Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân 11-2-2015

Công bố Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân 11-2-2015

VATICAN. Trong sứ điệp nhân ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23, ĐTC mời gọi các tín hữu cởi mở đối với những đau khổ của bệnh nhân, phục vụ, tháp tùng, ra khỏi mình để đến với anh chị em bệnh nhân đau khổ.

Ngày thế giới các bệnh nhân do Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập và sẽ được cử hành lần thứ 23 vào ngày 11-2-2015, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, với chủ đề là một câu trích từ sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).

Trong sứ điệp công bố hôm 30-12-2014, ĐTC quảng diễn chủ đề này và trình bày những hoa trái của sự khôn ngoan tâm hồn. Đây không phải là một kiến thức lý thuyết trừu tượng, nhưng là ”một thái độ được Thánh Linh phú vào trong tâm trí của người biết cởi mở đối với đau khổ của anh chị em mình và nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi họ”.

ĐTC lần lượt nói đến:

Sự khôn ngoan của tâm hồn là phục vụ anh chị em. ”Bao nhiêu Kitô hữu ngày nay đang làm chứng tá, – không phải bằng lời nói, nhưng bằng cuộc sống của họ được ăn rễ trong một đức tin chân thành, – là 'đôi mắt cho người mù' và là 'đôi chân của người què!'. Họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ này, nhất là khi nó kéo dài trong thời gian, có thể trở thành vất vả và nặng nề. Phục vụ vài ngày thì dễ, nhưng thật khó chăm sóc một người kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, cả khi người ấy không còn khả năng cám ơn nữa. Nhưng đó thực là một con đường lớn để thánh hóa! Trong lúc ấy ta có thể cậy trông đặc biệt vào sự gần gũi của Chúa, và là một nâng đỡ đặc biệt cho sứ mạng của Giáo Hội”.
Sự khôn ngoan của tâm hồn là ở với người anh em. Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiế mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Mt 20,28)

Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin Thánh Linh ban cho chúng ta ơn hiểu được giá trị của sự tháp tùng, nhiều khi trong thinh lặng, khiến chúng ta dành thời giờ cho các anh chị em, nhờ sự gần gũi và phục vụ của chúng ta, họ cảm thấy được yêu thương và an ủi hơn. Trái lại, thật là một sự dối trá lớn lao khi nấp đằng sau những kiểu nói nhấn mạnh rất nhiều về ”chất lượng đời sống”, để làm cho người ta tin rằng những mạng sống bị tổn thương nặng nề vì bệnh tật thì không đáng sống!”

Sự khôn ngoan của tâm hồn là ra khỏi chính mình đ đi ti người anh em. Thế giới chúng ta nhiều khi quên giá trị đặc biệt của thời gian ở bên giường người bệnh, vì người ta bị vây bủa vì sự vội vã, miệt mài làm việc, sản xuất, mà quên đi chiều kích nhưng không, chăm sóc tha nhân.
Sự khôn ngoan của tâm hồn cũng là thái đ liên đới với ngưi anh em mà không xét đoán h. ”Đức bác ái cần thời gian. Thời gian để chăm sóc người bệnh và thời gian để viếng thăm họ… Đức bác ái chân thành là chia sẻ mà không xét đoán, không chủ trương hoán cải người khác; đức bác ái không có sự khiêm nhường giả tạo, ngấm ngầm tình kiếm sự ủng hộ và hài lòng vì điều thiện đã làm.”

ĐTC cũng khẳng định rằng ”cả khi bệnh tật, cô đơn và tật nguyền thắng thế trong đời sống hiến thân của chúng ta, kinh nghiệm về sự đau khổ có thể trở thành nơi ưu tiên để thông truyền ơn thánh và là nguồn mạch để thủ đắc và củng cố sự khôn ngoan của tâm hồn.”

Sau cùng, ĐTC phó thác Ngày Thế giới các bệnh nhân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria, Đấng đã đón nhận Đấng Khôn ngoan nhập thể là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Mẹ. Ngài cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn ngoan cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họ (SD 30-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Ngày mùng 6 tháng 12 vừa qua Trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ tại Roma đã tổ chức ngày hội học về đề tài “Tình trạng của các phương tiện truyền thông”. Tham dự ngày hội học này có nhiều nhà báo quốc tế trong đó có ông Jeff Fager, giám đốc đài phát thanh truyền hình CBS và ông Ed O’Keefe, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN.

Sau đây là một số nhận định của hai nhà báo này đối với khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô, qua bài phỏng vấn dành cho phái viên Alessandro Gisotti của đài Vaticăng. Đối với họ Đức Thánh Cha Phanxicô là một nhà truyền thông xuất sắc, vì với các lời nói, cử chỉ và cung cách sống và hành xử của mình ngài đã lôi cuốn được tín hữu và các đám đông dân chúng. Chỉ cần theo dõi các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần và buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật với số người tham dự tới năm, sáu, bẩy chục ngàn hay đôi khi dông hơn, thì đủ hiểu sức thu hút của Đức Phanxicô. Đặc biệt là các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần đã biến thành lễ hội, trong đó người già, ngưòi lớn, và nhất là trẻ em và giới trẻ không ngừng gân cổ lên gọi tên ngài, và tặng ngài đủ thứ, mũ calốt, áo thể thao, kể cả nước ngọt nữa. Và Đức Phanxicô vui vẻ uống ngay trước mặt mọi người. Niềm vui của các bà mẹ là đưa con cho các cận vệ bế chúng lên để cho Đức Giáo Hoàng hôn, chúc lành, xoa đầu và vuốt ve chúng. Khi có đông người đau yếu tàn tật ngồi trên xe lăn, Đức Thánh Cha dành cả giờ đồng hồ để bắt tay, ôm hôn, an ủi và nói chuyện với từng người. Đức Phanxicô cũng chân thành trả lời mọi câu hỏi của giới báo chí về mọi vấn đề, một cách rất thành thật, tự nhiên, mà không hề tránh né.

Sau đây là một số nhận xét của ông Jeff Fager.

Hỏi : Thưa ông Fager ông nhận thấy khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô như thế nào ?

Đáp : Đức Thánh Cha là một nhà truyền thông xuất sắc, một trong những nhà truyền thông xuất sắc nhất thế giới. Tôi tin rằng khi bạn có thể nói với các đám đông rộng rãi như thế – và cả khi bạn nói chuyện với các nhóm nhỏ đi nữa – thì là một cơ may phải được đánh giá cao và được sử dụng tốt nhất có thể. Tôi không nhớ đã có bình luận gia nào hay như vị Giáo Hoàng này: ngài đã thu hút thế giới một cách nhanh chóng như vậy, đến độ thay đổi các ý kiến về Giáo Hội. Chỉ một mình thôi mà ngài đã gây ra một va chạm rất mạnh trên cảm quan của người Mỹ đối với Giáo Hội công giáo trong vòng một thời gian thật rất là ngắn, và điều này có nghĩa ngài là một nhà truyền thông xuất sắc !

Hỏi : Ngài là một nhà truyền thông lớn mà người ta nhận thức được rằng ngài chân thành, đáng tin cậy, có đúng thế không thưa ông ?

Đáp : Vâng, đúng như vậy. Ngài đáng tin cậy, bạn tin tưởng nơi ngài, bạn tin ngài… và ngài mang tới một sứ điệp rất đơn sơ : ngài nói về loài người, về việc Giáo Hội đáng lẽ ra phải hành xử như thế nào trong thế giới, và điều đó được loan truyền. Tôi tin rằng Giáo Hội cần có một sự thay đổi lớn, và ngài là người có cung cách quản lý các biểu tượng bao quanh mình đã tạo được các thay đổi lớn : kiểu sống của Đức Phanxicô, kiểu ngài du hành, sự kiện ngài ở trong một ngôi nhà rất đơn sơ đã là điều đó… Qúy vị thấy không, tất cả những gì bao quanh con người nói lên rất nhiều về con người ấy và về sứ điệp ở đây là của Đức Phanxicô, và tôi tin rằng điều này vẽ nên một bức tranh rất tích cực về Giáo Hội.

Hỏi : Thưa ông, đề tài của ngày học hỏi là « Tình trạng của các phương tiện truyền thông xã hội » có cho chúng ta một ý tưởng liên quan tới các khuynh hướng quan trọng nhất ngày nay không, mặc dù điều này khó có thể truy lùng ra ?

Đáp : Ô, tất cả đều đang thay đổi rất là nhanh chóng và trên mức thang rộng rãi. Có các phương tiện truyền thông mới đang xâm lấn : đó là các phương tiện truyền thông số hay truyền thông vi tính. Chúng lớn mạnh và lớn lên với cả sự hứng khởi nữa. Tuy nhiên, trong chương trình của đài CBS dài 60 phút, điều thôi thúc chúng tôi đó là duy trì phẩm chất của nó. Chúng tôi theo sát nguyên tắc đó là cần phải tường thuật sự kiện một cách đúng đắn và để mọi người có thể hiểu được. Đó là điều mà các khán thính giả của đài mong chờ nơi chúng tôi. Người ta có thói quen thông tin một cách nhanh chóng, trong bầu không khí ngày nay với tất cả các sân chơi mới của truyền thông, và tất cả các phương tiện truyền thông xã hội người ta có ngày nay. Nhưng chúng tôi muốn chắc chắn luôn luôn cống hiến cho khán thính giả của chúng tôi việc hiểu biết tốt nhất về một sự kiện.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Ed O’Keele, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN của Hoa Kỳ.

Hỏi : Thưa ông O’Keele, ông nghĩ gì về gương mặt của Đức Thánh Cha Phanxicô ?

Đáp : Thật là hay, Đức Thánh Cha Phanxicô là một «
nhân vật-hiện tượng toàn cầu », bình dân kinh khủng, tới nỗi không cần phải có các phương tiện truyền thông lớn. Ngài có thể gọi một hãng thông tin Argentina, ít được biết tới, phỏng vấn hơn là để cho một mạng lưới lớn phỏng vấn ngài. Ngài không cần một cuộc phỏng vấn lớn toàn cầu. Dù sứ điệp của ngài có bất cứ là gì đi nữa, mà ngài diễn tả qua điện thoại cho bất cứ người nào trên thế giới, hay nói với một nhật báo nhỏ đi nữa, cũng vẫn nhận được sự chú ý trên bình diện quốc tế. Ngài là một «
người truyền thông hiện tượng ». Tôi tin rằng quyền năng to lớn của ngài là nơi sự kiện ngài là «
một người có thể đạt tới được », nó cho thấy khiá cạnh cá nhân nhất của ngài, là « chường mình ra » một cách chưa từng thấy.

Hỏi : Có lẽ chúng ta đã trông thấy với Đức Gioan Phaolô II, chứ thưa ông

Đáp : Có thể, vâng, tôi muốn nói. Tôi đã biết một số các nhà báo đã theo dõi các sinh hoạt của Đức Gioan Phaolô II, và họ đã có các cuộc nói chuyện lâu với Đức Giáo Hoàng. Họ đã du hành ra nước ngoài với ngài, và đã nói chuyện với ngài, vì trên máy chính ngài đã đi tìm các nhà báo và nói chuyện với họ, đó đã là các cuộc nói chuyện dài… Ngài là người có thể tiếp xúc và không sợ hãi phải đôi diện với giới báo chí và thông truyền tư tưởng, có khi trước cả khi các tư tưởng ấy thành hình nữa: không phải vì sự kiện đơn sơ Đức Giáo Hoàng đã nói mà nó phải trở thành giáo lý của Giáo Hội. Nhưng nếu bạn sợ phải nói bất cứ điều gì đó, thì bạn sẽ không bao giờ thành công trong việc làm một cuộc đối thoại. Và rõ ràng là ngài không sợ trao đổi các câu chuyện và linh hoạt một cuộc đối thoại.

Hỏi : Theo ý ông và theo kinh nghiệm của đài CNN, các phương tiện truyền thông đang nhào nắn lại kiểu thông tin của ngưởi ta như thế nào ?

Đáp : Các phương tiện truyền thông đã biến đổi hoàn toàn kiểu đạt tới khán thính giả của chúng tôi. Tương lai của các phương tiện truyền thông là «di động » và « xã hội ». Giờ đây chúng tôi đang tạo ra các nội dung chuyên nhất và ngay từ nguồn gốc chúng đã được nghĩ cho một đối tượng xã hội, bởi vì chúng tôi biết rằng ở đó có công chúng của mình. Chúng tôi sẽ tạo ra một chương trình khác cho truyền hình, cho trang Web, cho điện thoại di động, cho Facebook và cho Twitter…

Hỏi : Kiểu này thật là khó đối với các phương tiện truyền thông cổ điển, nó là một thách đố… Đài CNN là một đài truyền hình dùng dây cáp, hay ngày nay khó mà cho rằng đài CNN chỉ là một đài dây cáp ?

Đáp : Vâng, thật đúng như thế. Các phương tiện truyền thông cổ điển cần phải tự phá vỡ hay sẽ bị phá vỡ. Nếu một phương tiện truyền thông cổ điển chỉ tự coi mình là một mà thôi – chỉ là nhật báo, chỉ là truyền hình, chỉ là nguyệt san – thì sẽ đánh mất đi « thời vàng son » của nghành báo chí, bởi vì các người tiêu thụ đã quyết định rồi. Các người tiêu thụ, công chúng đang hướng tới sự « di động », và « xã hội » Họ nhận các tin tức chắc chắn là từ nhiều nguồn khác nhau, như chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

(RG 7.8-12-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Niềm vui của chúng ta là chính Đức Giê-su

Niềm vui của chúng ta là chính Đức Giê-su

VATICAN. Trưa ngày Chúa nhật 14.12.2014, như thường lệ, ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin vào lúc 12h trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy đón nhận Đức Giêsu vì Ngài là niềm vui sẽ đến với mọi gia đình.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của ĐTC, ngài nói:

“Anh chị em và các con rất thân mến.

Hai tuần của Mùa Vọng vừa qua đã mời gọi chúng ta phải tỉnh thức thiêng liêng để dọn đường cho Chúa đến. Trong Chúa Nhật thứ ba của Mùa Vọng này, phụng vụ kêu mời chúng ta hãy có một thái độ nội tâm khác để đón chờ Chúa đến, đó là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu được gói gọn trong câu nói: “Cùng với Đức Giêsu niềm vui sẽ đến nhà”.

Trái tim của con người luôn khao khát sự hân hoan. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Nhưng đâu là sự vui mừng mà Kitô hữu được kêu gọi để sống và minh chứng? Đó là niềm vui được ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Kể từ lúc Đức Giêsu bước vào trong lịch sử, với sự giáng sinh của Ngài nơi Bê-lem, nhân loại đã nhận lãnh hạt mầm của Nước Chúa, hệt như mảnh đất đón nhận hạt giống, hứa hẹn sẽ thu hoạch trong tương lai. Chẳng cần phải tìm kiếm nơi nào khác! Đức Giêsu đã đến để mang lại niềm vui cho tất cả mọi người và mọi thời. Đó không phải là niềm vui chỉ hy vọng có được nơi thiên đàng bởi vì nơi đây trên mặt đất này chúng ta sầu muộn nhưng trên thiên đàng chúng ta sẽ hoan hỷ. Không, không! Không phải niềm vui như thế, nhưng là niềm vui đã hiện thực hóa và được cảm nghiệm ngay bây giờ, bởi vì chính Đức Giêsu là niềm vui, và nhà chúng ta có Đức Giêsu thì sẽ có niềm vui. Một điều khác là: “Nếu không có Đức Giêsu có niềm vui không? Không! Ngài là Đấng Phục Sinh, đang sống và lao tác trong và giữa chúng ta một cách đặc biệt nơi Lời Chúa và các Bí tích.

Tất cả chúng ta đã được rửa tội, là con cái của Giáo Hội, chúng ta được kêu gọi để thường xuyên nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta, để giúp đỡ tha nhân khám phá hay tái khám phá ra Ngài nếu như họ đã lỡ quên lãng. Đó là một sứ mạng cao đẹp, giống như của Gioan Tiền Hô vậy: hướng dẫn con người đến với Đức Kitô- chứ không đến với chính bản thân chúng ta!- bởi vì Người là đích điểm mà trái tim con người hướng đến khi tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc.

Thánh Phao lô, trong phụng vụ hôm nay, đề cập đến những điều kiện để trở nên “sứ giả của niềm vui”: hãy cầu nguyện không ngừng, tạ ơn Chúa luôn luôn, hãy chiều theo Thánh Linh, tìm kiếm điều lành và tránh xa điều dữ (1 Tx 5, 17-22). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Đức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống, thậm chí đó là những hoàn cảnh khó khăn và nặng nề nhất. Người ta chưa bao giờ nghe nói đến một vị thánh buồn hay là một vị thánh với gương mặt thiểu não. Người ta chưa bao giờ nghe nói đến điều đó! Đó sẽ là một sự vô lý. Một Kitô hữu là một người có con tim đầy bình an bởi vì người đó biết đặt để niềm vui của mình nơi Thiên Chúa thậm chí cả khi phải trải qua những thời khắc khó khăn trong cuộc sống. Có đức tin không có nghĩa là sẽ không gặp phải những giây phút khó khăn nhưng là có sức mạnh để đương đầu với chúng với suy nghĩ rằng chúng ta không hề cô độc. Đây là bình an mà Thiên Chúa ban tặng cho con cái của Ngài.

Cùng hướng về Giáng Sinh đã cận kề, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm chứng rằng Đức Giêsu không phải một nhân vật của quá khứ; Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa ngày nay vẫn tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành của con người; những cử chỉ của Ngài – những Bí tích – là sự tỏ bày của lòng âu yếm, của sự an ủi và tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với từng con người. Nguyện xin Đức Trinh nữ Maria, “Nguồn vui của chúng ta”, luôn mang lại cho chúng ta những tin vui của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi sự nô lệ, bên trong cũng như bên ngoài.”

Sau kinh Truyền Tin, ĐTC đã gửi lời chào đến tất cả khách hành hương đến từ Roma, từ nước Ý và từ nhiều nơi trên thế giới. ĐTC gửi lời chào những tín hữu Ba Lan và ngài hiệp thông một cách thiêng liêng với những ai hôm nay đã thắp lên “ngọn nến của Giáng Sinh” và tái khẳng định dấn thân cho đoàn kết, một cách đặc biệt, trong Năm Đức Ái được cử hành ở Ba Lan.

Kế đến, ĐTC chào thăm nồng nhiệt những trẻ em đã đến để lãnh nhận phép lành, do Trung Tâm Diễn Thuyết của Roma tổ chức. ĐTC cám ơn vì sự hiện diện của các em và chúc mừng Giáng Sinh các em! Đồng thời, ĐTC nhắn nhủ các em khi cầu nguyện ở nhà, trước hang đá, hãy nhớ đến ngài, cũng như ngài hứa sẽ nhớ đến các em. Ngài nhắn nhủ rằng cầu nguyện là hơi thở của linh hồn: tìm những phút giây trong ngày để mở lòng với Chúa là rất quan trọng, thậm chí chỉ với những lời nguyện vắn gọn và đơn sơ của dân Chúa. Vì thế, ĐTC đã tạo một bất ngờ cho các em khi tặng cho tất cả trẻ em nơi quảng trường Thánh Phêrô: một cuốn sách nhỏ bỏ túi trong đó có một vài lời nguyện, cho những thời điểm khác nhau trong ngày và cho những hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Có vài người đã tự nguyện đóng góp những cuốn sách này. ĐTC nhắc nhở các em hãy lấy mỗi người một cuốn và luôn mang theo bên mình các em, như là trợ giúp để sống kết hiệp với Chúa suốt cả ngày.

Buổi chiều cùng ngày, ĐTC đã đến thăm giáo xứ Thánh Giuse Aurelio ở Roma. ĐTC đến giáo xứ lúc 16h và chuyến viếng thăm của Ngài bắt đầu với cuộc gặp gỡ với trẻ em. Trong suốt cuộc gặp gỡ, ngài đã chia sẻ với các em kinh nghiệm của ngài trong cuộc gặp gỡ với Chúa Hài Đồng. Ngài nói về việc Rước lễ lần đầu của mình, cách đây 70 năm, vào ngày 08.10.1944. Sau đó, Ngài gặp gỡ cộng đoàn Nomadi, một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi. Ngài kêu gọi cộng đoàn này đừng đánh mất hy vọng bởi vì Đức Giêsu chính là niềm hy vọng. Sau đó, ĐTC đã gặp gỡ khoảng 60 bệnh nhân. Tiếp đến, ĐTC gặp gỡ các gia đình có con em được rửa tội trong năm vừa qua. Cuối cùng, ĐTC cử hành thánh lễ tại giáo xứ trước khi trở về Vatican lúc 20h cùng ngày.

Jos. Nguyễn Huy Mai

Kitô hữu, bạn là ai?

Kitô hữu, bạn là ai?

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.

Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”

Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.

Đức Thánh Cha bênh vực quyền của trẻ em được lớn lên trong gia đình có cha có mẹ

Đức Thánh Cha bênh vực quyền của trẻ em được lớn lên trong gia đình có cha có mẹ

VATICAN. Sáng 17-11-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ tọa phiên họp đầu tiên của hội nghị quốc tế về gia đình truyền thống, nhóm tại Vatican từ ngày 17 đến 19-11-2014 về chủ đề ”sự bổ túc của người nam và người nữ cho nhau”.

Hội nghị do Bộ giáo lý đức tin tổ chức và diễn ra tại Hội trường Thượng HĐGM thế giới ở nội thành Vatican, với sự tham dự của 365 người, trong số này có hơn 30 diễn giả đến từ 23 quốc gia và thuộc nhiều hệ phái Kitô cũng như thuộc các tôn giáo như Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Lão giáo, Jaina và đạo Shiite. Trong số các tham dự viên, đặc biệt có Đức Cha Charles Chaput, TGM giáo phận Philadelphia, Hoa Kỳ, là nơi sẽ diễn ra Đại hội các gia đình Công Giáo thế giới vào tháng 9 năm 2015.

Lên tiếng sau lời chào mừng của ĐHY Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, ĐTC nhận xét rằng ”Trong thời đại chúng ta ngày nay, hôn nhân và gia đình đang bị khủng hoảng. Chúng ta sống trong một nền văn hóa tạm thời, trong đó càng ngày càng có nhiều người từ bỏ hôn nhân như một sự dấn thân công khai. Cuộc cách mạng này về phong tục và luân lý thường giơ cao lá cờ gọi là ”tự do”, nhưng trong thực tế, nó đưa tới sự tàn phá về tinh thần và vật chất cho vô số người, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất. Càng ngày người ta càng thấy rõ sự suy đồi của nền văn hóa hôn nhân có kèm theo sự gia tăng nghèo đói và một loạt các vấn đề xã hội, gây thiệt hại thái quá cho phụ nữ, trẻ em và người già”.

ĐTC kêu gọi các tham dự viên nhấn mạnh tới những cột trụ cơ bản nâng đỡ một quốc gia, đó là những thiện ích tinh thần. Ngài nói: ”Gia đình là nền tảng sự sống chung và là bảo đảm chống lại sự phân hóa xã hội. Các trẻ em có quyền được lớn lên trong gia đình, với một người cha và một người mẹ có khả năng kiến tạo một môi trường thích hợp cho sự tăng trưởng và trưởng thành tình cảm của các em. Vì thế, trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm, tôi đã nhấn mạnh đến sự đóng góp không thể thiếu được của hôn nhân cho xã hội, sự đóng góp này vượt lên trên bình diện cảm cúc và những nhu cầu nhất thời của đôi vợ chồng” (n.66).

Cũng trong bài diễn văn, ĐTC kêu gọi các tham dự viên làm nổi bật một chân lý liên quan tới hôn nhân, đó là sự dấn thân chung kết đối với tình liên đới, lòng chung thủy và tình yêu phong phú, đáp ứng những ước muốn sâu đậm nhất của tâm hồn con người.. Điều quan trọng là người trẻ đừng chiều theo não trạng tai hại của lối sống tạm thời, trái lại trở thành những người cách mạng, can đảm tìm kiếm một tình yêu mạnh mẽ và bền vững, nghĩa là đi ngược dòng.. Chúng ta cũng đừng để cho mình bị rơi vào một cạm bẫy, bị đánh giá theo các quan điểm ý thức hệ, bị coi là những gia đình cấp tiến hoặc gia đình bảo thủ. Không thể nói như vậy, gia đình là gia đình”.

Sau cùng ĐTC đích thân xác nhận vào tháng 9 năm tới, 2015, nếu Chúa muốn, ngài sẽ đến Philadelphia, Hoa Kỳ, để tham dự Đại Hội thế giới kỳ 8 của các gia đình.

Sau diễn văn của ĐTC, mọi người đã xem một băng Video về ”vận mệnh của gia đình nhân loại: về ý nghĩa của hôn nhân”. Tiếp đến là chứng từ của một học giả Hồi giáo ở Cairo, Ai Cập, một mục sư tin lành, một học giả thuộc đạo Jaina Ấn độ. Sau phần giải lao, có bài thuyết trình của Rabbi Do thái Lord Jonathan Sacks, cựu Rabbi Trưởng tại Anh quốc và khối Thịnh vượng chung. Mọi người đã nghe thêm một số chứng từ của một nữ tu Công Giáo và một hòa thượng Phật giáo.

Phiên họp chiều hôm qua do ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và được mở đầu với bài thuyết trình của bà Janne Haaland Matláry, nguyên Bộ trưởng tại Na Uy, trình bày về gia đình, vẫn còn là đơn vị cơ bản của xã hội. Tiếp theo đó là hai chứng từ của một vị TGM Anh giáo và một học giả người Iran, thuộc đại học Kharazmi.

Trong phiên họp cuối hội nghị này, chiều ngày thứ tư, 19-11, Đức TGM Charles Chaput, TGM Philadelphia, sẽ giới thiệu Đại hội kỳ 8 các gia đình thế giới, và sau đó sẽ có phần trình bày Tuyên ngôn khẳng định hôn nhân. (SD 17-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Nén bạc

Nén bạc

Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời. Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của hình tam giác. Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên. Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác. Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên. Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi. Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự?” Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình và mục đích của Ngài.

Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương trình của Ngài. Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.

Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của mình. Người thứ nhất có tài trồng cây ăn trái. Người thứ hai chăn nuôi cừu. Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất hay. Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài. Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.

Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có. Không còn đủ củi cho dân chúng sưởi. Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không? Khi nhìn thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm.

Người con thứ hai cũng đã phải đối diện với một quyết định khó khăn. Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông. Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực không? Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.

Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn. Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài. Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được. Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghe. Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.

Đến một ngày, nhà vua trở về nước. Ông vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi. Ông gọi ba người con lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi”. Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con”.

Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ. Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!”

Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát”. Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập. Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay. Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không làm. Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con. Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữa. Đó chính là hình phạt cho con vậy”.

Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc. Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt ảc ngày. Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent”, lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn… Những tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.

Sưu tầm

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Chúng tôi, các nghị phụ họp tại Roma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Cuộc họp Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường, xin gửi lời chào đến tất cả các gia đình khắp nơi tại các châu lục và đặc biệt là những gia đình bước theo Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn bởi chứng tá hằng ngày mà các bạn đã cho chúng tôi và cả thế giới thấy qua sự trung tín, đức tin, niềm hy vọng và tình yêu của các bạn.

Ngay cả chúng tôi, những chủ chăn của Giáo Hội, cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với những hoàn cảnh và lịch sử khác nhau. Với tư cách là các linh mục và các giám mục, chúng tôi đã gặp gỡ và sống bên các gia đình đã cho chúng tôi thấy, bằng lời nói cũng như hành động, một chuỗi dài những điểm niềm vui cũng như những khó khăn của mình.

Việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng này, khởi đi từ những trả lời cho bảng câu hỏi mà Giáo Hội gửi đi trên khắp thế giới, đã giúp chúng tôi nghe được tiếng nói của nhiều kinh nghiệm trong gia đình. Rồi cuộc đối thoại trong những ngày này của Thượng Hội Đồng cũng làm chúng tôi hiểu hơn, giúp chúng tôi nhìn thấy tất cả những thực tại sống động và phức tạp mà các gia đình đang đối mặt.

Chúng tôi muốn gửi đến các bạn lời của Đức Kitô: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta thì Ta sẽ đến và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ở với ta” (Kh 3,20). Trong suốt hành trình dài trên các con đường ở Đất Thánh, Đức Giêsu đã vào nhà tại các làng mạc, Ngài tiếp tục đi qua các ngả đường của thành phố chúng ta. Đối với các bạn, các bạn trải nghiệm lẫn ánh sáng và bóng tối, những thách đố thú vị nhưng đôi khi cũng có những thử thách đầy kịch tích. Sự tăm tối càng trở nên dày đặc hơn cho đến khi nó trở thành bóng đen, khi những sự xấu và tội lỗi thâm nhập vào tận trung tâm của đời sống gia đình.

Trước hết, có một thách đố rất lớn về sự trung tín trong tình yêu hôn nhân. Đức tin suy yếu và các giá trị đạo đức không được quan tâm, chủ nghĩa cá nhân, các mối tương quan bị kiệt quệ, nổ lực loại trừ sự phản tỉnh ghi dấu ấn của nó trong đời sống gia đình. Có không ít những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng, không có sự kiên nhẫn, xác minh, tha thứ cho nhau, hòa giải và thậm chí là hy sinh. Những sai lầm như thế thường thấy ở những tương quan mới, những cặp đôi mới, mối liên hiệp mới và các đôi hôn phối mới, làm gia tăng những tình huống và vấn đề phức tạp trong gia đình cho các chọn lựa Kitô giáo.

Trong những thách đố này, chúng tôi muốn đề cập đến nỗi đau của chính sự hiện hữu. Chúng tôi nghĩ đến những thống khổ có thể có đối với một em bé bị khuyết tật, một chứng bệnh nghiêm trọng, tinh thần bị suy giảm do tuổi già, cái chết của một người thân yêu. Đáng ngưỡng mộ thay sự trung kiên đầy quảng đại của nhiều gia đình sống trong những thử thách này với lòng can đảm, đức tin và tình yêu, không xem nó như một điều gì đó bị cắt đứt hay tổn thương, nhưng như là cái được trao ban cho mình, nhìn thấy Đức Kitô chịu đau khổ nơi phần thân xác bệnh tật ấy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những khó khăn kinh tế do các hệ thống sai lạc, do “chủ nghĩa thờ đồng tiền và sự chuyên chế của một nền kinh tế vô nhân vị và không nhắm tới con người thật sự” (Evangelii Gaudium, 55), vốn hạ thấp nhân phẩm con người. Chúng tôi cũng nghĩ đến những người cha, người mẹ, thất nghiệp, bất lực trước những nhu cầu thiết yếu của gia đình mình và cả đến các bạn trẻ, những người ở không, không có hoài bão, những người có thể sẽ trở thành nạn nhân của những suy đồi do nghiện ngập hay tội ác.

Chúng tôi cũng nghĩ đến rất nhiều các gia đình nghèo, những người phải bám theo một chiếc thuyền để tìm đến một nơi sinh tồn, đến các gia đình đi di cư mà không có chút hy vọng nào nơi các sa mạc, những những gia đình bị bách hại chỉ bởi vì đức tin và vì những giá trị thiêng liêng và nhân bản của mình, đến những ai bị những tàn bạo của chiến tranh và áp bức vây bủa. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ phải gánh chịu những bạo lực, bị bóc lột sức lao động, đến những nạn nhân của nạn buôn người, đến các trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng bởi chính người chịu trách nhiệm chăm sóc và giúp mình lớn lên trong sự tin tưởng, đến các thành viên của những gia đình bị hạ nhục và trong hoàn cảnh khó khăn. “Nền văn hóa sung túc đang gây mê chúng ta và […] tất cả đời sống đó bị còi cọc đi do thiếu vắng những cơ hội dường như là một cảnh tượng đơn thuần chẳng làm cho chúng ta bận tâm tí nào” (Evangelii Gaudium, 54). Chúng tôi thỉnh cầu đến các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế hãy thăng tiến các quyền về gia đình nhằm hướng đến công ích cho mọi người.

Đức Kitô đã muốn Giáo Hội của Ngài trở thành một ngôi nhà mở rộng cửa để đón tiếp mọi người, không trừ một ai. Chúng tôi biết ơn các chủ chăn, các tín hữu và cộng đoàn đã sẵn sàng đồng hành với các các cặp đôi và các gia đình, đồng thời chăm sóc những vết thương cả nội tâm lẫn xã hội của họ.

* * *
Tuy nhiên, cũng có một ánh sáng chiếu rọi giữa đêm đen, đằng sau những cánh cửa sổ của các tòa nhà ở thành phố, của căn nhà giản dị ở thôn quê hay nơi các làng mạc, hay thậm chí là cả những túp lều: nó tỏa sáng và sưởi ấm cả thể xác lẫn linh hồn. Ánh sáng này, dưới ánh sáng của lịch sử hôn nhân, đã tỏa chiếu từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một món quà, một ân sủng được diễn tả – như sách Sáng Thế nói (2,18) – khi khuôn mặt này “đối diện” với khuôn mặt kia, trong một sự “tương trợ đồng vị với nhau”, nghĩa là ngang nhau và hỗ tương với nhau. Tình yêu giữa người nam và người nữ dạy chúng ta biết rằng dù vẫn khác nhau về căn tính, mỗi người cần đến người kia để là chính mình, mỗi người phải mở ra và tỏ lộ cho nhau. Đó là điều mà người nữ diễn tả một cách rất gợi tình trong sách Diễm Ca: “Người yêu tôi là của tôi và tôi là của người yêu tôi… tôi thuộc về người yêu tôi và người yêu tôi thuộc về tôi” (Dc 2,16; 6,3)

Để cuộc gặp gỡ này được chân thành, lộ trình phải bắt đầu với việc đính hôn, khoảng thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó sẽ đi đến sự thành toàn với bí tích, nơi mà Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, sự hiện diện và ân sủng của Người. Hành trình này cũng bao gồm cả tính dục, sự dịu ngọt, sự thân mật, nét đẹp, vốn là những điều luôn tồn tại, vượt trên cả những mãnh liệt và hăng hái của tuổi trẻ. Tự bản chất, tình yêu có xu hướng còn mãi, cho đến khi trao ban cả sự sống cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Dưới ánh sáng này, tình yêu lứa đôi, duy nhất và bất khả phân ly, luôn tồn tại, bất chấp những khó khăn của giới hạn con người; đây là một trong những phép màu tuyệt vời nhất, và có lẽ cũng là phép lạ chung nhất.

Tình yêu này lan tỏa qua việc sinh sản con cái và phát triển nòi giống, vốn không chỉ liên hệ đến việc sinh con nhưng còn liên quan đến quà tặng đời sống thiêng liêng nơi bí tích Thanh Tẩy, giáo dục và dạy giáo lý cho con trẻ. Nó cũng bao gồm đến việc trao tặng sự sống, tình cảm, các giá trị – một kinh nghiệm mà cả người không có khả năng sinh sản vẫn có thể làm được. Những gia đình nào sống được cuộc phiêu lưu chói lọi này sẽ trở nên dấu chỉ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Trong suốt hành trình, vốn đôi khi có lắm chông gai, khó khăn và vấp ngã, luôn có Chúa hiện diện và đồng hành kề bên. Gia đình cảm nghiệm được điều này việc yêu mến và đối thoại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình sống điều này trong việc cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, một nơi nghỉ ngơi nho nhỏ cho tinh thần mỗi ngày. Rồi cùng dấn thân hàng ngày trong việc giáo dục đức tin và đời sống tốt lành của Tin Mừng, những điều thánh thiêng. Cả ông bà cũng cùng chia sẻ và thực thi trách nhiệm này với một sự yêu mến và dấn thân lớn lao. Như thế, gia đình sẽ trở thành một Giáo Hội tại gia chân thực, rồi nới rộng ra thành một gia đình trong các gia đình làm nên cộng đoàn giáo hội. Các cặp vợ chồng Kitô hữu được mời gọi để trở thành những thầy dạy đức tin và tình yêu cho những cặp trẻ hơn.

Một diễn tả khác của sự hiệp thông huynh đệ là sự diễn tả của đức ái, của trao ban, của việc gần gũi với những ai thấp bé, những người bị gạt ra bên ngoài xã hội, những người nghèo, những người đơn chiếc, bệnh nhân, người ngoại quốc, những gia đình khác đang gặp khủng hoảng, ý thức về lời Chúa: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đó là món quà của điều thiện hảo, của việc đồng hành, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá của chân lý, của ánh sáng, của ý nghĩa cuộc sống.

Điểm quy tụ và tóm kết mọi dây hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân chính là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, khi tất cả gia đình và Giáo Hội cùng ngồi bên bàn tiệc của Chúa. Ngài đã trao ban cho tất cả chúng ta, những người hành hương trong lịch sử tiến về điểm gặp gỡ chung kết khi “Đức Kitô trở nên tất cả và trong tất cả” (Cl 3,11). Vì thế, trong chặng đầu tiên của khởi đầu Công Nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy tư về việc trợ giúp mục vụ và về việc tham dự bí tích cho những ai đã ly dị tái hôn.

Chúng tôi, các nghị phụ, xin anh chị em hãy bước đi cùng chúng tôi hướng về Cuộc Họp Thượng Hội Đồng sắp tới. Nguyện xin sự hiện diện của gia đình Giêsu, Maria và Giuse trong ngôi nhà đơn sơ của họ luôn ấp ủ các bạn. Cùng với Thánh Gia Nazaret, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời cầu khẩn của chúng tac ho tất cả gia đình dưới thế:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình có được những người vợ người chồng khôn ngoan và mạnh mẽ để họ có thể là nguồn mạch của một gia đình hiệp nhất và tự do.
Lạy Cha, xin ban cho các bậc cha mẹ có một mái nhà để sống bình an với gia đình của mình.
Lạy Cha, xin giúp những người làm con trở thành một dấu chỉ của niềm tin, niềm hy vọng, và giúp cho người trẻ có được một sự dấn thân vững bền và trung tín.
Lạy Cha, xin giúp cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hằng ngày nhờ đôi tay của mình, có thể hưởng nếm sự thanh thản tinh thần và giữ được ngọn lửa đức tin luôn bừng cháy, dù giữa lúc đêm đen.
Lạy Cha, xin giúp tất cả chúng con thấy được một Giáo Hội nở rộ sự trung tín và đáng tin, một thành phố công chính và nhân bản, một thế giới yêu mến chân lý, công bằng và lòng xót thương.


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Phỏng vấn ông bà Franco và Giuseppina Miano

Trong các ngày từ mùng 5 đến 19 tháng 10 năm 2014 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới khóa đặc biệt về gia đình diễn ra tại nội thành Vaticăng với sự tham dự của 253 người đến từ năm châu. Trong số các Nghị phụ có 114 vị Chủ tịch các Hội Đồng Giám Mục, 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương của Tòa Thánh, 9 thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục, 3 Bề trên tổng quyền do các dòng nam bầu lên, và 26 Nghị phụ do Đức Thánh Cha Phanxicộ bổ nhiệm. Các tham dự viên khác gồm 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em, 38 dự thính viên, trong số này có 13 cặp vợ chồng, thêm vào đó là 16 chuyện gia.

Trong số các chuyên gia tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục nói trên có hai ông bà Franco và Giuseppina Miano, cả hai đều là giáo sư triết học. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn hai ông bà về vẻ đẹp của gia đình và Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Hỏi: Thưa hai giáo sư, ông bà nghĩ gì về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình mà hai người sẽ tham dự trong tư cách là các chuyên viên?

Đáp (ông Franco): Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đặc biệt này về gia đình là một dịp rất hay đẹp giúp suy tư về một thực tại, mà mọi kitô hữu đều chú ý và được Giáo Hội lưu tâm vì tầm quan trọng của gia đình đối với cuộc sống xã hội và cuộc sống của tất cả mọi người. Vì thế, chúng tôi thực sự hài lòng vì được chỉ định tham dự.

Đáp (bà Giuseppina): Chúng tôi cảm thấy trách nhiệm mà mình có qua việc chỉ định này và kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ sống trong Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Hỏi: Ông bà là cha mẹ, nhưng cũng là giáo sư đại học, vì thế luôn luôn tiếp xúc với người trẻ. Vai trò này của ông bà có thể đóng góp gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Có. Một sự đóng góp cụ thể trong hướng nền tảng, bởi vì nhà tôi và tôi, chúng tôi xác tín về tầm quan trọng của việc kể lại rằng cuộc sống gia đình trước hết là vẻ đẹp, tình yêu, niềm vui, cả các mệt nhọc cũng như các khó khăn, nhưng chúng được đương đầu với một sự chú ý cho phép vượt thắng các khó khăn. Trước hết, cần nói rằng có thể có một cuộc sống gia đình đẹp, đây là câu chuyện mà chúng tôi phải kể lại, mà chúng tôi phải trao ban cho các thế hệ mới. Trong một nghĩa nào đó đây là một bổn phận.

Đáp (bà Giuseppina): Phần đóng góp của chúng tôi là phần đóng góp cụ thể, phát xuất từ việc sống tới chỗ sâu thẳm của thực tại, mà người ta sẽ đề cập đến trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Bởi vì khi nói về gia đình, thì không phải là nói về một cái gì trừu tượng, mà là nói về một thực tại cuộc sống và tương quan, trong đó có các kinh nghiệm làm thành cuộc sống con người. Nghề dậy học của tôi dẫn đưa tôi tới chỗ không chỉ dấn thân trong nghề nghiệp như là phụ nữ, mà nó cũng là một việc rất đặc biệt, bởi vì đó là một công việc bao gồm sự nghiên cứu, suy tư, tìm tòi, so sánh, và là một công việc cũng bao gồm một trách nhiệm đặc biệt, bởi vì nó diễn ra bên trong phân khoa của một phân khoa thần học, và vì thế bao gồm việc đào tạo các con người, sẽ có một trách nhiệm đặc biệt trong cuộc sống xã hội.

Hỏi: Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục này dừng lại lâu trên gương mặt của người cha, nhưng cũng minh nhiên các khía cạnh thê thảm trong điều kiện của nữ giới: chẳng hạn nó nói tới cảnh bạo lưc trong gia đình trên nhiều phần đất của thế giới này. Riêng hai giáo sư, thì hai giáo sư nghĩ sao?

Đáp (ông Franco): Liên quan tới người cha, tôi tin rằng các nét nhấn mạnh trong tài liệu làm việc khiến cho tất cả mọi người đều chú ý tới một vấn đề, thường đặc biệt cấp bách trong các xã hội tây phương: nghĩa là làm sao để mỗi người cha, mỗi người mẹ có thể phục hồi tính cách chuyên biệt trong vai trò của mình, tức sự chuyên biệt trong sự hiến dâng của mình, và như thế người cha có thể là cha tới tận cùng thẳm con người mình, có khả năng đồng hành một cách yêu thương, nhưng cũng có khả năng thực thi một vai trò hướng dẫn, đồng hành chắc chắn và có uy tín. Đó là uy tín của gương mặt hiền phụ, nếu nó được phục hồi.

Đáp (bà Giuseppina): Để cho phẩm giá của phụ nữ được thừa nhận cho tới tận cùng và một cách thực sự, thì đường đi còn xa lắm. Và tôi cũng tin rằng đường còn dài kể cả sự đích thực của tương quan trở thành một cái gì có thể thực hiện và cụ thể. Vấn đề bạo lực đối với các phụ nữ trong gia đình không chỉ là vấn đề liên quan tới phụ nữ, nó cũng liên quan tới nam giới và nữ giới nữa; nó liên quan tới kiểu người ta quan niệm và sống tương quan giữa con người với nhau, liên quan tới ý thức và cả nhân tính của chúng ta nữa. Bạo hành nữ giới là dấu chỉ của một sự đánh mất nhân bản tính gia tăng, hay của một con đường nhân bản hóa còn có trước mặt con đường rất dài cần phải đi.

Hỏi: Thưa giáo sư Franco, trong qúa khứ giáo sư đã từng là Chủ tịch phong trào Công Giáo Tiến Hành Italia. Kinh nghiệm này có giúp giáo sư trong công việc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Chắc chắn là nó sẽ giúp tôi rồi, bởi vì kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trước tiên là kinh nghiệm của một đại gia đình phục vụ Giáo Hội và phục vụ xã hội. Gia đình trong đó có các trẻ em, các người trẻ, và người trưởng thành, người già cả, có những người độc thân và những cặp vợ chồng… Và vì thế ý thức của gia đình, của một hiệp hội hiệp nhất là một khía cạnh khác nữa, mà ngày nay người ta đặc biệt cần đến, bởi vì cuộc sống của Giáo Hội ngày càng được đón nhận như là sự sống của một gia đình. Và kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trong các năm này đã khiến cho tôi gặp biết bao nhiêu người, và vì thế tiếp xúc với biết bao nhiêu kinh nghiệm tốt lành được phổ biến trên đất Italia, nhưng trong một mức độ nào đó được phổ biến trên toàn thế giới, cũng như các vất vả mệt nhọc, mà ngày nay người ta cảm thấy, và Giáo Hội có thể góp phần dấn thận của minh và đề ra một giải pháp cho các vấn đề.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình sẽ kéo dài hai tuần, các con của giáo sư đã tiếp nhận tin cha mẹ được chỉ định làm chuyên viên tham dự Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế Giới như thế nào?

Đáp (bà Giuseppina): Các con chúng tôi đã rất hài lòng, khi nghe tin chúng tôi được chỉ định tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục như là chuyên viên. Chúng đã khá lớn rồi, bởi vì cả hai đều là các sinh viên đại học. Chúng hoàn toàn tham dự, chúng đã luôn luôn tham dự và lần này cũng thế chúng tham dự vào dấn thận của chúng tôi. Trong một cách thức nào đó, chúng cũng bị lôi cuốn vào trong kinh nghiệm này, cũng như trong biết bao nhiêu kinh nghiệm dấn thân của cuộc sống gia đình. Và đây là điều hay đẹp, bởi vì chúng tôi nghĩ tới dấn thân của mình tại Thượng Hội Đồng Giám Mục một cách riêng tư và đặc biệt như thế, trong kiểu chia sẻ rộng rãi bên trong gia đình. Do đó chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đựơc mời gọi không chỉ cống hiến một phần kiểu lý thuyết trừu tượng, nhưng một phần đóng góp nảy sinh từ cuộc sống, từ sự cụ thể của cuộc sống. Và bên trong sự cụ thể đó của cuộc sống gia đình chúng tôi, có tương quan rất mạnh mẽ và quan trọng với con cái qua sự đối thoại và đối chiếu với chúng.

Hỏi: Như thế thì hai giáo sư cầu chúc những gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình, xét rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2014 sẽ là giai đoạn đầu tiên của lộ trình sẽ được bổ túc bằng Thượng Hội Đồng Giám Mục chung năm 2015 cũng được dành cho gia đình?

Đáp (ông Franco): Chúng tôi cầu chúc rằng đây là một dịp rất hay đẹp của một suy tư được Chúa Thánh Thần soi sáng, có khả năng của một cuộc đối thoại sống động và ý nghĩa, chú ý tới thực tại trong đó chúng ta sống và chú ý tới tiếng nói của tất cả mọi người.

Đáp (bà Giuseppina): Tôi cầu chúc Thượng Hội Đồng Giám Mục lôi cuốn rộng rãi, để Giáo Hội ngày càng có khả năng đồng hành với cuộc sống của con người, dẫn đưa họ tới cuộc gặp gỡ với tình yêu thương của Chúa, biến đổi cuộc sống, khiến cho nó xinh đẹp hơn, sáng láng hơn, và làm phát sinh ra các tiềm năng tốt lành hơn của con người, nâng cao phẩm giá và ý nghĩa sâu xa của nó.

(RG 10-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Học yêu Thánh Giá

Học yêu Thánh Giá

Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.

Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.

Thánh Giá là chữ T.

Người nằm giang tay chữ Y.

Là tình yêu, yêu đến tận cùng.

Yêu nhân gian chiều ngang.

Yêu đời mình chiều sâu.

Yêu Chúa là chiều cao.

Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.

Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).

Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.

Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.

Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.

Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.

Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.

Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá,Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất:Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

VATICAN. Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cha Federico Lombardi, bác bỏ tin của tờ New York Thời Báo cho rằng Tòa Thánh muốm ém nhẹm vụ Đức TGM Wesolowski bị cáo lạm dụng tính dục trẻ em.

Đức TGM Joseph Wesolowski người Ba Lan, năm nay 65 tuổi, làm Sứ thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Dominicana cho đến tháng 8 năm 2013, thì bị giáo quyền địa phương bá cáo với ĐTC về vụ vị này đi ”dụ dỗ” các trẻ em đánh giầy ở đường phố và lạm dụng tính dục các em.

ĐTC triệu vị này về Roma và bãi nhiệm. Ngày 27-6 năm nay, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Bộ giáo lý đức tin đã xét xử cấp I và ban hành phán quyết buộc vị GM phải hồi tục, không còn quyền lợi và nghĩa vụ như một giáo sĩ, ngoại trừ nghĩa vụ giữ độc thân. Bị can đã kháng án trong vòng 2 tháng theo luật, và việc xét xử cấp II có thể bắt đầu vào tháng 10 tới đây. Sau khi bản án theo giáo luật được coi là chung kết thì đương sự sẽ bị xét xử về hình luật.

Trong một bài đăng tải 23-8-2014, tờ New York Thời Báo cho rằng ”năm ngoái Tòa Thánh bí mật triệu hồi Wesolowski trước khi đương sự có thể bị điều tra, và viện cớ ông Wesolowski được miễn trừ vì là nhà ngoại giao để khỏi bị tòa án ở Cộng hòa Dominicana xét xử”.

Trong thông cáo công bố tối ngày 25-8-2014 tại Vatican, Cha Lombardi trả lời rằng ”ngay từ khi vụ này được đệ trình, Tòa Thánh đã hành động mau lẹ và đúng đắn, dưới ánh sáng qui chế đặc biệt mà Đức TGM Wesolowski hưởng như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh. Khi gọi đương sự về Roma, cũng như trong việc xử lý vụ này, Tòa Thánh vẫn tiếp xúc với Nhà chức trách Cộng hòa Dominicana. Không hề có ý ém nhẹm, việc làm này chứng tỏ phía Tòa Thánh lãnh nhận trách nhiệm một cách trọn vẹn và trực tiếp, cả trong một vụ trầm trọng và tế nhị như thế. Và ĐTC Phanxicô được thông báo tường tận, ngài muốn vụ này được xử lý một cách công minh và với sự nghiêm ngặt cần thiết”.

Sau cùng, Cha Lombardi nhận xét rằng vì Đức TGM Wesolowski đã ngưng các chức năng ngoại giao và không được hưởng sự miễn trừ đi kèm, đương sự có thể bị xét xử do các tòa án khác có danh nghĩa thực hiện việc này”.

Hồi tháng 5-2014, ĐTC Phanxicô nói với giới báo chí rằng có 3 GM đang bị điều tra về vị cáo lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Một người đã bị lên án và hình phạt cho đương sự đang được cứu xét. Dường như đó là Wesolowski.

ĐTC cũng nói với các ký giả rằng lạm dụng tính dục trẻ em là một ”tội ác xấu xa” và ngài tái khẳng định chính sách tuyệt đối không dung thứ những kẻ lạm dụng. (CNS 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

 CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Peter and heaven's key

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao “Chìa Khóa Nước Trời", tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa. Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavít (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).

Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh Kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình (Harper’s Dict 524-525).

Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).

Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khóa mở cửa Nhà thờ. Đức Giám mục trao chìa khóa cho Linh mục Quản xứ để ngài mở cửa Nhà thờ. Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn giáo phận là thuộc Đức Giám mục giáo phận, còn Linh mục Quản xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám mục, thay mặt Đức Giám mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa.

Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể”; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu.

Chìa khóa mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.

Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”.

Có câu chuyện “Chìa khóa và ổ khóa Thiên Đàng” thật ý nghĩa
 
Một hôm nọ,
khóa cửa Thiên Đàng bị hư, thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khóa xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.

– Chào anh, tôi có cái ổ khóa bị hư, anh làm ơn sửa giùm.

– Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khóa to và quý thế này?

– Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ.
 
– Ừ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái vật qúy bằng vàng ròng này ở đâu vậy?

Thánh Phêrô tần ngần trả lời:

– Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.

Anh thợ vồn vã:

– À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng.

Thánh Phêrô giật mình:

– Đắt thế à? Tôi chỉ có 1.000 thôi.

– Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm?

– Anh hiểu lầm rồi! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nadarét. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng.

Anh thợ mỉm cười lắc đầu.

– Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.

Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được nhiều thứ khóa, chỉ trừ khóa của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư?

Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.

Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng.

– Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khóa vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.

Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi:

– Tôi có cái khóa cửa Thiên Đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp.
 
– Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái
khóa thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.

– Tốt lắm, anh cứ nói.

– Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên Các Thánh hay Các Thiên Thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khóa thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khóa cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.

Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khóa  khi nghe nói thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.

– Lạy thánh Phêrô, ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.

– Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khóa chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế? Phải có hàng lối chứ.

– Gặp thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xi-nê hoặc đi mua thịt, mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.

– Chúng mày biết gì? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ”Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế” à? Phải trật tự chứ!

– Chúa ơi ! Chết con rồi.
 


 

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hỏa ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.

Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.

Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, đấu đá nhau đến vậy hay sao? Ôi! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây, "những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.

– Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.

Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước, đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.

Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khóa trên tay thánh Phêrô.

– Ổ khóa này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.

– Khóa cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi?

– Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi.

– Thật không?

– Thật chứ! Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à?
 
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ
khóa lẫn chìa cho cậu bé.

– Cẩn thận kẻo rơi nhé.

Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khóa cho Phêrô.
 
– Cụ giữ lấy chìa
khóa này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì… Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khóa đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.

Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng:

– Ôi Chúa ơi! Cậu làm gì vậy?

Cậu bé mỉm cười trả lời:

– Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ. "Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở ". Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao?

Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại:

– Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé?

– Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa. Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không?

Thánh Phêrô sốt sắng:

– Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ?

Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô:

– Đi Bê-lem, rồi lên Núi Sọ.

Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lòng tin

Lòng tin

Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.

Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”. Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”. Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng. Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”. Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.

Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”. Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin. 

Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau. Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.

Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau: “Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.

Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.

Sưu tầm

Đấng Bảo Trợ

Đấng Bảo Trợ

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.

Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.

Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.

Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.

Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”

Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.

Veritas Radio