Đức Giáo hoàng Phanxicô rửa tội cho bé gái bại não ở Lima

Đức Giáo hoàng Phanxicô rửa tội cho bé gái bại não ở Lima

Một trong những hoạt động cuối cùng của Đức Giáo hoàng Phanxicô tại Pêru là rửa tội cho bé gái Danielita, một bé gái bị bại não.

Báo chí Pêru thuật lại lời của những người tình nguyện tại “nhà thánh Phêrô”, là căn nhà chăm sóc bé Danielita, bị cha mẹ bỏ rơi khi chỉ mới được 3 tháng vì bị bệnh hiểm nghèo.

Nhân viên nhà thánh Phêrô đã ao ước có thể gặp Đức Giáo hoàng từ khi ngài đến Lima, thủ đô Pêru, và đã tìm cách có thể chào ngài bên ngoài tòa sứ thần ở Lima. Những nhân viên tình nguyện kiên nhẫn đứng sau những hàng rào, cùng với Danielita. Cuối cùng khi Đức Giáo hoàng trở vào tòa sứ thần sau Kinh Truyền tin tại quảng trường de Armas, một nhân viên an ninh đã nhìn thấy họ và đưa nhóm nhỏ này đến gặp Đức Giáo hoàng.

Margarita Navarro, một tình nguyện viên của nhà thánh Phêrô kể: “Khi nhìn thấy chúng tôi, ngay lập tức Đức Giáo hoàng đến gần và hỏi chúng tôi về bé Danielita và cha mẹ của bé đâu. Tôi nói với ngài là em là trẻ mồ côi và chưa được rửa tội. Lúc đó Đức Giáo hoàng đã yêu cầu mang nước đến và ngài đã rửa tội cho em trước mặt chúng tôi.”

Danielita đã 15 tuổi nhưng vì bị bệnh nên cần được chăm sóc giúp đỡ, là một trong số 29 bệnh nhân, 8 trẻ vị thành niên và 21 người lớn, được đón tiếp và yêu thương tại nhà thánh Phêrô, do Dòng truyền giáo các thánh Tông đồ điều hành. (Sismografo 23/01/2018)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha nguyện kinh với 500 nữ đan sĩ chiêm niệm Peru

Đức Thánh Cha nguyện kinh với 500 nữ đan sĩ chiêm niệm Peru

LIMA. Sáng chúa nhật 21-1-2017, ĐTC đã đến Đền Thánh Chúa làm phép lạ ở thủ đô Lima để nguyện kinh giờ nhỏ với khoảng 500 nữ tu chiêm niệm thuộc các đan viện ở Peru vào lúc 9 giờ 15.

Đền thánh này ở trung tâm lịch sử của thành Lima, dâng kính Bổn mạng của nước Peru là Chúa làm phép lạ. Đền thánh do các nữ đan sĩ Cát Minh nhặt phép coi sóc. Tại Đền thánh có bức bích họa Chúa Kitô chịu đóng đanh được vẽ trên tường hồi thế kỷ 17. Trận động đất dữ dội năm 1655 đã tàn phá bình địa phần lớn các dinh thự và nhà cửa ở Lima, nhưng bức tường có bức họa Chúa Kitô vẫn đứng nguyên. Cả những lần động đất sau đó cũng vậy. Các tín hữu rất sùng kính ảnh này và nhiều người được ơn lạ, phép lạ qua các thế kỷ. Vì thế, bích họa được đổi tên là ”Ảnh Chúa phép lạ”. Ngày nay ảnh được đặt trên bàn thờ chính của Đền Thánh Nazareno. Bản sao của ảnh này, mỗi năm được rước trong tháng 10 qua các đường phố ở Lima.

Khi ĐTC đến Đền thánh, 500 nữ đan sĩ chiêm niệm từ các nơi ở Peru đã tề tựu về đây để tham dự cuộc gặp gỡ với ĐTC. Ngài tiến lên bàn thờ và đứng cầu nguyện trong thinh lặng trước ảnh Chúa Phép Lạ.

Sau lời chào mừng của Mẹ Bề trên của các Đan sĩ cát minh nhặt phép ở Đền thánh, mọi người đã nguyện kinh giờ nhỏ.

Bài giảng của ĐTC

Giảng sau bài đọc ngắn (Rm 8,15-16), ĐTC nhấn mạnh chiều kích truyền giáo của kinh nguyện là nòng cốt đời sống chiêm niệm. Ngài nói:

”Kinh nguyện truyền giáo là kinh nguyện liên kết chúng ta với các anh chị em trong các hoàn cảnh khác nhau của họ và cầu nguyện để họ không bị thiếu tình yêu và hy vọng. Như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: Tôi hiểu rằng chỉ có tình yêu thúc đẩy các phần tử của Giáo hội hoạt động, và nếu tình yêu bị tắt lịm, thì các tông đồ sẽ không còn loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không đổ máu đào nữa. Tôi hiểu và biết rằng tình yêu gồm tóm nơi mình tất cả các ơn gọi, tình yêu là tất cả, trải rộng qua mọi thời đại và mọi nơi, tóm một lời, tình yêu là vĩnh cửu [..]. Trong con tim của Giáo hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu” (Thư gửi chị Maria Thánh Tâm, 8-9-1986: Thủ bản tự thuật, Ms B, [3v])

ĐTC giải thích rằng ”Là tình yêu! Là biết ở cạnh đau khổ của bao nhiêu anh chị em và nói như tác giả thánh vịnh: ”Trong nguy nan con đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, Chúa đã đáp lại, và đã cứu thoát con” (Tv 117,5). Vì thế, cuộc sống của chị em, trong đan viện, có được chiều kích truyền giáo và phổ quát, và có một ”vai trò cơ bản trong đời sống của Giáo Hội. Chị em hãy cầu nguyện và chuyển cầu cho bao nhiêu anh chị em đang bị cầm tù, cho người di dân, tị nạn và bị bách hại, cầu cho bao nhiêu gia đình bị thương tổn, cho những người không có công ăn việc làm, cho các bệnh nhân, cho các nạn nhân nghiện ngập, đó là một số hoàn cảnh cấp thiết nhất ngày nay. Chị em như những người đưa người bất toại đến trước Chúa để Ngài chữa lành” (Xc Mc 2,1-12). Qua kinh nguyện, ngày và đêm, chị em dẫn đến gần Chúa cuộc sống của bao nhiêu anh chị em, vì những hoàn cảnh khác nhau, không thể đến với Ngài để cảm nghiệm lòng thương xót chữa lành của Chúa, trong khi Chúa chờ đợi họ để ban ơn cho họ. Nhờ kinh nguyện, chị em có thể chữa lành những vết thương của bao nhiêu anh chị em” (Cost. ap. Vultum Dei quaerere, 16).

“Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng đời sống trong đan viện không cầm hãm cũng chẳng thu hẹp con tim, nhưng mở rộng nó nhờ tương quan với Chúa và làm cho nó có khả năng tái cảm thấy sự đau đớn, khổ sở, bất mãn, sự phiêu lưu của bao nhiêu anh chị em là nạn nhân của thứ văn hóa gạt bỏ của thời đại ngày nay. Ước gì sự chuyển cầu cho những người túng thiếu là đặc tính kinh nguyện của chị em. Và khi có thể, chị em hãy giúp đỡ họ không những bằng lời cầu nguyện, nhưng cả bằng sự trợ giúp cụ thể nữa.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nữ đan sĩ rằng: ”Chị em hãy dấn thân trong đời sống huynh đệ, làm sao để mỗi đan viện là một ngọn đèn pha có thể chiếu sáng giữa sự bất hòa và chia rẽ. Chị em hãy giúp nói lên rằng đó là điều có thể. Ước gì bất cứ ai đến gần chị em đều có thể nếm hưởng trước hạnh phúc do tình bác ái huynh đệ, như đặc tính riêng của đời sống thánh hiến và là điều rất cần trong thế giới ngày nay cũng như trong các cộng đoàn của chúng ta.

”Khi ta sống ơn gọi trong sự trung thành, thì cuộc sống trở thành lời loan báo Tình yêu của Thiên Chúa. Tôi xin chị em đừng bao giờ ngưng nêu chứng tá ấy. Trong nhà thờ này của các nữ tu Cát Minh Nhặt Phép Nazareno này, tôi mạn phép nhắc lại những lời của một bậc thầy về đời sống thiêng liêng, là thánh nữ Têrêsa Chúa Giêsu: ”Nếu chị em mất vị hướng đạo là Chúa Giêsu nhân lành, thì chị em sẽ không tìm được con đường […] vì chính Chúa Giêsu đã nói Ngài là Đường, Chúa cũng nói Ngài là ánh sáng, và không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Ngài” (Lâu đài nội tâm, VI, c.7,6)

Cuối giờ kinh, ĐTC chào thăm riêng 6 vị Bề trên và Viện mẫu, trước khi đến đến viếng nhà thờ chính tòa thánh Gioan Tông Đồ và Thánh Sử của tổng giáo phận thủ đô Lima. Tại đây ngài cầu nguyện trước hài cốt các 5 vị thánh người Peru, trước khi gặp gỡ 60 vị thuộc HĐGM nước này, rồi chủ sự kinh truyền tin trưa chúa nhật với các tín hữu tại Quảng trường Quân đội trước nhà thờ. Ban chiều lúc 4 giờ, ĐTC đến căn cứ không quân Lima để cử hành thánh lễ rồi ra phi trường đáp máy bay trở về Roma.

G. Trần Đức Anh OP

400,000 tín hữu tham dự Thánh Lễ của ĐTC tại Huanchaco

400,000 tín hữu tham dự Thánh Lễ của ĐTC tại Huanchaco

HUANCHACO. Sáng ngày 20-1-2018, 400 ngàn tín hữu ở miền bắc Peru đã tham dự thánh lễ với ĐTC tại Huanchaco và ngài kêu gọi chống lại các thứ ”bão tố” trong cuộc sống.

Sáng thứ bẩy (20-1), ĐTC đã rời thủ đô Lima bay đến thành phố Trujillo cách đó 500 cây số về hướng tây bắc, để tiếp tục chương trình thăm viếng Peru.

Trujillo hiện có 800 ngàn dân cư, ở bờ biển phía bắc của Peru, một thành phố du lịch nổi tiếng, quen được gọi là ”Thành mùa xuân vĩnh cửu”. Thành có trung tâm lịch sử rất đẹp, từ thời thuộc địa và có những di tích khảo cổ tiền Tây Ban Nha, với những vết tích về những nền văn hóa cổ kính trước thời thổ dân Inca, như văn hóa của người Mochica và Chim. Về phương diện tôn giáo, Trujillo là một tổng giáo phận có gần 1 triệu 300 ngàn tín hữu Công Giáo, do Đức TGM Héctor Cabrejos dòng Phanxicô coi sóc, với 75 xứ đạo, do 86 linh mục giáo phận đảm trách. Ơn gọi khan hiếm, năm ngoái chỉ có 1 tân linh mục.

Đến phi trường Trujillo vào lúc quá 9 giờ, ĐTC đã dùng xe đi thêm 4 cây số đến thành phố cổ kính Huanchaco ở phía bắc để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại khu vực sát bờ biển. Tại đây vào lúc 10 giờ sáng, trước sự hiện diện của 400 ngàn tín hữu, ngài đã chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ Maria là Cửa Trời.

Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM và LM thuộc 11 giáo phận miền bắc Peru.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đặc biệt chào thăm các tín hữu hiện diện, không những từ địa phương nhưng còn từ nhiều nơi ở miền bắc Peru để cử hành niềm vui Tin Mừng này.

Ngài nhắc đến thiên tai ”Nino” hồi năm ngoái xảy ra tại vùng này với những hậu quả đau thương vẫn còn đè nặng trên bao nhiêu gia đình, nhất là những người chưa thể tái thiết gia cư của mình. Dựa vào bài Tin Mừng về dụ ngôn 5 trinh nữ có mang dầu theo, trong khi 5 trinh nữ khác không mang dầu, và ngài rút ra bài học cho đời sống thực tế. ĐTC nói: ”Tôi biết rằng, trong lúc tối tăm, khi anh chị em cảm thấy cuồng phong bão tố Nino, miền đất này đã biết động viên và đã có dầu để giúp đỡ nhau như những anh chị em đích thực. Đó là dầu liên đới, dầu quảng đại mà anh chị em đã động viên và đã đi gặp Chúa với bao nhiêu cử chỉ giúp đỡ cụ thể. Giữa tăm tối, cùng với bao nhiêu người khác, anh chị em đã trở thÀnh những ngọn đuốc sống động và soi sáng con đường với đôi tay mở rộng, sẵn sáng để thoa dịu đau khổ và chia sẻ với những anh chị em trong cảnh nghèo.

ĐTC cũng mời gọi các tín hữu hãy tỉnh thức và sẵn sàng và nói rằng: ”Có những điều không thể bất chợt sáng tác, và càng không thể mua được. Cái hồn của một cộng đoàn được đo lường theo mức độ họ có thành công trong việc đoàn kết với nhau để đương đầu với những lúc khó khăn, nghịch cảnh hay không, để duy trì niềm hy vọng sinh động. Với thái độ này, anh chị em làm chứng mạnh mẽ theo tinh thần Tin Mừng: ”Cứ dấu này mà người ta biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13.35). Vì đức tin mở cho chúng ta có được một tình yêu cụ thể, bằng công việc, bằng đôi tay giơ ra, cảm thương, biết kiến tạo và tái tạo niềm hy vọng khi mà tất cả dường như bị mất mát”.

Trong bài giảng, ĐTC cũng nói đến những bão tố khác có thể dập vùi bờ biển này, và trong đời sống của người dân tại đây, chúng có thể gây ra tàn phá. Ngài nói: “Những bão tố cũng đặt câu hỏi cho chúng ta trong tư cách là cộng đoàn và thử thách giá trị tinh thần chúng ta. Bão tố đó được gọi là nạn tội phạm có tổ chức, như một tổ chức giết mướn, ”thích khách” và tình trạng bất an mà nó tạo ra; sự thiếu cơ may giáo dục và công ăn việc làm, nhất là nơi những ngừơi trẻ, khiến họ không kiến tạo được một tương lai xứng đáng, thiếu nhà ở chắc chắn cho bao nhiêu gia đình buộc phải sống trong những vùng bất bất an và không có những lối vào chắc chắn; và bao nhiêu tình trạng khác mà anh chị em biết rõ và chịu đau khổ vì chúng, giống như nạn lụt trầm trọng làm rúng động sự tín nhiệm nhau, sự tín nhiệm rất cần thiết để xây dựng một mạng nâng đỡ và hy vọng. Những trận lụt phủ ngập tâm hồn và đòi chúng ta phải có dầu để đương đầu với chúng.

ĐTC nhận xét rằng ”nhiều lần chúng ta đặt câu hỏi làm sao đương đầu được với những bão tố ấy, làm sao giúp con cái chúng ta vượt thắng những tình trạng như vậy? Tôi muốn nói với anh chị em: không có một lối thoát nào tốt đẹp hơn lối thoát của Tin Mừng, và lối thoát ấy tên là Đức Giêsu Kitô. Anh chị em hãy luôn làm cho cuộc sống được tràn đầy Tin Mừng. Tôi muốn nhắn nhủ anh chị em hãy trở thành một cộng đoàn để cho Chúa xức bằng cầu Thánh Linh, Chúa biến đổi mọi sự, canh tân mọi sự, an ủi tất cả. Trong Chúa Giêsu, chúng ta có sức mạnh của Thánh Linh để không chấp nhận những gì gây hại cho chúng ta như điều bình thường, những gì làm cho tinh thần chúng ta khô cằn, và tệ hơn nữa nó cướp mất hy vọng của chúng ta”.

Sau thánh lễ tại Huanchaco, ĐTC còn đến khu vực Buenos Aires cách đó 13 cây số để viếng thăm dân chúng tại nơi bị lụt hồi tháng 4 năm ngoái vì hiện tượng thay đổi khí hậu, el nino, khiến cho hàng trăm ngàn người không còn nhà cửa, đường phố đầy bùn, nghĩa trang bị cuốn mất các ngôi mộ, hơn 150 người chết. Sau đó ngài về tòa TGM Trujillo để dùng bữa trưa.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Peru

Đức Thánh Cha cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Peru

TRUJILLO. Trong buổi cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại Trujillo, Peru, chiều ngày 19-1-2018, ĐTC lên án nạn giết phụ nữ và đề cao lòng sùng kính của các tín hữu Peru đối với Đức Mẹ.

Cuộc gặp gỡ và cử hành phụng vụ diễn ra tại Quảng trường Quân đội ở thành phố Trujillo với sự tham dự của 35 ngàn người.

Khi đến đây lúc gần 5 giờ chiều, ĐTC đi xe qua các lối đi để chào thăm mọi người, bầu không khí thật phấn khởi và vui mừng. Ngài chợt thấy một bà cụ già giơ cao tấm bảng trên đó có ghi câu: ”Con tên là Trinidad, con 99 tuổi và chỉ muốn động chạm vào áo của ĐTC”. Thấy vậy, ngài bảo tài xế dừng xe lại và bước đến để ôm chào bà cụ già.

Sau cuộc chào thăm mọi người, ĐTC cùng với Đức Cha Hector Cabrejos Vidarte, dòng Phanxicô, TGM Trujillo sở tại, bước lên lễ đài.

Trong lời chào mừng ĐTC, Đức TGM nhắc lịch sử Quảng trường Quân đội nơi mà những tiếng kêu tự do và độc lập của đất nước Peru được vang dội và củng cố, và đây là nơi mà mỗi năm vẫn diễn ra các cuộc rước kiệu trọng thể trong ngày Lễ kính Mình Thánh Chúa. Ngài cũng đề cao lòng sùng kính đặc biệt của các tín hữu ở Trujillo và Peru đối với Đức Mẹ ”Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng”.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài đọc Tin Mừng về biến cố truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,26-38), ĐTC nhắc đến lòng từ mẫu của Đức Mẹ, Mẹ biết tâm hồn của người dân Peru miền bắc và bao nhiêu nơi khác nữa; Mẹ đã thấy nước mắt, nụ cười, và những khát vọng của họ. Tại Quảng trường này chúng ta muốn gìn giữ ký ức của một dân tộc biết rằng Mẹ Maria là người Mẹ không bỏ rơi các con cái của Mẹ.

ĐTC cũng nhận xét rằng:

”Tôi biết lòng kính mến của anh chị em đối với Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Cửa Otuzco mà ngày hôm nay, cùng với anh chị em, tôi muốn tuyên xưng Đức Mẹ Cửa là Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng.

”Qua các thế kỷ, Đức Mẹ đã bày tỏ tình thương đối với các con cái của Mẹ tại phần đất này, khi được đặt trên một cửa, Mẹ bảo vệ họ khỏi những đe dọa làm họ âu sầu, Mẹ khơi dậy tình thương của tất cả mọi người Peru cho đến ngày nay.

”Đức Mẹ tiếp tục bảo vệ và chỉ cho chúng ta Cánh Cửa mở đường cho chúng ta tiến đến đời sống chân chính, Sự Sống không bao giờ tàn lụi. Mẹ là Đấng biết đồng hành với mỗi người con để họ trở về nhà..

ĐTC nhắc lại rằng: ”Năm 2015, chúng ta đã vui mừng cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Một năm trong đó tôi đã mời gọi tất cả các tín hữu hãy bước qua Cửa Thương Xót, qua đó, 'Hễ ai nước vào thì có thể cảm nghiệm lòng thương của Thiên Chúa an ủi, tha thứ và ban hy vọng”. Nay cùng với anh chị em tôi muốn lập lại cùng ước muốn của tôi bấy giờ: ”Tôi mong ước dương nào sao cho những năm tới đây họ được ghi đậm lòng thương xót để đi gặp mỗi người, mang đến lòng từ nhân và sự dịu dàng của Thiên Chúa”. Tôi mong ước dường nào cho phần đất này đón nhận Mẹ Từ Bi Thương Xót và Hy vọng có thể phổ biến và thông truyền khắp nơi lòng từ nhân và sự dịu dàng của Thiên Chúa. Vì, anh chị em thân mến, không có phương dược nào tốt hơn để chữa lành những vết thương cho bằng một tâm hồn có khả năng thương xót, có khả năng cảm thương trước đau khổ và bất hạnh, trước lỗi lầm và nước muốn trỗi dậy của bao nhiêu người nhiều khi không biết làm thế nào.

Lòng cảm thương là điều tích cực năng động vì ”chúng ta đã học biết Thiên Chúa cúi xuống trên chúng ta (Xc Os 11,4) để chúng ta cũng có thể nói gương Ngài mà cúi xuống trên anh chị em chúng ta”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Khi nhìn các bà mẹ và các bà nội, ngoại, tôi muốn mời gọi anh chị em hãy chiến đấu chống một tai ương tại đại lục chúng ta, đó là nhiều vụ giết nữ giới. Nhiều trường hợp bạo hành được giữ kín đằng sau bao nhiêu bình phong. Tôi mời gọi anh chị em hãy chiến đấu chống lại cái nguồn mặc gây ra đau khổ này bằng cách cổ võ những đạo luật và một nền văn hóa bài trừ mọi hình thực bạo hành”.

Tại Peru, năm ngoái có 368 vụ giết hoặc mưu sát nữ giới.

Sau bài huấn dụ của ĐTC, cộng đoàn đã hát kinh cầu Đức Mẹ trong khi các trẻ em mang hoa nến lên đặt trước ảnh thượng Đức Mẹ Cửa, La Puerta.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã ra phi trường Trujillo để đáp máy bay trở về thủ đô Lima, cách đó 500 cây số, 1 giờ 20 phút bay.

G. Trần Đức Anh OP

Tường thuật các sinh hoạt ngày cuối cùng của ĐTC tại Chile và ngày đầu tiên tại Perù

Tường thuật các sinh hoạt ngày cuối cùng của ĐTC tại Chile và ngày đầu tiên tại Perù

Sáng hôm thứ sáu 19 tháng giêng ĐTC đã bắt đầu các sinh hoạt viếng thăm tại Perù, ban sáng với buổi gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia, với dân chúng và viếng thăm Hogar Principito, và ban chiều với cuộc gặp gỡ các giới chức lãnh đạo, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Nhưng sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh hoạt của ĐTC chiều thứ năm 18 tháng giêng cũng là ngày cuối ĐTC viếng thăm Chile.

Sau khi dâng Thánh Lễ kính Đức Bà Camêlô, Bổn Mạng nước Chile, tại Campus Lobito tỉnh Iquique, lúc 1 giờ rưỡi trưa ĐTC đã tới thăm Nhà tĩnh tâm của đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, do các cha dòng Hiến Sinh trông coi cách đó 21 cây số.

Nhà tĩnh tâm này được xây gần hang đá  Đức Mẹ Lộ Đức trong khu phố Cavancha. Đền thánh tọa lạc gần một trường học cho trẻ em nghèo được xây vào các năm đầu của thế kỷ XIX bởi ĐC Jose Maria Caro, ,Giám quản tông toà, sau này trở thành Hồng Y tiên khởi của Giáo Hội Chile. Hang đá do bà Adela Cisternas cho xây giống hang đá Đức Mẹ Lộ Đức bên Pháp, để tạ ơn Đức Mẹ đã làm phép lạ chữa lành bệnh nan y cho chồng của bà. Hang đá được khánh thành ngày 27 tháng 5 năm 1923 trước sự hiện diện của bà, ĐGM giám quản Jose Maria Caro, hàng giáo sĩ và đông đảo tín hữu đi rước kiệu tới đây, mở màn cho các cuộc hành hương vẫn còn tiếp tục cho tới ngày nay. Nhà thờ bên trên hang đá đã được xây năm 1933 theo lời xin của tín hữu để tránh nóng và gió. Từ năm 1949 đền thánh Đức Bà Lộ Đức được giao cho các cha thừa sai dòng Hiến Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm,  viết tắt là OMI, trông coi. Dòng này đã được thánh Eugène de Mazenod thành lập bên Pháp năm 1816 để rao giảng Tin Mừng cho dân nghèo vùng quê, và có Bổn Mạng là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Giám đốc đền thánh hiện nay là cha Garcia Lussier.

ĐTC đã được cha và hai linh mục khác của nhà tĩnh  tâm đón chào và tháp tùng viếng thăm nhà thờ. Có ba em bé tặng hoa cho ĐTC. Hiện diện trong nhà thờ cũng có 10 bệnh nhân và hai thân nhân của các nạn nhân các cuộc đàn áp của chính quyền hồi thập niên 1970. Họ đã trao cho ĐTC một bức thư.

Sau khi dùng bữa trưa với đoàn tuỳ tùng tại nhà tĩnh tâm của các cha dòng Hiến Sinh lúc 4 giờ kém 15 phút chiều ĐTC đã đi xe ra phi trường  Iquique cách đó 42 cây số, từ biệt Chile để đáp máy bay sang Perù. Trước khi lên xe ĐTC đã chụp hình lưu niệm với một nhóm chủng sinh, các nữ tu thừa sai Salesien và vài nhân viên Uỷ ban tổ chức địa phương và chào từ giã mọi người.

Tại phi trường Diego Aracena Iquique ĐTC đã đuợc bà tổng thống Michelle Bachelet  tiếp đón trong phòng khách ít phút trước khi bắt đầu lễ nghi tiễn biệt với quốc thiều Vaticăng và Chile,  duyệt qua hàng chào danh dự, và chào từ biệt giữa hai phái đoàn. ĐTC là người cuối cùng lên máy bay với chiếc cặp đen của ngài trong tay.

Máy bay chở ĐTC đã cất cánh lúc sau 5 giờ chiều giờ Chile và đã đến sân bay quốc tế thủ đô Lima của Perù sau 2 giờ 10 phút bay, vượt chặng đường dài 1.200 cây số.

** Perù là một nước cộng hoà dân chủ, bắc giáp giới với Ecuador và Colombia, đông giáp giới với Brasil, đông nam giáp giới với Bolivia, nam giáp giới với Chile và phiá tây với Thái Bình Dương. Tên gọi Perù bắt nguồn từ “Viru” là tên của một con sông địa phương chảy gần vịnh San Miguel của Panama hồi tiền bán thế kỷ XVI. Perù rộng hơn 1 triệu 265 ngàn cây số vuông, có hơn 33 triệu dân, 45% là thổ dân Amerindi, 37% lai giống, 15% da trắng, 2% da đen lai giống và người Zambos, và 1% gốc Á châu. Ngôn ngữ chính của người dân Perù là tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra còn có hai thứ tiếng khác là Quechua và Aymara và nhiều thổ ngữ khác.

Trên bình diện tôn giáo 81,3% theo Công giáo, 12,5% theo Tin lành, 3,3% theo các tôn giáo khác và 2,9% không theo tôn giáo nào. Giáo Hội công giáo Perù hiện có 58 Giám Mục, 3.361 linh mục, 55 Phó tế, 587 tiểu chủng sinh, 1.539 đại chủng sinh, 422 tu huynh, 5.568 nữ tu, 179 thành viên tu hội đời, 11.120 thừa sai giáo dân và 51.367 giáo lý viên. Tính trung bình mỗi linh mục phải trông coi hơn 8.300 giáo dân. Giáo Hội điều khiển 995 trường tiểu học với hơn 248.000 học sinh, 524 trường trung học với hơn 196.000 học sinh, 90 trường cao học và đại học với gần 59.000 sinh viên. Ngoài ra Giáo Hội cũng điều hành 38 nhà thương, 323 trạm y tế, 4 trung tâm phong cùi, 90 nhà dưỡng lão, 244 trại mồ côi, 145 văn phòng cố vấn gia đình, 36 trung tâm giáo dục cải huấn và 581 cơ sở bác ái xã hội.

Từ ngày 28 tháng 6 năm 2016 tổng thống cộng hoà dân chủ Perù là ông Pedro Pablo Kuczynski.  Các sinh hoạt kinh tế chính của Perù là nông nghiệp và đánh cá, khai thác các quặng mỏ và kỹ nghệ dệt vải.

Lima thủ đô Perù có hơn 9 triệu 886 ngàn dân cư, nằm trên bờ Thái Bình Dương, trên độ cao 124 mét, giữa các thung lũng của các con sông Chillón, Rimac, Surco và Lurio. Tuy có sa mạc kế bên nhưng khí hậu dễ chịu vì ẩm và có sương mù. Thành phố do ông Francisco Pizarro thành lập ngày 18 tháng giêng năm 1535 với tên gọi là “Thành phố của các vua” trong một vùng nông nghiệp mà các thổ dân gọi là Limaq. Nhờ có hải cảng Callao cách đó không xa thành phố phát triển  và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại quan trọng. Dưới thời đô hộ của Tây Ban Nha nó là thủ đô của phó vương quốc Perù, và là thành phố lớn và quan trọng nhất toàn miền nam châu Mỹ. Khi Perù được độc lập, Lima trở thành thủ đô cộng hoà Perù. Khi đường xe lửa được xây cất vào giữa thế kỷ XIX thành phố phát triển mạnh, và hiện có 43 quận. Nhưng trong lịch sử của nó Lima đã bị các trận động đất làm hư hại nhiều. Ngày nay Lima là trung tâm chính trị, văn hoá, tài chánh và thương mại. Tại quảng trường chính của thủ đô có tượng kỷ niệm ông Francisco Pizarro. Chung quanh quảng trường có các dinh thự với lối kiến trúc cổ xưa nổi tiếng như Dinh chính quyền, dinh Arzobispal và nhà thờ chính toà. Chính giữa quảng trường có phông ten nước bằng đồng được trang hoàng với nhiều cây và các luống hoa. Toàn vùng này dành cho người đi bộ. Trong các thời gian gần đây quảng trường cũng được dùng cho các cuộc đấu bò, họp chợ hay tổ chức các lễ hội khác nhau. Năm 1988 trung tâm thủ đô Lima được Liên Hiệp Quốc đưa vào danh sách gia tài văn hoá của nhân loại.

** Tổng giáo phận Lima được thành lập này 12 tháng 2 năm 1546, có gần 2 triệu 900 ngàn dân đa số theo công giáo. Giáo phận có 121 giáo xứ, 22 nhà thờ, 206 linh mục, 3 phó tế vĩnh viễn, 65 đại chủng sinh, 424 nữ tu, 761 thành viên các dòng nam, 1.223 thành viên các dòng nữ. Giáo hội điều khiển 186 cơ sở giáo dục và 188 trung tâm bác ái xã hội. ĐTGM Lima là ĐHY Juan Luis Cipriani Thorne, 75 tuổi.

Sau khi máy bay dừng, ĐTGM Nicola Girasole, Sứ Thần Toà Thánh và vị chưởng nghi lễ đã lên máy bay chào ĐTC.

Tổng thống Pedro Pablo Kuczynski và phu nhân đã đón ĐTC tại chân thang máy bay. Hai trẻ em mặc sắc phục truyền thống đã dâng hoa cho ĐTC. Cùng chào đón ĐTC có ĐHY TGM Lima, ĐGM Callao, ĐGM chủ tịch HĐGM Perù, các giới chức chính trị dân sự, vài Giám Mục và một nhóm giáo dân và dàn nhạc “Hoà tấu cho Perù”. Đại bác đã bắn 21 phát chào vị quốc khách. ĐTC và tổng thống đã duyệt qua hàng chào danh dự. Tiếp đến ban nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Perù, rồi tới phần giới thiệu phái đoàn hai bên. Tổng thống và phu nhân đã tháp tùng ĐTC tới xe, trong khi  các nhóm dân ca vũ cử hành các  bài ca và vũ điệu truyền thống.

ĐTC đã đi xe về Toà Sứ Thần Toà Thánh cách đó 13 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm. Dọc đường đã có rất đông tín hữu chào mừng ĐTC.

Thứ sáu hôm qua ĐTC đã bắt đầu chương trình viếng thăm với thánh lễ riêng cử hành lúc 7 giờ sáng trong nhà nguyện Toà Sứ Thần. Sau đó ngài đi ra phi trường “Nhóm 8 Lima” đáp máy bay đi Puerto Maldonado cách đó 850 cây số. ĐTC  và đoàn tuỳ tùng đã dùng điểm tâm trên máy bay.

Sau 1 giờ 45 phút bay ĐTC đã tới phi trường Jose Aldamiz của thành phố Puerto Maldonado. Tiếp đón ĐTC tại phi trường có ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, dòng Đa Minh, Giám quản tông toà Puerto Maldonado, thống đốc và thị trưởng thành phố vài trăm tín hữu và một ca đoàn 150 thiếu nhi.

** Puerto Maldonado là một thành phố nhỏ có gần 75.000 dân cư thuộc vùng Tambopata, và tọa lạc ở điềm giao thoa giữa hai con sông Madre de Dios và Tambopata. Thành phố này tiêu biểu cho sự khác biệt sinh thái, và là điểm khởi hành tốt cho việc khám phá và viếng thăm các tài nguyên thiên nhiên phong phú không thể tưởng tượng được của vùng Amazzonia. Người thám hiểm đầu tiên đi tìm vàng và khám phá ra các vùng đất này hồi năm 1567 là ông Juan Alvarez Maldonado. Sau khi đã mất hơn 200 người của đoàn thám hiểm vì bệnh tật và các cuộc tấn công của các thổ dân ông đã phải rời bỏ vùng này. Phải đợi cho tới giữa thế kỷ XIX mới có một người Tây Ban Nha thứ hai tới thám hiểm vùng này và vẽ bản đồ đầu tiên: đó là đại tá Faustino Maldonado. Với việc phát triển cao su năm 1902, và việc xây một con đường nối liền Thái Bình Dương với nguồn sông Tambopata thành phố phát triển nhanh chóng, cũng nhờ các sinh hoạt khai thác quặng mỏ và phá rừng lấy gỗ, vẫn tiếp tục cho tới nay, nhưng chính quyền cũng đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế các hoạt động này để bảo vệ môi sinh. Ngày nay nghành du lịch và sinh hoạt trồng và sản xuất hạt dẻ trở thành hai nguồn lợi kinh tế quan trọng của dân chúng toàn vùng. Khí hậu nhiệt đới ẩm và mưa nhiều với nhiệt độ trung bình rất dễ chịu là 20 độ C trong mùa khô từ tháng 5 tới tháng 10, nhưng trong mùa lạnh có thể xuống tới 9 độ C và vọt lên 36-39 độ trong mùa mưa giữa các tháng 12 và tháng 4.

Toà Giám Quản Puerto Maldonado được thành lập ngày mùng 10 tháng 3 năm 1949 rộng 150.000 cây số vuông, có

hơn 334 ngàn dân cư, đa số theo công giáo. Giáo đoàn địa phương có 21 giáo xứ, 4 nhà thờ, 40 linh mục triều, 3 đại chủng sinh, 18 nữ tu, 21 tu huynh và 33 thành viên các dòng nữ. Giáo hội điều khiển 65 cơ sở giáo dục và 11 trung tâm bác ái xã hội.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe về trung tâm thể thao Coliseo Mẹ Thiên Chúa cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia. Trung tâm thể thao này ba tầng có 5.000 chỗ đã đuợc xây năm 2010 và khánh thành năm 2013. ĐTC đã đi một vòng để chào 4.000 tín hữu thuộc nhiều bộ tộc thổ dân quy tụ về đây.

Chương trình gặp gỡ mở đầu với vũ điệu chào đón của các trưởng lão Arambut. Tiếp đến là lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, giám quản Puerto Maldonado, rồi chứng từ của một cặp vợ chồng đại diện các dân tộc vùng Amazzonia. Sau đó là lễ nghi trao bản dịch Thông điệp Laudato si trong các ngôn ngữ địa phương, trong khi ca đoàn trình tấu một bài ca Machirenga.

** Ngỏ lời với mọi người ĐTC đã mạnh mẽ tố cáo các đường lối phát triển khai thác chỉ nhắm các lợi nhuận gây thiệt hại cho các thổ dân và nền văn hoá của họ. Ngài đề cao các giá trị văn hoá phong phú và tinh thần cao quý của các thổ dân và khích lệ họ cộng tác với Giáo Hội trợ giúp các giám mục và các thừa sai nam nữ trong việc đối thoại với tất cả mọi người, và nhào nắn một Giáo Hội với gương mặt Amazzonia, một Giáo Hội với gương mặt thổ dân, duy trì căn tính và bênh vực các quyền lợi của thổ dân.

ĐTC cám ơn các lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, và chứng từ của ông Hector, hai  bà Yescica và Maria Luzmila. Qua họ ngài cám ơn và chào thăm tất cả mọi người dân toàn vùng Amazzonia. Họ đến từ nhiều dân tộc của vùng này: Harakhut, Esse-ejas, Matsiguenkas, Yines, Shipibos, Ashaninkas, Yaneshas, Kahintes, Nahuas, Yaminahuas, Juni Kuin, Madija, Manchineris, Kukamas, Kandozi, Quichuas, Huitotos, Shawis, Achuar, Boras, Awajun, Wampis. Cũng có các dân tộc đến từ vùng núi Andine sinh sống và trở thành dân Amazzoni. ĐTC nói Sự hiện diện của anh chị em giúp tôi trông thấy gần, nơi gương mặt của anh chị em, phản ánh của vùng đất này. Một gương mặt đa diện, một khác biệt vô tận, và một sự phong phú sinh thái, văn hoá và tinh thần. Những người không ở trong vùng này cần tới sự khôn ngoan, các hiểu biết của anh chị em có thể vào sống tại đây mà không tàn phá kho tàng của vùng này. Tôi nghe vang lên các lời Thiên Chúa nói với sông Môshê: “Hãy cởi dép ra, vì đất trên đó ngươi đang đứng là thánh địa” (Xh 3,5)

Xin anh chị em cho phép tôi lập lại một lần nữa “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì công trình kỳ điệu của các dân tộc Amazzoni và toàn sinh thái khác biệt mà các vùng đất này chứa đựng!.

Bài ca chúc tụng này bị bẻ gẫy, khi chúng ta lắng nghe và trông thấy các vết thương sâu đậm mà vùng Amazzonia và các dân tộc của nó đang mang trong mình. Tôi đã muốn đến để viếng thăm và lắng nghe anh chị em, để ở trong con tim của Giáo Hội, hiệp nhất với các thách đố của anh chị em, và tái khẳng định việc lựa chọn xác tín bênh vực sự sống, bảo vệ đất đai và các nền văn hoá.

Có lẽ chưa bao giờ các dân tộc vùng Amazzonia bị đe dọa như hiện nay trong chính vùng đất sống của mình. Amazzonia là vùng đất bị tranh luận trên nhiều phiá: một đàng là tân chủ trương khai thác và áp lực mạnh của các lợi nhuận kinh tế lớn hướng dẫn các tham lam của chúng đối với dầu hoả, hơi đốt, vàng, các trồng tiả chuyên nhất của kỹ nghệ nông nghiệp; đàng khác là sự đe dọa chống lại đất đai của anh chị em, cũng đến từ vài đường lối chính trị thăng tiến “việc duy trì” thiên nhiên, mà không chú ý tới con người, và cụ thể là không chú ý tới các anh chị em Amazzoni sống trong đó. Chúng ta biết là có những lúc nhân danh việc duy trì rừng già người ta chiếm hữu các vùng rùng đất rộng và thương lượng chúng bằng cách tạo ra các tình trạng áp lực đối với các dân tộc sống trong đó nhưng lại không thể hưởng đất đai và các tài nguyên của nó. Vấn đề này bóp nghẹt các dân tộc của anh chị em, vì tạo ra các cuộc di cư của các thế hệ mới trước việc thiếu các cơ may tại địa phương.  Chúng ta phải bẻ gẫy mô thức lịch sử này coi vùng Amazzonia như là một quán bán thực phẩm vô tận của các quốc gia, mà không chú ý tới các người dân của nó.

** Cần phải cố gắng tạo ra các không gian cho các cơ cấu biết tôn trọng, biết thừa nhận và đối thoại với các dân tộc bản địa, bằng cách tiếp nhận và cứu vãn nền văn hoá, tiếng nói, các truyền thống, các quyền lợi và giá trị tinh thần của họ. Một cuộc đối thoại liên văn hoá, trong đó anh chị em là các tác nhân chính đối thoại, nhất là trong lúc có các dự án lớn liên quan tới các không gian sống. Việc thừa nhận và đối thoại sẽ là con đường tốt nhất để biến đổi các tương quan cũ đã bị ghi dấu bởi sự loại trừ và kỳ thị.

Đàng khác cũng phải thừa nhận các sáng kiến hy vọng nảy sinh từ các thực tại địa phương và các tổ chức của anh chị em tìm cách khiến cho các dân tộc bản địa và các cộng đoàn trở thành những người giữ gìn rừng già và các tài nguyên phát xuất từ đó sinh lợi cho gia đình của anh chị em, cải thiện các điều kiện sống, sức khoẻ và nền giáo dục trong các cộng đoàn của anh chị em. Hành động tốt này phù hợp với các thực hành sống tốt trong sự khôn ngoan của các dân tộc anh chị em. Và nếu có ai coi anh chị em như là một chướng ngại hay một cản trở, thì với cuộc sống của mình anh chị em là một tiếng kêu hướng tới lương tâm của một kiểu sống không có khả năng đo lường các giá mắc mỏ của nó. Anh chị em là ký ức sống động nhắc nhớ sứ mệnh mà Thiên  Chúa dã tín thác cho tất cả chúng ta: đó là săn sóc căn nhà chung.

Tiếp tục bài nói chuyện ĐTC khẳng định: việc bảo vệ trái đất không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ sự sống. Chúng ta biết có người trong anh chị em đã đau khổ vì dầu hoả chảy ra ngoài, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống gia đình anh chị em và gây ô nhiễm môi sinh.

Song song cũng có một sự tàn phá sự sống khác nữa gây ô nhiễm môi sinh đó là việc khai thác bất hợp pháp: tôi muốn nói tới việc buôn người: công nhân làm việc như nô lệ và việc lạm dụng tính dục. Bạo lực chống lại các người trẻ và phụ nữ là một tiếng kêu thấu tới trời. Tình trạng của những người trở thành đối tượng của các hình thức buôn người đã luôn luôn khiến tôi đau đớn. Tôi muốn người ta lắng nghe tiếng kêu của Thiên Chúa hỏi tất cả chúng ta: “Em con đâu?” (St 4,9) Người anh em nô lệ cuả con đâu… Chúng ta đừng giả bộ như không có gì. Có rất nhiều đồng lõa. Câu hỏi này là cho tất cả mọi người.

Làm sao không nhớ tới thánh Toribio, khi ngài đau đớn nhận ra trong công đồng Lima thứ ba rằng “không phải chỉ trong các thời đại quá khứ người ta đã gây ra biết bao xúc phạm và bạo lực quá đáng cho các anh chị em nghèo này, mà ngay cả ngày nay nữa nhiều người vẫn tiếp tục làm cùng các điều ấy”. Rất tiếc sau 5 thế kỷ các lời này vẫn còn thời sự. Anh Hector và chị Yesica cũng nhắc cho chúng ta biết đó là tiếng kêu của dân chúng bị bắt buộc phải im lặng không được nói. Lời tiên tri nói trên của những người có đức tin phải tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội để bênh vực các người đau khổ.

** Từ sự lo lắng này phát xuất ra việc lựa chọn bênh vực sự sống của những người không đuợc bênh vực. Tôi đang nghĩ tới các dân tộc gọi là “các dân tộc thổ dân tự cô lập”. Chúng ta biết họ là những người dễ bị tổn thương nhất trong những người bị tổn thương. Những gì xảy ra trong quá khứ đã bắt buộc họ bị cô lập bởi chính các chủng tộc của họ và bị gạt bỏ trong những nơi xa xăm nhất của rừng già để có thể sống tự do. Anh chị em hãy tiếp tục bênh vực các anh chị em bị tổn thương này. Sự hiện diện của họ nhắc cho chúng ta biết chúng ta không thể tuỳ tiện sử dụng của chung theo nhip độ tham lam của tiêu thụ. Cần có các hạn chế giúp chúng ta bảo vệ mình khỏi việc tàn phá môi sinh hàng loạt.

Chúng ta không phải là chủ nhân của tạo vật. Cần cấp bách tiếp nhận phần đóng góp nòng cốt của các dân tộc này cho toàn xã hội… Quan niệm của họ về vũ trụ, sự khôn ngoan của họ có thể dậy chúng ta nhiều điều.

Nền văn hoá của các dân tộc chúng ta là một dấu chỉ của sự sống. Ngoài việc là một vùng sinh thái, Amazzonia cũng là một kho tàng văn hoá cần dược duy trì trước các chủ trương thực dân mới. Gia đình là và sẽ luôn luôn là cơ cấu xã hội góp phần nhiều nhất vào việc duy trì sống động các nền văn hoá của chúng ta. Trong các thời điểm khủng hoảng của quá khứ, đứng trước các đế quốc mới,  gia đình các dân tộc thổ dân đã là cơ cấu tốt nhất bảo vệ sự sống. Chúng ta được mời gọi đặc biệt săn sóc gia đình đừng để cho mình bị bắt bởi các chủ trương thực dân ý thức hệ,  mang mặt nạ tiến bộ từ từ phá tán các căn tính văn hoá và thiết lập một tư tưởng đồng nhất, một chiều… yếu kém.

ĐTC cũng khích lệ mọi người biết lắng nghe các người già, vì họ có sự khôn ngoan khiến cho họ tiếp xúc với siêu việt và khám phá ra nòng cốt sự sống. Chúng ta đừng quên rằng một nền văn hoá bị mất đi cũng trầm trọng như việc biến mất của một loài vật hay một loài thảo mộc. Điều chị Yesica và anh Hector đã chia sẻ thật quan trọng: “Chúng con muốn con cái của chúng con học hành, nhưng không muốn rằng nhà trường xoá bỏ các truyền thống, tiếng nói của chúng con, chúng con không muốn quên đi sự khôn ngoan của tổ tiên”.

ĐTC đặc biệt xin mọi người dành ưu tiên cho việc giáo dục, vì giáo dục giúp chúng ta bắc các nhịp cầu và làm nảy sinh ra nền văn hoá gặp gỡ. Trường học và giáo dục các dân tộc bản địa phải là một ưu tiên và là một dấn thân của chính quyền, dấn thân toàn diện và hội nhập văn hoá  có các tôn trọng toàn vẹn như thiện ích của toàn quốc gia.

ĐTC xin các GM Perù tiếp tục thăng tiến việc giáo dục liên văn hoá và hai thứ tiếng trong các trường học  và các cơ cấu giáo dục sư phạm và đại học. ĐTC chúc mừng các sáng kiến của Giáo Hội Perù đối với việc thăng tiến các dân tộc bản địa: qua các trường học, nhà nội trú cho sinh viên học sinh, các trung tâm nghiên cứu và thăng tiến như Trung tâm văn hoá Jose Pio Aza, và nhiều trung tâm khác. ĐTC cũng chúc mừng các bạn trẻ thổ dân cố gắng soạn thảo một nền nhân chủng học mới và đọc lại lịch sử các dân tộc của họ từ các quan điểm mới. Ngài cũng khích lệ mọi sinh hoạt nghệ thuật hội họa, văn chương, thủ công nghệ, âm nhạc diễn tả sư phong phú và vẻ đẹp văn hoá của họ.

Sau cùng ĐTC nhắc tới phần đóng góp và các hy sinh của biết bao nhiêu các thừa sai nam nữ dấn thân bênh vực quyền lợi của các thổ dân và thăng tiến cuộc sống của họ. Ngài nhắn nhủ mọi người đừng ngã quỵ trước các âm mưu nhổ mất gốc rễ đức tin công giáo của họ. Mọi nền văn hoá đều làm giầu cho Giáo Hội. Vì thế ĐTC kêu gọi các thổ dân trợ giúp các GM và các thừa sai trong việc nhào nắn một Giáo Hội có gương mặt Amazzoni.

Linh Tiến Khải

Đón tiếp Đức Thánh Cha tại Santiago de Chile

Đón tiếp Đức Thánh Cha tại Santiago de Chile

SANTIAGO. Khi đến thủ đô Santiago de Chile chiều tối ngày 15-1-2018, ĐTC Phanxicô đã được các tín hữu, giáo quyền và chính quyền Chile nồng nhiệt đón tiếp.

Sau hơn 15 giờ bay từ Roma, máy bay Alitalia chở ĐTC và hơn 100 người cùng đi đã đáp xuống phi trường thủ đô Santiago de Chile lúc 7 giờ 15 chiều ngày 15-1-2018.

Chờ sẵn tại sân bay có bà Tổng thống Michelle Bachelet, cùng với ĐHY Ezzati, TGM Santiago, một số vị trong HĐGM và đông đảo ký giả. Trong số những người hiện diện có Chủ tịch Thượng Viện, Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện, ngoại trưởng Chile và một số vị thị trưởng vùng thủ đô.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được bà Tổng thống Chile chào đón và hai em bé trong y phục truyền thống tặng hoa cho ngài, trước khi duyệt qua hàng quân danh dự.

Ca đoàn thiếu nhi thuộc Nhà Hát Thành Phố đã hát mừng ĐTC, đặc biệt có một em bé gái 10 tuổi đã đơn ca mừng ngài. Em tên là Constanza Wilson. Sau bài ca, em được ngài chào thăm, chúc lành và tặng cho em xâu chuỗi mân côi.

ĐTC đã dành gần 1 tiếng rưỡi để tiến qua quãng đường dài 24 cây số từ phi trường về tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Xe chạy chậm để hàng chục ngàn tín hữu đứng hai bên đường có thể chào đón ngài. Một điều ở ngoài chương trình chính thức, đó là khi đến giáo xứ thánh Luis Beltrán, thuộc làng Padaheuel, ĐTC đã dừng lại để viếng thăm và cầu nguyện tại mộ của Đức Cha Enrique Alvear Urrutia, quen được gọi là ”vị Giám Mục của dân nghèo”. Đức Cha qua đời năm 1982, thọ 66 tuổi, nguyên là Tổng đại diện của giáo phận Santiago, rồi làm GM chính tòa giáo phận San Felipe (1965-1974), trước khi trở về thủ đô Santiago làm GM phụ tá của ĐHY Raul Silva Henriquez (1974-1982). Ngài có lòng yêu thương đặc biệt đối với dân nghèo, thợ thuyền, nông dân, các nạn nhân bị chà đạp nhân quyền, những người sống ngoài lề xã hội. Án phong chân phước cho Đức Cha được khởi sự cách đây 6 năm, vào ngày 9-3 năm 2012.

Khi xe đến trước tòa Sứ Thần, ĐTC đã chào thăm hàng trăm tín hữu chờ đợi ngài ở đây. Họ reo hò, vỗ tay và có những người khóc vì cảm động. Có một ca đoàn các học sinh và một ca đoàn tu sĩ hát chào mừng ngài, trong đó có cả bài ca ”Amigo Papa Francisco”, Hỡi bạn Giáo Hoàng Phanxicô!

Sau khi đích thân chào đón ĐTC ở phi trường, Bà tổng thống Bachelet gửi một sứ điệp ngắn qua mạng xã hội trong đó bà chúc mừng ngài và quả quyết rằng so với thời kỳ ĐGH Gioan Phaolô 2 đến thăm cách đây 31 năm, ”Chile hiện nay là một xã hội công bằng, tự do và bao dung hơn, nhưng với những chênh lệch đang cần được sứ điệp hy vọng của một người em tinh thần của thánh Alberto Hurtado”.

Cha Hurtado thuộc dòng Tên, qua đời năm 1952 lúc 51 tuổi và là người thành lập ”Mái Ấm Chúa Kitô” ở Chile, chuyên đón tiếp và giúp đỡ những người ở ngoài lề xã hội. Cha được ĐGH Biển Đức 16 tôn phong hiển thánh cách đây 13 năm (2005).

Cũng sau khi đón tiếp ĐGH ở Phi trường Santiago, bà Tổng thống Michelle Bachelet đã bất ngờ đến trung tâm báo chí quốc tế được đặt tại khách sạn Sheraton, để chào thăm và cám ơn 1.500 ký giả các nước tại đây, đang theo dõi và tường thuật về cuộc viếng thăm của ĐTC. Bà nói: ”Tôi cám ơn quí vị đã đến đây và hy vọng rằng ĐGH cũng như các bạn hài lòng đề đất nước chúng tôi, về dân chúng, nền văn hóa và thắng cảnh cũng như các món đặc sản của Chile này”.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Chile

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Chile

VATICAN. Sáng ngày 15-1-2018, ĐTC Phanxicô đã lên đường bắt đầu cuộc tông du dài 1 tuần lễ tại Chile và Peru. Đây là chuyến viếng thăm thứ 22 của ngài tại nước ngoài và là lần thứ 6 ngài về thăm Mỹ châu la tinh.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 2 đến thăm Chile, 31 năm sau cuộc viếng thăm của ĐGH Gioan Phaolô 2. Cuộc viếng thăm của Đức đương kim Giáo Hoàng có chủ đề là câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ ”Thầy ban bình an cho các con” (Ga 14,27) được ghi trên huy hiệu chuyến viếng thăm, có hình thánh giá lớn màu vàng gắn liền với bản đồ Chile, như muốn trải dài niềm an bình của Chúa trên đất nước này. Huy hiệu muốn nhấn mạnh rằng ĐTC mang hồng ân Lời Chúa và một động lực mạnh mẽ cho nền văn hóa gặp gỡ, kiến tạo một bầu không khí hiệp nhất cho đất nước Chile.

Như thói quen, chiều thứ bẩy 13-1-2017, ĐTC đã đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma ở Đền thờ Đức Bà Cả, để xin ơn phù trợ của Mẹ Thiên Chúa. Đây là lần thứ 57 ngài đến cầu nguyện tại Vương Cung Thánh đường này.

Lên đường

ĐTC từ Vatican ra phi trường Fiumicino của thành phố Roma lúc 8 giờ 12 phút sáng. Tại đây sau nghi thức tiễn biệt đơn sơ, với sự hiện diện của các chức sắc đạo đời và Ông Luigi Lubitosi, Ủy viên ngoại thường của hãng Alitalia, máy bay 777-200 của hãng này đã cất cánh lúc 8 giờ 55 và trực chỉ phi trường thủ đô Santiago de Chile, cách đó 12,500 cây số về hướng tây nam. Kể như trọn ngày hôm qua, ĐTC và đoàn tháp tùng cùng với các ký giả quốc tế ở trên máy bay suốt 15 tiếng 40 phút đồng hồ. Toàn bộ chuyến viếng thăm của ĐTC lần này tại hai nước Chile và Peru dài 30 ngàn cây số với 10 chuyến bay, kể cả những chuyến bay nội địa 2 nước ngài thực hiện.

Trên máy bay, ĐTC đã chào thăm 70 ký giả cùng đi và ngài tặng cho mỗi người tấm hình chụp tại Nagasaki, Nhật Bản, sau vụ ném bom nguyên tử năm 1970, mặt sau có ghi hàng chữ ”hậu quả của chiến tranh”.

Ngài giải thích: ”Tấm hình này tôi đã tìm cờ tìm được. Hình chụp một đứa trẻ cõng xác đứa em trên vai đang đợi đến phiên trước nhà hỏa táng ở Nagasaki sau khi bom nổ. Tôi xúc động khi nhìn tấm hình đó. Tôi suy nghĩ và tôi chỉ dám viết ”Hậu quả của chiến tranh”, rồi mang đi in, và phân phát, vì tấm ảnh thuộc loại này gây xúc động hơn là một ngàn lời nói. Và tôi muốn chia sẻ với anh chị em”.

Trong khi ĐTC chào các ký giả, một người đã hỏi ngài xem ngài về nguy cơ chiến tranh hạt nhân, ngài đáp: ”Đúng vậy, tôi thực sự là sợ. Chúng ta ở ranh giới. Ta không thể để cho tình hình đột biến. Chúng ta phải loại trừ các võ khí hạt nhân”.

Và ĐTC nói: ”Tôi cầu chúc anh chị em hành trình bình an. Alitalia nói chuyến bay Roma – Santiago là chuyến bay trực tiếp dài nhất của hãng này, 15 giờ 40 phút. Chúng ta có giờ để nghỉ ngơi, làm việc và bao nhiêu điều khác. Xin cám ơn anh chị em vì công việc của anh chị em. Thật là vất vả, 3 ngày tại nước này, 3 ngày tại nước khác. Đối với tôi, ở Chile, không khó lắm, vì tôi đã học tại đó 1 năm, và có bao nhiêu bạn hữu. Tôi biết rõ nước này. Trái lại Peru thì tôi biết ít hơn. Tôi chỉ đến đó 2, 3 lần để dự hội nghị, gặp gỡ”.

Theo chương trình, ĐTC sẽ tới Santiago khoảng 8 giờ tối ngày 15-1-2018, giờ địa phương. Tại đây sau nghi tiếp đón tiếp đơn sơ, ngài sẽ về tòa Sứ thần Tòa Thánh, cách phi trường 24 cây số, để dùng bữa tối và qua đêm.

G. Trần Đức Anh OP 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Chile và Peru

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Chile và Peru

VATICAN. ĐTC đến chia sẻ an bình của Chúa và củng cố mọi người ở Chile và Peru trong niềm hy vọng của Chúa Kitô.

Trên đây là mục đích cuộc viếng thăm ngài sắp thực hiện tại hai nước từ ngày 15 đến 21-1-2018.

Trong sứ điệp Video gửi dân chúng tại Chile và Peru, công bố hôm 9-1-2018, ĐTC nói: ”Tôi đến với anh chị em như sứ giả của niềm vui Tin Mừng, để chia sẻ với tất cả mọi người 'hòa bình của Chúa' và ”củng cố anh chị em trong cùng một niềm hy vọng”. Hòa bình và hy vọng được chia sẻ giữa tất cả mọi người”.

ĐTC nói là ngài biết rõ lịch sử Chile và Peru, ”được dệt bằng sự dấn thân, tận tụy và ngài muốn cùng với mọi người cảm tạ Chúa vì đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa và những anh chị em túng thiếu nhất, đặc biệt là đối với những người bị gạt ra ngoài xã hội.”

ĐTC nói: ”Nền văn hóa gạt bỏ ngày càng xâm chiếm chúng ta. Tôi muốn chia sẻ những nỗi vui buồn, khó khăn và hy vọng của anh chị em, và nói rằng anh chị em không đơn độc, Giáo hoàng ở với anh chị em, toàn thể Giáo Hội đón nhận và nhìn anh chị em”.

ĐTC cũng bày tỏ mong muốn mọi người ở Chile và Peru ”được cảm nghiệm hòa bình đến từ Thiên Chúa, một điều rất cần thiết. Chỉ có Chúa mới có thể ban hòa bình cho chúng ta. Đó là món quà mà Chúa Kitô ban cho tất cả chúng ta, nền tảng cuộc sống chung của chúng ta; hòa bình dựa trên công lý và giúp chúng ta gặp những mong ước hiệp thông và hòa hợp. Cần kiên trì xin Chúa và Chúa ban cho chúng ta. Đó là hòa bình của Đấng Phục Sinh, Đấngmang lại niềm vui và khích lệ chúng ta trở thành thừa sai, làm sinh động hồng ân đức tin, dẫn đưa chúng ta gặp gỡ, hiệp thông cùng một niềm tin được cử hành và trao ban”.

Sau cùng, ĐTC nói: ”Tôi đặt trong tay Đức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ Mỹ châu, cuộc tông du này và tất cả những ý nguyện chúng ta mang trong tâm hồn, xin Mẹ nhân lành đón nhận và dạy chúng ta con đường đến cùng Con của Mẹ” (Rei 9-1-2018)

G. Trần Đức Anh OP

 

Ngày rửa tội là lễ của thụ tạo mới

Ngày rửa tội là lễ của thụ tạo mới

Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa mời gọi mọi   kitô hữu nhớ tới Bí Tích Rửa Tội của chính mình, qua đó chúng ta đã trở thành các thụ tạo mới, được mặc lấy Chúa Kitô và tháp nhập vào trong tương quan của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Cần nhớ ngày rửa tội, bởi vì đó là ngày lễ, là ngày khởi đầu sự thánh hoá chúng ta, là ngày Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta Thần Khí, là Đấng thúc đẩy chúng ta tiên bước, là ngày của ơn tha thứ lớn lao.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa.

Trước đó lúc 9 giờ 30 sáng ĐTC đã chủ sự thánh lễ trong nhà nguyện Sistina, và ban bí tích Rửa Tội cho 34 trẻ em nam nữ.  Cùng đồng tế với ĐTC có 4 Tổng Giám Mục và Giám Mục. Tham dự thánh lễ có 280 người thân của các gia đình có con em được rửa tội.

Giảng trong thánh lễ ĐTC khẳng định rằng việc đưa con đi lãnh bí tích Rửa Tội là bước đầu trong nhiệm vụ của cha me là thông truyền đúc tin cho con cái. Để có thể thông truyền đức tin là ơn của Chúa Thánh Thần, anh chị em đem con tới rửa tội để chúng nhận lấy Chúa Thánh Thần, nhận lấy Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha Con và Thánh Thần sẽ ngự trong trái tim chúng.

Nêu bật kiểu cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái với sư trợ giúp của Thiên Chúa ĐTC nói:

Việc thông truyền đức tin chỉ có thể được làm trong thổ ngữ của gia đình, trong thổ ngữ  của cha, của mẹ, của ông, của bà. Nhiệm vụ của anh chị em là thông truyền đức tin  nhưng thông truyền với ngôn ngữ riêng của tình yêu thương trong nhà của anh chị em. Tiếp đến sẽ có các giáo lý viên giúp khai triển việc thông truyền đức tin đó với các tư tưởng, và giải thích. Các trẻ em trong lúc này ngoan ngoãn không lên tiếng, nhưng chỉ cần một em khóc là có dàn nhạc tiếp theo ngay. Nhưng đó là ngôn ngữ riêng của trẻ em. Chúng ta đừng quên là Chúa Giêsu dậy chúng ta phải như các trẻ em. Các trẻ em nói thứ ngôn ngữ của chúng như chúng có thể, nhưng đó là thứ ngôn ngữ Chúa Giêsu ưa thích, và trong lời cầu nguyện của mình anh chị em cũng hãy đơn sơ như các trẻ em. Hôm nay các em nói với tiếng khóc. Ngôn ngữ riêng biệt của cha mẹ là ngôn ngữ của tình yêu giúp thông truyền đức tin, và cha mẹ phải tiếp nhận ngôn ngữ của trẻ em. Nếu các em bắt đầu buổi hoà nhạc, thì đó là vì các em không thoải mái, nóng quá hay đói. Nếu chúng đói xin cho chúng bú sữa. Đừng sợ gì cả, cứ cho chúng ăn. Vì đây cũng là ngôn ngữ của tình yêu.

Hai trong số 4 vị Giám Mục đã giúp ĐTC xức dầu thánh và trao áo trắng cho các em. Và như ĐTC đã nói, nhiều em đã thi nhau khóc trong buổi lễ.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc Kinh Truyền Tin ĐTC nói: ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và mời gọi chúng ta nghĩ tới bí tích Rửa Tội của mình. Chúa Giêsu đã muốn nhận phép rửa do Gioan Tẩy Giả ban trong sông Giordan. Đây là phép rửa sám hối: những người đến lãnh nhận diễn tả ước muốn được thanh tẩy khỏi tội lỗi, và với sự trợ giúp của Thiên Chúam, họ dấn thân bắt đầu một cuộc sống mới.

Khi đó chúng ta hiểu sự khiêm nhường lớn lao của Chúa Giêsu. Đấng không có tội lại xếp hàng với các kẻ sám hối, lẫn lộn giữa họ để được rửa trong nước sông. Chúa Giêsu khiêm nhường biết bao nhiêu! ĐTC giải thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Khi làm như thế Ngài đã biểu lộ điều chúng ta đã cử hành trong lễ Giáng Sinh: sự sẵn sàng của Chúa Giêsu tự dìm mình trong dòng sông nhân loại, nhận lấy trên chính mình các thiếu sót và yếu đuối của loài người, chia sẻ ước muốn của họ được giải thoát và thắng vượt tất cả những gì khiến xa rời Thiên Chúa và trở thành xa lạ với các anh chị em khác. Như tại Bếtlêhem cả dọc theo bờ sông Giordan, Thiên Chúa duy trì lời hứa nhận lấy số phận là người và Chúa Giêsu là Dấu chỉ vĩnh viễn có thể sờ mó được. Ngài đã gánh tội thay cho tất cả chúng ta, gánh tội thay cho tất cả chúng ta, trong cuộc sống, mọi ngày.

Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu “khi ra khỏi nước đã trông thấy trời mở ra và Thần Khí xuống trên Ngài như chim bồ câu” (Mc 1,10). Thánh Thần, Đấng đã hoạt động ngay từ đầu việc tạo dựng và đã hướng dẫn ông Môshê và dân Do thái trong sa mạc , giờ đây xuống tràn đầy trên Đức Giêsu để ban cho Ngài sức mạnh chu toàn sứ mệnh trong thế giới. Chính Thần Khí, là Đấng hiện thực việc thanh tẩy của Chúa Giêsu và của cả chúng ta. Ngài mở con mắt trái tim cho sự thật, tất cả sự thật. Ngài thúc đẩy cuộc sống chúng ta trên con đường của lòng bác ái. Ngài là ơn mà Thiên Chúa Cha đã ban cho từng người trong chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội. Chính Thần Khí thông truyền cho chúng ta sự dịu hiền ơn tha tội của Chúa. Và cũng chính Ngài  làm vang lên trong chúng ta Lời mạc khải Thiên Chúa Cha. “Con là Con Cha: (c.11).

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa mời gọi mọi kitô hữu nhớ tới bí tích rửa tội của mình. Tiếp đến ĐTC hỏi mọi người có nhớ ngày rửa tội của mình khi còn nhỏ không. Nếu không biết, thì về nhà hỏi mẹ, hỏi bà, hỏi bác, hỏi ông, hỏi cha mẹ đỡ đầu. Chúng ta phải nhớ ngày này, vì đó là ngày lễ, là ngày thánh hóa ban đầu của chúng ta, là ngày trong đó Thiên Chúa Cha đã ban Thánh Thần cho chúng ta, là Đấng thúc đẩy chúng ta bước đi, là ngày của ơn tha thứ. Xin anh chị em đừng quên hỏi ngày rửa tội của mình.

Chúng ta hãy khẩn nài sự che chở hiền mẫu cùa Mẹ Maria Rất Thánh để mọi kitô hữu có thể ngày càng hiểu biết ơn của bí tích Rửa Tội và dấn thân sống nó trung thực, bằng cách làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ngài đã chào tín hữu và mọi người hiện diện đặc biệt đoàn tín hữu Nam Hàn, và vùng Biella Italia. ĐTC cho biết ngài đã ban bí tích Rửa Tội cho 34 trẻ em và ngài khẩn nài sự trợ giúp của Mẹ Thiên Chúa để các em được cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu trợ giúp  lớn lên như môn đệ của Chúa. Ngài chúc mọi ngưòi một ngày Chúa Nhật an lành trong năm mới vừa bắt đầu, và dặn mọi người đừng quên bài tập ở nhà là hỏi cho biết ngày rửa tội của mình.

Linh Tiến Khải

Xưng thú tội lỗi để được ơn tha thứ và cử hành các mầu nhiệm thánh

Xưng thú tội lỗi để được ơn tha thứ và cử hành các mầu nhiệm thánh

** Cử chỉ sám hối “xưng thú tội lỗi trong lời nói, việc làm và những điều thiếu sót” trước mặt Thiên Chúa và các anh chị em khác giúp chúng ta chuẩn bị xứng đáng cho việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Chỉ ai biết thừa nhận các sai lầm và xin lỗi, mới nhận được sư cảm thông và tha thứ của những người khác.

ĐTC đã nói như trên trong buổi gặp gỡ chung 8.000 tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa của nghi thức sám hối trong Thánh Lễ, dựa trên đoạn 10 thư thứ nhất thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô viết rằng: “Tôi nói với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy tự mình suy xét điều tôi nói. Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1 Cr 10,15-17).

ĐTC nói: trong sự đơn sơ của nó cử chỉ sám hối tạo thuận tiện cho thái độ, qua đó ta chuẩn bị cử hành một cách xứng đáng các mầu nhiệm thánh, bằng cách thừa nhận trước mặt Thiên Chúa và các anh chị em khác các tội lỗi của chúng ta, thừa nhận chúng ta là những người có tội. Thật thế, lời mời của linh mục được hướng tới toàn cộng đoàn đang cầu nguyện, bởi vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi. Chúa có thể ban cái gì cho người có con tim tràn đầy chính mình, tràn đầy sự thành công của mình? Không gì hết, bởi vì kẻ ngạo mạn thì không có khả năng đón nhận sự tha thứ, vì họ tràn đầy sự công chính kiêu căng. Chúng ta hãy nghĩ tới dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế, trong đó người thu thuế trở về nhà và được công chính hoá, nghĩa là được tha tội (Lc 18,9-14). Ai ý thức được các bần cùng của mình và khiêm tốn hạ thấp mắt, thì cảm thấy cái nhìn thương xót của Thiên Chúa trên mình. Bởi kinh nghiệm chúng ta biết rằng chỉ ai thừa nhận các lỗi lầm và xin lỗi, mới nhận được sự cảm thông và tha thứ của người khác. Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

** Lắng nghe trong thinh lặng tiếng của lương tâm cho phép thừa nhận rằng các tư tưởng của chúng ta xa cách các tư tưởng của Thiên Chúa, các lời nói và hành động của chúng ta thường trần tục, và được hướng dẫn bởi các lựa chọn trái nghịch với Tin Mừng. Vì thế mở đầu Thánh Lễ chúng ta cùng nhau thực thi cử chỉ sám hối, qua một công thức xưng thú tổng quát, được nói lên trong ngôi thứ nhất số ít. Mỗi người xưng thú với Thiên Chúa và các anh chị em khác là “đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót”, hay đã bỏ việc thiện mà đáng lý ra tôi đã phải làm. Rất thường khi chúng ta cảm thấy mình giỏi bởi vì chúng ta nói “tôi đã không làm sự dữ cho ai hết”. Trên thực tế, không làm sự dữ cho người lân cận chưa đủ, cần phải lựa chọn làm việc thiện bằng cách tiếp nhận các dịp để làm chứng tốt rằng chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Thật là tốt nhấn mạnh rằng chúng ta xưng thú với Thiên Chúa cũng như với các anh chị em khác rằng mình là kẻ tội lỗi: điều này giúp chúng ta hiểu chiều kích của tội lỗi, trong khi chia cách chúng ta với Thiên Chúa, cũng chia rẽ chúng ta với các anh chị em khác và ngược lại. Tội lỗi cắt chặt: nó cắt chặt tương quan với Thiên Chúa và nó cắt chặt tương quan với các anh chị em khác, nó cắt chặt tương quan trong gia đình, trong xã hội, trong cộng đoàn… Tội lỗi luôn luôn cắt chặt: nó phân cách, nó chia rẽ…

Những lời mà chúng ta nói với miệng lưỡi được đi kèm bởi cử chỉ đấm ngực, – chúng ta làm như thế này –  ĐTC giơ tay đấm ngực – thừa nhận rằng tôi đã phạm tội vì lỗi của chính mình chứ không phải của người khác. Xưng thú các tội của mình. Tôi nhớ một giai thoại mà một thừa sai già đã kể lại, về một bà đi xưng tội và bà bắt đầu kể các lỗi lầm của chồng; rồi các lỗi lầm của mẹ chồng, rồi các lỗi lầm của những nguời hàng xóm. Tới môt lúc nào đó cha giải tội đã nói với bà: “Mà bà ơi, xin nói cho tôi biết bà đã xong chưa?” – Chưa, dạ con đã nói…” “Tốt lẵm: bà đã xung xong tội của những người khác rồi. Bây giờ hãy bắt đầu nói các tội của bà đi…” Các tôi của mình.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Sau việc xưng thú tội lỗi chúng ta khẩn nài Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, các Thiên Thần và các Thánh cầu xin Chúa cho chúng ta. Cả trong điều này nữa thật là quý báu sự hiệp thông của các Thánh: sự bầu cử của các “người bạn và mô thức cuộc sống” này (Kinh Tiền Tụng ngày 1 tháng 11) nâng đỡ chúng ta trên con đường hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, khi tội lỗi sẽ vĩnh viễn bị huỷ diệt.

Ngoài Kinh Cáo Mình, có thể làm cử chỉ sám hối với các công thức khác, thí dụ: “Lậy Chúa, xin thương xót chúng con, Vì chúng con đã phạm tội chống lại Chúa. Lậy Chúa, xin tỏ lòng thương xót Chúa cho chúng con. Và ban cho chúng con ơn cứu độ” (x. Tv 123,3; 85,8; Gr 14,20). Một cách đặc biệt Chúa Nhật có thể ban phép lành và rảy nước thánh nhắc nhớ bí tích Rửa Tội (x. OGMR, 51), xóa bỏ mọi tội lỗi. Cũng có thể, như phần của cử chỉ sám hối, hát Kinh Thương Xót Kyrie eléison: với kiểu diễn tả hy lạp cổ xưa chúng ta tung hô Chúa – Kyrios – và khẩn nài lòng thương xót của Ngài (ibid.52).

Thánh Kinh cống hiến cho chúng ta  thí dụ sáng ngời của các gương mặt sám hối, sau khi phạm tội đã trở vào trong chính mình, tìm ra sự can đảm gỡ bỏ mặt nạ ra, và rộng mở cho ơn thánh canh tân con tim. Chúng ta hãy nghĩ tới vua Đavít và các lời được gán cho vua trong Thánh vịnh “Lậy Thiên Chúa xin thương xót con, trong lòng thương xót hải hà của Chúa xin xoá đi sự gian ác của con” (Tv 51,3). Chúng ta hãy nghĩ tới người con hoang đàng trở về với cha; hay tới lời khẩn nài của người thu thuế: “Ôi Lậy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chúng ta cũng hãy nghĩ tới thánh Phêrô, tới ông Dakêu, tới người đàn bà Samaria. So sánh mình với sự giòn mỏng của đất sét mà chúng ta được nhào nặn là một kinh nghiệm củng cố chúng ta: trong khi nó làm cho chúng ta tính sổ với sự yếu đuối của mình, nó rộng mở con tim chúng ta cho việc khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa biến đổi và hoán cải chúng ta. Và đây là điều chúng ta làm trong cử chỉ sám hối bắt đầu Thánh Lễ.

** ĐTC đã chúc mọi người một năm mới an lành hạnh phúc. Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài đặc biệt chào các hướng đạo sinh vùng Mesnil-le-Roi. Ngài cầu mong trong năm mới họ cùng gia đình luôn ngày càng có thể gặp gỡ Chúa, đặc biệt trong Thánh Lễ Chúa Nhật. Chúa đến để nâng chúng ta dậy từ các lỗi lầm của chúng ta và để soi sáng cuộc sống và ban niềm vui cho chúng ta.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Đại Hàn, Canada và Hoa Kỳ, và cầu chúc họ và gia đình giữ gìn niềm vui mùa Giáng Sinh bằng cách gặp gỡ trong lời cầu nguyện Hoàng Tử Hoà Bình đến sống gần gũi với chúng ta.

Chào các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ĐTC cầu chúc họ sống năm mới trong  hoà bình, được soi chiếu bởi ánh sáng của Chúa Cứu Thế rạng ngời trên gia đình và cộng đoàn và cho thấy gương mặt dịu hiền thương xót của Thiên Chúa Cha.

Chào các nhóm Ba Lan ngài cầu mong cho từng người ở hải ngoại cũng như trên quê hương được sống trong an bình và hy vọng, tràn đầy ơn thánh Chúa và sự chở che của Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa.

Trong các nhóm Ý ĐTC chào các nữ tu dòng Nữ tử Lòng Thương Xót và Thánh Giá đang họp tổng tu nghị tại Roma. Ngài khích lệ các nữ tu thăng tiến đặc sủng của dòng với tinh thần phục vụ và trung thành với Giáo Hội.

ĐTC cũng chào các chủng sinh học viện Truyền Giáo Consolata và các đoàn hành hương đến từ nhiều vùng khác nhau.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài cầu mong người trẻ rao truyền tình yêu Chúa giữa các bạn cùng trang lứa, các bệnh nhân tìm thấy nơi lòng dịu hiền của Chúa sự nâng đỡ trong khổ đau, và các cặp vợ chồng mới cưới sống niềm vui của bí tích  hôn nhân qua tình yêu chung thuỷ với nhau.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linih Tiến Khải

 

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 31.12.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật kính Thánh Gia. Ngài mời gọi các gia đình sống theo gương sáng Gia Đình Nazaret luôn yêu thương nhau và tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất sau Lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng lễ Thánh Gia Nazaret. Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta ngẫm suy về kinh nghiệm sống trong một mái nhà của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Các ngài sống yêu thương nhau và đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse và Mẹ Maria ẵm Hài Nhi Giêsu lên Đền Thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa (Lc 2,22) theo luật Môsê. Việc hiến dâng này cho thấy rằng, cha mẹ Hài Nhi là người dưỡng nuôi chứ không phải là chủ sở hữu. Điều ấy đáng để chúng ta suy ngẫm. Các bậc cha mẹ là người dưỡng nuôi, dạy dỗ con cái, để giúp con cái lớn khôn trưởng thành, chứ cha mẹ không phải là chủ sở hữu con cái.

Cử chỉ dâng con cho Thiên Chúa, nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là chủ của lịch sử cá nhân cũng như gia đình. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ Thiên Chúa. Từng gia đình được mời gọi tái nhận biết quà tặng và thiên chức này. Đó là bảo vệ và giáo dục con cái, là giúp con cái biết mở ra đối với Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tin Mừng kể về hai cụ già và cũng là hai bậc ngôn sứ, đó là cụ ông Simeon và cụ bà Anna. Các cụ được đầy Thánh Thần, nên nói về Hài Nhi Giêsu cho hết mọi người: “Thiên Chúa đã đặt em bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Em còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34.35).

Những lời tiên tri ấy vén mở cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đến để đốn ngã những hình ảnh sai lầm mà chúng ta tự tạo ra về Thiên Chúa cũng như về chính mình. Chúa đến để chống lại những an toàn giả tạo của thế gian mà chúng ta cậy dựa. Chúa đến để làm cho chúng ta thức tỉnh mà vững bước trên con đường của những giá trị nhân bản chân thực và những giá trị Tin Mừng. Trên con đường tái sinh và phục sinh này, không một hoàn cảnh nào, không một gia đình nào bị loại trừ. Mỗi lần trong gia đình có những thương tổn, có những mong manh, khó khăn và thất bại, thì mọi người được mời gọi trở lại cội nguồn của kinh nghiệm Kitô, để mở ra những con đường mới, để mở ra những khả thể vượt ngoài sức tưởng tượng.

Bài Tin Mừng kể tiếp: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành Nazaret, miền Galile. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2,39.40). Có một niềm vui lớn lao của gia đình, đó là sự lớn mạnh trưởng thành của các con: tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm vững mạnh, thêm khôn ngoan, được ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Những điều ấy diễn ra cho những người con, cho Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu thực sự là một con người giữa loài người chúng ta. Con Thiên Chúa trở thành một trẻ thơ, để từng ngày lớn lên, để thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, để ơn phúc Thiên Chúa đổ xuống trên Người. Mẹ Maria và Thánh Giuse rất vui khi nhìn thấy tất cả những điều ấy đến với người con Giêsu. Và đó cũng là nhiệm vụ của một gia đình, nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đầy đủ và hài hòa của trẻ thơ, để trẻ thơ có thể có một cuộc sống tốt đẹp như Thiên Chúa muốn và để xây dựng thế giới.

Đó cũng là lời cầu chúc của Cha xin gửi tới tất cả các gia đình hôm nay. Nguyện xin Mẹ Maria là Nữ Vương các gia đình, chuyển cầu cho chúng ta.

 

Anh chị em thân mến!

Tôi xin bày tỏ sự gần gũi với các anh chị em Chính Thống Copte ở Ai Cập, vì bị những cuộc tấn công cách đây 2 ngày tại một nhà thờ và một cửa hàng vùng ngoại ô Cairo. Xin Chúa thương nhận linh hồn những người quá cố, xin Chúa nâng đỡ những người bị thương, ủi an các gia đình và các cộng đoàn, và xin Chúa hoán cải tâm hồn những kẻ đã gây ra bạo lực.

Hôm nay Cha muốn gửi lời chào đặc biệt tới các gia đình. Xin Chúa Thánh Thần chúc lành và hướng dẫn gia đình anh chị em.

Cha chào thăm tất cả anh chị em là dân thành Roma và khách hành hương. Ngày cuối năm này, chúng ta đừng quên tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ơn lành ta đã nhận trong năm qua. Chúng ta hãy dành thời gian để nhìn lại, để tạ ơn. Nếu nhìn lại những khó khăn, chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì đã giúp ta vượt qua những giây phút ấy. Hôm nay là một ngày tạ ơn.

Chúc anh chị em ngày tốt lành. Cám ơn anh chị em vì những lời cầu chúc. Mong anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho Cha. Hẹn gặp lại anh chị em!

Tứ Quyết SJ

Tiến bộ trong án phong thánh cho ĐGH Phaolô 6

Tiến bộ trong án phong thánh cho ĐGH Phaolô 6

VATICAN. Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6 sẽ được phong Hiển Thánh.

Theo tin báo chí được giáo phận Brescia bắc Italia xác nhận, Bộ Phong Thánh đã cứu xét một vụ khỏi bệnh lạ lùng, qua Ủy ban giám định y khoa và Ủy ban thần học và đã nhìn nhận đây là phép lạ. Sự kiện này còn phải được Hội đồng Hồng Y và GM thông qua, sau đó là sự phê chuẩn của ĐTC.

Người được phép lạ là em bé Amanda sinh ngày 25 tháng 12 năm 2014 tại nhà thương Legnago. Mẹ em mới có thai được 26 tuần lễ và nhau thai bị rách. Các bác sĩ khuyên mẹ em phá thai vì sự sống sót của thai nhi có quá nhiều rủi ro.

Mẹ em bé người thành Verona, bắc Italia, đã nghe theo lời khuyên của một người bạn, và đến cầu nguyện tại Đền Thánh Đức Mẹ Ân Phúc ở thành Brescia, nơi có giữ thánh tích của chân phước Phaolô 6. Sau khi cầu nguyện tại đây bà trở về Verona với ảnh chân phước Phaolô 6 và thai nhi đã ra chào đời vào đúng ngày lễ Giáng Sinh. Các bác sĩ bấy giờ đã nói: ”Việc em bé này sinh ra không giải thích được với những qui tắc bình thường của khoa học. Đối với các tín hữu, Amanda là phép lạ của chân phước Phaolô 6.

Theo theo chí, Đức Phaolô 6 đó thể được phong thánh trong năm tới 2018. (Vat.Ins. 21-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin lễ Thánh Stephano

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Truyền Tin lễ Thánh Stephano

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 26-12-2017, lễ thánh Stephano tử đạo, ĐTC mời gọi các tín hữu tín thác nơi Chúa Cha và yêu thương tha nhân.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, trước sự tham dự của hai mươi ngàn người, ĐTC nhận định rằng: ”Thánh Stephano bị cáo buộc là đã rao giảng việc phá hủy đền thờ Jerusalem. Họ buộc tội thánh nhân là đã quả quyết: ”Đức Giêsu người thành Nazareth sẽ phá hủy Đền thờ này và sẽ đảo lộn những tập tục mà Môisê đã truyền lại cho chúng ta” (Cv 6,14).

”Quả thực, sứ điệp của Chúa Giêsu gây khó chịu và làm cho chúng ta không thoải mái, vì sứ điệp ấy thách thức giới cầm quyền tôn giáo trần tục và khiêu khích các lương tâm. Sau khi Chúa đến, điều cần là hoán cải, thay đổi não trạng, từ bỏ lối tư duy như trước. Thánh Stephano đã trung thành với sứ điệp của Chúa Giêsu cho đến chết”.

ĐTC phân tích thái độ của thánh Stephano khi bị hành hình. Những lời cuối Người thốt lên là ”Lạy Chúa Giêsu, con xin phó linh hồn con cho Chúa” và ”Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ” (Cv 7,59-6), những lời này phản ứng trung thực những lời của Chúa Giêsu trên Thánh Giá: ”Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46) và ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc họ làm” (v.34).

ĐTC nhận xét rằng: ”Thánh Stephano đã có thể nói những lời ấy chỉ vì Con Thiên Chúa đã đến trên trần thế, chịu chết và sống lại vì chúng ta. Trước những biến cố ấy, những thành ngữ như vậy là điều không thể tưởng tượng được về phương diện con người”.

Và ĐTC nhắn nhủ các tín hữu: ”Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian và hòa giải chúng ta không những với Chúa Cha, nhưng cả giữa chúng ta với nhau nữa. Người là nguồn mạch tình yêu thương, mở ra cho chúng ta sự hiệp thông với anh chị em, loại bỏ mọi xung đột và oán hận. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu, đã sinh ra vì chúng ta, giúp chúng ta đảm nhận hai thái độ: tín thác nơi Chúa Cha, và yêu thương tha nhân; đó là thái độ biến đổi cuộc sống và làm cho nó trở nên đẹp đẽ và phong phú hơn”.

Trong phần chào thăm các tín hữu, ĐTC đặc biệt nhắc đến các tín hữu tham dự cuộc hành hương toàn quốc Ucraina và nói: ”Tôi chúc lành cho tất cả anh chị em và đất nước của anh chị em”.

Ngài nói thêm rằng: ”Trong những tuần qua, tôi đã nhận được rấ nhiều sứ điệp chúc mừng. Vì không thể trả lời mỗi người được, hôm nay tôi nhiệt liệt cám ơn tất cả nhất là về hồng ân lời cầu nguyện. Chân thành cám ơn anh chị em và xin Chúa trả công cho anh chị em vì lòng quảng đại!” (Rei 26-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành lễ Vọng Giáng Sinh 2017

Đức Thánh Cha cử hành lễ Vọng Giáng Sinh 2017

VATICAN. Trong bài giảng lễ Vọng Giáng Sinh, ĐTC mời gọi các tín hữu nhận ra sự hiện của Chúa trong tất cả những tình trạng mà chúng ta tưởng Ngài vắng bóng.

Thánh lễ ĐTC Phanxicô đã cử hành bắt đầu lúc 21 giờ 30 tối ngày 24-12-2017, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu ngồi chật Đền Thờ Thánh Phêrô, trong đó có nhiều vị thuộc ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Đồng tế với ngài có khoảng 40 Hồng Y, 25 Giám Mục và 250 linh mục.

Đầu thánh lễ, ĐTC đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính. Gần bàn thờ có đặt một tượng bằng gỗ nhiều mầu hình Đức Mẹ đang ẵm Chúa Hài Nhi. 12 em bé, từ 6 đến 11 tuổi, trong y phục cổ truyền của 9 nước, đã đặt các bó hoa cạnh ảnh tượng Chúa Hài Đồng. Các em được chọn từ những nước như Italia, Ấn độ, Phi châu, Ba Lan, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Chile và Peru.

Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Luca về sự giáng sinh của Chúa Giêsu. Mẹ Maria ”sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt trong máng cỏ, vì không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7)… ”Con Thiên Chúa đã phải sinh ra trong một hang súc vật vì không có chỗ cho Ngài. 'Ngài đến giữa dân Ngài, nhưng dân Ngài không đón nhận Ngài' (Ga 1,11)… Nhưng chính giữa tăm tối của một thành thị không có không gian cũng chẳng có chỗ cho người lạ đến từ phương xa, giữa tối tăm của một thành phố đang chuyển động và trong trường hợp này, dường như muốn xây dựng bằng cách quay lưng lại với người khác, chính tại đó đã nảy sinh một tia sáng cách mạng của Thiên Chúa dịu dàng. Tại Bethlehem đã hé mở cho những người đã bị mất đất đai, tổ quốc, các giấc mơ; cả những người đã bị ngộp vì một cuộc sống khép kín”.

ĐTC nhận xét rằng ”trong những bước chân của Thánh Giuse và Mẹ Maria có tiềm ẩn bao nhiêu những bước chân khác. Chúng ta thấy những dấu vết của những gia đình ngày nay buộc lòng phải ra đi. Chúng ta thấy những dấu vết của hằng triệu người không chọn ra đi, nhưng họ buộc lòng phải tách rời những người thân yêu, bị trục xuất khỏi quê hương họ. Trong nhiều trường hợp, sự ra đi đó đầy hy vọng, đầy tương lai; trong nhiều trường hợp khác, sự khởi hành ấy chỉ có một tên, đó là sự sống còn. Sống còn trước những Vua Hêrôđê ngày nay, để áp đặt quyền bính và gia tăng giàu sang, họ không do dự đổ máu người vô tội.”

ĐTC nhắc đến ”những người chăn súc vật là những người đầu tiên được Tin Mừng. Do công việc, họ là những người phải sống ngoài lề xã hội. Do hoàn cảnh sống, do những nơi họ buộc lòng phải cư ngụ tại đó, họ không chu toàn được mọi giới luật nghi thức thanh tẩy tôn giáo, và vì thế bị coi là người ô uế.. xa cách người khác, và sợ hãi.. Nhưng Thiên Thần nói với họ: ”Đừng sợ, này đây tôi loan báo cho anh em một tin vui lớn, sẽ là tin vui của toàn dân: Ngày hôm nay, trong thành của Vua Davít, một vị Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, là Chúa Kitô” (Lc 2,10-11).

”Đó là niềm vui mà trong đêm nay chúng ta được mời gọi chia sẻ, cử hành và loan báo. Niềm vui mà Thiên Chúa, theo lượng từ bi vô biên, ôm lấy chúng ta là dân ngoại, là kẻ tội lỗi và ngoại kiều, và Ngài thúc đẩy chúng ta cũng làm như vậy”.

Trong ý hướng đó, ĐTC mời gọi các tín hữu nhận ra Thiên Chúa trong tất cả những trình trạng mà chúng ta tưởng Ngài vắng bóng. Chúa ở trong người khách lạ âm thầm viếng thăm, bao nhiêu lần ta không nhận ra, người khách lạ bước đi trong các thành thị và khu phố của chúng ta, đi trên xe bus với chúng ta, gõ cửa nhà chúng ta”.

ĐTC kêu gọi các tín hữu đừng sợ cảm nghiệm những hình thức tương quan mới trong đó không một người nào phải cảm thấy tại lãnh thổ này mình không có chỗ. Giáng sinh là mùa để biến sức mạnh của sợ hãi thành sức mạnh của bác ái.. Lòng bác ái không trở nên quen thuộc với những bất công, coi nó như thể là điều tự nhiên, trái lại, giữa những căng thẳng và xung đột, có cản đảm trở thành ”căn nhà bánh”, trở nên phần đất đón tiếp.

”Nơi Hài nhi Bethleem, Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta để làm cho chúng ta trở thành người giữ vai chính trong cuộc sống chung quanh. Chúa hiến thân để chúng ta bồng ẵm Ngài trên đôi tay, để chúng ta bế lên và ôm lấy Ngài. Để trong Ngài, chúng ta không sợ ẵm lấy, nâng lên và ôm lấy người khác, người ngoại kiều, kẻ trần trụi, người bệnh và tù mhân (Xc Mt 25,35-36)

Và ĐTC kết thúc với lời cầu nguyện dâng lên Chúa Hài Đồng: ”Lạy Hài Nhi bé nhỏ ở Bethlehem, xúc động vì niềm vui của hồng ân này, chúng con xin Chúa để cho tiếng khóc của Chúa thức tỉnh chúng con khỏi thái độ dửng dưng, xin mở mắt chúng con trước những người đau khổ. Ước gì sự dịu dàng của Chúa đánh thức sự nhạy cảm của chúng con và làm cho chúng con cảm thấy mình được mời gọi nhận ra Chúa nơi tất cả những người đến trong thành thị, trong lịch sử và cuộc sống chúng con. Ước gì sự dịu dàng cách mạng của Chúa thuyết phục chúng con cảm thấy được mời gọi đảm trách niềm hy vọng và dịu dàng của dân chúng con”

Sau khi ban phép lành cuối thánh lễ, ĐTC đã bồng tượng Chúa Hài Đồng Giêsu đi rước tới hang đá tại nhà nguyện có giếng rửa tội. (SD 24-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Thánh Lễ dẫn đưa tín hữu bước vào cuộc gặp gỡ tình yêu với Thiên Chúa

Thánh Lễ dẫn đưa tín hữu bước vào cuộc gặp gỡ tình yêu với Thiên Chúa

Thánh Lễ là hành động phụng tự gồm phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Nó gồm nhiều cử chỉ ý nghĩa dẫn đưa tín hữu vào cuộc gặp gỡ yêu thương với Chúa Kitô, là Đấng đã nhập thể làm người, đã chết trên thập giá và đã sống lại vinh hiển để cứu chuộc nhân loại.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi gặp gỡ chung tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư hàng tuần hôm qua tại đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích đoạn sách Công Vụ chương 2 kể lại sinh hoạt của cộng đoàn kitô tiên khởi viết rằng: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.

Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.”

Giải thích các phần khác nhau của Thánh Lễ ĐTC nói:

Thánh Lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể, gắn liền với nhau một cách chặt chẽ làm thành một cử chỉ phụng tự duy nhất (x. SC, 56; Trật tự tổng quát của Sách Lễ Roma, 28). Được dẫn nhập bởi vài lễ nghi chuẩn bị, và kết thúc bởi  các lễ nghi khác, việc cử hành như thế là một cơ thể duy nhất không thể tách rời được; nhưng để hiểu biết tốt hơn tôi sẽ tìm giải thích các lúc khác nhau của nó, mỗi một lúc có khả năng đánh động và huy động một chiều kích nhân tính của chúng ta. Cần phải hiểu biết các dấu chỉ thánh thiện này để sống Thánh Lễ một cách tràn đầy và nếm hưởng vẻ đẹp của nó.

Khi dân được triệu tập, việc cử hành mở đầu với các lễ nghi dẫn nhập bao gồm việc chủ tế và các vị cử hành tiến vào, lời chào “Chúa ở cùng anh chị em”, “Bình an ở cùng anh chị em”! – cử chỉ thống hối – “Tôi thú nhận”, trong đó chúng ta xin lỗi các tội của chúng ta” –  Kinh Thương Xót, kinh Vinh Danh, và lời nguyện colletta: gọi là lời nguyện colletta không phải để thu góp các của lễ, nhưng là thu thập các ý chỉ cầu nguyện của tất cả mọi dân tộc, và việc thu góp ý chỉ của các dân tộc lên tới trời như lời cầu nguyện. Mục đích của các lễ nghi dẫn nhập này là để “các tín hữu tụ họp với nhau, làm thành một cộng đoàn và chuẩn bị lắng nghe lời Chúa với lòng tin và cử hành Thánh Thể một cách xứng đáng” (Trật tự tổng quát của Sách Lễ Roma, 46).

** Thật không phải là một thói quen tốt nhìn đồng hồ và nói: “Tôi đến kịp lễ, tôi đến sau bài giảng và với việc này tôi chu toàn luật”. Thánh lễ bắt đầu với dấu thánh giá, với các lễ nghi dẫn nhập, bởi vì ở đó chúng ta bắt đầu thờ lậy Thiên  Chúa như là cộng đoàn. Chính vì vậy thật là quan trọng dự liệu đừng tới trễ, nhưng tới sớm hơn, để chuẩn bị con tim cho lễ nghi đó, cho việc cử hành này của cộng đoàn.

Trong khi hát ca nhập lễ vị linh muc và các thừa tác khác đi rước tiến lên cung thánh, tại đây ngài cúi chào bàn thờ,  và như dấu chỉ sự tôn kính ngài hôn, và khi có có xông hương thì ngài xông hương bàn thờ. Tại sao vậy? Bởi vì bàn thờ là Chúa Kitô: nó là hình ảnh của Chúa Kitô. Khi chúng ta nhìn bàn thờ, chúng ta nhìn chính nơi Chúa Kitô ngự. Bàn thờ là Chúa Kitô.

Các cử chỉ có nguy cơ không đuợc chú ý này, rất ý nghĩa, bởi vì chúng diễn tả ngay từ đầu rằng Thánh Lễ là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Kitô, là Đấng khi “hiến dâng thân xác mình trên thập giá, trở thành bàn thờ, của lễ và tu tế”  (Kinh Tiền Tụng Phục Sinh V). Thật thế, bàn thờ như dấu chỉ của Chúa Kitô, “là trung tâm của hành động tạ ơn được chu toàn với Thánh Thể” (Trật tự tổng quát của Sách Lễ Roma, 296). Và toàn cộng chung quanh bàn thờ, là Chúa Kitô, không phải để nhìn mặt mình nhưng để nhìn Chúa Kitô, bởi vì Chúa Kitô là trung tâm của cộng đoàn, Ngài không ở xa cộng đoàn.

Tiếp tục bài huấn dụ về ý nghĩa Thánh Lễ ĐTC nói: Thế rồi còn có dấu thánh giá. Vị linh mục chủ tế làm dấu thánh giá trên chính mình và tất cả các thành phần cộng đoàn cũng làm dấu thánh giá, ý thức rằng hành động phụng vụ được chu toàn “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Và ở đây tôi bước sang một đề tài rất nhỏ khác: Anh chị em có thấy các em bé làm dấu thánh giá làm sao không? Chúng không biết điều chúng làm: đôi khi chúng vẽ một hình mà không phải là thánh giá. Xin vui lòng: cha mẹ, ông bà, xin anh chị em hãy dậy các trẻ em ngay từ đầu – khi chúng còn bé tí – làm dấu thánh giá cho đúng đắn hẳn hoi – Và giải thích cho chúng hiểu là thập giá của Chúa Giêsu là sự che chở. Và Thánh Lễ bắt đầu với dấu Thánh Giá.

Tất cả lời cầu di chuyển trong không gian của Thiên Chúa Ba Ngôi, “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, là không gian của sự hiệp thông vô tận; như nguồn gốc và kết thúc, nó có tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi Duy Nhất, được biểu lộ và trao ban cho chúng ta trên Thập Giá Chúa Kitô. Thật ra mầu nhiệm phục sinh của Ngài là ơn của Thiên Chúa Ba Ngôi, và Thánh Thể luôn luôn nảy sinh từ trái tim bị đâm thâu của Ngài. Như vậy, khi làm dấu thánh giá trên mình chúng ta không chỉ tưởng niệm Bí Tích Rửa Tội, mà cũng khẳng định rằng lời cầu phụng vụ là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa  trong Chúa Kitô Giêsu, là Đấng đã nhập thể, chết trên thập giá và sống lại vinh hiển vì chúng ta.

** Rồi vị linh mục hướng lời chào phụng vụ tới cộng đoàn với kiểu nói “Chúa ở cùng anh chị em” hay một kiểu nói khác tương tự, có nhiều kiểu lắm; và cộng đoàn trả lời: “Và ở cùng tâm trí cha”. Chúng ta đang đối thoại với nhau; chúng ta đang ở đầu Thánh Lễ và phải nghĩ tới ý nghĩa của tất cả các dấu chỉ và các lời này. Chúng ta đang bước vào trong “một hòa tấu”, trong đó vang lên các giọng nói khác nhau, bao gồm các lúc thinh lặng, để tạo ra “sự đồng ý” giữa tất cả mọi tham dự viên , nghĩa là thừa nhận mình được linh hoạt bởi một Thần Khí duy nhất và cho cùng một mục đích.

Thật thế, “lời chào của linh mục và câu trả lời của dân chúng biểu lộ mầu nhiệm của Giáo Hội  được quy tụ” ( Trật tự tổng quát của Sách Lễ Roma, 50). Như thế chúng ta diễn tả niềm tin chung và ước muốn cùng nhau ở với Chúa và sống sự hiệp nhất với toàn cộng đoàn.

Và đấy là sự hoà tấu cầu nguyện, mà người ta đang tạo ra lập tức giới thiệu một lúc rất đánh động, bởi vì vị chủ sự mời gọi tất cả mọi người thừa nhận các tội lỗi của mình. Chúng ta tất cả đều là kẻ tội lỗi. Tôi không biết, có lẽ có người trong anh chị em không phải là người tội lỗi… Nếu ai không có tội, xin làm ơn xin làm ơn giơ tay lên để cho mọi người đều thấy. Không có ai giơ tay cả: vậy thì tốt, anh chị em có đức tin! Tất cả chúng ta là những người tội lỗi; chính vì vậy mà đầu lễ chúng ta xin lỗi. Đó là cử chỉ sám hối. ĐTC giải thích cử chỉ này như sau:

Đây không phải chỉ là nghĩ tới các tội lỗi đã phạm, nhưng còn hơn thế nữa: đó là lời mời gọi xưng thú mình là kẻ có tội trước mặt Thiên Chúa, trước cộng đoàn và trước các anh chị em khác, với lòng khiêm tốn và chân thành, như người thu thuế trong đền thờ. Nếu Thánh Thể khiến cho mầu nhiệm phục sinh hiện diện, thì có nghĩa là  sự kiện  Chúa Kitô vượt qua từ cái chết vào sự sống, thì khi đó điều đầu tiên mà chúng ta phải làm là thừa nhận đâu là các tình trạng chết của chúng ta để có thể sống lại với Ngài vào cuộc sống mới. Điều này làm cho chúng ta hiểu cử chỉ sám hối quan trọng chừng nào. Vì thế, chúng ta sẽ đề cập đến đề tài này trong bài giáo lý tới. Chúng ta đi từng bước trong việc giải thích Thánh Lễ. Nhưng tôi xin anh chị em: hãy dậy các trẻ em làm dấu thánh giá hẳn hoi nhé!

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý. Ngài mời gọi mọi người mở rộng con tim cho Chúa Hài Đồng để tiếp nhận tình yêu Thiên Chúa dành để cho từng người và cho toàn nhân loại. Ngài chúc mọi người mừng lễ Giáng Sinh tươi vui và sống kinh nghiệm sự gần gũi của Chúa, là Đấng trao ban hoà bình và niềm vui cho chúng ta.

Chào các nhóm Bồ Đào Nha ĐTC nói trong các ngày này chúng ta thấy Chúa Hài Nhi được đặt nằm trong máng cỏ. Nhưng trong Thánh Thể Ngài để cho chúng ta tìm thấy Ngài. Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta không chỉ chuẩn bị lễ Giáng Sinh của Chúa, nhưng cả việc con người sinh vào lòng Thiên Chúa nữa.

Chào các tín hữu nói tiếng A rập đến từ Iraq, Ai Cập và vùng Trung Đông ngài nhắc lại giáo huấn của thánh Toma Aquino dậy rằng trong phụng vụ thánh cần dùng các sự vật chất như các dấu chỉ, qua đó linh hồn con người được kích thích cho các hành động tinh thần kết hiệp nó với Thiên  Chúa. ĐTC khích lệ tín hữu dấn thân tìm hiểu ý nghĩa của mỗi hành động phụng vụ để sống tràn đầy việc cử hành Thánh Thể và được tràn đầy hoa trái thiên linh.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nói như xưa kia các mục đồng Bếtlêhem đã nhận ra Con Thiên Chúa sinh ra trong hang bò lừa thế nào, anh chị em cũng hãy biết nhận ra Ngài trong Thánh Thể. Xin Đêm Giáng Sinh soi sáng cuộc sống của từng người và gia đình của anh chị em với niềm vui và sự an bình.

ĐTC đặc biệt cám ơn đoàn xiệc Cuba đã trình diễn giúp vui mọi người. Ngài cũng chào các tân linh mục dòng Đạo Binh Chúa Kitô và thân nhân, các linh mục trường truyền giáo quốc tế thánh Giuse Roma, cũng như giáo dân của nhiều giáo xứ Roma, nhân viên chỉ huy hải quân và phái đoàn của nhiều tỉnh Italia. Ngài  khích lệ mọi người sống gắn bó với Chúa Kitô.

Chào người trẻ ĐTC nhắn nhủ họ biết noi gương vâng lời và khiêm nhường của Mẹ Maria, người đau yếu biết kính mến sức mạnh tình yêu của Chúa Giêsu như Mẹ, và các đôi tân hôn biết thực hành các nhân đức noi gương Thánh Gia trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Ly Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Sinh nhật thứ 81 của Đức Thánh Cha

Sinh nhật thứ 81 của Đức Thánh Cha

Hơn 10 ngàn người trong buổi đọc kinh truyền tin vào trưa ngày Chúa Nhật 17 tháng 12, và rất nhiều trẻ em cùng chúc mừng sinh nhật thứ 81 của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tất cả mọi người hát Happy Birth day bằng tiếng Ý để chúc mừng sinh nhật cho ĐTC.

Đức Thánh Cha đã thổi cây nến sinh nhật được đặt trên chiếc bánh Pizza dài 13 feet (khoảng 4 mét). Ngài cũng đã cám ơn đến tất cả mọi người và ngày sinh nhật cũng rơi vào ngày Chúa Nhật đọc kinh truyền tin.

Đại hội Giới trẻ Công giáo Australia tại Sydney

Đại hội Giới trẻ Công giáo Australia tại Sydney

Sydney, Australia – Từ ngày 7-9/12 vừa qua, Đại hội Giới trẻ Công giáo Úc đã diễn ra tại Sydney, với sự tham dự của khoảng 20 ngàn người. Đại hội này cũng khai mạc “Năm Giới trẻ”, năm “mở ra những chân trời mới để loan truyền niềm vui cho Giáo hội trẻ và các cộng đoàn.”

Chương trình của Đại hội gồm có những buổi học hỏi, Thánh lễ, thảo luân và trò chơi tương tác. Cao điểm của Đại hội là cuộc hành hương ngang qua thành phố lớn nhất của Australia và kết thúc với buổi hòa nhạc và Thánh lễ tại Domain trong công viên bách thảo hoàng gia.

Trong Thánh lễ hôm 09/12, đề cập đến các thách thức chính trị như việc hợp pháp hóa mới đây về euthanasia cho những người muốn được sử dụng “cái chết êm dịu”, Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher của Sydney nhận xét: “Nền văn hóa của chúng ta làm rối loạn ý nghĩa của sự sống và tình yêu, công bằng và lòng thương xót”. Ngài cũng nói đây là lúc chúng ta cần những Gioan Tẩy giả mới để kêu gọi mọi người hoán cải và tin, để đem đến những tin thật sự tốt lành giữa những tin xấu và để chỉ cho mọi người thấy Chúa Kitô.

Đức Tổng Giám mục Fisher đã bắt đầu bài giảng cách dí dỏm: “Phần 8 đang đến”, ám chỉ đến phim mới “Cuộc chiến các vì sao” sắp được chiếu. Giải thích về chủ đề về cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối và người chiến thắng nhân danh sự thiện, ngài nói là rõ ràng rằng chúng ta vẫn đang tìm kiếm các anh hùng và chỉ ra người anh hùng Gioan Tẩy giả, ăn châu chấu, uống mật ong, mặc áo lông lạc đà. Dù đây không phải là mẫu anh hùng mà các cha mẹ muốn cho con cái mình, tuy thế, thánh nhân muốn đem đến cho con người tin tốt lành, cụ thể là Chúa Kitô, và đứng lên chống lại sự dữ của mọi thời đạ, ngay cả khi có nghĩa là bị vua Hêrôđê chém đầu.

Đức Tổng Giám mục Fisher nhấn mạnh đến sự ác của luật euthanasia (cái chết êm dịu) và cảnh giác rằng con người có thể không còn dựa vào sự hiện diện của Kitô giáo trong nền văn hóa nữa nhưng sẽ phải chọn, cho chính họ, tin vào giáo huấn của Giáo hội Công giáo. Đức Tổng Giám mục nói rằng nền văn hóa cần người trẻ Công giáo trở thành các anh hùng và loan báo sự thiện giữa bóng tối của thế giới, như gương mẫu của Mẹ Maria. Thay vì thất vọng vì sự ác, Đức Tổng Giám mục thách thức các bạn trẻ đáp lại tiếng Chúa như Mẹ Maria đã làm vào ngày phục sinh. (CNA 11/12/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp 250 nữ tu dòng thánh Cabrini

Đức Thánh Cha tiếp 250 nữ tu dòng thánh Cabrini

VATICAN. ĐTC khuyến khích các nữ tu thừa sai Thánh Tâm tiếp tục hăng say giúp đỡ người di dân, theo gương Mẹ Sáng lập là thánh Francesca Cabrini.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 9-12-2017 dành cho 250 nữ tu dòng Thừa sai Thánh Tâm, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thánh sáng lập Francesca Cabrini qua đời, ngày 17-12 năm 1917.

ĐTC nhận xét rằng thánh nữ Cabrini đã vượt đại dương 24 lần để giúp đỡ những người di dân tại Mỹ châu, và không biết mệt mỏi, thánh nữ đi tới tận vùng trường sơn Andes và cả Argentina. Trong cuộc du hành cuối cùng, Mẹ qua đời đột ngột tại thành Chicago, Hoa Kỳ.

Ngài nói: ”Thánh nữ Cabrini là một thừa sai đích thực, lớn lên theo gương thánh Phanxicô Xavie, vị tiên phong truyền giáo tại Đông Phương, và muốn đến vùng đó để loan báo Tin Mừng. Nhưng sự nhìn xa trông rộng của ĐGH Lêô 13 đã khuyên thánh nữ nghĩ đến hàng ngàn, ngàn người xuất cư vì đói, vì thiếu công ăn việc làm, vì thiếu viễn tượng tương lai, phải xuống tàu sang Mỹ châu, mong ước tìm được một cuộc sống tốt đẹp hơn.”

ĐTC nhận xét rằng ”Sao bao nhiêu năm, thực tại những người di dân mà thánh nữ Francesca Cabrini hiến thân phục vụ, nay đã biến đổi và trở nên thời sự hơn bao giờ hết. Những khuôn mặt mới, người nam, người nữ và trẻ em, đang đứng trước mắt chúng ta và chờ mong được thấy trên đường đi của họ những bàn tay và tâm hồn đón tiếp họ như Mẹ Cabrini. Chị em có trách nhiệm trung thành với sứ mạng của Thánh Sáng Lập. Đoàn sủng của thánh nữ có tính chất thời sự hơn bao giờ hết, vì những người di dân, tuy đang cần những luật lệ tốt, các chương trình phát triển, tổ chức, nhưng họ cũng luôn cần được tình thương, tình bạn, sự gần gũi trong tình người, nhưng họ cũng cần được lắng nghe, được nhìn tận mắt, được đồng hành; họ đang cần Thiên Chúa, được gặp trong tình thương nhưng không của một phụ nữ, với tâm hồn thánh hiến, trở thành người chị và người mẹ của họ”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nói với các nữ tu thừa sai Thánh Tâm rằng:

”Xin Chúa luôn canh tân nơi chị em cái nhìn chăm chú và từ bi đối với những người nghèo sống trong các thành thị và tại các quốc gia chúng ta. Mẹ Cabrini đã có can đảm nhìn tận mắt các trẻ em mồ côi được ủy thác cho Mẹ, những người trẻ không có công ăn việc làm, bị cám dỗ phạm pháp, những người nam nữ bị bóc lột bằng những công việc khiêm hạ nhất; vì thế, ngày hôm nay, chúng ta ở đây để cảm tạ Thiên Chúa vì sự thánh thiện của Mẹ Cabrini. Nơi mỗi người anh chị em, Mẹ đã có khả năng nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô, và với thiên tài, Mẹ có khả năng đặt tất cả những tài năng Chúa ban để mưu ích lợi (Xc Mt 25,14-23).

Sau cùng, ĐTC đề cao lòng sùng mộ của thánh nữ Cabrini đối với Thánh Tâm Chúa: ”Từng bước một, cuộc sống của Thánh Nữ hoàn toàn hướng về việc an ủi và làm cho mọi người nhận biét và yêu mến Thánh Tâm Chúa.”

Và ĐTC kết luận rằng: ”Dịp kỷ niệm quan trọng này mạnh mẽ nhắc nhở cho tất cả chúng ta về sự cần thiết của một đức tin biến đón nhận thời điểm ân phuc mình đang sống. Dù khó khăn đến đâu đi nữa, Mẹ Cabrini nói với chúng ta rằng chúng ta phải làm như Mẹ: có khả năng đón nhận những dấu chỉ thời đại chúng ta, đọc chúng dưới ánh sáng lời Chúa và sống các dấu chỉ ấy đến độ mang lại một câu trả lời đi tới tâm hồn của mỗi người” (Rei 9-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp các linh mục, tu sĩ Bangladesh

DHAKA. Trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và tập sinh Bangladesh, ĐTC tái kêu gọi bài trừ tật xấu nói hành nói xấu, gây hại cho cộng đoàn.

 Cuộc gặp gỡ của ĐTC diễn ra lúc gần 11 giờ trưa tại Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận Chittagong, gần thủ đô Dhara. Tại giáo phận này có 30 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số 20 triệu dân cư, với 11 giáo xứ và 12 linh mục.

 Khi ĐTC tiến vào nhà thờ, 1.500 người gồm các LM, tu sĩ và chủng sinh đã nồng nhiệt đón vị chủ chăn của Giáo Hội hoàn vũ, cũng với Đức TGM sở tại Moses Costa, dòng Thánh Giá.

 Lời chào mừng của Đức TGM Costa

 Đức Cha TGM Costa cho biết các LM, tu sĩ ở Bangladesh rất được dân chúng kính trọng và họ có một uy tín tinh thần lớn trong xã hội. Tuy là thiểu số, nhưng các LM, tu sĩ hoạt động giúp đỡ mọi người, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, màu da và chủng tộc. Tuy nhiên, ưu tiên vẫn được dành cho những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Ngoài việc mục vụ, các LM, tu sĩ còn dấn thân giúp đỡ người nhập cư, những người di tản, các bệnh nhân và người khuyết tật, trẻ em cũng như ngươi lớn, các nạn nhân thiên tai thường xảy ra tại nước này.

 Đức cha Costa cũng nói đến những thách đố và khó khăn lớn các LM, tu sĩ thường gặp phải trong việc mục vụ, đó là thách đố nghèo đói, phải di chuyển quá xa, những giới hạn đối với các dân thiểu số và các hoạt động thừa sai.

 Chứng từ

 Tiếp lời Đức Cha Costa, ĐTC và mọi người đã lần lượt nghe chứng từ của 1 LM, một vị thừa sai, một nữ tu, một tu huynh và sau cùng là một chủng sinh.

 – Ví dụ, Cha Abel Rozario, làm LM từ hơn 50 năm nay, cho biết vẫn quyết tâm rao giảng Lời Chúa trọn đời, và luôn cảm thấy khát khao phát triển mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cha nói: ”Đời sống thiêng liêng của con trở thành nguồn sức mạnh cho công việc mục vụ của con, và việc phục vụ ấy cũng giúp con tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và mối liên hệ với Thiên Chúa”. Cha Rozario cũng thú nhận rằng nhiều khi ”con cũng cảm thấy tinh thần lên xuống, nỗi cô đơn và trống rỗng, nhưng con tín thác nơi Chúa, vì Chúa gọi con và đặt con dưới bàn tay che chở của Ngài”.

 – Nữ tu Mary Chandra, thuộc dòng Nữ Vương các tông đồ (SMRA) cho biết đoàn sủng dòng của chị là mang ơn cứu độ cho dân chúng bằng cách phục vụ người nghèo, các trẻ em và phụ nữ, trong vui tươi và không chút dè dặt. Chị thi hành công tác dạy học cho các em, giúp các em tăng trưởng trong đời sống luân lý và tinh thần. Chị cũng thường viếng thăm gia đình các học sinh, cầu nguyện với họ, lắng nghe các cha mẹ già, nhất là dành thời giờ ở với họ, giúp họ cảm thấy tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời của họ.

 – Tu Huynh Lawrence Dias, dòng Thánh Giá, ở trong dòng từ hơn 63 năm nay, cho biết đã cố gắng hết sức phục vụ Giáo Hội qua nhiều sứ vụ của dòng. Thầy từng làm giáo viên, quản trị, huynh trưởng hướng đạo, nhân viên xã hội, đảm trách nhà huấn luyện, làm bề trên dòng, và từ 17 năm nay thầy sống trong một đền Đức Mẹ, được tuyên bố là Đền Thánh Mẫu quốc gia đầu tiên ở Bangladesh. Nhiều LM, tu sĩ và giáo dân đến Đền Thánh này để bồi dưỡng đời sống thiêng liêng và thầy giúp đỡ họ. Tại Đền thánh, có kinh nguyện đều đặn, suy niệm, chầu Minh Thánh Chúa, kinh Mân Côi và các kinh nguyện khác.

 Bài huấn dụ ứng khẩu

 ĐTC đã trao bài huấn dụ dọn sẵn để phổ biến và mọi người đọc sau. Và ngài ứng khẩu nói về sự hòa họp liên tôn ở Bangladesh, và từ đó ngài nói về sự hòa hợp cần có trong các cộng đồng tu trì và hàng giáo sĩ. Ngài nói:

 ”Anh chị em thân mến, cám ơn Đức TGM Costa vì lời giới thiệu và cám ơn những chứng từ của anh chị em.. Tôi đã dọn bài diễn văn dài 8 trang cho anh chị em… nhưng chúng ta đến đây để nghe ĐGH chứ không phải để buồn chán. Vì thế, để khỏi buồn chán, tôi giao diễn văn nà cho ĐHY, ngài sẽ cho dịch ra tiếng Bengali, trong khi tôi nói với anh chị em điều mà tôi vẫn quan tâm.”

 ĐTC tái lên án tật nói hành nói xấu và nói rằng ”Có những người phê bình là tôi cứ lập đi lập lại, nhưng tôi phải nói kẻ thù của sự hòa hợp là tật nói hành nói xấu. Đây không phải là một ý tưởng của tôi. Cách đây 2 ngàn năm, thánh Giacôbê tông đồ đã viết trong một thư. Miệng lưỡi phá hủy cộng đoàn. Không nói những lời phê bình trực tiếp với ngừơi liên hệ, nhưng với người khác, tạo nên một bầu không khí nghi kỵ, ghen tương, chia rẽ. Đó là một thứ bom, đó là nạn khủng bố. Ai có một quả bom, ai là kẻ khủng bố. Ai nói xấu người thác, thì họ là kẻ ném bom và ra đi yên hàn!”..

 ĐTC khuyên rằng ”khi anh chị em muốn nói xấu người khác, thì hãy cắn lưỡi mình, điều này có nguy cơ làm cho anh chị em bị đau, nhưng nhờ đó anh chị em không ném bom.”

 ĐTC nhận xét, có thể có ngừơi nêu vấn nạn: ”Nhưng thưa cha, khi con thấy một điều không ổn, chẳng lẽ con không được ném bom hay sao? Bạn hãy nói thẳng điều đó với người bạn muốn phê bình. Chúa Giêsu cũng đã làm như vậy. Chắc chắn có người sẽ nói với tôi: thưa cha, không thể được. Đó là một người phức tạp. Đúng vậy, nhưng nếu anh chị em không thể nói điều đó với người ấy, thì hãy nói với người nào có thể chữa lành sự ấy. Vậy, một là bạn nói thẳng mặt, hai là nói với người nào có thể can thiệp chứ đừng nói với ai khác. Bao nhiêu cộng đoàn tôi thấy đã bị phá hủy vì những lời nói hành nói xấu nhau.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các LM, tu sĩ nam nữ Bangladesh về sự đơn sơ, có tình người đối với nọi người, và nghĩa vụ phải chăm sóc ơn gọi của mình, như khi chăm sóc một bệnh nhân, một trẻ em, một người già. Nếu thiếu sự chăm sóc này, thì hạt lúa nhỏ sẽ không tăng trưởng được, nó sẽ bị khô đi. Hãy dịu dàng chăm sóc ơn gọi, vì mỗi anh em trong hàng linh mục, trong cộng đoàn tu trì, mỗi chủng sinh, đều là một hạt giống của Thiên Chúa và Chúa nhìn hạt giống ấy với sự dịu dàng của một người Cha”.

 Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy vui tươi và nói: ”Thật là đau lòng khi gặp một linh mục, tu sĩ, chủng sinh và cả GM cay đắng, với bộ mặt sầu thảm, đến độ người ta bị cám dỗ hỏi người ấy: Anh hoặc chị ăn gì sáng nay vậy? Có phải ăn giấm không?”

 Bài huấn dụ trên giấy

 Trong bài huấn dụ trên giấy được phổ biến và dặn dò các LM, tu sĩ chăm chú đọc và suy gẫm, ĐTC viết:

 Cộng đoàn Công Giáo tại Bangladesh bé nhỏ, nhưng anh chị em như hạt cải mà Thiên Chúa làm cho trưởng thành với thời gian. Tôi vui mừng vì thấy hạt cải này đang tăng trưởng và được trực tiếp chứng kiến đức tin sâu xa mà Thiên Chúa ban cho anh chị em (Xc Mt 13,31-32). Tôi nghĩ đến các thừa sai nhiệt thành và trung tín đã trồng và chăm sóc hạt cải đức tin qua gần 5 thế kỷ… Tôi thấy anh chị em ở đây như những thừa sai đang tiếp nối công trình thánh thiện ấy. Tôi cũng thấy nhiều ơn gọi nảy sinh từ miền đất này: đó là một dấu chỉ ân phúc Chúa đang ban cho đất nước này. Tôi đặc biệt vui mừng vì tại đây cũng có sự hiện diện của các nữ tu chiêm niệm và vì lời cầu nguyện của các chị.

 Sau lời khích lệ trên đây, ĐTC lần lượt dựa vào 3 mầu nhiệm Mân Côi để rút ra những bài học thực tiễn.

 – Trước tiên là thái độ mau mắn ân cần của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin. Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ cho giờ phút ấy và Mẹ đã đáp lại với lòng yêu mến và tín thác. ĐTC nói: ”Chúa cũng chuẩn bị như vậy đối với mỗi người chúng ta và gọi đích danh chúng ta. Đáp lại lời mời gọi ấy là một tiến trình kéo dài trọn đời. Mỗi ngày chúng ta được kêu gọi học thái độ mau mắn hơn đối với Chúa trong kinh nguyện, suy niệm Lời Chúa và tìm cách nhận ra thánh ý Ngài. .. Chúng ta không thể mang danh Chúa Kitô hoặc tham gia vào sứ mạng của Chúa mà không phải là những người được ăn rễ sâu trong tình yêu, được tình yêu đốt cháy, qua cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và qua lời Kinh Thánh.

 ”Sự ân cần, mau mắn đối với Chúa, giúp chúng ta nhìn thế giới qua đôi mắt của Chúa, và nhờ đó chúng ta nhạy cảm hơn đối với nhu cầu cấp thiết của những người chúng ta phục vụ. Chúng ta bắt đầu hiểu những hy vọng và vui mừng, những sợ hãi và gánh nặng của họ, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhiều tài năng, đoàn sủng và năng khiếu của họ để xây dựng Giáo Hội trong đức tin và sự thánh thiện.

 – Bước qua mầu nhiệm mùa thương trong kinh Mân Côi, ĐTC nhận xét rằng: ”Khi đi sâu vào các mầu nhiệm mùa thương, chúng ta biết được sức mạnh cứu độ của các mầu nhiệm ấy, và được củng cố trong ơn gọi tham dự vào các mầu nhiệm thương khó trong đời sống chúng ta, qua sự cảm thương và hiến thân. Chức linh mục và đời sống tu trì không phải là con đường công danh sự nghiệp, không phải là những phương thế để tiến thân, nhưng là một sự phục vụ, một sự tham gia vào tình yêu của Chúa Kitô, Đấng hy sinh bản thân vì đoàn chiên.

 ”Chúng ta thể hiện sự cảm thương ấy khi chúng ta đồng hành với con người, nhất là trong những lúc đau khổ và thử thách của họ, chúng ta giúp đỡ họ tìm thấy Chúa Giêsu.”

 ĐTC cũng nói: ”Tôi đặc biệt biết ơn vì, bằng những cách thức khác nhau, người trong anh chị em đang dấn thân trong lãnh vực xã hội, y tế và giáo dục, phục vụ những nhu cầu của các cộng đoàn địa phương và bao nhiêu người di dân và tị nạn đến đất nước này. Việc phục vụ của anh chị em cho cộng đoàn nhân loại rộng lớn hơn, đặc biệt cho những ngừơi đang ở trong tình cảnh túng thiếu nhiều, thật là điều quí giá để xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và liên đới.

 – Sang đến các mầu nhiệm mùa mừng trong kinh Mân Côi, ĐTC khẳng định rằng ”Toàn thể sứ vụ của chúng ta nhắm công bố niềm vui Phúc Âm. Trong cuộc sống và hoạt động tông đồ, tất cả chúng ta đều ý thức những vấn đề của thế giới và những đau khổ của nhân loại, nhưng chúng ta không bao giờ đánh mất niềm tín thác nơi sự kiện sức mạnh tình yêu của Chúa Kitô trổi vượt trên sự ác và trên tên đầu sỏ gian dối, hắn tìm cách đánh lừa chúng ta. Anh chị em đừng để mình bị nản chí vì những thiếu sót hoặc vì những thách đố trong sứ vụ. Nếu anh em tiếp tục tỏ ra mau mắn ân cần đối với Chúa trong kinh nguyện và kiên trì trong việc trao tặng sự cảm thương của Thiên Chúa cho các anh chị em khác, thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho tâm hồn anh chị em được tràn đầy niềm vui an ủi của Chúa Thánh Linh”.

 Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì lòng trung thành phụng sự Chúa Kitô và Giáo hội của Chúa qua việc dâng hiến cuộc sống. Tôi hứa cầu nguyện cho anh em chị và tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.”

Sau Kinh Lạy Cha và ban phép lành cho mọi người, ĐTC còn viếng thăm nghĩa trang giáo xứ và cầu nguyện trong thinh lặng trước mộ của nhiều tu sĩ được an táng tại đây, rồi thắp lên một ngọn nến.

 Ngài cũng tiến vào ngôi thánh đường cổ kính cạnh đó, là nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi do các thừa sai người Bồ Đào Nha xây cất cách đây 340 năm (1677) và nay được dùng làm nhà nguyện chầu Mình Thánh Chúa liên tục. Tại nhà thờ, ĐTC được Đức Cha Sebastian Tudu, GM giáo phận Dinapur sở tại và Nữ tu Bề trên tu viện thừa sai bác ái ở địa phương đón tiếp. Trong dịp này cũng có 200 cô nhi được các nữ tu săn sóc. ĐTC thăm hỏi và chúc lành cho các em. Bấy giờ là 12 giờ trưa. ĐTC về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 8 cây số để dùng bữa trưa cuối cùng.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

Đức Thánh Cha gặp người tị nạn Rohingya ở Bangladesh

DHAKA. Chiều ngày 1-12-2017, ĐTC Phanxicô đã gặp 16 người tị nạn Rohingya ở Bangladesh và xin lỗi họ vì sự dửng dưng của thế giới đối với số phận đau thương của họ.

Người Rohingya nguyên là những người gốc Bengali, hầu hết theo Hồi giáo, được người Anh đưa vào Miến Điện, tại bang Rakhine, để làm công nhân rẻ tiền trong thời thuộc địa. Chính phủ Miến, nay là Myanmar, không công nhận họ là người Myanmar. Ngày 25-8-2017, dân quân Rohingya tấn công các đồn bót quân đội và cảnh sát Myanmar, giết khoảng 100 người. Phản ứng lại, quân đội Myanmar đàn áp, đốt phá làng mạc của người Rohingya, khiến cho 600 ngàn người phải chạy sang tị nạn bên Bangladesh.

Tại Myanmar, từ Rohingya là điều cấm kỵ, nên ĐHY Charles Bo, TGM Yangoon, đã xin ĐTC đừng dùng từ này, để khỏi gây phẫn nộ trong dân chúng, như phản ứng của dư luận nước này khi ĐTC kêu gọi giúp đỡ người Rohingya trong một buổi đọc kinh Truyền Tin trước cuộc viếng thăm tại Myanmar.

Trong cuộc gặp gỡ liên tôn chiều ngày 1-12-2017 ở khuôn viên tòa TGM Dhaka, thủ đô Bangladesh, trước sự hiện diện của 5 ngàn người, gồm các vị lãnh đạo và tín đồ của Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo và Kitô giáo, cũng có sự hiện diện của 16 người tị nạn nam nữ, được ngồi ở chỗ danh dự. Vào cuối buổi gặp gỡ, ĐTC đã gặp riêng và lắng nghe một số người Rohingya kể lại thảm trạng họ đã trải qua. Và ngài nói: ”Thảm trạng của anh chị em thật là lớn lao. Nhân danh tất cả những người bách hại các bạn, những người gây đau khổ cho các bạn, nhất là vì sự dửng dưng của thế giới, tôi xin lỗi các bạn”.

ĐTC cũng nói với mọi người hiện diện rằng: ”Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh giống Ngài, tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Chúa. Cả các anh chị em này, họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống. Một lưu truyền trong tôn giáo của anh chị em [tức là Hồi giáo] nói rằng ban đầu Thiên Chúa lấy một chút muối ném xuống nước, và đó là hồn của mọi người; và mỗi người chúng ta đều mang trong mình một chút muối thần linh. Các anh chị em này mang trong mình muối của Thiên Chúa… Chúng ta hãy tỏ cho thế giới thấy sự ích kỷ đối xử thế nào với hình ảnh Thiên Chúa”.

Và ĐTC tha thiết kêu gọi: ”Chúng ta hãy tiếp tục giúp đỡ các anh chị em này, chúng ta hãy tiếp tục hoạt động để các quyền của họ được nhìn nhận. Chúng ta đừng khép kín tâm hồn, đừng ngoảnh mặt đi nơi khác. Sự hiện diện của Thiên Chúa ngài nay cũng có tên là Rohingya. Mỗi người chúng ta có câu trả lời của mình”.

 G. Trần Đức Anh OP