa biết các nước trong Liên Hiệp Âu châu rất cần dầu hỏa và khí đốt của Nga, đặc biệt mỗi khi mùa đông tới, nên việc sáp nhập Crimea vào Nga sẽ mở màn cho chiến dịch tái chiếm các vùng có người Nga sinh sống trong các nước vùng Baltic. Và để thoát vòng kiềm tỏa kinh tế của Hoa Kỳ và các nước khối G7, hồi hạ tuần tháng 5 vừa qua trong chuyến ông Putin viếng thăm Thượng Hải Nga và Trung Quốc đã ký hợp đồng thương mại lên tới 400 tỷ mỹ kim. Bắt đầu từ năm 2018 Nga sẽ cung cấp cho Trung Quốc mỗi năm 38 tỷ mết khối khí đốt trong vòng 30 năm. Số lượng đầu hỏa và khí đốt này sẽ được chuyển tới miền Đông Trung Quốc do một ống dẫn dài 2.200 cậy số. Đo đó Nga không sợ các trừng phạt kinh tế của Hoa Kỳ và các nước G7. Sau bài diễn văn của tổng thống Back Obama hôm thứ tư vừa qua, tuyền bố thành lập và điều khiển liên minh chống Nhà nước Hồi, và có thể bỏ bom bất cứ nơi đâu có các lực lượng này kể cả Siria, tổng thống Putin phản đối và chỉ trích Hoa Kỳ hành động trái với luật lệ quốc tế.

Liệu các căng thẳng giữa các cường quốc liên quan tới Ucraina và tình hình nóng bỏng tại Trung Đông có đột ngột gia tăng và châm ngòi cho một Đệ Tam Thế Chiến hay không, không ai biết được. Nhưng thực ra Thế Chiến thứ ba đã bắt đầu, từng mảng một, và rất có thể đưa tới việc sử dụng các vũ khí nguyên tử. Nếu xảy ra như vậy, thỉ gia đình nhâm loại vẫn phải tiếp tục sống dưới quyền điều khiển của thiểu số lãnh đạo có đầu óc điên loạn, khát khao quyền lực, mê say danh vọng vô độ. Và như vậy thế giới đã không học được gì từ hai thế chiến trong thế kỷ 20.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sửa lỗi anh em

Sửa lỗi anh em

Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.

Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.

Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.

Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?

Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.

Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.

Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.

Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.

Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.

Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?

2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?

3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Giáo Hội là một dân tộc được xây dựng trên đức tin

Giáo Hội là một dân tộc được xây dựng trên đức tin

Giáo Hội mà Chúa Giêsu có ý khai sinh là một dân tộc không dựa trên huyết thống nữa mà dựa trên đức tin, nghĩa là dựa trên tương quan với chính Người, một tương quan của tình yêu thương và sự tin tưởng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24-8-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu chương 16 kể lại biến cố Chúa Giêsu hỏi các môn đệ cho biết người ta nói Người là ai, và đối với các ông Chúa là ai. Đại diện cho Nhóm Mười Hai ông Phêrô nói: ”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa Giêsu gọi ông là ”có phước” vì lòng tin mà Thiên Chúa Cha đã ban cho ông, và Ngài nói với ông: ”Con là Phêrô nghĩa là Đá Tảng, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Chúng ta hãy dừng lại một chút trên điểm này, trên sư kiện Chúa Giêsu gán cho Simon tên gọi mới này: Phêrô trong tiếng nói của Chúa Giêsu là ”Kêpha”, có nghĩa là ”đá tảng”. Trong Thánh Kinh từ ”đá tảng” được quy chiếu về Thiên Chúa. Chúa Giêsu gán cho Simon tên gọi này không phải vì các đức tính hay công nghiệp loài người của ông, mà vì lòng tin tinh tuyền và vững chắc của ông, lòng tin đến từ trên cao.

Chúa Giêsu cảm nhận trong tim Người một niềm vui lớn lao, bởi vì Người nhận ra nơi ông Simon bàn tay của Thiên Chúa Cha và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Người nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đã ban cho ông Simon một đức tin ”có thể tin cậy được”, trên đó Chúa Giêsu có thể xây dựng Giáo Hội Người, nghĩa là cộng đoàn của Người. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chúa Giêsu có trong tâm trí ý muốn khai sinh ra Giáo Hội ”của Người”, một dân tộc không xậy dựng trên huyết thống, nhưng trên đức tin, nghĩa là trên tương quan với chính Người, một tương quan của tình yêu thương và sự tin tưởng. Như thế để bắt đầu Giáo Hội của Người Chúa Giêsu đã cần tìm ra nơi các môn đệ một đức tin ”có thể tin cậy đươc”. Và đó là điều Người phải kiểm thực tại thời điểm này của lộ trình.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Chúa đã có trong trí hình ảnh của vịệc xây dựng, hình ảnh của một cộng đoàn như một ngôi nhà. Chính vì thế khi nghe lời tuyên xưng đức tin thẳng thắn của ông Simon, Người gọi ông là ”đá tảng”, và bầy tỏ ý định xây dựng Giáo Hội của Người trên đức tin ấy.

Anh chị em thân mến, điều đã xảy ra một cách duy nhất nơi thánh Phêrô, cũng xảy ra nơi mọi tín hữu kitô có niềm tin chín chắn và chân thành nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Phúc Âm hôm nay cũng gọi hỏi từng người trong chúng ta. Đức Thánh Cha nói thêm:

Nếu Chúa tìm thấy trong con tim chúng ta một đức tin, tôi không nói là toàn vẹn, nhưng chân thành, tinh tuyền, thì khi đó Người cũng thấy nơi chúng ta các viện đá sống động để xây dựng cộng đoàn của Người. Đá tảng của cộng đoàn này là Chúa Kitô, viên đá góc duy nhất. Về phần mình, thánh Phêrô là đá tảng, vì là nền tảng hữu hình sự hiệp nhất của Giáo Hội. Nhưng mỗi một tín hữu đã được rửa tội đều được mời gọi cống hiến cho Chúa Giêsu niềm tin nghèo nàn, nhưng chân thành của họ, để Người có thể tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Người ngày hôm nay trên mọi phần đất của thế giới này.

Cả ngày nay nữa ”người ta” nghĩ rằng Chúa Giêsu là một ngôn sứ lớn, một bậc thầy của sự khôn ngoan, một mẫu gương của sự công chính… Và cả ngày nay Chúa Giêsu cũng hỏi các môn đệ Người: “Còn các con, các con nói Thầy là ai?” Chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Hãy nghĩ tới điều đó. Nhưng nhất là hãy cầu xin Thiên Chúa Cha, để qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta ơn trả lời với con tim chân thành:
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina. Ngài nói: Tôi đặc biệt nghĩ tới vùng đất Ucraina yêu dấu, mà ngày hôm nay là lễ quốc khánh, tới tất cả các con cái và những người khao khát hòa bình và an ninh, bị đe dọa bới một tình trạng căng thắng và xung khắc không lắng dịu, gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho thường dân. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria toàn quốc gia này, và hiệp ý cầu nguyện cho mọi nạn nhân, gia đình họ và cho những người đang đau khổ.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hiện diện đến từ Tây Ban Nha, Chile, Pháp. Ngài cũng chào đặc biệt các tân đại chủng sinh trường Bắc Mỹ về Roma để học thần học, trong đó có một thày gốc Việt Nam. Ngài cũng chào 600 bạn trẻ giáo phận Bergamo cùng Đức Giám Mục sở tại hành hương đi bộ từ Roma tới Assisi. Đức Thánh Cha cầu chúc các bạn trẻ trở về nhà sống làm chứng cho vẻ đẹp của đức tin kitô.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Little Saigon: Cộng Ðồng Công Giáo thắp nến hiệp thông quốc nội

Little Saigon: Cộng Ðồng Công Giáo thắp nến hiệp thông quốc nội

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

SANTA ANA, California (NV) – “Ðiểm chính của đêm thắp nến hôm nay là cầu nguyện cho quê hương Việt Nam thoát khỏi cảnh Trung Cộng đang xâm chiếm nước Việt Nam. Ðây chỉ là một giáo hội nhỏ ở hải ngoại, đáp lời mời gọi của Ðức Cha Bùi Văn Ðọc, Tổng Giám Mục Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi tất cả giáo xứ có một đêm thắp nến để cầu nguyện cho quê hương Việt Nam trước cảnh nguy nan này.”

Đêm thắp nến cầu nguyện tại Trung Tâm Công Giạo-23-2014

Ðó là lời của ông Lâm Kim Bảo, chủ tịch cộng đồng công giáo giáo phận Orange County kiêm trưởng ban tổ chức đêm thắp nến chống Trung Cộng vào chiều Thứ Sáu tại Trung Tâm Công Giáo, Santa Ana.

“Thứ hai, là cầu nguyện cho tất cả những ngư phủ ở Việt Nam, họ cũng là đồng bào ruột thịt của chúng ta đang bị Trung Cộng đánh đập và thương vong khi đang hành nghề kiếm sống tại vùng biển của Việt Nam,” ông Bảo cho biết thêm.

Rất đông đảo đồng hương đến ủng hộ cho đêm thắp nến này. Trên sân khấu tổ chức có một bức tranh thật lớn hình bản đồ Việt Nam và hình giàn khoan dầu Trung Cộng bị gạch chéo. Và một biểu ngữ: “Ðêm Thắp Nến Cầu Nguyện cho quê hương trong cơn nguy biến.”

Theo ban tổ chức cho biết, Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange County, có hơn 15 cộng đoàn đều đến tham dự. Ngoài ra, còn có các dân cử, quý lãnh đạo tinh thần, những đại diện của nhiều hội đoàn và đoàn thể tại Nam California cùng nhiều đồng hương không phải là người Công Giáo cũng đến để tham dự đêm thắp nến này.

Ðiều hợp chương trình, nữ MC Minh Phượng và Bác Sĩ Trần Việt Cường.

Trước khi chương trình khai mạc, Ðức Cha Dominic Mai Thanh Lương, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange County chia sẻ với mọi người: “ Kính thưa quý vị, Ðức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Ðọc đã kêu gọi tất cả những người Việt Nam Công Giáo ở trong quốc nội đóng một chút tiền để giúp cho những anh em nạn nhân ngư phủ bị Trung Cộng hành hạ ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho nên hôm nay chúng ta cũng sẽ có sự lạc quyên đó.”

dem-thap-nen-cau-nguyen-dsc-0724

Trong hình từ trái: Kỹ Sư Nguyễn Mạnh Chí, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương và ông Lâm Kim Bảo.

“Ông chủ tịch Lâm Kim Bảo đã cho các em huynh trưởng thiếu nhi lo về việc quyên góp này, và đồng thời các em cũng lo việc thắp nến đêm nay. Còn một điểm nữa, ở bên ngoài có bàn để ghi danh đi bầu cho những ai đã có quốc tịch Hoa Kỳ, chúng ta cố gắng làm công việc này, vì đây là bổn phận và cũng là danh dự mà chúng ta đã biết là lá phiếu ở đây rất quan trọng.” Ðức Cha Lương chia sẻ thêm.

Phần hỗ trợ Thánh ca do Ca Ðoàn Thánh Giuse với sự điều hợp của nhạc sĩ Phạm Thuyên.

Sau nghi thức khai mạc, ông Lâm Kim Bảo chào mừng và cám ơn mọi người đến tham dự và nói về ý nghĩa của đêm thắp nến cầu nguyện.

Ông Bảo nói: “Ðất nước Việt Nam đã thực sự lâm nguy. Chúng tôi xin được nêu lên mục tiêu và ý nghĩa của đêm thắp nến như sau: Cầu nguyện ơn trên phù hộ đất nước của chúng ta, cầu xin anh linh tổ tiên đất nước Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, chúng ta trong trận chiến một mất, một còn. Hôm nay, khẳng định ý chí quyết chiến, quyết thắng chống ngoại xâm và nội thù, bảo vệ chủ quyền đất nước vẹn toàn lãnh thổ, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở hải ngoại, yểm trợ đồng bào ở trong nước trong cuộc đấu tranh, quyết đem lại nền hòa bình, dân chủ tự do cho dân tộc.”

Ðức Giám Mục Mai Thanh Lương phát biểu: “Ðất nước của chúng ta đã thấm nhuần máu của các Thánh Tử Ðạo. Hôm nay chúng ta đến đây để van nài Ðức Mẹ. Nước nhà đang lâm nguy, nhìn vào bức tranh đây chúng ta thấy, những đảo Hoàng Sa và Trường Sa hầu sư đã bị Trung Quốc chiếm được và họ mang cả giàn khoan sang đấy khoan dầu và đã đánh đập ngư dân dân Việt Nam, tịch thu tài sản của họ và làm cho nhiều người bị thương. Chính vì vậy mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi chúng ta.”

Tiếp theo, Ðức Cha Nguyễn Thái Hợp phát biểu. Ông nhắc đến lời hứa của giáo dân với Ðức Mẹ Fatima: “Chúng ta hãy ăn năn sám hối để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.”

Giám Mục Nguyễn Thái Hợp nói: “Theo cái nhìn linh cảm nào đó, thì thấy rằng, giàn khoan HD-981 có lẽ là một cái tát vào mặt của dân tộc ta; là một nỗi đau đối với dân tộc ta; là một hành động xâm lược ngang ngược của Trung Quốc để thực hiện chính sách Ðại Hán của họ. Tuy nhiên, nếu nhìn theo phương diện khác, thì rất có thể giàn khoan này lại là một cơ hội để người Việt trong và ngoài nước đoàn kết.”

Đêm thắp nến cầu nguyện tại Trung Tâm Công Giáo 05-23-2014

Linh mục nói xong, rất nhiều tràng vỗ tay nhiệt tình ủng hộ. Ngài nói tiếp: “Sự hiện diện của giàn khoan đó, như một chứng tích để giúp nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam suy nghĩ lại mối tương quan với nhà nước Trung Quốc, suy nghĩ lại mối tương quan xây dựng ý thức hệ mà quên mất dân tộc; để suy nghĩ lại giá trị đích thực của 16 chữ vàng và gấm vóc, tất cả có ý nghĩa gì khi thực tế đau thương như vậy.”

“Riêng đối với những người có tôn giáo của chúng ta cứ cầu nguyện để giàn khoan đó sẽ đánh dấu một sự kiện rất đặc biệt trong lịch sử của nước Việt Nam. Có thể đất nước của chúng ta sẽ đi đến chỗ diệt vong với bước tiến của giàn khoan này, với chính sách xâm lấn của Ðại Hán như tằm ăn dâu. Nhưng có thể giàn khoan đó cũng là một lý chứng để thức tỉnh lòng yêu nước và chí khí của những người Việt Nam để đoàn kết lại với nhau.”

“Có một số người nói rằng, đã đến lúc cần một Hội Nghị Diên Hồng mới, để nối kết tất cả những người Việt ở trong cũng như ngoài nước. Những người Việt thuộc những tôn giáo có chính kiến khác nhau cùng ngồi lại để cùng đóng góp cho đất nước. Nếu được như vậy, thì dù giàn khoan còn hiện diện ở đấy, đất nước chúng ta sẽ không có nguy cơ diệt vong. Bởi vì, để cứu được đất nước, cần sự đoàn kết của tất cả những người Việt.”

Tiếp theo là phần phát biểu của quan khách tham dự, gồm Hòa thượng Thích Chơn Thành, Viện chủ chùa Liên Hoa và linh mục Mai Khải Hoàn, Bác sĩ Võ Ðình Hữu, hai thị trưởng Tạ Ðức Trí và Michael Võ, ông Nguyễn Thanh Liêm, cựu nghị viên Diệp Miên Trường, 3 chủ tịch cộng đoàn dâng lời nguyện, gồm có: ông Hoàng Xuân Lai – Costa Mesa, Nguyễn Năng Chí – Anaheim và Ðinh Thịnh – Chúa Kitô Cứu Thế, và Luật Sư Nguyễn Xuân Nghĩa.

Bài hát: “Nữ Vương Hòa Bình” do ca đoàn Thánh Giuse đồng ca với các giáo dân.

Ban tổ chức trình chiếu những đoạn video clip “Ðồng bào trong nước xuống đường đả đảo Trung cộng xâm lược Việt Nam.”
Mọi người cùng ca đoàn Thánh Giuse đồng ca bài “Hát Kinh Hòa Bình.”

Cuối cùng là phần thắp nến cầu nguyện. Ðức Cha Mai Thanh Lương và Hòa thượng Thích Chơn Thành lên thắp ngọn nến đầu tiên trước bàn thờ tổ quốc.

Mọi người, với ngọn nến trên tay và đồng hát những bài: “Thắp Sáng Trong Con,” “Mẹ Rất Nhân Từ” và “ Bài Ca Hiệp Nhất.”

Hùng ca “Ðêm Mê Linh” kết thúc chương trình.

Người Việt