Đức Thánh Cha cổ võ các Giám Mục Italia giúp tín hữu đào sâu đức tin

Đức Thánh Cha cổ võ các Giám Mục Italia giúp tín hữu đào sâu đức tin

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến HĐGM Italia sáng 24-5-2012, ĐTC mời gọi các GM giúp các tín hữu đẩy mạnh đời sống đức tin với một đà tiến mới để có thể cống hiến những câu trả lời thích hợp cho con người ngày nay.

Các GM thuộc 228 giáo phận Italia nhóm đại hội thường niên tại nội thành Vatican trong những ngày từ 21 đến 24-5-2012 về đề tài tái truyền giảng Tin Mừng.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến trào lưu tục hóa đang lan tràn tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, kéo theo sự sa xút thực hành tôn giáo, ít tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích thống hối. Bao nhiêu tín hữu đã chịu phép rửa nhưng bị mất căn tính và không còn ý thức mình thuộc về Giáo Hội: họ không biết nội dung thiết yếu của đức tin hoặc nghĩ rằng mình có thể vun trồng đức tin mà không cần sự trung gian của Giáo Hội. Nhiều người khác ngờ vực các chân lý do Giáo Hội giảng dạy.

Trong bối cảnh đó, ĐTC đặt câu hỏi: ”Làm sao chúng ta có thể gieo vãi Lời Chúa trong niềm tín thác, để mỗi người có thể tìm được sự thật về bản thân, thực chất của mình và niềm hy vọng? Chúng ta biết rằng đạt được những phương pháp mới để loan báo Tin Mừng hoặc hoạt động mục vụ thì vẫn chưa đủ để làm cho đề nghị Kitô giáo có thể được nhiều người đón tiếp và chia sẻ hơn.. Cần phái tái khởi hành từ Chúa Kitô, được cử hành, tuyên xưng và làm chứng. Không phải tình cờ mà Hiến chế đầu tiên mà Công đồng chung Vatican 2 thông qua chính là hiến chế về Phụng Vụ Thánh: việc thờ phượng Thiên Chúa hướng con người về Thành (Città) tương lai và trả lại cho Thiên Chúa quyền tối thượng của Ngài, hình thành Giáo Hội được Lời Chúa triệu tập, và tỏ cho thế giới thấy cuộc gặp gỡ phong phú với Thiên Chúa”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong khi chúng ta phải nuôi dưỡng một cái nhìn biết ơn Chúa vì sự tăng trưởng của hạt giống tốt, cả trong một thửa đất nhiều khi khô cằn, chúng ta cảm thấy rằng hoạt động của chúng ta đòi phải có một động lực mới, nhắm tới điều thiết yếu của đức tin và đời sống Kitô. Trong một thời đại trong đó đối người nhiều người Thiên Chúa trở thành vị Xa Lạ và Chúa Giêsu chỉ là một vĩ nhân của quá khứ, chúng ta sẽ không có một đà tiến truyền giáo nếu không canh tân chất lượng đức tin và kinh nguyện của chúng ta, chúng ta sẽ không thể cống hiến những câu trả lời thích hợp nếu không tái đón nhận hồng ân thánh sủng; chúng ta sẽ không biết chinh phục con người cho Tin Mừng nếu chính chúng ta không phải là những người đầu tiên tái đào sâu kinh nghiệm về Thiên Chúa”.

Sau cùng, ĐTC nhắc lại rằng vì những lý do trên đây ngài đã ấn định Năm Đức Tin sẽ bắt đầu ngày 11-10 năm nay, để giúp tái khám phá và tái đón nhận hồng ân đức tin quí giá, để hiểu biết sâu xa hơn về những chân lý là nhựa sống trong cuộc đời chúng ta, để dẫn đưa con người ngày nay, thường lơ đãng, tiến đến một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Chúa Giêsu Kitô, Đấng là đường, sự thật và là sự sống” (SD 24-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Chim bồ câu hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần

Chim bồ câu hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần
 
Hình ảnh thường được dùng như dấu chỉ diễn tả về một người, về ý nghĩa trong đời sống. Đức Chúa Thánh Thần là một người, Ngôi thứ ba Thiên Chúa. Nhưng không ai biết hình thể của Ngài như thế nào. Nên hình ảnh con chim bồ cầu là một trong những hình ảnh được dùng để chỉ diễn tả về Ngài.

 

Nhưng đâu là nguồn gốc cùng ý nghĩa chim bồ câu cho đời sống tinh thần đạo giáo?

Hình ảnh chim bồ câu xưa nay trong dân gian được dùng là dấu chỉ ẩn chứa ý nghĩa sâuj thẳm dưới nhiều phương diện khía cạnh trong đời sống từ thời xa xưa, và không chỉ riêng giới hạn trong nền văn minh văn hóa Kytô giáo.

Từ thời thượng cổ xa xưa, chim bồ câu được vẽ tạc đứng trên đầu vị thần Ischar như dấu chỉ sự sinh sản phì nhiêu.

Ở bên Hy lạp chim bồ câu được coi như thần thánh hiện thân của thần Aphrodite.

Ở bên Ấn độ chim bồ câu mầu đen là hình ảnh của con chim mang lại bất hạnh, mang đến sự chết chóc.

Bên đạo Hồi giáo trái lại xem chim bồ câu là con chim thánh, vì chim bồ câu gìn giữ che chở Tiên Tri Mahommed trên đường tỵ nạn chạy trốn.

Thời xa xưa, có quan niệm chim bồ câu còn non nhỏ chỉ về người phụ nữ , và người ta thả chim bồ câu cho bay đi lên trời vào ngày lễ cưới. Tập tục này có lẽ cho rằng chim bồ câu sẽ sống chung song đôi với nhau như vợ chồng luôn mãi. Chim bồ câu là hình ảnh của nữ thần tình yêu.

Chim bồ câu còn được gọi là con cừu của loài chim trên thế giới, vì tính tình hiền từ của chúng. Chim bồ cầu xưa nay là loài giữ lòng trung thành với nhau. Hình ảnh thường vễ diễn tả hai chim bồ chuyền qua miệng mỏ đưa chuyền cho nhau giây sợi khi đan tổ xây nhà cho nhau. Hình ảnh này giống như hai người đang yêu thương nhau hôn nhau.

Thời thượng cổ hình chim bồ câu được chạm khắc chung quanh cỗ áo quan người qua đời như dấu chỉ linh hồn người qua đời bay bổng về thiên đàng.

Trong Kytô giáo hình chim bồ câu ngậm cắn triều thiên các Thánh Tử đạo ở mỏ của nó. Và hình ảnh chim bồ câu còn là hình ảnh diễn tả vẽ về Đức Chúa Thánh Thần.

Chím bồ câu được trình bày là hình tượng của Đức Chúa Thánh Thần tạo nguồn thần hứng cho bốn vị Thánh sử viết Phúc âm của Chúa Giêsu, và cho Thánh giáo phụ trong Hội thánh – đôi khi hình chim bồ câu được vẽ tạc đậu trên vai các vị đang khi quay đầu nói rót vào tai các ngài.

Trong tranh ảnh diễn tả cảnh Thiên Thần truyền cho Đức Mẹ hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần như chim bồ câu cũng là hình ảnh bay đậu trên không trung nơi đỉnh đầu Đức Mẹ Maria.

Bức tranh vẽ hinh ảnh Chúa Ba ngôi, hình chim bồ câu là ngôi thứ ba ở giữa Đức Chúa Cha, ngôi thứ nhất và Chúa Giêsu, ngôi thứ hai. Trong bỡ ngỡ ngạc nhiên có thể nói được rằng, hai ngôi bản tính Thiên Chúa của đức Chúa Cha và Đức Chúa con, được trình bày là con người, đang khi ngôi thứ ba, Đức Chúa Thánh Thần, lại là chim bồ câu, một con vật.

Như thế phải hiểu thế nào về Đức Chúa Thánh Thần?

Trong Kinh Thánh diễn tả Đức Chúa Thánh Thần bay lượn trên khoảng không gian còn hỗn độn lúc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ ( St 1,2). Điều này nói lên, Chúa Thánh Thần như một con chim dương cánh bay lượn nhẹ nhàng, chiếu tỏa sự sống động đầy sức năng động, mang đến sự biến chuyển thay đổi cho vụ trụ được thành hình.

Chim bồ câu báo tin cho gia đình Ông Noah cơn lụt đại hồng thủy kéo dài 40 đêm ngày đã chấm dứt. Điều này nói lên chim bồ câu là sứ gỉa của sáng tạo mới. Trong bài tường thuật về sáng tạo thiên nhiên, từ hư không Thiên Chúa đã tão thành vũ trụ. Qua lụt đại hồng thủy nước bao phủ toàn vũ trụ 40 ngày đêm, mọi sự chìm ngập trôi đi trong biển nước. Sau khi nước lụt rút đi, mặt đất khô trồi lên và Thiên Chúa bắt đạo một tạo dựng mới.

Phúc âm thuật lại, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tội ở sông Giordan, Đức Chúa Thánh Thần như hình con chim bồ câu bay đậu trên Chúa Giêsu ( Lc 3,22). Chim bồ câu được dùng là hình ảnh chỉ về đức Chúa Thánh Thần muốn nói lên sự bén nhạy thiên nhiên đã bẩm sinh nơi con vật này. Cũng vậy, công việc rao giảng phục vụ của Chúa Giêsu được nhấn mạnh ngay từ lúc đầu là sự bén nhậy, cảm thông của Chúa với con người. Không hẳn qua sự chữa lành làm phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng còn qua sự dấn thân sẵn sàng hy sinh đời sống mình làm hiến lễ mang lại ơn cứu chuộc cho con người.

Hình ảnh chim bồ câu tượng trưng cho Đức Chúa Thánh Thần bay đậu trên các Thánh Tông đồ và Đức Mẹ Maria ngày lễ Ngũ tuần.

Hình ảnh chim bồ câu bay đậu trên đỉnh đầu Đức Mẹ Maria khi Thiên Thần đến truyền tin cho Maria sẽ thụ thai Giêsu làm người bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Chim bồ câu là hiònh ảnh vẽ diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần.

 

LM. Đaminh Nguyễn ngọc Long

 

Bảy ơn Chúa Thánh Thần

 

Bảy ơn Chúa Thánh Thần
 
Bảy ơn Chúa Thánh Thần là ân huệ của Thiên Chúa phù hộ, trợ sức và bảo vệ chúng ta trên con đường của cuộc sống.
 


Ơn KHÔN NGOAN giúp chúng ta nhìn thấy những sự việc trong cuộc sống qua con mắt của Chúa, theo như Chúa nhìn. Chúa Thánh Thần qua ơn này cho chúng ta khả năng để yêu mến và hiểu biết những sự việc và lời dạy của Chúa.

Ơn THÔNG MINH giúp ta nắm bắt được những gì Chúa mạc khải cách chính xác và mau lẹ. Với ơn thông minh Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thấu hiểu cách sâu sắc những gì chúng ta tin vì Thiên Chúa là Đấng đáng tin cậy.

Ơn BIẾT LO LIỆU giúp chúng ta quyết định theo đường hướng ngay thẳng. Qua ơn này, Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta để chúng ta biết lo tránh những cơ hội dẫn đến tội lỗi và chọn những gì không trái với lương tâm, những điều xứng hợp với phẩm giá con người và những gì giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa.

Ơn DŨNG CẢM giúp chúng ta thực hành điều Chúa Thánh Thần đã giúp chúng ta hiểu biết và quyết định ngay cả khi chúng ta gặp trở ngại. Chúa Thánh Thần ban sức mạnh để chúng ta vượt qua mọi khó khăn để thi hành bổn phận của người Kitô hữu cách vui vẻ và phấn khởi.

Ơn HIỂU BIẾT giúp ta nhìn thấy sự thật của cuộc sống trần thế. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhìn thấy sự việc theo cách nhìn của Chúa để chúng ta không bị lừa dối bởi những phù hoa của tội lỗi và yêu mến sự việc của Chúa.

Ơn ĐẠO ĐỨC giúp ta yêu mến những sự thuộc về Chúa và đức tin. Ơn này của Chúa Thánh Thần giúp chúng ta yêu mến Chúa, Đấng yêu thương chúng ta tột bậc và thờ phượng Ngài và đồng thời cũng giúp chúng ta yêu mến anh em mình vì chúng ta có cùng một Cha trên trời.

Ơn KÍNH SỢ CHÚA giúp ta vâng lời Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra sự cao cả, công minh của Chúa để không làm điều gì làm mất tình nghĩa với Chúa. Chúng ta không sợ hãi như kẻ nô lệ, nhưng luôn tôn kính và trông cậy vào tình yêu của Chúa.

 

Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

 

Đức Thánh Cha cổ võ các Giám Mục Italia giúp tín hữu đào sâu đức tin

Đức Thánh Cha cổ võ các Giám Mục Italia giúp tín hữu đào sâu đức tin

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến HĐGM Italia sáng 24-5-2012, ĐTC mời gọi các GM giúp các tín hữu đẩy mạnh đời sống đức tin với một đà tiến mới để có thể cống hiến những câu trả lời thích hợp cho con người ngày nay.

Các GM thuộc 228 giáo phận Italia nhóm đại hội thường niên tại nội thành Vatican trong những ngày từ 21 đến 24-5-2012 về đề tài tái truyền giảng Tin Mừng.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến trào lưu tục hóa đang lan tràn tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, kéo theo sự sa xút thực hành tôn giáo, ít tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích thống hối. Bao nhiêu tín hữu đã chịu phép rửa nhưng bị mất căn tính và không còn ý thức mình thuộc về Giáo Hội: họ không biết nội dung thiết yếu của đức tin hoặc nghĩ rằng mình có thể vun trồng đức tin mà không cần sự trung gian của Giáo Hội. Nhiều người khác ngờ vực các chân lý do Giáo Hội giảng dạy.

Trong bối cảnh đó, ĐTC đặt câu hỏi: ”Làm sao chúng ta có thể gieo vãi Lời Chúa trong niềm tín thác, để mỗi người có thể tìm được sự thật về bản thân, thực chất của mình và niềm hy vọng? Chúng ta biết rằng đạt được những phương pháp mới để loan báo Tin Mừng hoặc hoạt động mục vụ thì vẫn chưa đủ để làm cho đề nghị Kitô giáo có thể được nhiều người đón tiếp và chia sẻ hơn.. Cần phái tái khởi hành từ Chúa Kitô, được cử hành, tuyên xưng và làm chứng. Không phải tình cờ mà Hiến chế đầu tiên mà Công đồng chung Vatican 2 thông qua chính là hiến chế về Phụng Vụ Thánh: việc thờ phượng Thiên Chúa hướng con người về Thành (Città) tương lai và trả lại cho Thiên Chúa quyền tối thượng của Ngài, hình thành Giáo Hội được Lời Chúa triệu tập, và tỏ cho thế giới thấy cuộc gặp gỡ phong phú với Thiên Chúa”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Trong khi chúng ta phải nuôi dưỡng một cái nhìn biết ơn Chúa vì sự tăng trưởng của hạt giống tốt, cả trong một thửa đất nhiều khi khô cằn, chúng ta cảm thấy rằng hoạt động của chúng ta đòi phải có một động lực mới, nhắm tới điều thiết yếu của đức tin và đời sống Kitô. Trong một thời đại trong đó đối người nhiều người Thiên Chúa trở thành vị Xa Lạ và Chúa Giêsu chỉ là một vĩ nhân của quá khứ, chúng ta sẽ không có một đà tiến truyền giáo nếu không canh tân chất lượng đức tin và kinh nguyện của chúng ta, chúng ta sẽ không thể cống hiến những câu trả lời thích hợp nếu không tái đón nhận hồng ân thánh sủng; chúng ta sẽ không biết chinh phục con người cho Tin Mừng nếu chính chúng ta không phải là những người đầu tiên tái đào sâu kinh nghiệm về Thiên Chúa”.

Sau cùng, ĐTC nhắc lại rằng vì những lý do trên đây ngài đã ấn định Năm Đức Tin sẽ bắt đầu ngày 11-10 năm nay, để giúp tái khám phá và tái đón nhận hồng ân đức tin quí giá, để hiểu biết sâu xa hơn về những chân lý là nhựa sống trong cuộc đời chúng ta, để dẫn đưa con người ngày nay, thường lơ đãng, tiến đến một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Chúa Giêsu Kitô, Đấng là đường, sự thật và là sự sống” (SD 24-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần dạy chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” khi cầu nguyện

Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần dạy chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” khi cầu nguyện

 

Kitô giáo không phải là một tôn giáo của sự sợ hãi, mà là tôn giáo của lòng tin tưởng và của tình yêu thương đối với Thiên Chúa Cha, là Đấng yêu thương chúng ta. Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần dạy chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” khi cầu nguyện.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với Đức Thánh Cha tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 23-5-2012. Ngoài các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu còn có các đoàn hành hương Á châu như Ấn Độ, Philippines và Nam Hàn. Từ Phi châu có đoàn hành hương đảo Mauritius. Trong khi từ châu Mỹ Latinh có tín hữu các nước Argentina, El Salvador, Mexico và Brasil.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục đề tài lời cầu nguyện theo các thư của thánh Phaolô. Thánh Phaolô là bậc thầy cầu nguyện lớn lao dạy chúng ta hướng tới Thiên Chúa với các từ vựng trìu mến của con cái bằng cách gọi Thiên Chúa là ”Abba, Cha ơi”. Đó đã là điều Chúa Giêsu làm; cả trong lúc thê thảm nhất trong cuộc sống dương thế của Người, Chúa Giêsu đã không bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi Thiên Chúa Cha, và đã luôn luôn khẩn nài Người với sự thân tình của Con yêu dấu. Trong vườn Giệtsêmani, khi cảm thấy nỗi âu lo của cái chết, lời cầu của Người là ”Abba, Cha ơi! Mọi sự đều có thể, xin cất chén này xa con! Nhưng xin đừng theo ý Con, mà theo ý Cha” (Mc 14,36).

Ngay từ những bước đầu con đường của mình, Giáo Hội tiếp nhận lời khẩn cầu này làm của mình, nhất là trong lời kinh Lạy Cha, trong đó chúng ta nói lên hằng ngày: ”Lạy Cha chúng con… xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9.10). Trong các thư của thánh Phaolô chúng ta tìm thấy các lời ”Abba, Cha ơi” hai lần. Trong thư gửi tín hữu Galát người viết: ”Để chứng thực anh em là con cái. Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6). Ở giữa bài ca chúc tụng Thần Khí là chương 8 thư gửi giáo đoàn Roma, thánh Phaolô khẳng định: ”Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15). Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Kitô giáo không phải là một tôn giáo của sự sơ hãi, mà là tôn giáo của lòng tin tưởng và của tình yêu thương đối với Thiên Chúa Cha, là Đấng yêu thương chúng ta. Hai khẳng định sâu xa trên đây nói với chúng ta về việc gửi và nhận lãnh Thánh Thần, ơn của Chúa Phục Sinh, khiến cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa trong Đức Kitô, Con duy nhất, và đặt để chúng ta vào trong một tương quan thân tình con thảo với Thiên Chúa, tương quan của lòng tin tưởng sâu xa, như của các trẻ em; một tương quan giống tương quan của Chúa Giêsu, cả khi có nguồn gốc và bề dầy khác nhau: Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng đã nhập thể làm người, trái lai chúng ta trở thành con trong Người, trong thời gian, qua đức tin và các Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, nhờ đó chúng ta được nhận chìm vào trong Mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là ơn qúy báu và cần thiết khiến cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, Đấng thực hiện việc nhận làm nghĩa tử, mà chúng ta tất cả là loài người được mời gọi, như thánh Phaolô khẳng định trong thư gửi tín hữu Ephêxô: ”Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thành nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-5),

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Có lẽ con người ngày nay không nhận thức ra vẻ đẹp, sự cao cả và niềm an ủi sâu xa chứa đựng trong từ ”cha” mà chúng ta dùng để thưa lên với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, bởi vì gương mặt người cha ngày nay thường không hiện diện đủ, và thường không tich cực trong cuộc sống thường ngày. Sự thiếu vắng người cha, vấn đề của một người cha không hiện diện trong cuộc sống của trẻ em là một vấn đề lớn của thời đại chúng ta, vì thế khó mà hiểu được trong sự sâu thẳm của nó Thiên Chúa là Cha có nghĩa là gì đối với chúng ta. Từ chính Chúa Giêsu, từ tương quan con thảo của Người với Thiên Chúa chúng ta có thể học được là cha có nghĩa gì, đâu là bản chất đích thực của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời… Chúng ta hãy nghĩ tới lời Chúa Giêsu nói trong bài giảng trên núi: ”Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con. Như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,44-45). Chính tình yêu của Chúa Giêsu, Con duy nhất, Đấng đã tự hiến mình trên thập giá, vén mở cho chúng ta thấy bản tính đích thực của Thiên Chúa Cha. Người là Tình Yêu, và cả chúng ta trong lời cầu nguyện của con cái, chúng ta cũng được bước vào trong qũy đạo tình yêu này của Thiên Chúa, Đấng thanh tẩy các ước mong của chúng ta, thanh tẩy các thái độ bị ghi dấu bởi sự khép kín, tự đủ và ích kỷ của con người cũ.

Đề cập tới hai chiều kích chức làm Cha của Thiên Chúa Đức Thánh Cha nói:

Chúng ta có thể nói rằng nơi Thiên Chúa việc làm Cha mang hai chiều kích. Trước hết, Thiên Chúa là Cha chúng ta, bởi vì Người là Đấng Tạo Hóa. Mỗi người trong chúng ta, mỗi người nam và người nữ, là một phép lạ của Thiên Chúa, được Người muốn và được Người hiểu biết một cách cá nhân. Trong sách Sáng Thế khi nói rằng con người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27), là người ta muốn diễn tả chính thực tại này: Thiên Chúa là Cha chúng ta, đối với Người chúng ta không phải là những kẻ vô danh, không bản vị, nhưng chúng ta có một tên gọi. Có một lời trong Thánh Vịnh luôn đánh động tôi, khi tôi cầu nguyện: đó là ”Bàn tay Chúa đã nhào nặn nên con”. Trong các lời này mỗi người trong chúng ta có thể diễn tả tương quan riêng tư cá nhân của mình với Thiên Chúa. Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng. Chúa đã nghĩ tới con, đã tạo dựng con và muốn có con. Nhưng điều này cũng chưa đủ. Thần Khí của Chúa Kitô còn mở ra cho chúng ta một chiều kích thứ hai trong chức làm Cha của Thiên Chúa nữa, vượt xa hơn sự tạo dựng, bởi vì Chúa Giêsu là ”Con” trong nghĩa tràn đầy, của ”chính bản tính Thiên Chúa Cha”, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Khi trở thành người như chúng ta, với sự Nhập Thể, Cái Chết và sự Sống Lại, đến phiên Người Chúa Giêsu tiếp nhận chúng ta trong nhân tính của Người và trong chính chức là Con của Người, và như thế chúng ta cũng có thể bước vào trong việc đặc biệt tùy thuộc Thiên Chúa. Chăc chắn việc là con Thiên Chúa của chúng ta không có cùng sự tràn đầy của Chúa Giêsu: chúng ta phải ngày càng trở thành con nhiều hơn, trong suốt con đường cuộc sống kitô của chúng ta, bằng cách lớn lên trong con đường theo Chúa Kitô, trong sự hiệp thông với Người để ngày càng bước sâu một cách thân tình hơn vào trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa Cha, là Đấng nâng đỡ cuộc sống chúng ta. Thực tại nền tảng này được mở ra cho chúng ta, khi chúng ta rộng mở chính mình cho Chúa Thánh Thần, và Người khiến cho chúng ta hướng về Thiên Chúa bằng cách thưa với Người ”Abba, Cha ơi!”

Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolô khẳng định rằng Thần Khí kêu lên trong chúng ta ”Abba, Cha ơi!”. Còn trong thư gửi giáo đoàn Roma Thần Khí nói rằng chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!”. Qua đó thánh Phaolô muốn làm cho chúng ta hiểu rằng lời cầu kitô không bao giờ xảy ra trong một chiều từ chúng ta tới Thiên Chúa, nó không phải là một hành động của chúng ta, mà diễn tả một tương quan hai chiều, trong đó Thiên Chúa tác động trước: chính Thánh Thần kêu lên trong chúng ta, và chúng ta có thể kêu lên, bởi vì có sự thúc đẩy đến từ Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể cầu nguyện, nếu ước muốn Thiên Chúa, sự kiện là con Thiên Chúa không được viết trong nơi sâu thẳm của trái tim chúng ta. Từ khi con người khôn ngoan hiện hữu nó đã luôn kiếm tìm Thiên Chúa và nói chuyện với Người, bởi vì Thiên Chúa đã khắc ghi chính Người trong tim chúng ta. Như thế sáng kiến đầu tiên là của Thiên Chúa, rồi với phép Thánh Tẩy Thiên Chúa lại tác động trong chúng ta và Thánh Thần hoạt động trong chúng ta và là người đâu tiên cầu nguyện để chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi.

Tuy nhiên lời cầu nguyện không chỉ có chiều kich cá nhân, nhưng bao giờ cũng mang chiều kích cộng đồng nữa. Đức Thánh Cha nói:

Khi chúng ta hướng tới Thiên Chúa Cha trong căn phòng nội tâm, trong thinh lặng và cầm trí, chúng ta không bao giờ lẻ loi một mình. Ai nói chuyện với Thiên Chúa không bao giờ lẻ loi. Chúng ta đang ở trong lời cầu nguyện lớn của Giáo Hội, chúng ta là phần của một bản hòa tấu vĩ đại, mà cộng đoàn kitô sống rải rác khắp nơi trên thế giới tấu lên Thiên Chúa. Chắc chắn là các nhạc công và các nhạc cụ khác nhau – và đây là một yếu tố của sự phong phú – nhưng tấu khúc ca tụng là một và trong sự hòa hợp. Như thế mỗi lần chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi!” là toàn Giáo Hội, toàn sự hiệp thông của các người cầu nguyện nâng đỡ lời khẩn cầu của chúng ta, và lời khẩn cầu của chúng ta là lời khẩn cầu của toàn Giáo Hội.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croat, Tchèques, Slovac, Lituani và Ý. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha ước mong ơn Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần luôn nâng đỡ và dưỡng nuôi cuộc sống đức tin của cộng đoàn kitô. Ngài nhắn nhủ các bạn trẻ luôn đặt để việc kiếm tìm Thiên Chúa và tình yêu đối với Chúa trên hết mọi sự. Ngài xin Chúa Thánh Thần trợ giúp và an ủi các người đau yếu trong những lúc cần thiết nhất và cho sự hiệp nhất giữa các cặp vợ chồng mới cưới ngày càng sâu đậm hơn. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Luôn cởi mở đối với việc tìm kiếm Thiên Chúa và các giá trị siêu việt

Luôn cởi mở đối với việc tìm kiếm Thiên Chúa và các giá trị siêu việt

Bác sĩ  Rocco Bellantone Viện trưởng Y Khoa và Giải Phẩu

Một số nhận định của bác sĩ Rocco Bellantone, trưởng phân khoa Y khoa và giải phẫu thuộc đại học Công giáo Thánh Tâm Roma, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập.

Ngày 3-5-2012, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã viếng thăm Đại học công giáo Thánh Tâm Gemelli, nhân kỷ niệm 50 thành lập trường Y khoa và giải phẫu thuộc đại học này. Đại học và bệnh viện Genelli mang tên vị sáng lập là cha Agostino Gemelli, dòng Phanxicô. Đại học và bệnh viện nổi tiếng vì đã chữa trị cho Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhiều lần. Cơ sở giáo dục cao đẳng này có hơn 700 nhà nghiên cứu dấn thân hoạt động tại 35 học viện, mỗi năm có hơn 1.500 công trình nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế nổi tiếng nhất. Có 46 nhà nghiên cứu của Đại học công giáo này được xếp vào số 300 nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất Italia. Đại học công giáo Thánh Tâm Gemelli hiện có 5.000 sinh viên.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã cảnh giác chống lại nền văn hóa duy thực nghiệm, loại bỏ vấn nạn về Thiên Chúa ra khỏi các thảo luận khoa học, và ngài chống lại quan niệm hễ những gì có thể thực hiện được trên bình diện khoa học thì đều hơp lý. Đức Thánh Cha nhắc đến các khám phá ngày càng nhiều và tối tân trong lãnh vực khoa học, nhưng con người ngày nay tuy giầu về phương tiện, nhưng lại không giầu về mục tiêu. Họ thường chịu ảnh hưởng của chủ trương thu hẹp và tương đối hóa, dẫn đưa tới việc đánh mất đi ý nghĩa của sự vật, hầu như bị chóa mắt vì hiệu năng của kỹ thuật, mà quên đi chân trời cơ bản là câu hỏi về ý nghĩa, để rồi gạt bỏ chiều kích siêu việt. Trong bối cảnh đó, tư tưởng trở nên yếu đuối và lãnh vực luân lý đạo đức trở nên nghèo nàn hơn, che phủ việc tham chiếu các quy luật về giá trị. Căn cội phong phú của nền văn hóa và sự tiến bộ của Âu châu dường như bị quên lãng, trong đó có sự tìm kiếm sự tuyệt đối, tìm kiếm Thiên Chúa.

Đứng trước tình trạng trên đây Đức Thánh Cha khẳng định rằng: ”Điều quan trọng là nền văn hóa phải tái khám phá sức mạnh của ý nghĩa và năng động của siêu việt, nói tắt một lời, là quyết liệt cởi mở đối với chân trời của sự tìm kiếm Thiên Chúa.

Trong chiều hướng này, Đức Thánh Cha ca ngợi Đại học Công Giáo Thánh Tâm dấn thân mạnh mẽ trong lãnh việc nghiên cứu. Ngài nói: ”Sự tìm kiếm Thiên Chúa trở nên phong phú đối với trí tuệ, là men của văn hóa, là động cơ thăng tiến một nền nhân bản đích thực, việc nghiên cứu không dừng lại ở bề mặt. Các bạn thân mến, các bạn hãy luôn để cho mình được hướng dẫn nhờ sự khôn ngoan đến từ trên cao, từ một kiến thức được đức tin soi sáng, và nhớ rằng sự khôn ngoan đòi phải có sự hăng say và những vất vả trong việc nghiên cứu…”

Đức Thánh Cha cũng nhận xét thêm rằng: ”Không có tiến bộ nào, nhất là về mặt văn hóa, được nuôi dưỡng bằng sự lập lại suông, nhưng đòi phải có một sự bắt đầu luôn luôn mới mẻ. Ngoài ra, nó cũng đòi phải có thái độ sẵn sàng đối với sự đối chiếu và đối thoại, mở rộng trí tuệ và làm chứng về sự phong phú của gia sản đức tin. Đại học Công Giáo ở Roma ngày nay được kêu gọi trở thành một tổ chức gương mẫu, không thu hẹp việc học hỏi vào sự tìm kiếm thành công về kinh tế, nhưng mở rộng nhãn giới về một dự phóng, trong đó ơn trí tuệ tìm hiểu và phát triển các hồng ân của thế giới được tạo dựng, vượt lên trên một quan niệm duy sản xuất, duy lợi ích về cuộc sống”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của bác sĩ Rocco Bellantone, trưởng phân khoa Y khoa và giải phẫu thuộc đại học Công giáo Thánh Tâm Roma, nhân kỷ niệm 50 thành lập, và ”Ngày nghiên cứu” do phân khoa tổ chức lấn đầu tiên về đề tài ”Một đời cho việc nghiên cứu, nghiên cứu cho sự sống”.

Hỏi: Thưa giáo sư Bellantone, chuyến viếng thăm ca Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, một thần học gia một giáo sư đại học, có ý nghĩa gì trong dịp cử hành 50 năm thành lập phân khoa Y khoa và giải phẫu tại Đại học công giáo Thánh Tâm Gemelli?

Đáp: Ngoài các xúc động mà mỗi kitô hữu đều có khi được Đức Thánh Cha đến thăm, sự hiện diện của Đức Thánh Cha nhắc nhớ chúng tôi ý thức được trách nhiệm của phân khoa Y khoa và giải phẫu của đại học Thánh Tâm, được thành lập cách đây 50 năm nhằm đáp ứng các nhu cầu của người đau khổ hơn là để xóa bỏ các tật bệnh. Và phân khoa phải tiếp tục chứng minh cho thấy rằng không có xung khắc giữa đức tin và lý trí.

Hỏi: Khoa học kiếm tìm sự thật nhưng trong lãnh vực y khoa, có những khó khăn và các nghi ngờ dễ biến thành các vấn đề luân lý sinh học. Việc nghiên cứu y khoa trong một đại học công giáo có tầm quan trọng nào, thưa giáo sư?

Đáp: Khoa học là một dụng cụ hiểu biết các mầu nhiệm của thiên nhiên. Nhưng trách nhiệm mà chúng ta có đối với khoa học là nghiên cứu, nhưng dưới sự hướng dẫn của luân lý đạo đức, coi con người như là một cứu cánh chứ không phải là một phương tiện. Vì thế chúng tôi không nhắm chủ trương duy kỹ thuật bằng mọi giá, mà chú ý tới con người khổ đau, chú ý tới việc bảo vệ sự sống con người trong tất cả mọi hình thái của nó, để cùng nhau tìm chiến thắng các lý do gây ra chết chóc. Là các bác sĩ công giáo có nghĩa là hoạt động với lòng thương xót, mà thánh Toma Aquino cho là đồng cảm với nỗi khổ đau của người khác như là nỗi khổ đau của chính mình. Thực hành y khoa khoa học tiên tiến không đủ: mà phải biết chú ý tới con người đang đau khổ nữa.

Hỏi: Phân khoa Y khoa có lẽ đã bị lu mờ một chút bởi danh tiếng của nhà thương đa khoa Gemelli, một trung tâm tuyệt diệu trong việc săn sóc các bệnh nhân. Một đại học mà có một nhà thương riêng có tầm quan trọng nào thưa giáo sư?

Đáp: Chúng tôi hãnh diện về điều này: mục địch thứ nhất của việc giảng dậy của đại học là lý thuyết, nhưng cũng bao gồm việc thực hành nữa. Các sinh viên của chúng tôi có 1.700 bệnh nhân hằng ngày để họ có thể quan sát và thực hành phần lý thuyết họ đã học. Điều này dẫn đưa tới các kết qủa hiển nhiên trong nhà thương, cả khi có lúc việc nghiên cứu trong phân khoa của chúng tôi có bị ở trong bóng mờ đi nữa. Đây đã là một trong các lý do khiến chúng tôi tổ chức lần đầu tiên ”Ngày nghiên cứu”: để chứng minh và quảng bá cho thấy các kết quả to lớn mà chúng tôi đã đạt được trong việc nghiên cứu. Chỉ cần nghĩ tới sự kiện trong danh sách các nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất Italia đã có 46 người thuộc đại học Thánh Tâm Gemelli. Đại học của chúng tôi đứng hàng thứ hai tại Italia, sau nhà thương San Raffaele của Milano. Tôi cũng xin lưu ý là nhân viên của chúng tôi nắm giữ ba vai trò: chúng tôi có 700 người vừa là bác sĩ, vừa là các nhà nghiên cứu vừa là giáo sư.

Hỏi: Giáo sư có th đơn cử một thí dụ đặc biệt về việc nghiên cứu y khoa như k trên đây hay không?

Đáp: Tôi không đi vào các chi tiết, vì sợ có thể quên ai đó, nhưng chỉ lưu ý rằng chúng tôi nghiên cứu rất nhiều các tế bào gốc. Từ các tế bào máu của cuống rốn và của nhau chúng tôi đã đạt được các kết qủa quan trọng trên bình diện nhà thương cũng như trên bình diện nền tảng. Chúng tôi chống lại việc sát hại phôi thai người để lấy các tế bào gốc – thực ra thì các thí nghiệm loại này đã không bao giờ đạt được kết qủa – nhưng chúng tôi cũng đánh đổ quan niệm cổ xưa cho rằng các bác sĩ công giáo chống lại việc nghiên cứu các tế bào gốc, vì bị ngăn chận bởi tín lý của Giáo Hội. Cũng nên nhớ rằng nhà thương đa khoa Gemelli là nhà thương có nhiều bệnh nhân ung thư nhất, và việc nghiên cứu của chúng tôi rất lưu tâm tới căn bệnh này. Chúng tôi cũng chú ý tới lãnh vực phân tử di truyền: việc cộng tác với tổ chức Telethon, mà chúng tôi đã dành giải thưởng Gioan Phaolô II đầu tiên cho tổ chức này, là một điểm mạnh của nỗ lực nói trên.

Hỏi: Thưa giáo sư, giáo sư là một bác sĩ phẫu thuật, giáo sư nghiêm cứu lãnh vực này như thế nào?

Đáp: Việc nghiên cứu của tôi có các thời gian ngắn hơn, và đa số gắn liền với các kỹ thuật. Đã có một cuộc cách mạng trong ngành giải phẫu trong các thập niên 1920: từ kỹ thuật giải phẫu bằng việc mổ ngực hay mổ bụng người ta đã chuyển sang kỹ thuật nội chẩn, đem lại các kết qủa tốt hơn và giảm các nguy hiểm. Nhưng đây là một nghiên cứu không được báo chí và các phương tiện truyền thông nói tới, mặc dù đã có các kết qủa quan trọng giúp giảm số tử vong đối với một số các cuộc giải phẫu, hay ngày càng cho phép giải phẫu các bệnh nhân lớn tuổi. Có một vài cuộc giải phẫu xưa kia cần phải mổ dài 15 cm, thì ngày nay với phương pháp mới chỉ cần mở hai hay bốn chỗ khoảng 2 cm. Tôi nghĩ tới các bệnh như đau dạ tràng, hay đau tuyến giáp trạng, mà chúng tôi đã có các cuộc giải phẫu đầu tiên và đã có các trường hợp nổi tiếng trên thế giới.

(Avvenire 3-5-2012)

Linh Tiến Khải
 

Các giá trị tinh thần và tôn giáo trong cuộc sống con người

Các giá trị tinh thần và tôn giáo trong cuộc sống con người

Nhà Triết gia Francesco Torallba Rosellò

Phỏng vấn triết gia Francesco Torralba Rosellò, người Tây Ban Nha

Ngày 17-5-2012 đại hội ”Sân của dân ngoại” đối thoại với những người không tin về đề tài ”Nghệ thuật, vẻ đẹp và sự siêu việt” đã khai diễn tại Barcelona bên Tây Ban Nha. Đại hội đã do Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa tổ chức với sự tham dự của hàng trăm nghệ sĩ và chuyên gia thuộc nhiều bộ môn khác nhau, kể cả các triết gia và chính trị gia.

Trong số các tham dự viên có triết gia Francesco Torralba Rosellò, người Tây Ban Nha, giáo sư đại học Ramon Lluli Barcelona. Giáo sư thuyết trình về đề tài ”Con đường từ vẻ đẹp tới tình yêu”. Giáo sư sinh năm 1967 tại Barcelona, theo học tại đại học Barcelona và Kopenhagen, có bằng tiến sĩ trết học và thần học. Giáo sư là tác giả của hàng chục cuốn sách được độc giả ưa thích, trong đó có các cuốn như: ”Các gương mặt của sự thinh lặng”; ”Một trăm giá trị để sống” (2001); ”Khám phá ý nghĩa thực tại” (2000); ”Giá trị và ý nghĩa hoạt động giáo dục” (2001); ”Luân lý đạo đức của việc săn sóc” (2001); ”Có thể có một thế giới mới không?” (2003); ”Đâu là phẩm giá con người?” (2004); ”Cha mẹ và con cái” (2003); ”Lá thư của một đứa con chưa có tên” (2005); ”Ý nghĩa dân trí toàn cầu giải thích cho các con tôi” (2005); ”Nghệ thuật biết lắng nghe” (2006); Loạt sách về các đề tài: Sự tha thứ, tình bạn, sự thanh thản, lòng trắc ẩn (2008); ”Hòa bình, dấn thân” (2011); ”Nhìn thẳng mặt cái chết” (2008); ”Bình tĩnh trong một thế giới không bình tĩnh” (2009); ”Sự thông minh tinh thần” (2010) Đức Giêsu Kitô” (2011); ”Tình yêu đến từ bên trong” (2011); ”Với Thiên Chúa hay là không Thiên Chúa” (2012). Hai cuốn sách mới được xuất bản tại Tây Ban Nha là ”Cái luận lý của qùa tặng” và “Cuộc sống tinh thần trong xã hội vi tính”. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị bài phỏng vấn giáo sư về đại hội này.

Hỏi: Thưa giáo sư Rosellò, tại sao Barcelona lại đươc chọn làm nơi tổ chức đại hội ”Nghệ thuật, vẻ đẹp và sự siêu việt”?

Đáp: Tôi tin rằng đây là một sự lựa chno tốt, đặc biệt bởi vì Barcelona là vùng đất của sự đối thoại, một vùng đất chung sống giữa các hình thái tinh thần tu đức khác nhau, và nhất là nó diễn tả sự đối thoại từ bao thế kỷ nay giữa những người tin và người không tin, nhất là bởi vì đối tượng của công việc làm, vẻ đẹp là một điểm gặp gỡ chung giữa những người tin và những người không tin, một tụ điểm gặp gỡ thực sự, nơi con người có thể suy tư về cái nối kết hai cộng đoàn, nhất là nó liên kết con người lại với nhau, một cách độc lập với diều họ tin.

Hỏi: Như thế, chúng ta có thể nói rằng vẻ đẹp vén mở cho thấy Thiên Chúa hay không, thưa giáo sư?

Đáp: Vẻ đẹp là viễn tượng của những người tin nơi Thiên Chúa. Đối với riêng tôi, thì tôi thấy ”vẻ đẹp của sự tự nhiên, vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của âm nhạc” đã là một biểu lộ, một mạc khải vẻ đẹp của Thiên Chúa rồi. Nhưng trong viễn tượng ”đời” của những người không tin, thì vẻ đẹp là một lời mời gọi hướng tới siêu việt, hướng tới mầu nhiệm, hướng tới suy tư. Nó như một biểu tượng khiến chúng ta nghĩ tới điều chúng ta là, đâu là ý nghĩa của cuộc sống, đâu là nền tảng cuối cùng của chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta trực tiếp đến với Thiên Chúa, nhưng tôi cũng tin rằng những người không tin trông thấy nơi vẻ đẹp một con đường dẫn đưa tới mầu nhiệm, ít nhất là mầu nhiệm về thế giới.

Hỏi: Theo giáo sư, đâu là ngôn ngữ mà ngày nay tín hữu phải dùng, nếu muốn gặp gỡ những người không tin?

Đáp: Ngôn ngữ mà tín hữu dùng phái là một thứ ngôn ngữ rõ ràng, một thứ ngôn ngữ không kỹ thuật, có thể đến với tất cả mọi người. Ngôn ngữ kỹ thuật hay ngôn ngữ bên trong giáo hội là một thứ ngôn ngữ thường không hiểu nổi đối với những người khác. Nó là một thứ ngôn ngữ có một truyền thống, một sức mạnh biểu tượng, một gia tài tích tụ trong bao thế kỷ, được làm bởi biết bao nhiêu ý niệm khác nhau, mà người ta thường không biết, người ta không biết các văn bản kinh thánh, và thực tế là người ta ”mù chữ biểu tượng”, một người mù không thể đọc hiểu được ý nghĩa của nó. Vì thế ngôn ngữ phải rất rõ ràng. Nó phải là thứ ngôn ngữ đi từ các điều nòng cốt nhất của Đức tin, nghĩa là sứ điệp thực sự phản ánh nòng cốt của kinh Tin Kính. Tôi nghĩ rằng đó là sứ điệp của Chúa Giêsu. Ngôn ngữ của Chúa Giêsu là một thứ ngôn ngữ cho tất cả mọi người. Nhất là trong việc giảng dậy của Người, Chúa Giêsu đã nói qua các dụ ngôn, các biểu tượng, bằng cách tìm tới với tất cả mọi người qua các hình ảnh, kể cả những người không được học hành, không biết đọc biết viết. Ngôn ngữ mà tín hữu dùng phải là thứ ngôn ngữ như vậy, một thứ ngôn ngữ thích hợp với con người ngày nay.

Hỏi: Thưa giáo sư, trong các cuốn sách của mình giáo sư hay chú ý tới các đề tài cuộc sống tinh thần rộng mở cho tất cả mọi ngưi như: sự thinh lặng, xã hội vi tính, qùa tặng vv… Đây là một kiểu nghiên cứu rất gần với tinh thần đối thoại với những người không tin của tổ chức ”Sân của dân ngoại”. Tại sao vây?

Đáp: Việc nghiên cứu triết học của tôi cố gắng rộng mở và có thể thấm nhập đối với mọi người. Tôi cho rằng nhiệm vụ triết gia là thăng tiến tư tưởng và suy tư về các vấn nạn của con người mà mỗi một người đều đặt ra, vượt ngoài các xác tín tinh thần của mình. Nhiệm vụ của tôi là ở ngoài biên giới là nơi sáng tạo, nơi có thể chia sẻ và đối thoại. Theo tôi mỗi người đều có một chiều kích tinh thần có thể được sắp xếp và phát triển theo nhiều cách khác nhau, tùy theo các bối cảnh và tiểu sử.

Hỏi: Thế thì có cái gì chung cho các tín hữu và các nhà nhân văn?

Đáp: Cảm giác nuối tiếc, ước mong hạnh phúc, sự cần thiết đối chiếu và nỗi sợ hãi là các kinh nghiệm hàng ngày của tất cả mọi người, khiến cho chúng ta trở thành anh em với nhau trong cuộc sống. Tôi nghĩ tôn giáo là tương quan vượt cao hơn chính mình, gắn liền con người với một thực tại khác, mà chúng ta gọi là mầu nhiệm tuyệt đối.

Hỏi: Trong cuốn sách nói về sự thinh lặng giáo sư đã trích dẫn nhà tư tưởng Ludwig Wittgenstein nhiều lần, tại sao vây?

Đáp: Wittgenstein là một tư tưởng gia tinh thần rất sâu sắc. Chỉ cần đọc các sách tiểu sử của ông hồi trước đệ nhất thế chiến và cuốn ”Khảo luận luận lý triết học” thì biết. Ông cho thấy các hẹn hẹp của ngôn ngữ khoa học, và hiểu rằng thinh lặng là thái độ tốt nhất đứng trước mầu nhiệm của thực tại. Tôi thấy thái độ thận trọng và chú ý này đối với những gì vượt cao hơn lý lẽ khoa học rất là hay. Học giả Wittgenstein thừa nhận rằng không thể là ”khoa học” về ý nghĩa cuộc sống, nhưng tới lượt nó, câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống lại nghiêm trọng và lôi cuốn xúc động nhất mà một người có thể đưa ra.

Hỏi: Như thế con người tôn giáo có thể khám phá ra ”một cái gì hơn na” nơi mt ngưi không có nó, thưa giáo sư?

Đáp: Chắc chắn rồi. Trong đối thoại tín hữu khám phá ra nhiều yếu tố rất hay. Trước hết họ nhận ra rằng các người không tin làm thành một thế giới rất khác nhau. Có những người thờ ơ, nhưng cũng có những người rời xa, có những người chủ trương vô ngộ nhưng vẫn tìm kiếm hiểu biết, nhưng cũng có những người đầy uất hận, rất hay chỉ trích tôn giáo vì các lý do tiểu sử. Trong cuộc đối thoại với những người không tin, tín hữu bị bắt buộc diễn tả điều nòng cốt và tinh tuyền nhất của lòng tin. Ngoài ra, cần phải làm điều đó một cách rất rõ ràng và khiêm tốn, với các từ vựng đời, vì đó là cách duy nhất tìm ra một môi trường được chia sẻ.

Hỏi: Thưa giáo sư Rosellò, Barcelona là một trong các vùng bị tục hóa nhất Âu châu. Làm thế nào để khiến cho Tin Mừng đáng được tin cậy trên bình diện văn hóa?

Đáp: Tôi nghĩ cần phải tìm ra các đề tài hiện sinh và lý lẽ thực tiễn, mà không quên các lý do có lý sự, để trở thành tín hữu kitô. Việc thuyết phục là điều rất quan trọng, nhưng đề tài tốt nhất là chỉ cho thấy rằng Kitô giáo là một đề nghị đối với niềm hạnh phúc của thế giới, một sự thông truyền sự sống, như triết gia Kirkegaard đã nói: một trình thuật ý nghĩa khi được tháp nhập vào con người, trở thành suối nguồn của sự an bình thanh thản, và trao ban. Tín hữu kitô đáng tin cậy, khi sống tươi vui điều mình đã kinh nghiệm, khi cho thế giới thấy cuộc gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa và với vị mà thánh Agostino goi là ”Vị Thầy nội tâm”, biến thành suối nguốn bình an cho linh hồn, và đem lại hòa bình cho thế giới.

Hỏi: ”Sự tự do đích thật nhất là lòng biết ơn”, giáo sư đã viết trong cuốn sách về ”món qùa”. Ngày nay xem ra là điều ngược lại. Đâu là các thí dụ cụ thể của sự tự do này thưa giáo sư?

Đáp: Sự tự do được tìm thấy trong việc giải phóng khỏi cái tôi, bằng cách sống dưới suối nguồn của lòng tốt, hiện diện trong nơi sâu thẳm của từng người. Nó có nghĩa là nộp mình cho tha nhân, mà không tính toán cũng không hy vọng gì cả. Sự trao ban chính mình thực là con đường của niềm hạnh phúc. Hạnh phúc không hệ tại chỗ chiếm hữu, cũng không hệ tại hoạt động tập trung vào chính mình và thực hiện các ước mong của riêng mình: đó là sự phóng đãng chứ không phải tự do. Tự do là người sống mà không có các thành kiến, và mẫu sẵn, không bị thúc đẩy bởi tính toán lợi lộc, nhưng bởi sự trao ban, trao ban lớn hơn là tình yêu thương chia sẻ. Chúa Giêsu là mẫu mực sự tự do của con người tôi, nhưng cả thánh Phanxicô thành Assisi, thánh Massimiliano Kolbe và thánh Edith Stein nữa là những người đã sống theo viễn tượng trao ban tận hiến nhưng không này.

(Avvenire 15-5-2012; RG 16-5-2012)

Linh Tiến Khải

Lời cầu nguyện kết hiệp tín hữu với Thiên Chúa, giúp thắng vượt mọi sợ hãi nô lệ và rộng mở cho mọi thụ tạo

Lời cầu nguyện kết hiệp tín hữu với Thiên Chúa, giúp thắng vượt mọi sợ hãi nô lệ và rộng mở cho mọi thụ tạo

Lời cầu nguyện được Chúa Thánh Thần linh hứng giúp tín hữu sống sự tự do là con cái Thiên Chúa, thắng vượt mọi sợ hãi nô lệ, sống kết hiệp sâu xa với Chúa và rộng mở cho mọi thụ tạo.

 (Xem tiếp . . .Lời cầu nguyện kết hiệp tín hữu với Thiên Chúa, giúp thắng vượt mọi sợ hãi và rộng mở cho đường thụ tạo )

ĐỨC CHA ANTÔN NGUYỄN VĂN THIỆN TỪ TRẦN TẠI PARIS-PHÁP QUỐC

ĐỨC CHA ANTÔN NGUYỄN VĂN THIỆN TỪ TRẦN

ĐỨC CHA ANTÔN NGUYỄN VĂN THIỆN

ĐÃ ĐƯỢC GỌI VỀ NHÀ CHA
Lúc 10g (giờ Paris) tức 15g giờ Việt Nam, Chúa Nhật, ngày 13 tháng 05 năm 2012.
Hưởng thọ 106 tuổi, với 80 năm Linh mục và 51 năm Giám mục.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho Linh hồn Đức Cha Antôn.

R.I.P

Tiểu Sử Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện
"Thực Hành và Chân Lý" (1Gioan 3, 18-19)

– Sinh ngày 13.03.1906 tại họ đạo Ba Trinh, Cái Côn, Sóc Trăng.

– Thụ phong linh mục ngày 20.02.1932 tại Nam Vang.

– 1932 Giáo Sư nhà giảng Banam, Cam Bốt.

– 1936 Phó xứ Họ Ðạo Hoa Lang.

– 1941 Cha Sở Họ Ðạo Cù Lao Tây.

– 1954 Sáng lập tờ báo Thực Hành làm cơ quan liên lạc trong địa phận.

– 1955 Cha Sở Họ Ðạo Năng Gù, Long Xuyên.

– 1955 Cha Sở nhà thờ Chính Tòa Cần Thơ.

– 1956 Cha chính địa phận Cần Thơ, lập một nhà in tại Cần Thơ để in ấn sách đạo.

– 24.11.1960 Ðược bổ nhiệm làm giám mục Giáo Phận Vĩnh Long.

– 22.01.1961 Thụ phong giám mục trước Vương Cung Thánh Ðường Sàigòn với khẩu hiệu "Thực Hành và Chân Lý".

– 03.04.1961 Chính thức nhận Giáo Phận Vĩnh Long.
– 12.07.1968  Đức Cha Antôn được chấp thuận từ nhiệm vì lý do sức khỏe, trở thành Giám Mục Hiệu Tòa Spello, sau đó đi chữa bệnh mắt tại Pháp và Nhật nhưng không khỏi. Năm 1975 không thể trở về quê hương, Ngài nghỉ hưu tại Nice/Pháp.

 

———————————————————————-
Đức Cha Antôn Thiện là giám mục thứ 19 trong các vị giám mục Việt Nam, chịu chức cùng ngày 22.01.1961 với các Đức Cha sau đây:

* Micae Nguyễn Khắc Ngữ (1909 – 2009).

* Giuse Trần Văn Thiện (1908 – 1989).

* Philipphê Nguyễn Kim Điền (1921 – 1988).

Bốn vị nói trên đã chịu chức trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, khi Giáo Hội Việt Nam bước vào một giai đoạn lịch sử quan trọng.
 

Sau 400 năm Tin Mừng được rao giảng ở Việt Nam (từ năm 1533), Giáo Hội Việt Nam mới có vị giám mục bản xứ đầu tiên là Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng vào năm 1933. Tuy nhiên 27 năm sau, khi Giáo Hội Việt Nam có những dấu hiệu trưởng thành dưới sự dìu dắt của các vị giám mục bản xứ, Tòa Thánh dưới thời Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chính thức thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam vào ngày 24.11.1960, nâng các giáo phận tông tòa trên toàn lãnh thổ Việt Nam lên hàng giáo phận chính tòa, trực thuộc ba giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn với ba vị tổng giám mục. Cùng ngày này Tòa Thánh quyết định thiết lập thêm 3 giáo phận mới trong giáo tỉnh Sài Gòn: Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên.

Có những địa phận mới và vì sự thuyên chuyển của một số giám mục trong giai đoạn nầy, Tòa Thánh đã bổ nhiệm 4 vị giám mục:

– ĐGM Nguyễn Văn Thiện, giám mục thứ hai của giáo phận Vĩnh Long (thay thế ĐGM Ngô Đình Thục được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Huế).
 

– ĐGM Nguyễn Khắc Ngữ, giám mục đầu tiên của giáo phận Long Xuyên.
 

– ĐGM Trần Văn Thiện, giám mục tiên khởi của giáo phận Mỹ Tho.
 

– ĐGM Nguyễn Kim Điền, giám mục thứ hai của giáo phận Cần Thơ (thay thế ĐGM Nguyễn Văn Bình được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Sài Gòn).
 

Tên của 4 vị được ghi trong văn kiện lịch sử là sắc chỉ "Venerabilium Nostrorum" thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, được ký vào ngày 24.11.1960.
 

Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện là giám mục thứ hai của Giáo Phận Vĩnh Long kể từ khi Giáo Phận này được thiết lập vào năm 1938. Tuy nhiên, trên một phương diện khác, ngài là giám mục chính tòa tiên khởi của Vĩnh Long, được nâng lên hàng giáo phận chính tòa theo sắc chỉ nói trên.

Hơn 7 năm chăm sóc Giáo Phận Vĩnh Long (24.11.1960-18.09.1968), Ngài nhận thấy cánh đồng bao la, thợ gặt ít, nên Ngài đã khởi xướng và thành lập trung tâm Tu Hội Truyền Giáo: một cho Nam Giới (giao cho Cha Raphae Nguyễn Văn Diệp), một cho Nữ Giới (Cha Phaolô Ngợi đảm trách). Năm 1961, Đức Cha lập Trung Tâm Truyền Giáo tại Ngã Ba Cần Thơ (cơ sở II Tiểu Chủng Viện) để huấn luyện những người có năng lực đi giúp việc truyền giáo: dạy giáo lý, đi thăm viếng…

Với tâm hồn tông đồ nhiệt thành, Đức Cha Antôn đã tổ chức tại Trung Tâm Truyền Giáo hơn 30 khóa huấn luyện Quới Chức và các Hội Đoàn, đào tạo nên những tông đồ giáo dân cho Họ Đạo và cho xã hội. Năm 1961 và 1962 mỗi tuần đều có mở khóa, đến 1963 ban huấn luyện đi mở khóa trong các Họ Đạo.

Năm 1964 Trung Tâm nầy được sửa chữa để làm Đại Chủng Viện cho 3 giáo phận trong vùng (Cần Thơ, Vĩnh Long và Mỹ Tho) và Trung tâm Truyền Giáo được di dời về Cầu Vồng. Năm 1964 Đại Chủng Viện Xuân Bích Vĩnh Long khai giảng khoá đầu tiên dưới sự hướng dẫn và đào tạo của các Linh mục Tu Hội Xuân Bích.

Từ cuối năm 1964 Đức Cha Antôn đã cho xây cất Nhà Thờ Chính Tòa với một phần vật liệu do Đức Cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục để lại, ở Ngã Ba Cần Thơ, theo mô hình của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ phỏng theo mẫu con tàu to lớn của ông Noe trong sách Cựu ước.

Năm 1965, Đức Cha Antôn quyết định sử dụng nhà thờ Chính Toà mới, tuy chưa hoàn thành, tổ chức lễ tấn phong Giám Mục cho Đức Cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, Giám Mục Cần Thơ.

Năm 1965, do lòng yêu mến Đức Mẹ sâu xa nồng nhiệt, Đức Cha Antôn cho thành lập trung tâm hành hương Fatima, thu hút giáo hữu gần xa hành hương để thêm lòng yêu mến và tôn kính Đức Mẹ.

Ngài có ý định hợp nhất Hội Dòng Mến Thánh Giá thành một thay vì hai Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum và Cái Mơn, nên Ngài cho xây dựng một nhà đệ tử chung. Năm 1970 nhà nầy thành hình và được giao cho Cha Giacôbê Trần Văn Quyển phụ trách.

Nếu không có trở ngại vì tình thế, nếu có đủ phương tiện vật chất, chắc chắn công trình của Đức Cha Antôn đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho Giáo Phận.

– 1968 Ðức Cha Antôn bị đau mắt vì khói lửa và hơi độc, do đau buồn vì những hư hại của Giáo Phận do trận tổng công kích Tết Mậu Thân gây ra.

Mắt càng ngày càng mờ, Đức Cha Antôn đi chữa trị ở nhiều nơi, các bác sĩ chuyên khoa địa phương và chuyên khoa Ngoại Quốc đều bó tay.

– 12.07.1968 Đức Cha Antôn đệ đơn xin từ nhiệm vì lý do sức khỏe, trở thành Giám Mục Hiệu Tòa Spello, sau đó đi chữa bệnh mắt tại Pháp và Nhật nhưng không khỏi. Ở Nhật ngài mang thêm bệnh sạn trong túi mật phải giải phẫu. Ngài được tin Tòa Thánh chấp nhận cho từ chức. Ngài bay về Vĩnh Long để tham dự những lễ quan trọng: Ngày 12.09.1968, Ngài phụ phong trong lễ Tấn Phong Tân Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long, Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu tại Vương Cung Thánh Đường Sàigòn. Ngài dự lễ tri ân do các Linh Mục trong Giáo Phận Vĩnh Long tổ chức ngày 18.09.1968, và hai ngày sau đó, ngài về hưu ở nhà hưu dưỡng Giáo Phận Cần Thơ.

Ngài vẫn còn hy vọng và tiếp tục đi chữa bệnh mắt. Năm 1975 không thể trở về quê hương, Ngài nghỉ hưu tại Nice/Pháp.
 

– 1986 Ðức Cha tham dự Ðại Hội Công Giáo Việt Nam tại Königstein/ Ðức.

– 19.06.1988 Ðức Cha Antôn là Vị Giám Mục Việt Nam duy nhất tham dự và đồng tế cùng với Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thánh lễ tôn phong 117 Vị Thánh Tử Ðạo Việt Nam tại Rôma.
 

Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện để lại cho Giáo Phận Vĩnh Long một giáo phận với đầy đủ các cơ sở cần thiết và trên đà phát triển. Ngài để lại nhiều kỷ niệm tinh thần và vật chất cho thế hệ đã qua và để lại âm hưởng đức tin cho thế hệ sắp đến. Để nhớ đến vị cựu chủ chăn của giáo phận, năm 2006 giáo phận Vĩnh Long đã tổ chức lễ Tạ Ơn Sinh Nhật thứ 100 của Ðức Cha và luôn luôn cầu nguyện cho Ngài.

Huy hiệu giám mục của Ðức Cha Antôn có hình cây dừa và hai cụm mây xanh. Ngài nói:"Cây dừa tượng trưng cho sự kiên nhẫn và bền bĩ, cây dừa phải trồng lâu năm mới sinh hoa trái, thời gian sống của cây dừa bền lâu hơn nhiều cây khác."
 

Hiện nay Ðức Cha Antôn là Giám Mục cao niên nhất thế giới và là Vị Giám Mục Việt Nam đầu tiên được hồng ân tạ ơn 50 năm giám mục. Ngài luôn theo dõi tình hình Giáo Hội Hoàn Vũ và nhất là Giáo Hội Việt Nam, mỗi ngày với chuỗi mân côi Ngài cầu nguyện cho Giáo Hội và đặc biệt cho giáo phận Vĩnh Long. Tuổi thượng thọ nhưng Ðức Cha còn nhớ rất nhiều về lịch sử của Giáo Hội. Ngài là một chứng nhân của lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
 

Ngày 22 tháng 01 năm 2011 Đức Cha Antôn tạ ơn Thiên Chúa ân dịp kỷ niệm 50 năm thụ phong giám mục.

Đức Cha Antôn sống cuộc đời giản dị và luôn phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Lòng tôn kính Đức Mẹ qua chuỗi Mân Côi hằng ngày, Đức Cha Antôn đã được Mẹ Maria dẫn đưa an nghỉ trong Chúa vào ngày Chúa Nhật,13.05.2012, tại nhà hưu dưỡng ở Mougins/Pháp. Phúc thọ 106 tuổi.

Nguồn: Giáo phận Vĩnh Long & Conggiao.info

LỊCH SỬ NGÀY HIỀN MẪU (MOTHER’S DAY)

LỊCH SỬ NGÀY HIỀN MẪU (MOTHER'S DAY)

Khởi sự từ đầu thế kỷ 17 Anh Quốc đã tổ chức kỷ niệm một ngày lễ gọi là ngày Chúa Nhật của Mẹ (Mothering Sunday), được cử hành vào ngày Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay để vinh danh các bà Mẹ của Anh Quốc.

Trong ngày lễ này những người nghèo phục dịch cho các gia đình giầu có ở Anh được phép nghỉ một ngày và được khuyến khích mang theo cái bánh gọi là bánh của Mẹ (Mothering cake) về viếng thăm và mừng Mẹ. Vì những ngày đi làm họ phải ở lại tại nhà của chủ. Ngày lễ này đã huy bỏ từ thế kỷ 19. 

Tại Hoa Kỳ lần đầu tiên bà Julia Ward Howe đã đề nghị Ngày Hiền Mẫu như một ngày hiến dâng cho hòa bình. Bà Howe đã cử hành Ngày Hiền Mẫu họp tại thành phố Boston, Mass từ năm năm 1872. Bà là tác giả bài thơ trứ danh “The Battle Hymn of the Republic”. 

Năm 1905, Chi Anna Jarvis đã tuyên thệ trước mồ của Mẹ chị hiến dâng đời chị cho chương trình của Mẹ chị quyết vận động thiết lập Ngày Hiền Mẫu để vinh danh các bà Mẹ còn sống cũng như đã qua đời (có lời đồn rằng chi Anna rất đau buồn vì chị đã cãi vã với Mẹ chị nhưng chị chưa kịp xin lỗi thì Mẹ chị đã qua đời). Mẹ chị, là người chịu ảnh hưởng tinh thần của bà Howe, bà đã đề xướng chương trình cải thiện điều kiện vệ sinh gọi là Ngày Làm Việc của các Bà Mẹ (Mothers’ Work Days).  

Tại Tiểu Bang Philadelphia chị Anna Jarvis đã và vận động dành một ngày mỗi năm để vinh danh các người mẹ. Năm 1907, vào ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng 5 chị đã xin giáo xứ của mẹ chị  ở Graton, West Virginia (nơi Mẹ Chị đã dạy giáo lý cho các trẻ em các ngày Chúa Nhật trước khi di chuyển đến Philadelphia) cử hành lễ kỷ niệm giỗ thứ nhì của Mẹ chị một cách long trọng. Chị đã phân phát 500 bông hoa cẩm chướng màu trắng cho các bà mẹ tham dự tại buổi lễ hôm đó. Ngay năm sau đó Tiểu Bang Philadelphia đã chấp nhận tổ chức ngày Lễ Mẹ. 

Tiếp tục chị Jarvis và những người ủng hộ ý kiến của chị đã viết thư gửi các tu sĩ, thương gia và các chính trị gia để xin vận động thiết lập ngày lễ của mẹ trên toàn quốc. Sự vận động này đã lan rộng qua 45 Tiểu Bang. Đến năm 1911 hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ đã tổ chức mừng ngày Lễ Mẹ. Đến ngày 10 tháng 5 năm 1913 Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua đề nghị dùng ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Ngày 09/5/1914, Tổng Thống Woodrow Wilson đã chính thức công bố ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng 5 là ngày Hiền Mẫu cho toàn quốc Hoa Kỳ. 

Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới kỷ niệm cùng ngày như Đan Mạch, Phần lan, Ý Đại Lợi, Uc và Bỉ. Vào cuối đời của chị Anna đã có trên 40 quốc gia cử hành ngày Hiền Mẫu. Trong ngày Hiền Mẫu, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ, ngày nay người ta thường dùng bông hồng trắng và bông hồng đỏ thay thế cho cẩm chướng.

Ở Tây Ban Nha người ta cử hành ngày Hiền Mẫu trùng vào ngày lễ Đức Maria Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Chúa Giêsu là ngày 8 tháng 12 hàng năm.

Ở Pháp người ta cử hành ngày Lễ của Mẹ vào Chúa Nhật chót của tháng Năm.
 

Hoài Việt

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các nhà truyền giáo gia tăng lòng tín thác và quan hệ bản thân với Chúa Kitô trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 11-5-2012, dành cho 170 tham dự viên khóa họp thường niên của Hội đồng cấp cao các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, từ 7 đến 12-5, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo. Trong số hàng trăm vị Giám đốc Toàn Quốc các Hội Giáo Hoàng truyền giáo, cũng có 1 vị người Việt là Cha Ngô Quang Tuyên.

Trong bài huấn dụ, ĐTC khẳng định rằng ”Rong ruổi trên các nẻo đường của thế giới để công bố Tin Mừng cho mọi dân tộc trên trái đất và hướng dẫn họ đến gặp gỡ với Chúa, đòi người loan báo Tin Mừng phải có một quan hệ bản thân và thường nhật với Chúa Kitô, biết Chúa và yêu mến Chúa tận tình”.

ĐTC nói tiếp ”Công cuộc truyền giáo ngày nay đang cần canh tân lòng tín thác nơi hoạt động của Thiên Chúa, cần có một kinh nguyện nồng nhiệt hơn để Nước Chúa được hiện trị, để thánh ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Cần kêu cầu ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Linh, và quyết liệt dấn thân quảng đại để mở ra một thời kỳ mới trong việc loan báo Tin Mừng.. Vì sau 2 ngàn năm, phần lớn gia đình nhân loại vẫn chưa biết Chúa Kitô, và vì tình trạng của Giáo hội và thế giới đang gặp những thách đố đặc biệt về niềm tin” (GP II, Giáo hội tại Á châu, 29).

ĐTC cám ơn Bộ truyền giáo và các Hội Giáo Hoàng truyềngiáo hỗ trợ Năm Đức Tin, với chiến dịch trên toàn thể giới, tháp tùng công cuộc truyền giáo và tái truyền giảng, đào sâu đức tin, bằng những chiến dịch Kinh Mân Côi. Ngài cũng kêu gọi những người rao giảng Tin Mừng đừng nản chí trước bao vấn đề, và cả những bách hại. Sau cùng ngài khuyến khích các Hội Giáo Hoàng truyền giáo tiếp tục linh hoạt và hỗ trợ công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.

Trong lời chào thăm mở đầu bài huấn dụ, ĐTC đặc biệt nhắc nhớ Cha Massimo Cenci, 68 tuổi, thuộc hội thừa sai Pime, Phó Tổng thư ký Bộ truyền giáo, qua đời đột ngột trong đêm 10 rạng ngày 11-5-2012 trong căn hộ của ngài ở trụ sở Bộ truyền giáo.

Cha Cenci từng làm thừa sai nhiều năm ở Mỹ châu la tinh trước khi trở về Vatican, cộng tác với ĐHY Tổng trưởng Crescenzio Sepe từ năm 2001 trong nhiệm vụ Phó Tổng thư ký của Bộ. (SD 11-5-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Ở LẠI TRONG CHÚA

Ở LẠI TRONG CHÚA

Tin Mừng Chúa Nhật thứ năm mùa Phục sinh mở ra cho chúng ta hình ảnh vườn nho. "Chúa Giê-su nói với các môn đệ:'Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho'" (Ga 15,1). Trong Kinh Thánh, rất nhiều lần dân It-ra-en được so sánh với vườn nho sai trái khi trung tín với Thiên Chúa; nhưng một khi họ xa Chúa, sẽ trở thành khô héo, không còn khả năng làm ra "loại rượu làm phấn khởi lòng người", như chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh 105, câu 15.

  (Xem tiếp . . . Ở lại trong Chúa)

AO ƯỚC RƯỚC ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀO LÒNG

AO ƯỚC RƯỚC ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀO LÒNG

Câu chuyện giữa bà mẹ Công Giáo tên Hélène và cô con gái cưng Constance 7 tuổi. Gia đình sống tại giáo phận Laval ở miền Tây Bắc nước Pháp.

(Xem tiếp . . .  AO ƯỚC RƯỚC ĐỨC CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ VÀO LÒNG)

Gặp gỡ Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể

Gặp gỡ Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể

04-22-2012

Hôm qua, như thường lệ, tại quảng trường thánh Phê-rô ở Roma tín hữu và khách hành hương quy tụ về để cùng hiệp thông với Đức Thánh Cha trong kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng. Trong bài huấn dụ ngắn, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến biến cố Chúa Giê-su hiện ra với các tông đồ và Người vẫn hiện diện sống động giữa chúng ta trong thánh lễ.

 (Xem tiếp . . .   Gặp gỡ Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể)

Lời Chúa không giới hạn vào chữ viết

Lời Chúa không giới hạn vào chữ viết

Ngày 20 tháng Tư 2012, Ủy ban giáo hoàng về Kinh Thánh đã kết thúc Đại hội thường niên diễn ra từ ngày 16 với chủ đề: “Linh hứng và Chân lý trong Kinh Thánh”. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã gửi một sứ điệp cho Đức hồng y William Joseph Levada, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin và là Chủ tịch Ủy ban.

(Xem tiếp . . . Lời Chúa không giới hạn vào chữ viết )

Bị bách hại nhưng vẫn luôn cầu nguyện, sống hiệp nhất và can đảm loan báo Lời Chúa

Bị bách hại nhưng vẫn luôn cầu nguyện, sống hiệp nhất và can đảm loan báo Lời Chúa

 

Điều Giáo Hội xin trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa không phải là lời xin được bảo vệ, được tha khỏi bị thử thách, khổ đau. Nó không phải là lời cầu được thành công, mà chỉ là lời cầu xin có thể loan báo Lời Chúa với lòng thẳng thắn, với sự tự do và với lòng can đảm (x. Cv 4,29).

 

              (Xem tiếp . . .  Bị bách hại nhưng vẫn luôn cầu nguyện,)

Tát Nước Đầu Đình

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Áo anh sứt chỉ đã lâu

Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng

Khâu rồi anh sẽ trả công

Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho,

Giúp cho một thúng xôi vò

Một con lợn béo, một vò rươu tăm

Giúp em đôi chiếu em nằm

Đôi chăn em đắp, đôi trầm em đeo.

Giúp em quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau.

[Xem tiếp Tát Nước Đầu Đình]

Trao Đổi Kinh Nghiệm Giảng Dạy Lớp Đặc Biệt

Sau một thời gian dài vắng bóng, năm nay trường Việt Ngữ Phan Bội Châu mở lại Lớp Đặc Biệt dành cho các học sinh đã vào tuổi thiếu nhi hoặc lớn tuổi nhưng chưa học qua các lớp căn bản từ khi còn bé.  Lớp cũng được dành cho các em cảm thấy mất căn bản từ lớp dưới hoặc mong muốn được theo sát hơn của thầy cô.  Lớp Đặc Biệc được giảng dạy theo hình thức dạy kèm, tức là dạy theo trình độ của từng em.  Tuỳ theo các em tiếp thu nhanh hay chậm mà thầy cô giảng dạy sẽ nhiều hay ít.  Cho tới nay, phương pháp này mang nhiều kết quả khả quan.  Các em cảm thấy thầy cô chăm sóc tận tình hơn nên cũng ham học hỏi và theo dõi bài vở hơn.  Cám ơn Thầy Hoàng đã tận tâm chăm sóc các các em nhưng không quản ngại những khó khăn cũng như vất vả.

[Xem bài đính kèm Chia xẻ kinh nghiệm sinh hoạt lớp VNPBC]

[Xem Video Library]

Tả Quyển Sách

 

Lê Thị Hoàn Thanh

13 Tuổi – Trường Về Nguồn

T Quyn Sách

               Vào ngày 16 tháng 1, năm 2011, em vào lớp 3A và gặp thầy Nam. Thầy Nam phát sách cho mỗi người. Mình cần cuốn sách để học bài.

               Tên của sách là: Trường Việt Ngữ Về Nguồn. Sách màu vàng và bìa vở có một ông lão đang dạy học sinh. Chiều dài của sách là 14 inches và chiều rộng là 8 inches rưỡi. Hình dáng sách là hình chữ nhật và có 64 trang.

                Khi em mở sách ra, trang đầu tiên em thấy là lời tựa. Sau khi em nhìn lời tựa, em lật trang và thấy nội quy. Mấy trang sau nội quy và ráp vần ( cách đọc dấu ), tập đọc, văn phạm, lịch sử, và sau cùng là địa lý.

                Em dùng sách để học và làm bài. Sau khi em đọc bài xong, em đọc ngữ vựng và trả lời câu hỏi. Sau tập đọc, sách gồm 3 phần: Văn Phạm, Lịch Sử và Địa Lý.Văn phạm là việc nghiên cứu cách thức các câu cửa một ngôn ngữ được xây dựng. Lịch sử là các chi nhánh của kiến thức đối phó với các sự kiện trong quá khứ. Lịch sử nói về sự tích của nước Việt, nguồn gốc của Việt Nam. Sau cùng là Địa Lý. Địa Lý là khoa học nghiên cứu sự khác biệt chứa trên bề mặt trái đất, như thể hiện trong việc sắp cếp, nhân vật, và quan hệ đối ứng trên thế giới. Địa Lý nói về hình thể và bờ biển.

                

                Em nghĩ rằng cuốn sách này rất hữa ích. Em thích cuốn sách này vì nó giúp em tìm hiểu thêm về Việt Nam và làm thế nào nhà nước của chúng ta gọi là Việt Nam.