Kẻ dữ gieo vãi chiến tranh; Thiên Chúa tạo dựng hòa bình

Kẻ dữ gieo vãi chiến tranh; Thiên Chúa tạo dựng hòa bình

Kẻ dữ gieo vãi chiến tranh; Thiên Chúa tạo dựng hòa bình. Kẻ dữ luôn tìm phá hỏng công trình của Thiên Chúa, bằng cách gieo vãi chia rẽ trong trái tim con người, giữa thân xác và linh hồn, giữa con người và Thiên Chúa, trong các tương quan liên bản vị, xã hội, quốc tế và cả giữa con người và thụ tạo. Nhưng Thiên Chúa muốn trao ban cho con người sự sống tràn đầy và hạnh phúc.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin tại sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo với 2.000 tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22-7-2012. Trong số các nhóm hành hương cũng có một vài tín hữu đến từ Thụy Sỹ và Việt Nam.

Trong hài buấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn đề tài Thiên Chúa là Mục Tử của nhân loại. Ngài giải thích ý nghĩa hình ảnh này như sau:

Điều này có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho chúng ta sự sống, Người muốn hướng dẫn chúng ta tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được dưỡng nuôi vàn nghỉ ngơi. Thiên Chúa không muốn chúng ta bị hư mất và chết đi, nhưng muốn chúng ta đạt mục đích của con đường đời là sự sống tràn đầy. Đó là điều mà mọi cha mẹ đều muốn cho con cái mình: thiện ích, hạnh phúc và thành đạt. Trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu tự giới thiệu như Mục Tử của đoàn chiên lạc nhà Israel. Cái nhìn của Người trên đám đông là một cái nhìn có thể nói là ”mục tử”. Chẳng hạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay nói rằng: ”khi xuống thuyền Chúa Giêsu trông thấy một đám đông dân chúng, Người cảm thương họ, bởi vì họ như chiên không có chủ chăn, và Người bắt đầu dậy đỗ họ rất nhiều điều” (Mc 6,34). Chúa Giêsu nhập thể Thiên Chúa Mục Tử với kiểu giảng dậy của Người và với các việc Người làm, bằng cách chữa lành các ngươi đau yếu và tội lỗi, săn sóc những người đã bị hư mất” (x. Lc 19,10, để đem họ tới chỗ an ninh trong tình xót thương của Thiên Chúa Cha.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong số các chiên lạc mà Chúa Giêsu đã cứu vớt cũng có một phụ nữ tên là Maria, gốc làng Madgala, trên bờ hồ Galilea, và gọi là Maria Madalena. Hôm nay là lễ nhớ bà trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Thánh sử Luca nói rằng Chúa Giêsu đã đuổi bẩy qủy dữ ra khỏi bà (x. Lc 8,2), nghĩa là Người cứu bà khỏi sự nô lệ hoàn toàn của kẻ dữ. Đức Thánh Cha giải thích sự chữa lành hoàn toàn ấy qua công trình của Chúa Giêsu như sau:

Sự chữa lành ấy hệ tại nơi một sự bình an đích thực, hoàn toàn, hoa trái của sự hòa giải con người trong chính mình, và trong tất cả mọi tương quan của nó: với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới. Thật vậy, kẻ dữ luôn tìm phá hỏng công trình của Thiên Chúa, bằng cách gieo vãi chia rẽ trong trái tim con người, giữa thân xác và linh hồn, giữa con người và Thiên Chúa, trong các tương quan liên bản vị, xã hội, quốc tế và cả giữa con người và thụ tạo. Kẻ dữ gieo rắc chiến tranh; Thiên chúa tạo dựng hòa bình. Còn hơn thế nữa, như thánh Phaolô khẳng định, Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, Đấng đã liên kết hai dân tộc thành một, bằng cách phá đổ bức tường ngăn cách chia rẽ họ, nghĩa là sự thù ghét, nhờ thân xác của Người” (Ep 2,14). Để chu toàn công trình hòa giải triệt để ấy, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, đã phải trở thành Chiên Con, ”Chiên Con Thiên Chúa… Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1,29). Chỉ như thế Người đã có thể thực hiện lời hứa tuyệt diệu của Thánh Vịnh: ”Vâng, lòng lành và sự trung thành cụa Chúa sẽ đồng hành với con, mọi ngày trong suốt cuộc đời, con sẽ ở trong nhà Chúa, những ngày tháng những năm dài triền miện” (Tv 23, 6).

Các bạn thân mến, các lời này khiến cho con tim của chúng ta rung động, bởi vì chúng diễn tả ước mong sâu thẳm nhất của chúng ta, chúng nói lên những gì được làm nên cho chúng ta: đó là sự sống, sự sống vĩnh cửu! Chúng là các lời của người, như bà Maria Madalena, đã sống kinh nghiệm về Thiên Chúa trong cuộc đời mình và hiểu biết niềm an bình của Chúa. Đó là các lời đích thật hơn bao giờ hết trên miệng lưỡi của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã luôn luôn sống trong các đồng cỏ Trời Cao, nơi Chiên Con Muc Tử đã chăn dắt Người. Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô, hòa bình của chúng ta, cầu cho chúng ta!

Tiếp đến Đức Thánh đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã nhắc tới Thế Vận Hội Quốc Tế lần thứ 30 sắp khai diễn vào ngày 27 tháng 7 này tại thủ độ Luân Đôn bên Anh quốc và nói: Thế Vận Hội Quốc Tế là biến cố thể thao lớn nhất thế giới, trong đó có các lực sĩ điền kinh của rất nhiều quốc gia tham dự, và như thế nó cũng mang một giá trị biểu tượng mạnh mẽ. Vì thế Giáo Hội công giáo nhìn nó với cảm tình và sự chú ý. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho các cuộc tranh giải tại Luân Đôn là một kinh nghiệm thực sự của tình huynh đệ giữa các dân tộc trên trái đất theo ý muốn của Thiên Chúa.

Chào tín hữu bằng tiếng Anh Đức Thánh Cha nói: Tôi rất xúc động vì bạo lực vô nghĩa xảy ra tại Aurora bên Denver, Hoa Kỳ; và đau buồn vì sự mất mát nhân mạng trong tai ương đắm phà mới xảy ra gần Zanzibar bên Tanzania. Tôi xin chia sẻ nỗi buồn thương của các gia đình và bạn bè của các nạn nhân và những người bị thương, đặc biệt là các trẻ em. Tôi bảo đảm gần gũi với anh chị em trong lời cầu nguyện, và ban phép lành cho anh chị em như bảo chứng sự ủi an và sức mạnh trong Chúa phục sinh.

Chào các tín hữu nói tiếng Pháp Đức Thánh Cha nói: Trong cuộc sống thường giao động và qúa nhanh chóng này, chúng ta hãy theo Chúa Giêsu là Đấng mời gọi chúng ta theo Người đi vào trong sự tĩnh lặng. Trong mùa hè chúng ta hãy chấp nhận theo Người vì Người canh giữ chúng ta như canh giữ các chiên không người chăn. Với sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Maria, anh chị em hãy đến gặp gỡ Con Mẹ, Người là Đấng duy nhất có thể tái trao ban cho chúng ta các sức mạnh cần thiết cho cuộc sống thường ngày.

Linh Tiến Khải

CHÚA GIÊSU CHĂM SÓC CHỦ CHĂN LẪN ĐOÀN CHIÊN

 CHÚA GIÊSU CHĂM SÓC CHỦ CHĂN LẪN ĐOÀN CHIÊN

Câu đầu của đoạn Phúc Âm ngắn ngủi hôm nay thuật lại cho chúng ta việc các Tông Đồ từ các miền truyền giáo trở về và thuật lại cho Chúa Giêsu kết quả những gì các vị đã đạt được: "Các Tông Đồ tựu họp chung quanh Chúa Giêsu và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy " (Mc 6, 30). Thuật lại sự việc vừa kể, Thánh Marco có ý đặt  liên hệ đoạn Phúc Âm hôm nay với những gì chúng ta đã đọc hôm Chúa Nhật vừa qua, trong cùng chương 6. Hôm đó Thánh Marco cho chúng ta biết là Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai, ban cho các ông quyền trừ quỷ và sai đi thành nhóm từng hai nguời một  (Mc 6, 7).
 
Sau phần khởi đầu làm bối cảnh diễn tả các Tông Đồ trở về sau những ngày đi truyền giáo, Thánh Marco thuật lại biến cố xảy ra trong đoạn Phúc Âm hôm nay và được chia làm hai phần:
 
– phần đầu, câu 31-32, phần đặc biệt lưu ý đến Chúa Giêsu và các Tông Đồ: "Người bảo các ông: chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thời giờ mà ăn nữa" (Mc 6, 31-32).
– phần thứ hai, phần lưu ý đặt trọng tâm đến Chúa Giêsu và đoàn lủ dân chúng: "Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy họ nhiều điều" (Mc 6, 36).
 
Đọc câu dẫn nhập, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đặc biệt chú ý đến danh từ " Tông Đồ " (Hy Lạp, apóstolos, có nghĩa là " được sai đi " ), đây là lần duy nhứt trong cả Phúc Âm Thánh Marco, danh từ " Tông Đồ, được sai đi ", được dùng để nói về các môn đệ mà Thánh Marco thường đề cập đến: "Các Tông Đồ tựu hợp chung quanh Chúa Giêsu,…". Dùng từ ngữ "các Tông Đồ" ("những người được sai đi rao giảng Phúc Âm", chắc chắn Thánh Marco có ý nhắc lại biến cố được đề cập đến Chúa Nhật vừa qua, lúc Chúa Giêsu " gọi Nhóm Mười Hai và sai đi ": "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu "sai đi " từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ qủy" (Mc 6, 7).
 
Đặt trọng tâm vào phận vụ " được sai đi " ( Tông Đồ) vừa kể, Thánh Marco lưu ý chúng ta đọc Phúc Âm Ngài, để tâm đến phận vụ, quyền năng của các Tông Đồ hơn là đến địa vị môn đệ, những kẻ đi theo Chúa, thường được Phúc Âm đề cập đến. Và vì các Tông Đồ, những người được sai đi để rao giảng Phúc Âm, thi hành động tác của các Vị nhứt là sau khi Chúa Phục Sinh và Thăng Thiên, thi hành phận vụ truyền giáo của các Vị, nói lên đặc tính sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời, dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…" (Mt 28, 20).
 
Nhấn mạnh đến sứ mạng "được sai đi " của các Tông Đồ còn được thể hiện rõ hơn nữa, vì Chúa Giêsu không những bắt đầu" sai đi từng hai người một " , mà con trang bị cho các Vị  " quyền giảng dạy quyền trừ qủy " (Mc 6, 7. 12). Và rồi vì danh từ " Tông Đồ " là danh từ quen thuộc, thường được dùng trong các Cộng Đồng Giáo Hội tiên khởi, để diễn tả động tác của Giáo Hội,  như vậy việc dùng danh từ vừa kể trong Phúc Âm, Thánh Marco có ý nói lên cho chúng ta động tác của các Tông Đồ, của Giáo Hội cũng chính là động tác truyền giáo của Chúa Giêsu.
 
Các Tông Đồ, Giáo Hội được Chúa Giêsu " sai đi " rao giảng Phúc Âm, chiến thắng ác qủy xấu xa, thù địch và hảm hại con người, để giải thoát con người bằng chính quyền năng của Chúa Giêsu, " ban cho các ông quyền trừ qủy". Quyền năng rao giảng Tin Mừng và trừ diệt qủy dữ đó cho thấy kết quả, dân chúng nhận ra và đi theo các Tông Đồ: "Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng còn thời giờ mà ăn nữa" (Mc 6, 31), điều mà trước đó chỉ xảy ra đối với Chúa Giêsu: "Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được" (Mc 3, 20).
 
Kể lại cùng một kết quả, "dân chúng kẻ lui người tới quá đông" đối với các môn đệ, cũng như đối với Chúa Giêsu trước đó, Thánh Marco có ý nói cho chúng ta các Tông Đồ cũng dùng chính uy quyền và quyền năng của Chúa Giêsu mà giảng dạy và trừ quỷ. Như vậy quyền năng của các Tông Đồ là chính quyền năng của Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội của các Tông Đồ chúng ta có quyền năng giảng dạy của các Vị, quyền năng của Chúa Giêsu, bảo đảm cho đức tin chúng ta là đức tin được nguyên vẹn trao lại cho chúng ta, những gì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta để sống thông hiệp với Chúa và được cứu rỗi: "Con tin có Giáo Hội duy nhứt, thánh thiện, công giáo và tông truyền…" (Kinh Tin Kính), là vậy.
 
Còn nữa, lời Chúa Giêsu khuyên bảo các Tông Đồ, sau cuộc hành trình truyền giáo mệt nhọc hãy " lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi dôi chút " cũng nói lên cách hành xử của các Vị phù hợp theo thói quen của Chúa Giêsu: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (Mc 1, 35). Nêu lên tư tưởng đó, Thánh Marco có chỉ cho chúng ta thấy được sự đồng nhứt các động tác truyền giáo của các Tông Đồ và của Chúa Giêsu. Các Tông Đồ tiếp tục sứ mạng truyền giáo duy nhứt của Chúa Giêsu, tác động bằng uy tín và quyền năng của Người, theo phương thức được Người dạy bảo cho.  
 
1 – Lời khuyên bảo của Chúa Giêsu: " Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút…" ( Mc 6, 32) có thể hiểu theo nghĩa đen, liên quan đến việc lấy sức lại sau những hoạt động mệt nhọc tại địa bàn truyền giáo. Nhưng văn mạch của câu văn được tiếp nối sau đó với hình ảnh của Chúa Giêsu là Mục Tử thương yêu đoàn chiên: "Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy đám người rất đông thì chạnh lòng, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều" (Mc 6, 34), cũng như liền sau đó,  biến cố vì thương yêu đoàn lủ theo Người đến xế chiều không có gì ăn, Người làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi nấng ( Mc 6, 35-44), làm cho chúng ta dễ liên tưởng đến những gì nội dung Thánh Vịnh 23 muốn nói lên cùng một bối cảnh.
 
Câu 2 của Thánh Vịnh 23 được Giáo Hội dùng trong Phụng Vụ như câu hát đối đáp ( responsoriale) để nói lên tâm tình chăm sóc của Thiên Chúa là mục tử đối với dân Ngài, cho đoàn chiên của Ngài tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi, vững chắc và no đủ: "Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu gì. Trong đồng cỏ xinh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi" (Ps 23, 1.3). Như vậy động từ "nghỉ ngơi " của câu Phúc Âm Mc 6, 34 vừa nhắc đến ở trên, cũng là động từ " nằm nghỉ " (Hy Lạp, anapauso) của Thánh Vinh 23 chúng ta vừa đọc, nói lên trạng thái thanh thoảng, bình an bên ngoài và nội tại trong tâm hồn, diễn tả cử chỉ chăm lo và tình thương của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ, khi Người bảo các Vị đi nghỉ ngơi, hình ảnh thảnh thơi và tự do của ơn  cứu rỗi Ngài đem đến cho các Vị và kế đến giao cho các Vị tiếp tục công việc của Ngài đem đến cho đoàn chiên.
 
Động từ "nằm nghỉ " ( anapauso) của Thánh Vịnh 23 cũng có cùng ý nghĩa với những gì Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đến với Ngài, để được yên tĩnh, thanh thoảng và cứu rỗi trong Phúc Âm Thánh Matthêu: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28). Hiểu như vậy, chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ sau chuyến đi truyền giáo, không những là nghỉ tĩnh dưỡng vật chất thể xác, yên tỉnh quân bình lại tinh thần cũng như cảm xúc của công việc mệt nhọc, mà còn nghỉ để vượt thắng mọi khó khăn, mệt mỏi và âu lo về cuộc sống mà chỉ có Chúa mới bồi dưỡng cho được.
 
2 – Trong phần hai của đoạn Phúc Âm, như đã nói, Thánh Marco chú ý đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và đoàn lủ dân chúng, cách Chúa hành xử như là Mục Tử Nhân Lành thương yêu chiên: "Chúa Giêsu thấy đám người rất đông, thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt " (Mc 6, 34). Có lẽ câu Phúc Âm vừa kể được Thánh Marco ghi lại liên tưởng đến câu nói của Thiên Chúa trong sách Dân Số, trruyền lệnh cho Moisen đặt Josué thay thế ông để hướng dẫn dân Chúa: "Người ấy sẽ ra vào trước chúng và dẫn chúng ra vào, để cộng đồng của Thiên Chúa đừng giống như đoàn chiên không người chăn dắt      (Nm 27, 17).
 
Cựu Ước khi nói về dân Chúa, thường đề cập đến các vị thủ lãnh, các vị vua, bị khiển trách về cách hành xử vô trách nhiệm của họ đối với dân. Đó là những gì sách tiên tri Geremia thuật lại, và chúng ta đã được nghe ở bài đọc thứ nhất: "Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác…, chính các ngươi làm cho đoàn chiên ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Nầy Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi và trừng phạt các ngươi… " (Ger 23, 1-2).
 
Qua những gì sách tiên tri Geremia ghi lại, chúng ta thấy được lòng chăm lo của Thiên Chúa đối với dân Người, sai thủ lãnh, vua quan đến để hướng dẫn, lo lắng chăm sóc cho dân, Nhưng họ hành xử tắc trách, ích kỷ và vô trách nhiệm, " chính các ngươi làm cho đoàn chiên ta phải tan tác, thất lạc". Trước thảm trạng đó của đàn chiên, dân Người, Thiên Chúa hứa sẽ can thiệp bằng cách trước tiên chính Người hành xử như là Mục Tử lo lắng quy tựu chiên lại: "Chính Ta sẽ quy tựu đoàn chiên Ta còn sót lại,  từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nẩy nở thật nhiều" (Ger 23, 3). Và sẽ thiết lập những mục tử mới: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa" (Ger 23, 4 ).
 
3 – Và cùng với lời hứa vừa kể của Thiên Chúa, thiết lập mục tử mới cho chiên, tiên tri Geremia thêm lời sấm của Chúa có liên quan đến Đấng Cứu Thế, xuất thân từ họ tộc David,  đem đến cho loài người công lý của Thiên Chúa hay ban cho chúng sự cứu rỗi: "Nầy, sẽ tới những ngày – sấm ngôn Thiên Chúa – Ta sẽ làm nảy sinh cho  nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành những điều chính trực công minh. Thời bấy giờ Giuda sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên lành. Danh hiệu người ta sẽ tặng vua ấy là: Thiên  Chúa công chính của chúng ta" (Ger 23, 5-6).
 
Trên nền tảng Cựu Ước vừa kể, chúng ta hiểu được nỗi "chạnh lòng thương " của Chúa Giêsu đối với đoàn lủ dân chúng đi theo Người, không những chỉ là xúc động, cảm tình đơn sơ của con người đứng trước tình trạng đáng thương của người khác, mà là lòng thương xót đầy tràn của Thiên Chúa, chăm lo và thương yêu đoàn chiên của Người: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng; chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi " (Ger 23, 4).
 
Hiểu như vậy, diển tả Chúa Giêsu " chạnh lòng thương " đối với đám đông đi theo Ngài, Thánh Marco có ý xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người công lý của Thiên Chúa, nhưng không phải bằng động tác lãnh đạo, cai trị của các vị quân vương, mà đúng hơn là một vị Thầy, đến để dạy dỗ, chỉ bảo phải trái cho dân. Tư tưởng vừa kể hợp với ý niệm của Thánh Vịnh 23, xin Chúa ban cho một vị mục tử duy nhứt và chăm lo cho đoàn chiên, hướng dẫn con người trên đường ngay nẻo chánh: "Người dẫn tôi trên đường ngay, nẻo chánh, vì danh dự của Người " (Ps 23, 3).
 
4 – Như vậy, đứng trên bình diện tường thuật diễn biến, phần hai (Mc 6, 33-34) và phần đầu ( Mc 6, 31-32) của đoạn Phúc Âm hôm nay có vẻ tương phản nhau.
Sự hiện diện của đoàn lủ quá động đảo ( Mc 6, 33-34) đã làm cho Chúa Giêsu và các Tông Đồ không thể thực hiện đưọc những gì đã dự tính: "Quả thế, kẻ tới người lui quá đông, nên các ông cũng chẳng có thời giờ ăn uống nữa" (Mc 6, 31-32). Nhưng suy nghĩ kỷ hơn, cả hai phần của đoạn Phúc Âm đều gặp được sự hoà hợp trong con người Chúa Giêsu, Đấng mà Thánh Marco có ý xác nhận với những ai đọc Phúc Âm hôm nay: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng thương yêu dân Ngài, đến để đem lại an bình, " nghỉ ngơi ", công chính và ơn cứu rỗi.
 
Thực tại vừa kể được Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đem đến, không thể chỉ được giới hạn dành riêng cho một số ít ( Mười Hai Tông Đồ, ở riêng nghỉ ngơi với Chúa Giêsu), mà còn phải được ban phát cho nhiều người, "Chúa Giêsu thấy đám người rất đông thì chạnh lòng thương…Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều". Cũng vậy đức công chính của Thiên Chúa và ơn cứu rỗi không thể chỉ được hạn hẹp dành cho dân Israel, mà còn dành cho cả dân ngoại, cho hết mọi người. Đó là những gì Thánh Phaolồ viết cho các tín hữu Epheso, chúng ta được nghe ở bài dọc hai: "Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta. Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đỗ bức tường ngăn cách là sự thù ghét…Như vậy, khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhứt, nơi chính bản thân Người" (Eph 2, 14-15).
 
Ngoài ra hai đoạn văn của Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy, mối lo âu khuyên cúa Tông Đồ "ra đi đến một nơi thanh văng mà nghỉ ngơi" (Mc 6, 31), cũng do cùng một mục đích thúc đẩy " thấy đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt" (Mc 6, 34). Nghỉ ngơi để lấy lại nghị lực, rồi đây các Tông Đồ cũng sẽ đảm nhận trách nhiệm mục tử đối với " đám người rất đông…không người chăn dắt ".
 
Trong cùng một tâm tình vừa kể với Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải biết chăm lo, thương yêu và cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta.

 
Nguyễn Học Tập

TỔ CHỨC MONEYVAL BỎ PHIẾU TÍCH CỰC CHO TÒA THÁNH VATICAN

TỔ CHỨC MONEYVAL BỎ PHIẾU TÍCH CỰC CHO TÒA THÁNH VATICAN

Đức Ông Ettore Balestrero

VATICAN: Trong cuộc họp báo sáng hôm 18 tháng 7-2012 Đức Ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh, cho biết cơ quan Moneyval đã bỏ phiếu tích cực cho Tòa Thánh Vaticăng trong cuộc chiến chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Bình luận về bản tường trình của cơ quan Moneyval, Đức Ông Balestrero nói: Các nỗ lực của Tòa Thánh được coi là phù hợp một cách rộng rãi trong 9 trên 16 điểm chính chống lại nạn rửa tiền và tài trợ khủng bố. Có tất cả 45 khuyến cáo: 22 khuyến cáo được bật đèn xanh, còn 23 khuyến cáo chưa được phù hợp. Đặc biệt có 7 lãnh vực tiêu chuẩn mà Tòa Thánh cố ý dấn thân để đạt mức độ quốc tế. Như thế, nói chung Tòa Thánh hài lòng về những gì đã đạt được, và ý thức rằng còn nhiều điều phải làm. Bản tường trình của cơ quan Moneyval không là điểm chấm dứt, nhưng là một hòn đá ghi dấu lộ trình đã bắt đầu để hòa hợp dấn thân luân lý với sự tuyệt diệu kỹ thuật. Lộ trình này đã khởi đầu hồi cuối năm 2010 với luật 127 liên quan tới chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, và đã bắt đầu có hiệu lực hồi tháng 4 năm 2011; và tháng hai cùng năm đã có lời yêu cầu cơ quan Moneyval lượng định nỗ lực của Tòa Thánh.

Đức ông Balestrero nói: ”Đó đã là các tháng làm việc và tập việc bận rộn. Một lộ trình dài trong một thời gian khá ngắn giúp thăng tiến Tòa Thánh trong các khía cạnh đáng chú ý như: rửa tiền, các biện pháp tịch thu, các luật về sự kín đáo, thu góp tài liệu, trợ giúp tư pháp song phương, hình luật về tài trợ khủng bố, cộng tác quốc tế, chấp thuận Thỏa Hiệp của Liên Hiệp Quốc liên quan tới vấn đề này. Cơ quan Moneyval đặc biệt yêu cầu củng cố nền tảng pháp lý đối với việc canh chừng, và than phiền về sự thiếu rõ ràng liên quan tới vai trò, các trách nhiệm, thẩm quyền, các quyền và sự độc lập của thẩm quyền thông tin tài chánh hoạt động từ tháng 6 năm 2011 trong nhiệm vụ kiểm soát của mình”

(RG 18-7-2012)

Linh Tiến Khải

Quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel theo hai vị Đại sứ liên hệ

Quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel theo hai vị Đại sứ liên hệ

VATICAN. Đại sứ mãn nhiệm của Israel cạnh Tòa Thánh lạc quan về viễn tượng ký kết hiệp định với Tòa Thánh trong khi Đức Sứ Thần Tòa Thánh ở Israel tỏ ra dè dặt hơn.

Trong những ngày vừa qua, Đức TGM Antonio Franco, 75 tuổi, đã mãn nhiệm vụ 7 năm làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại các lãnh thổ của người Palestine. Cũng vậy, Đại Sứ Israel cạnh Tòa Thánh, ông Mordechay Lewy, 64 tuổi (1948) cũng mãn nhiệm vụ sau 4 năm rưỡi ở Roma. Ông gia nhập ngành ngoại giao của Israel từ năm 1975, đã từng phục vụ tại các sứ quán ở Bonn và Berlin bên Đức, Stocholm Thụy Điển, rồi làm Đại sứ tại Thái Lan trong 4 năm, trước khi làm cố vấn cho tòa thị chính Jerusalem về các cộng đồng tôn giáo, rồi được bổ làm Đại sứ Israel cạnh Tòa Thánh hồi năm 2008.

Nhân dịp mãn nhiệm, hai vị đã dành cho giới báo chí các cuộc phỏng vấn về hiện tình quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel, những bước thăng trầm trong thời gian qua, và viễn tượng tương lai, đặc biệt là vấn đề ký kết một hiệp định giữa Israel và Tòa Thánh về vấn đề thuế khóa và tài chánh của Giáo Hội Công Giáo tại Israel, một cuộc thương thuyết dài dẵng từ 13 năm qua, chiếu theo hiệp định cơ bản đã được ký kết trước đó giữa hai bên.
Hôm 12-6-2012, Ủy ban làm việc thường trực song phương giữa Tòa Thánh và Israel đã nhóm khóa họp toàn thể tại dinh Tông Tòa ở Vatican. Phái đoàn Tòa Thánh do Đức Ông Đức ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh làm trưởng đoàn, và Phái đoàn Israel do Ông Danny Ayalong, thứ trưởng ngoại giao làm trưởng đoàn. Mỗi phái đoàn có khoảng 9, 10 người.

Thông cáo chung kết cho biết ”trong bầu không khí suy tư và xây dựng, Ủy ban đã ghi nhận những tiến bộ đáng kể tiến tới việc ký kết hiệp định về vấn đề thuế khóa và tài chánh của Giáo hội Công Giáo ở Thánh Địa. Cả hai bên đồng ý về những bước cần thực hiện trong tương lai và ấn định khóa họp toàn thể lần tới sẽ vào ngày 6-12 năm nay tại trụ sở Bộ ngoại giao Israel.

Viễn tượng ký hiệp định
Trong cuộc phỏng vấn hôm 11-7-2012 dành cho giới báo chí cạnh Tòa Thánh, Đại sứ Lewy cho biết hiệp định vừa nói có thể được ký kết trong khóa họp toàn thể ngày 6 tháng 12-2012 của Ủy ban song phương Israel và Tòa Thánh. Ông nói: ”Tôi rất tin tưởng về việc có thể kết thúc sớm hiệp định này và tôi không phải là người duy nhất nói điều đó, mà cả các nguồn của Vatican nữa. Những tiến bộ đã xảy ra gần đây. Các điểm chưa được giải quyết liên hệ chủ yếu tới các khía cạnh pháp lý chứ không phải là vật chất và cũng không phải là thiết yếu”.
Tuy nhiên, Đức TGM Sứ thần Tòa Thánh, Antonio Franco, tỏ ra dè dặt hơn ông đại sứ. Trong cuộc phỏng vấn bằng giây nói từ Jerusalem, ngài cho biết vẫn còn có nhiều điểm còn tồn đọng và hai bên, Israel và Tòa Thánh, chưa đạt tới một quan điểm chung. Đức TGM nói:

”Vì thế, tôi không nghĩ rằng Hiệp định có thể ký trước tháng 12 năm nay. Hơn kém chúng tôi đồng ý về nội dung cơ bản của Hiệp định, nhưng một số vấn đề còn chia rẽ giữa hai bên, không kể thời gian cần thiết để dịch từ tiếng Anh sang tiếng Do thái, việc dịch này chắc chắn cũng phải mất một thời gian. Rồi cũng phải đợi các nhà ngoại giao mới được bổ nhiệm và nhận chức. Về phần tôi, tôi sẽ ở lại Thánh Địa một thời gian nữa để theo dõi hồ sơ này. Các nơi thánh vẫn là một trong những điểm tế nhị nhất, nhất là Nhà Tiệc Ly. Điều chắc chắn là, trái với những gì người ta có thể đọc thấy trên báo chí, Tòa Thánh tuyệt đối không từ bỏ việc yêu cầu Israel trả lại Nhà Tiệc Ly, nơi đây là tu viện đầu tiên của dòng Phanxicô ở Jerusalem”.

Một số nhận định của Đại sứ Mordechay Lewy
Trong cuộc phỏng vấn, Đại sứ Mordechay Lewy cho biết Nhà Nước Israel đã quyết định cấp thị thực cho những người có hộ chiếu ngoại giao của Tòa Thánh mà không cần có sự kiểm soát hoặc thẩm vấn thêm. Theo Ông, biện pháp như thế đối với Tòa Thánh là ”một trường hợp duy nhất” nghĩa là không một ai, nếu không sinh ra trong một nước mà họ mang hộ chiếu, có thể được hưởng sự dễ dàng hành chánh như vậy, dù người mang hộ chiếu ngoại giao Tòa Thánh đến từ một nước thù địch của Israel như Syrie chẳng hạn.

Đại sứ Lewy cũng trả lời giới báo chí về vấn đề những người thuộc huynh đoàn thánh Piô 10 có thể tái hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo, ông tỏ ra tin tưởng về lập trường của Tòa Thánh về quan hệ với thế giới Do thái và đồng thời cũng chào mừng việc ĐTC mới đây đã Đức TGM Augustine Di Noia, dòng Đa Minh người Mỹ, làm Phó Chủ Tịch Ủy ban Tòa Thánh Ecclesia Dei, Giáo Hội của Thiên Chúa, về các tín hữu Công Giáo thủ cựu. Ông Đại Sứ nhận xét rằng khi bổ nhiệm, Tòa Thánh nhắc đến những quan hệ chặt chẽ với các tổ chức Do thái, và đây là là điều thật đúng.

Theo thông lệ, ĐTC vẫn tiếp các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh trước khi họ rời nhiệm sở. Đại sứ Mordechay Lewy đã được ĐTC tiếp kiến như vậy khi ông đến từ giã. nhân dịp này Ngài đã hỏi ông về tình hình cuộc thương thuyết trong Ủy ban làm việc song phương giữa Tòa Thánh và Israel.

Ông nói với giới báo chí: ”Quan hệ ngoại giao cũng được thực hiện nhất là qua những cử chỉ đầy ý nghĩa. Và cử chỉ ý nghĩa nhất của ĐGH Biển Đức 16 là giải tỏa lời cáo buộc người Do thái đã gây ra cái chết cho Đức Kitô trong lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth, bộ sách mà ĐGH đã viết. Ngay sau đó, thủ tướng Bibi Natanyahu đã muốn mừng ĐGH với một cây ôliu, một biểu hiểu quan trọng của tình bạn.

Đại Sứ Lewy cũng nhắc lại nhiều biến cố thăng trầm trong quan hệ giữa Do thái và Công Giáo. Ông nhận xét rằng sự hòa giải lịch sử giữa hai tôn giáo, Công Giáo và Do thái, là một tiến trình dài, đang tiến hành và có những lúc đầy ý nghĩa như cuộc viếng thăm của ĐGH Biển Đức 16 tại Israel năm 2009, cuộc viếng thăm của ngài tại Hội đường Do thái ở Roma năm 2010, ít lâu sau khi Tòa Thánh công bố sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của ĐGH Piô 12, những tiến bộ trong lãnh vực thuế khóa trong cuộc thương thuyết về hiệp định, sự đơn giản hóa thủ tục cấp thị thực ngoại giao cho các nhà ngoại giao của Vatican, nhưng nhất là ĐGH đã tháo bỏ trách nhiệm của người Do thái về việc đóng đinh Đức Kitô. ĐGH Ratzinger đã chứng tỏ tình bạn đối với người Do thái”.

Đại Sứ Lewy cũng nhắc đến những vấn đề đã gây ra tranh luận hoặc những lúc căng thẳng thực sự giữa hai tôn giáo dưới thời Đức Biển Đức 16, nhưng ông nhắc lại các biến cố đó với giọng hòa dịu. Ví dụ về việc tái du nhập trong sách lễ la tinh kinh nguyện ngày thứ sáu tuần thánh cầu cho người Do thái tuy có sửa đổi. Đại sứ nói: ”Chúng tôi không được can thiệp vào kinh nguyện của Công Giáo và Công Giáo cũng không được can thiệp vào kinh nguyện của chúng tôi vì trong cả hai đều có những điểm tranh luận. Ngoài ra, tôi không dùng từ bài Do thái nhiều quá vì đã bị lạm phát.”

Nhận định của Đức TGM Franco
Về phần Đức TGM Antonio Franco, nhìn lại thời gian 7 năm làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel, ngài nói: ”Thời kỳ ấy đã có những lúc đau thương, như cuộc hành quân ”Chì cứng” của Israel tại miền Gaza hồi mùa đông năm 2009, nhưng cũng có những lúc rất khẩn trương với những biến cố như cuộc viếng thăm của ĐTC Biển Đức 16 tại Thánh Địa, đó là một cuộc viếng viếng thăm được chuẩn bị với nhiều khó khăn.

Đức Sứ Thần Tòa Thánh nhắc đến những lúc dễ dàng và những lúc khó khăn trong công việc của ngài về phương diện thực hành và về mặt hành chánh, trong việc Nhà Nước Israel cấp thị thực nhập cảnh và cư trú cho các nhân viên của Giáo Hội Công Giáo, có những lúc rất dễ nhưng cũng có lúc khó khăn. Đàng khác, từ 10 năm nay, tức là từ năm 2002, các nhân viên của Giáo Hội Công Giáo không còn được bảo hiểm xã hội ở Israel nữa.

Đức TGM nói: ”Chúng tôi cũng gặp khó khăn về các trường Công Giáo tại Israel, các trường này được Nhà Nước Israel trợ giúp, nhưng cũng phải trả rất nhiều thuế và phí tổn, vì thế học phí trở nên quá đắt đỏ đối với các tín hữu Kitô địa phương. Do đó, chúng tôi phải hoạt động để các học sinh có thể kiếm được học bổng.

Một vấn đề khác cũng được đề cập tới trong cuộc phỏng vấn, đó là: trong thời gian qua, Viện bảo tàng Yad Vashem ở Jerusalem về cuộc diệt chủng Do thái đã thay đổi ghi chú về vai trò của ĐGH Piô 12 (1939-1958) trong thời thế chiến thứ 2: ghi chú trước đây kịch liệt phê bình ngài vì đã không lên tiếng công khai bênh vực người Do thái. Nhưng ghi chú vừa được sửa đổi, và có phán đoán tương đối nhẹ nhàng hơn. Dầu vậy, việc thay đổi ghi chú này cũng gây ra tranh luận, chẳng hạn Rabbi trưởng của Cộng đoàn Do thái ở Roma cho rằng Viện Yad Vashem đã chịu sức ép của Vatican để thay đổi như vậy, một sự thay đổi ghi chú không nên làm. Về vấn đề này, Đức Sứ Thần Tòa Thánh nói:

”Chúng tôi có một cái nhìn về hoạt động của Tòa Thánh trong thời thế chiến thứ 2 không phải là cái nhìn được trình bày trên bảng ghi chú trước đây ở viện Tad Vashem, và quan điểm của Tòa Thánh cũng không tương ứng với ghi chú hiện nay tại Viện này, tuy rằng sự thay đổi như thế là một bước tiến đầu tiên dẫn đến một sự đối thoại thanh thản hơn về vấn đề này, và để có một sự hiểu biết bao quát hơn.

Ngay từ khi khánh thành viện Yad Vashem với bảng ghi chú về vai trò của Đức Piô 12, Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đã bày tỏ sự bất đồng ý kiến, nhất là về phương diện lịch sử thời kỳ ấy. Từ sau đó, sự cộng tác được gia tăng. Ít lâu trước cuộc viếng thăm của ĐGH Biển Đức 16 tại Thánh Địa hồi tháng 3 năm 2009, đã diễn ra tại Viện Yad Vashem một khóa hội thảo làm việc với sự tham dự của các sử gia, trong đó có nhiều người bênh vực quan điểm của Tòa Thánh. Đó là một lúc quan trọng. Dần dần, ý thức về sự thay đổi chín mùi, mà không liên hệ tới bất kỳ sức ép nào về phía Tòa Thánh.”

G. Trần Đức Anh OP (Vietvatican)

Giáo Hội rao giảng chân lý Lời Chúa chứ không rao giảng những gì các kẻ quyền thế muốn nghe

Giáo Hội rao giảng chân lý Lời Chúa chứ không rao giảng những gì các kẻ quyền thế muốn nghe

Cũng giống như các ngôn sứ xưa kia Giáo Hội rao giảng chân lý Lời Chúa, chứ không rao giảng những gì các kẻ quyền thế muốn nghe.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ cử hành tại quảng trường trước nhà thờ chính tòa giáo phận Frascati sáng Chúa Nhật 15-7-2012.

Đức Thánh Cha đã có hai sinh hoạt: ban sáng lúc 9 giờ rưỡi Đức Thanh Cha đã viếng thăm giáo phận Frascati, một thành phố mhỏ gần Castel Gandolfo, nơi Đức Thánh Cha đang nghỉ hè, và chủ sự thánh lễ cho tín hữu thành phố này. Frascati cũng là giáo phận hiệu tòa của Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Tiếp đến ngài đã về Castel Gandolfo để đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu.

Giảng trong thánh lễ tại Frascati Đức Thánh Cha đã quang diễn các bài đọc phụng vụ Chúa Nhật thứ XV năm B thường niên và nói: Phúc Âm cho thấy sáng kiến của Chúa Giêsu sai Mười Hai Tông Đò đi rao giảng Tin Mừng. Từ ”apostoli” Tông Đồ có nghĩa là ”được sai đi”. Thật là điều rất quan trọng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã lôi cuốn Mười Hai Tộng Đồ vào hoạt động truyền giáo: nó như một loại thực tập cho các trách nhiệm lớn lao chờ đợi các vị sau này. Đức Thánh Cha giải thích sự kiện này như sau:

Sự kiện Chúa Giêsu mời gọi vài môn đệ trực tiếp cộng tác vào sứ mệnh của Người, biểu lộ một khía cạnh tình yêu của Chúa: Chúa không chê sự trợ giúp của các người khác đối với công trình của Người. Người biết rõ các hạn hẹp, các yếu đuối của họ nhưng không khinh rẻ họ, trái lại còn ban cho họ phẩm giá là những người được Chúa sai đi. Người sai họ ra đi cứ hai người một, và đưa ra các chỉ thị. Thứ nhất là tinh thần không dính bén tới tiền bạc và các tiện nghi vật chất. Rồi Người cũng báo cho họ biết họ sẽ không luôn luôn được tiếp đón, một đôi khi bị khước từ và cũng có thể bị bách hại. Nhưng các vị phải luôn luôn nói nhân danh Chúa Giêsu và rao giảng Nước Thiên Chúa mà không lo chuyện thành công.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói bài độc thứ nhất trích từ sách ngôn sứ Amos cũng cho thấy các người được Thiên Chúa sai đi thường không được tiếp đón một cách tốt đẹp. Ngôn sứ Amos đã mạnh mẽ rao giảng chống lại các bất

công, nhất là tố cáo các áp bức của các vua và các kỳ mục, là những đàn áp xúc phạm đến Thiên Chúa và khiến cho các hành vi phụng tự của họ trở thành vô ích. Vì thế ngôn sứ Amos bị tư tế Amasia đuổi khỏi vương quốc Israel. Nhưng dù được tiếp đón hay khước từ, ngôn sứ cứ tiếp tục thi hành nhiệm vụ ngôn sứ và rao giảng điều Thiên Chúa phán chứ không rao giảng những gì con người muốn nghe. Và điều này tiếp tục là sứ mệnh của Giáo Hội: không rao giảng điều các kẻ quyền thế muốn nghe. Tiêu chuẩn của các tộng đồ là sự thật và công lý, cả khi nó có chống lại các tán đồng của con người và quyền bính trần gian.

Cử chỉ rũ bụi chân diễn tả sự không dính bén luân lý và vật chất: như thể để nói rằng chúng tôi đã loan báo nhưng các bạn đã từ chối, và chúng tôi không muốn gì cho các bạn cả. Và sau cùng với việc rao giảng là lệnh truyền cho các tông đồ chữa lành bệnh tật, theo gương Chúa Giêsu để biểu lộ lòng lành của Người với các cử chỉ bác ái, phục vụ và sự tận hiến.

Bài đọc thứ hai cho thấy sự phong phú của sứ mệnh các Tông Đồ. Kinh nghiệm của Mười Hai Tông Đồ tại Galilea diễn tả trước một sứ mệnh rộng rãi hơn xảy ra sau khi Chúa Kitô phục sinh, và một việc rao giảng phong phú hơn giúp ý thức được chương trình cứu rỗi lớn lao của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn chuẩn bị dài trong thời gian.

Nhắc đến dấn thân mục vụ của giáo phận Frascati là đào tạo các người đào tạo Đức Thánh Cha nói: đó là điều Chúa Giêsu đã làm với các môn đệ Người: Chúa dậy dỗ họ, chuẩn bị họ, cả với việc thực tập truyền giáo để họ có thể lãnh các trách nhiệm trong Giáo Hội. Sau hai ngàn năm, dấn thân đào tạo ấy vẫn được Giáo Hội tiếp tục. Đức Thánh Cha giải thích nhiệm vụ này trong khung cảnh cuộc sống của kitô hữu như sau:

Trong cộng đoàn kitô đây luôn luôn là việc phục vụ đầu tiên mà các người có trách nhiệm cống hiến: bắt đầu từ cha me, chu toàn sứ mệnh giáo dục con cái trong gia đình; các cha sở, đặc trách việc đào tạo trong cộng đoàn, tất cả các linh mục hoạt động trong các lãnh vực khác nhau, tất cả các anh chị em giáo dân dấn thân trong công tác giáo dục, các thành viên các hiệp hội và phong trào dấn thân trong các lãnh vực xã hội dân sự. Họ là cánh tay nối dài của linh mục là người không thể tới với tất cả mọi môi trường và đỡ nâng mọi nhọc mệt. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm và đồng trách nhiệm. Chúa mời gọi tất cả mọi người bằng cách ban phát các ơn khác nhau cho các nhiêm vụ khác nhau trong Giáo Hội. Người mời gọi làm linh mục, sống đời thánh hiến, sống hôn nhân và dấn như giáo dân trong Giáo Hội và trong xã hội. Điều quan trọng là các ơn ấy được tiếp đón đặc biệt từ phía các người trẻ. Cần phải biết lắng nghe, tiếp nhận và đáp trả lời Chúa mời gọi. Ước gì chúng ta cảm thấy niềm vui đáp trả lại tiếng gọi của Thiên Chúa với tất cả chính mình và dấn thân sống sự đồng trinh cũng như hôn nhân.

Ngay tại Frascati này chúng ta cũng cần được tái rao giảng Tin Mừng. Vì thế tôi đề nghị anh chị em sống sâu đậm Năm Đức Tin sẽ bắt đầu vào tháng 10 tới đây, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung Vatican II.

Sau Thánh Lễ Đức Thánh Cha đã về Castel Gandolfo để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với 2.000 tín hữu và du khánh hành hương trong đó có mấy chục tín hữu Việt Nam. Đức Thánh Cha xin lỗi mọi người vì đã trễ giờ một chút, lý do là ngài đã cầu nguyện dài hơn với các tín hữu tại Frascati. Ngài nói trong bài huấn dụ:

Hôm này chúng ta đang ở trong ngày 15 tháng 7 và lịch phụng vụ kính nhớ thánh Bonaventura thành Bagnoregio, dòng Phanxicô, Tiến sĩ Giáo Hội, người kế vị thánh Phanxicô thành Assisi hường dẫn dòng Anh Em Hèn Mọn. Bonaventura đã viết tiểu sử chính thức đầu tiên về thánh Phanxicô và vào cuối đời cũng là Giám Mục giáo phận Albano này. Thánh nhân viết trong một bức thư rằng: ”Tôi xưng thú trước mặt Thiện Chúa rằng lý do khiến cho tôi đã yếu mến cuộc sống của thành Phanxicô nhất, đó là cuộc sống của người giống thời ban đầu và sự lớn mạnh của Giáo Hội” (Epistula de tribus quaestionibus, in Opere di San Bonaventura. Introduzione generale, Roma 1990,tr. 29). Các lời này trực tiếp hướng chúng ta tới Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu sai Mười Hai Tông Đồ đi truyền giáo lần đầu tiên và Người dặn các ông ngoài một cây gậy đừng mang theo: bánh, bị, tiền giắt lưng, nhưng mang dép và đừng mang hai áo” (Mc 6,7-9). Sau khi hoán cải thánh Phanxicô thành Assisi đã thi hành từng chữ của Phúc Âm và trở thành chứng nhân rất trung thành của Chúa Giêsu, kết hiệp một cách đặc biệt với Chúa trong mầu nhiệm Thập Giá và được biến đổi thành môt ”Kitô khác”.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Toàn cuộc sống của thánh Bonaventura cũng như thần học của người có trọng tâm linh hứng là Chúa Giêsu Kitô. Đó là điều chúng ta tìm thầy trong bài đọc thứ hai của thánh lễ hôm nay: bài thánh thi nổi tiếng trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Ephêxô. ”Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc, cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1,2). Thánh Phaolô cho thấy chương trình phúc lành đã được thực hiện trong bốn đoạn bắt đầu với từ ”Trong Người” ám chỉ Chúa Giêsu Kitô. ”Trong Người” Thiên Chúa Cha đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ tru; ”Trong Người” chúng ta đã được ơn cứu chuộc nhờ máu của Người; ”Trong Người” chúng ta đã trở thành thừa tự được tiền định ngợi khen vinh quang Người; ”Trong Người” những ai tin vào Tin Mừng nhận được dấu ấn của Chúa Thánh Thần. Bài thánh ca này chứa đựng thị kiến lịch sử mà thánh Bonaventua đã góp phần phổ biến trong Giáo Hội: toàn lịch sử có trung tâm điểm là Chúa Kitô, Đấng bảo đảm cho mọi thời đai sự mới mẻ và canh tân. Trong Chúa Kitô Thiên Chúa đã nói và đã cho mọi sự. Mà bởi vì Người là kho tàng vô tận, Chúa Thánh Thần không bao giờ thôi vén mở và thời sự hóa mầu nhiệm của Người. Do đó, công trình của Chúa Kitô và của Giáo Hội không thụt lùi nhưng tiến triển.

Chúng ta hãy khẩn nài Rất Thánh Maria mà ngày mai chúng ta cử hành như là Trinh Nữ Camelô, để mẹ trợ giúp chúng ta như thánh Phanxicô và thánh Bonaventura, quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Người bằng lời nói và trước hết bằng cuộc sống.

Trước khi chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

 

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu.

Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác.

Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới.

Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương.

Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?

2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?

3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?

4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?

HÒA BÌNH CÔNG LÝ ĐÃ GIAO DUYÊN (THA THỨ)

HÒA BÌNH CÔNG LÝ ĐÃ GIAO DUYÊN (THA THỨ)

”Tha Thứ không được nhắc đến nhiều cũng không xuất hiện bao nhiêu trong ngôn ngữ thông thường. Trong khi đó thì Tha Thứ thật là trọng yếu cho đời sống xã hội như không khí cần cho hơi thở. Không có Tha Thứ thì một nhóm người sẽ rơi vào vòng khốn cùng của trả thù của báo oán giống như một cơn dịch tễ đích thật! Thế nhưng, nguyên sự kiện nhắc đến Tha Thứ cũng đủ khơi lên nhiều phản ứng, chẳng hạn như thắc mắc:
– Có thể nào tha thứ hết được không?

Đối với nhiều người đương thời thì Tha Thứ là dấu hiệu của ngây-ngô, của yếu-nhược hoặc là thiếu công lý! Ngoài ra, đối với số đông thì Tha Thứ thuộc về lãnh vực riêng tư, bởi lẽ không có vấn đề Tha Thứ nơi tòa án, tại sở cảnh sát! Nó cũng không hề được nhắc đến trong luật lệ. Ngay cả khi có người nghĩ rằng cần phải tha thứ đi nữa, thì Tha Thứ vẫn là hành động ngoại thường thuộc về những bậc vĩ nhân, những vị anh hùng như Đức Chúa GIÊSU KITÔ – Đấng Cứu Thế -, ông Mahatma Gandhi (1869-1948) hoặc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II! Còn đại đa số thì vẫn cho rằng Tha Thứ là chuyện không thể làm được, nhất là khi chính chúng ta hoặc những người thân yêu của chúng ta phải hứng chịu bao hành động khủng bố, bao cư xử bất công! Vậy phải làm sao đây?

Trước hết, xin xóa bỏ những hiểu lầm không đúng với Tha Thứ.

Tha Thứ không phải là quên đi. Như thế tôi có thể tha thứ mà vẫn không quên sự dữ tôi từng hứng chịu. Ngoài ra trí nhớ của tôi cũng hoạt động không ngừng. Nó thường khơi lên những chuyện tôi tưởng mình đã quên rồi. Thêm vào đó lương tri nói với tôi rằng nào có hề hấn gì khi tha thứ cho chuyện đã quên rồi, vì như thế, nó đâu còn nữa mà tha với thứ?!

Tha Thứ cũng không phải là phủ nhận điều xúc phạm đã hứng chịu. Cũng không phải là chối bỏ hoặc không nhìn nhận một lầm lỗi. Chẳng hạn như khi nói: ”Không sao hết! Không có gì trầm trọng! Đừng nghĩ đến nó nữa!” Nói như thế thì không làm nổi bật lộ trình của Tha Thứ.

Không có Tha Thứ nếu không có sự thật. Tình huynh đệ không xóa bỏ sự thật huynh đệ. Thánh Vịnh 85 câu 11 nói: ”Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên”.

Tha Thứ cũng không từ khước các quyền lợi của nó. Tha Thứ thật chỉ diễn ra trong công lý. Thánh Vịnh 85 câu 12 nói: ”Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao”. Tình yêu không thế chỗ cho công lý. Công lý tìm cách trả lại quyền cho kẻ bị lường gạt bị lừa dối trong mối quan hệ giữa người với người. Nhưng Tha Thứ thuộc về một trật tự khác. Tha Thứ chính là Tình Yêu!

Như vậy, Tha Thứ vừa là cố gắng của con người vừa là hồng ân đến từ THIÊN CHÚA. Đó là một tiến trình đòi hỏi thời gian và đòi hỏi con người đi từng bước một trên một lộ trình cần nhiều cố gắng, cần nhiều hăng say và nhiệt tình. Nếu các trả-đũa các phục-thù là một loại ”boomerang – là một thứ khí giới hình lưỡi liềm để phóng đi xa, nếu không trúng đích lại trở về chỗ cũ – thì Tha Thứ cho phép thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của oán-thù của bạo-lực!

Tha Thứ luôn luôn là điều rất khó, vì thế, mọi người đều biết rằng, để có thể Tha Thứ, không nên khép kín trong nỗi cô đơn với vết thương. Cần phải gặp gỡ một người đáng tin cậy như Linh Mục, các nhà phân tâm hoặc những ai có nhiệm vụ lắng nghe để giải bày tâm sự để than thở về nỗi niềm đau đớn. Vết thương được chữa lành sẽ giúp dễ dàng hơn tiến đến Tha Thứ.

Ước gì mỗi tín hữu Công Giáo có thể tiến bước trên con đường Tha Thứ, bắt đầu bằng việc van xin THIÊN CHÚA ban cho chúng ta ơn có thể tha thứ cho chính chúng ta!

… Chứng từ của Cha Laurent Lair, Tổng Đại Diện giáo phận Bayeux và Lisieux (Bắc Pháp).

… Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Chúa GIÊSU mà hỏi rằng: ”Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đc Chúa GIÊSU đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” .. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: ”Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lưt ngươi, ngươi không phi thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên Trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mátthêu 18,21-22 / 32-35).

(”Église de Bayeux & Lisieux”, bimensuel diocésain, No 286, 22 Février 2012, trang 3)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Các Em Trường PBC Trình Bày “Hè Về” Trong Nhạc Hội Tiếng Việt Mến Yêu Kỳ 5

* * * * *

Cố Nhạc Sĩ Hùng Lân (1922 – 1986)

"Hè Về" là một trong nhiều sáng tác của nhạc sĩ Hùng Lân, sinh năm 1922, mất năm 1986, tại Việt Nam.  Nhạc sĩ Hùng Lân viết khoảng hơn 900 tác phẩm gồm các ca khúc, sách giáo khoa và sách khảo cứu về âm nhạc, trong đó có những bài hát để đời như "Việt Nam Minh Châu Trời Đông", "Rạng Đông", "Cô Gái Việt", "Hè Về", v.v…  Ngoài ra, nhạc sĩ còn sáng tác nhiều bài thánh ca có giá trị nghệ thuật.  Nhạc sĩ Hùng Lân rất khó tính: khi sáng tác, nhạc và lời phải hòa hợp với nhau; ca từ phải được lựa chọn kỹ càng và chính xác.
 
Trước năm 1975, bài hát "Hè Về" được thanh niên học sinh Miền Nam Việt Nam yêu thích và hay hát trong các chương trình văn nghệ bãi khóa.  Mỗi khi mùa hè đến, nhìn những cây phượng đỏ thắm ở các sân trường hay trên những con đường dẫn tới trường, người ta lại thấy náo nức khi nghe đâu đó vang lên câu hát "Trời hồng hồng, sáng trong trong, ngàn phượng rung nắng ngoài song".  
 
Sau tháng Tư năm 1975, ở ngay trên đất nước Việt Nam có một thời gian dài, không còn ai được nghe bài "Hè Về" hay những bài hát lành mạnh, trong sáng, yêu đời nữa.
 
Những người Việt Nam tị nạn Cộng sản trên khắp thế giới đã và đang cố gắng truyền đạt cho các thế hệ con em những tinh hoa của dân tộc mình qua việc dạy cho các em đọc, nói, viết tiếng Việt cũng như là lịch sử và văn hóa Việt Nam.
 
Trường Việt Ngữ và Văn Hóa Phan Bội Châu được thành lập 28 năm trước đây cũng không ngoài mục đích đó.  Tuy nhiên trường của chúng tôi không ở ngay trung tâm của cộng đồng người Việt, nói nôm na là chúng tôi ở khu ngoại ô của Little Saigon.  Các em học sinh đến từ các vùng phía bắc Quận Cam, những thành phố ngoại biên của Quận Los Angeles như Norwalk, Pomona, hay những thành phố ngoại biên của Quận Riverside như Corona.  Các em không có hàng xóm người Việt Nam, lại đi học ở những trường chỉ có tối đa dăm ba em học sinh người Việt, vì thế khả năng nói và viết tiếng Việt của các em rất yếu, và đó là điều không thể tránh khỏi.  Phụ huynh của các em đã cố gắng rất nhiều để đưa các em đến trường đi học tiếng Việt mỗi tuần, dù là lớp học chỉ kéo dài 1 tiếng 20 phút. 
 
Để giúp cho các em học và hiểu tiếng Việt trong tinh thần vừa vui vừa học, chúng tôi dạy cho các em học hát.  Các em tham gia chương trình Văn Nghệ Giúp Vui này theo tinh thần tự nguyện.  Chúng tôi không tuyển lựa các em theo tài năng cá nhân nhưng theo tinh thần đồng đội.  Vì vậy các em sẽ đồng ca.  
 
Chút nữa đây quý vị sẽ thấy các em vừa hát vừa dùng hai tay để diễn tả phần nào nội dung của bài hát.  Phần trình bày của các em chỉ có 4 hay 5 phút và những động tác của các em có lẽ sẽ còn vụng về, nhưng đó là sự cố gắng của một tập thể, một cộng đoàn.
 
Ban nhạc của trường sẽ do 3 thầy phụ trách.  Thầy Huy và thầy Hiếu là hai thầy trẻ nhất trường.  Thầy Huy, trẻ nhất, sẽ chơi keyboard.  Thầy Hiếu, cũng chỉ lớn hơn thầy Huy dăm ba tháng, sẽ chơi guitare.  Thầy Hiếu là cựu học sinh trường Phan Bội Châu, theo cha mẹ đến định cư ở Hoa Kỳ khi chưa đầy 3 tuổi.  Chúng tôi có một vị khách mời là thầy Ninh.  Thầy đã tốt nghiệp khoa âm nhạc môn vĩ cầm trường Cal State San Jose.
 
Trước khi mời quý vị theo dõi tiết mục giúp vui của các em, chúng tôi xin được tiết lộ một chi tiết nho nhỏ là, có một đoạn, ban nhạc sẽ chơi theo âm hưởng của nhạc đồng quê với chút hơi hướng của nhạc jazz từ cây vĩ cầm.  Âm giai của bài hát sẽ được chuyển từ âm giai trưởng sang âm giai thứ để diễn tả sự hoài niệm của những ngôi trường xưa với những cánh phượng đỏ trong nắng vàng.
 
Xin mời quý vị theo dõi sau đây.
 

 

 

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo: 08 tháng 7-2012

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo: ngày 8 tháng 7-2012

CASTEL GANDOLFO. Trưa Chúa nhật 8 tháng 7-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin đầu tiên trong mùa hè này tại Castel Gandolfo, dinh thự mùa hè của ngài cách Roma lối 30 cây số.

ĐTC đến cư ngụ tại đây từ ngày thứ ba, 3 tháng 7-2012 và lưu lại đây tới cuối tháng 9. Từ quảng trường bên ngoài dinh thự, cũng có hàng trăm tín hữu tham dự buộc đọc kinh qua loa phóng thanh.

Trong số hàng ngàn người hiện diện trong khuôn viên tại buổi đọc kinh, cũng có đại diện chính quyền địa phương, và đông đảo tín hữu hành hương đến nhiều nước.

Đúng 12 giờ trưa, ĐTC xuất hiện tại bao lơn của dinh thự giữa tiếng reo hò vui mừng của mọi người. Khi ngài vừa nói: ”Anh chị em thân mến!” thì ca đoàn các thiếu nhi từ giáo phận Dresden ở miền Đông Đức đã đồng ca một bài ca ngắn để chào mừng ngài. ĐTC lắng nghe và nhiệt liệt cám ơn các thiếu nhi ca viên. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng của ngày chúa nhật 14 thường niên và nói:

”Tôi muốn dừng lại một lát về đoạn Tin Mừng chúa nhật hôm nay, một đoạn từ đó người ta rút ra câu nói thời danh ”không ai là tiên tri nơi quê hương của mình”, nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy lớn lên (Xc Mc 6,4). Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu, – lúc ấy khoảng 30 tuổi-, từ giã Nazareth và đi giảng đạo và chữa bệnh ở nơi khác trong một thời gian, ngài trở về làng cũ và bắt đầu giảng dạy trong Hội đường. Những người đồng hương của ngài ”ngỡ ngàng” vì sự khôn ngoan, và vì họ biết ngài là ”con của bà Maria”, là người thợ mộc đã sống giữa họ, nên thay vì tin nhận và đón tiếp ngài, họ lại xấu hổ vì ngài (Xc Mc 6, 2-3). Sự kiện này dễ hiểu vì sự quen thuộc trên bình diện con người làm cho người ta khó đi xa hơn và cởi mở đối với chiều kích thần linh (…). Chúa Giêsu giống như một thí dụ điển hình về kinh nghiệm của các tiên tri của Israel, các vị bị coi rẻ nơi quê hương, và Chúa đồng hóa với các vị ấy. Do sự khép kín tinh thần như thế, Chúa Giêsu không thể thực hiện tại Nazareth ”một phép lạ nào, nhưng ngài chỉ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc 6,5). Thực vậy, các phép lạ của Chúa Kitô không phải là một sự biểu dương quyền năng, nhưng là những dấu chỉ tình thương của Thiên chúa, được thể hiện tại nơi mà tình thương ấy gặp được niềm tin của con người. Origène đã viết: ”Cũng như có một sự thu hút tự nhiên từ phía một số người này đối với người khác, như sự thu hút của nam châm đối với sắt.. niềm tin cũng thực hiện một sự thu hút như thế đối với quyền năng của Chúa” (Chú giải Tin Mừng theo thánh Mathêu 10,19).

Vì vậy, như người ta nói, Chúa Giêsu có vẻ coi sự ngược đãi mà ngài gặp ở Nazareth là có lý. Nhưng thực ra, vào cuối trình thuật, chúng ta thấy một nhận xét ngược lại. Thánh sử Phúc âm viết rằng Chúa Giêsu ”ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6,6). Sự kinh ngạc của Chúa Giêsu tương ứng với sự ngỡ ngàng của những người đồng hương. Cả Chúa, theo một nghĩa nào đó, cũng lấy làm điều đau buồn! Mặc dù ngài biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình, nhưng sự khép kín tâm hồn của những người đồng hương đối với ngài thật là tăm tối, không thể hiểu nổi: làm sao mà họ không nhận ra ánh sáng chân lý như thế? Tại sao họ không cởi mở đối với lòng từ nhân của Thiên Chúa là Đấng muốn chia sẻ nhân tính của chúng ta? Thực tế, con người của Đức Giêsu thành Nazareth phản ánh Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa cư ngụ trọn vẹn. Và trong khi chúng ta luôn luôn tìm kiếm những dấu chỉ khác, những phép lạ khác, chúng ta không nhận ra rằng Dấu Chỉ đích thực chính là Ngài, là Thiên Chúa làm người, chính Ngài là phép lạ lớn nhất của vụ trụ: toàn thể tình thương của Thiên Chúa được cô đọng trong một con tim nhân trần, trong khuôn mặt của một người.

”Người đã hiểu được đích thực thực tại này chính là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ có phúc vì đã tin (Xc Lc 1,45). Mẹ Maria không lấy làm đau buồn vì Con của Mẹ: sự kinh ngạc của Mẹ đối với Chúa tràn đầy niềm tin, đầy tình thương và vui mừng, khi Mẹ thấy Người nhân trần dường ấy và đồng thời thần linh dường nào. Nơi Mẹ, là Mẹ chúng ta trong đức tin, chúng ta hãy học cách nhận ra trong nhân tính của Chúa Kitô mạc khải hoàn hảo về Thiên Chúa.”

Chào thăm các tín hữu

Sau khi ban phép lành, như thường lệ, ĐTC chào thăm các tín hữu hành hương bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Trước tiên Ngài chào cộng đoàn Castel Gandolfo ở địa phương và cầu chúc mọi gia đình được một thời gian nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức khỏe thể lý và tình thần. ĐTC cũng nói:

Tôi thân ái chào thăm các nữ tu dòng thánh Elisabeth đến từ nhiều nước đang tham dự cuộc gặp gỡ đặc biệt 10 năm sau khi khấn trọn đời. Chị em thân mến, xin Chúa canh tân chị em sâu rộng trong tình thương của Ngài. Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến cách riêng các nữ tu dòng Thờ Lạy Thánh Thể đến từ Sénégal và Congo ở Phi châu, các bạn trẻ dưới sự chăm sóc của Văn phòng tuyên úy vùng Vịnh Saint-Tropez ở miền nam Pháp. Ngài nói: ”Trong mùa hè này, các con đừng quên Chúa, hãy nghĩ đến việc cầu nguyện và tham dự thánh lễ Chúa nhật! Ước gì Mẹ Maria là mẫu gương của những tâm hồn lắng nghe, tháp tùng các con trên những nẻo đường trần thế!”
Bằng tiếng Anh, ĐTC chào thăm các LM đang tham dự khóa huấn luyện dành cho các vị đào tạo ở chủng viện do Giáo Hoàng học viện Nữ Vương các Tông Đồ tổ chức. Ngài nói: ”Trong Tin mừng chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta sống với một tâm hồn cởi mở và đơn sơ, được đức tin chân thực nuôi dưỡng, thì chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta và tuân theo thánh ý Chúa.”
Bằng tiếng Đức, ĐTC tái cám ơn các thiếu nhi thuộc ca đoàn giáo phận Dresden vì bài ca thật hay. Ngài cũng nhắc lại sự tích Chúa Giêsu không được đón nhận tại quê hương. Dân chúng không sẵn sàng nhìn nhận Chúa là Đức Kitô. Nơi chúng ta cũng có nguy cơ khi chúng ta nói rằng: ”Chúng tôi là Kitô hữu, chúng tôi đã biết mọi sự và không còn quan tâm gì đến Chúa là ai nữa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa, xin Chúa cất khỏi chúng ta thái độ khép kín trong tâm hồn như thế và chúng ta hãy lợi dụng thời kỳ nghỉ hè này, ở lại lâu sâu hơn trong Chúa Kitô, đón nhận sự chỉ đường của Ngài cho cuộc sống chúng ta và xác tín về quyền năng thần linh của Chúa.

Sau cùng, bằng tiếng Ba Lan, ĐTC gửi lời chào thăm những người tham dự cuộc hành hương của gia đình Đài phát thanh Maria, tụ tập tại Đền thánh Đức Mẹ Jasna Gora, Czestochowa, để cầu nguyện cho tổ quốc, cho các gia đình, cho tự do ngôn luận. Ngài cũng nhắc đến buổi cầu nguyện liên tôn cho hòa bình cử hành lúc 21 giờ chúa nhật 8-7-2012 tại trại tập trung Majdanek, Ba Lan, gần thành phố Lublin. Buổi cầu nguyện do Hội Ngàn Năm mới tổ chức, một Hội do HĐGM Ba Lan thành lập cách đây 12 năm để tưởng niệm triều đại Giáo Hoàng của Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 bằng cách phổ biến giáo huấn của Người và giúp những người trẻ muốn học hành nhưng không có phương tiện tài chánh.

G. Trần Đức Anh OP

KHÔNG AI LÀ TIÊN TRI NƠI QUÊ HƯƠNG MÌNH

KHÔNG AI LÀ TIÊN TRI NƠI QUÊ HƯƠNG MÌNH

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (07/08/2012)
[Ed 2,2-5; 2 Cr 12,7-10; Mc 6,1-6]

 

Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay của thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta cách đối xử của các người đồng hương Chúa Giê-su đối với Ngài, khi họ biết Ngài trổi vượt hơn họ. Cách đối xử đó đã được Chúa Giê-su tóm lược trong một câu ngắn gọn và chua chát: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4).
 
Quê hương của Chúa Giê-su, ai trong chúng ta cũng biết. Đó là làng Na-da-rét, vùng Ga-li-lê-a, nơi Người ra đi, nhận phép rửa của thánh Gio-an Tẩy Giả để bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài: "Hồi ấy Chúa Giê-su từ Na-da-rét, miền Ga-li-lê-a đến và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan" (Mc 1, 9).
 
Sau khi nhận phép rửa, Chúa Giê-su ra đi giảng dạy ở nhiều miền khác của Do-thái, khởi đầu từ Ga-li-lê-a. Ở mọi nơi, Người giảng dạy, làm nhiều phép lạ chữa bệnh tật, trừ quỷ và làm cho con người nhẹ bớt đi những bất hạnh của họ. Nơi đâu Ngài cũng được mọi người tiếp đón, tin nghe, thán phục và ngưỡng mộ trí khôn ngoan và quyền năng Con Thiên Chúa của Ngài. Nhiều người đi theo Ngài ngày đêm và Ngài đã chọn mười hai Môn Đệ thân tín với Ngài, trong số những người đó. Đó là những gì thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta trong suốt những chương đầu của Phúc Âm (x. Mc 1, 5).
 
Chính thánh Mác-cô đã tuyên xưng đức tin và lòng ngưỡng mộ của Ngài đối với Chúa Giê-su ngay ở những dòng đầu tiên của Phúc Âm: "Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Ki Tô, Con Thiên Chúa" (Mc 1, 1). Nhưng rồi, cuộc đời Chúa Giê-su không phải là không có sóng gió và chướng ngại vật. Sóng gió và chướng ngại vật đó bắt đầu từ chương 6 trở đi, xảy ra tại chính quê hương thân yêu của Ngài, do chính những người đồng hương và cũng có thể chính bà con của Ngài tạo nên: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình thôi" (Mc 6, 4).
 
Một câu nói chua chát, xác nhận thực tại lắm lúc phũ phàng. Trở lại thăm quê hương, sau bao nhiêu ngày lặn lội giảng dạy khắp nơi. Người bắt đầu loan báo sứ mạng của Ngài cho bà con và đồng hương trong hội đường: "Đến ngày sa-bát, Người giảng dạy trong hội đường. Nhiều người rất đổi ngạc nhiên" (Mc 6, 2). Nhưng rồi những ngạc nhiên đó, thay gì biến thành thán phục và tin tưởng vào lời lẽ khôn ngoan và quyền năng thần linh liên hệ đến sứ mạng mà Chúa Giê-su muốn đem đến, bà con và những người đồng hương của Ngài lại dựa vào tiền kiến và cũng có lẽ bị thúc đẩy bởi ganh tỵ, họ lại giữ thái độ đóng kín, không chấp nhận: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta khôn ngoan như vậy nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Ma-ri-a và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-suê, Giu-đa và Si-mon sao? Anh chị em của ông ta không phải là bà con hàng xóm với chúng ta sao?" (Mc 6, 2-3). 
 
Ý nghĩa của câu Phúc Âm vừa trích dẫn không có ý nghĩa gì hơn là câu hỏi về căn nguyên (identité) của Chúa Giê-su: Chúa Giê-su là ai? Đọc Phúc Âm thánh Mác-cô, nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy thánh nhân lập lại câu hỏi trên nhiều lần qua suốt Phúc Âm của ngài. Và mỗi lần nêu lên câu hỏi là mỗi lần ngài đưa ra dẫn chứng để làm câu trả lời. Nói cách khác, mục đích của thánh Mác-cô viết Phúc Âm là để trả lời cho đức tin mà ngài đã viết ngay ở dòng đầu: "Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Ki Tô, Con Thiên Chúa" (Mc 1, 1).
 
Và sau đây là những câu hỏi thánh Mác-cô lập đi lập lại để nhắc lại ý nghĩa và chứng minh tiếp theo với những đoạn Phúc Âm liên hệ: "Mọi người đều ngạc nhiên đến đổi họ bàn tán nhau: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mi mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh" (Mc 1, 27).
 
   – "Sao ông nầy lại dám nói như vậy? Ông ta phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoài một mình Thiên Chúa?" (Mc 2, 7).
   – "Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người nầy là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (Mc 4, 41).
   – "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai cho ông quyền làm các điều ấy?" (Mc 11, 28).
   – "Vị thượng tế lại hỏi Người: Ông có phải là Đấng Ki Tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" (Mc 14, 61).
   – " Phi-la-tô hỏi Người: Ông là vua Do-thái sao? Người trả lời: Đúng như Ngài nói đó" (Mc 15, 2).
 
Trở lại câu bàn tán về căn nguyên của Chúa Giê-su được các người đồng hương của Ngài nêu ra. Thật ra, khi họ đưa ra các thành kiến mà họ biết về Ngài: Ngài là "bác thợ mộc, con bà Ma-ri-a", "anh em với các ông Gia-cô-bê, Gio-suê, Giu-đa và Si-mon", anh em của Ngài là "hàng xóm với chúng ta", họ đưa ra không phải để có một câu giải đáp, mà để làm chiêu bài cho việc cố chấp không tin của họ. Đó có lẽ cũng là thái độ thông thường chúng ta thường gặp trong cuộc sống. Rất thường chúng ta gặp được một số người không ít, không có khả năng phân biệt giữa "chủ thể" (persona) và "chủ đề" (doctrina).
 
Dường như thể "chủ thể" (persona) là "bác thợ mộc, anh em của Gia-cô-bê, Gio-suê, Giu-đa và Si-mon là hàng xóm với chúng ta", là người tầm thường, thì "chủ đề"  (doctrina), tức là lý tưởng, chủ trương, đường lối, suy tư của người đó cũng không ra gì. Lý luận đó làm cho những người đồng hương của Chúa Giê-su trở thành mù quáng và chai đá trước những sự thật hiển nhiên mà chính họ cũng không thể chối cãi: "Nhiều người rất đỗi ngạc nhiên. Họ hỏi: bởi đâu mà ông ta làm được như thế? Ông ta khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?"  (Mc 6,2).
 
Thái độ cố chấp chai đá đó khiến họ đóng chặt tâm hồn, mà đáng lý ra họ phải rộng mở để tiếp đón ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su đem đến. Không chấp nhận Chúa Giêsu là không chấp nhận ơn cứu rổi Người đem đến cho: "Chúa Giê-su đáp: Ta là đàng, là sự thật và là sự sống" (Ga 14, 6). Sự cố chấp chai đá đó đã làm cho chính Chúa Giê-su cũng phải ngạc nhiên: "Người lấy làm lạ vì họ không tin" (Mc 6, 6). Với tất cả thân tình trở về thăm quê hương, nhưng đứng trước thái độ cố chấp chai đá của các người đồng hương, Chúa Giê-su cũng chịu bó tay: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó" (Mc 6, 5).
 
Tại sao đứng trước lòng cứng tin của các người đồng hương, Chúa Giêsu "không thể làm được phép lạ nào tại đó?" Phép lạ có thể thắp lên một ánh lửa hay là một minh chứng để củng cố đức tin, nhưng phép lạ không sinh ra đức tin. Đức tin phát xuất tự trong tâm hồn, là sự rộng mở của tâm hồn để đón nhận chân lý được Chúa  mạc khải cho. Hiểu được như vậy, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giê-su cấm các Môn Đệ được Chúa Giê-su cho chứng kiến biến cố Ngài biến đổi hình dạng ra sáng láng trên núi, thuật lại cho người khác: "Đang khi Thầy trò từ trên núi xuống, Chúa Giê-su truyền cho các ông rằng: Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy" (Mt 17, 9).
 
Ngài không muốn cho đức tin các ông và nhiều người khác bị chóa mắt bởi hình ảnh chói lọi của biến cố tỏ mình ra sáng láng trên núi, mà phải là một đức tin đâm rễ sâu trong tâm hồn qua thử thách tử nạn và sự sống lại của Ngài. Cũng chính vì vậy, trước khi làm phép lạ cho La-da-rô sống lại, Ngài đòi buộc chị Mác-ta phải tin. Không có đức tin, phép lạ có thể được coi như những trò ảo thuật: "Chúa Giêsu liền phán: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy dù đã chết cũng được sống lại. Chị có tin thế không? Cô Mác-ta đáp: Thưa Thầy có. Con tin Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian" (Ga 11, 25-27).
 
Càng rõ hơn nữa, đức tin không thể dựa vào phép lạ hay kiểm chứng để tin, mà là sự rộng mở của tâm hồn để đón nhận lời Chúa và ơn Chúa (fides ex auditu), khi Chúa Giê-su dạy bảo thánh Tô-ma: "Chúa Giê-su bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay cho những người không thấy mà tin" (Ga 20, 28). Tin vào lời Người giảng dạy. Thái độ cố chấp và chối bỏ của các người đồng hương Chúa Giê-su, dựa vào những hiểu biết và tiền kiến (préjugés) nhân loại dạy cho chúng ta một bài học.
 
– Với thiên kiến cố ý chối bỏ sự thật và tiền kiến chỉ tin vào kiến thức hiểu biết nhân loại của mình, chúng ta không bao giờ có thể đi đến đức tin. Họ nghĩ rằng họ đã biết về Chúa Giê-su, về nghề nghiệp của Ngài (bác thợ mộc), về gia phả, họ hàng của Ngài (con bà Ma-ri-a, anh em của ông Gia-cô-bê, Gio-suê, Giu-đa và Si-mon, anh chị em là hàng xóm với chúng ta), là biết hết về Ngài. Thái độ cố chấp và ỷ lại tự cao đó không bao giờ cho chúng ta đạt đến đức tin. Kiến thức nhân loại và lương tâm ngay chính là những khởi điểm và số vốn quan trọng trên con đường đi tìm chân lý. Bởi lẽ đức tin không phải là thái độ mù quáng, không lý luận. Thiên Chúa ban cho chúng ta trí khôn ngoan là để chúng ta dùng trí khôn tìm đến Ngài, hiểu biết Ngài và từ đó biết ơn và yêu mến Ngài, Đấng đã dựng nên chúng ta.
 
– Tuy nhiên, đức tin là tin vào Thiên Chúa vô hạn và những chân lý Ngài mạc khải vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta,  không thể  quy tóm vào những gì chỉ có thể chứng minh được, lý luận được. Chúng ta khởi hành bằng lý trí và những số vốn kiến thức nhân loại của chúng ta, nhưng đến một đoạn đường nào đó, cuộc hành trình đức tin vượt quá khả năng của lý trí. Thái độ còn lại phải có là lăng xả, phó thác vào sự khôn ngoan vô tận và tình thương bao la của Chúa, như đứa trẻ lăn xả vào lòng mẹ, như đôi nam nữ yêu nhau phó thác cho nhau. Đức tin không phải là tin Thiên Chúa có hay không, mà là tin cậy và ủy thác vào Thiên Chúa.
 
Đó là ý nghĩa sâu xa của Kinh Tin Kính bằng La Ngữ chúng ta thường đọc trong thánh Lễ: "Credo in Unum Deum Patrem Omnipotentem": Tôi tin kính (và phó thác cả con người con vào tay) một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng. Đức tin là tin bằng cả lý trí và trái tim của chúng ta.
 
Nguyễn Học Tập  (ĐBĐM)

NHỮNG CON MẮT THỊT

NHỮNG CON MẮT THỊT

Suy Niệm Lời Chúa CN 14 TN B. (Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6)

Cuốn sách của Thiên Chúa đang mở ra. Cuốn sách ghi Lời Chân Lý. Cuốn sách mà Tiên tri Ezêkiel đã thị kiến với Lời rằng: “Chính ta đã sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân đang phản nghịch chống lại Ta, chúng cũng như cha ông  đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày, mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính ta sai ngươi đến với chúng"”(Ed 2,3-4).

Cuốn sách ấy tiên báo về chính  Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, và trang Tin Mừng hôm nay, qua tường thuật của Thánh Marcô, quả thực đã ứng nghiệm, không sai. Con người đồng thời, đồng hương của Chúa Giêsu không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, và tỏ ra “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” trước những lời rao giảng của Ngài. Họ không biết được, và cũng không chịu mở lòng ra để biết được Ngài là Đấng Thiên sai. Họ chỉ muốn nhìn thấy cái trước mắt là thân thế sự nghiệp quá sơ sài của Ngài để rồi trách cứ một cách ngạo mạn:  “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon sao?  Chị em của ông không phải là bà con lối xóm của chúng ta sao?” (Mc 6,3).

Những con mắt thịt hai ngàn năm trước

Thì ra, từ ngàn năm trước, người ta đã có thói quen thẩm định tư cách một con người bằng cách nhìn vào thế, thân, ngân, lý! “Nhất thế, nhì thân, tam ngân, tứ lý”. Họ chỉ nhìn con người bằng con mắt con người, và con người ấy chỉ được trọng vọng khi đáp ứng được cái yêu cầu rất con người vật chất hữu hạn của họ.

Chúa Giêsu đã về thăm quê hương và giảng trong hội đường. Theo cách trình  bày của Thánh Marco, thì không phải những người quê hương của Chúa không nhận thấy sự khôn ngoan nổi trội của một con người mang tên Giêsu! “Ông ta được khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Họ có thấy, và thấy quá rõ ràng đấy chứ, nhưng họ không muốn chấp nhận nghe và tin vào lời giảng của Ngài, một là vì lòng ganh tỵ và hai là vì chẳng mang lại lợi lộc gì trước mắt có thể nhai nuốt được.

Vì ganh tỵ,  lời giảng dạy của một con bác thợ mộc, hay chính người cũng là thợ mộc với nghề cha truyền con nối suốt ba mươi năm trời kia, thì có gì phải đáng nể phục. Con thợ mộc lại giảng trong hội đường lại là chuyện dở hơi hơn nữa! 

Vì lợi lộc trần gian, cho nên, dẫu cho ông Giêsu nghèo khó kia có nói lời vàng lời ngọc thì giá trị cũng không bằng  lời của người có vàng có ngọc khoe trước mắt họ, ban tặng cho họ.

Thánh kinh gọi họ là “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” quả là chính xác, vì họ đã không mở lòng ra để thay đổi một não trạng xưa cũ của con người: Não trạng duy vật, lấy vật chất làm cái gốc con người, dựa vào vật chất mà thẩm định giá trị con người. Cùng một xuất xứ địa lý, cùng một cảnh ngộ cơ cực, không thể có ai xuất chúng hơn mình! Và nếu có, cũng không cần phải công nhận làm gì cho mệt xác nếu không có lợi lộc gì cho mình.

Họ không muốn mở con mắt linh hồn ra mà nhìn thấy cái “thế” của Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, chính là Con của Thiên Chúa và cái “thân” của Ngài là “chính Ngài là Thiên Chúa”. Họ càng không thể thấy cái “ngân” của Ngài là kho tàng sự sống vĩnh cửu không mối mọt, không nhàu nát, không hoen gỉ, và đời đời không hề mất nhưng luôn tồn tại. Họ không muốn nghe cái “lý” của Ngài là chân lý thường hằng bất biến đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời! Họ “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” vì họ muốn nhìn thấy tận mắt cái hạnh phúc duy vật chất có thể ăn tươi nuốt sống được. Họ đang “đốt căn nhà muôn năm để luộc cho mình một quả trứng ăn liền”. Lòng họ không mở ra. Lòng họ đầy ích kỷ! Đúng như lời Thánh Nicôlas nhận định “Người ích kỷ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”.

Những con mắt thịt hai ngàn năm sau

Đã hơn  hai ngàn năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, con người vẫn luôn tự hào vì những thành quả văn minh tiến bộ tột bực, nhưng vẫn còn một điều chưa hề tiến bộ, chưa hề thay đổi: lòng ích kỷ vẫn còn tồn tại nơi một số con người, nếu không dám nói là toàn thể.

Lòng ích kỷ phát sinh từ lòng kiêu ngạo! Kiêu ngạo và ích kỷ đẻ ra trăm ngàn thứ tệ hại khác: ganh tị, đàn áp, chà đạp, bất chấp luân thường đạo lý, tẩy chay lẽ phải, thanh trừng chân lý… tất cả để phục vụ cho cái lợi lộc riêng mình, cho cái “trứng luộc ăn liền” của mình.

Có muôn vàn  thành tựu lớn lao của khoa học, chính trị, xã hội, nhưng  để phục vụ cho một cõi lòng hẹp hòi nhỏ bé tí teo thế sao! Có những văn minh rất đáng phục, nhưng lại là văn minh đưa dẫn con người vào chỗ tự hủy diệt thế sao? Số phận của Tin Mừng, qua các thời đại luôn phải đối mặt với sự tẩy chay của lòng người ích kỷ.  Số phận của các ngôn sứ vẫn luôn bị sự thanh trừng tàn sát vì lòng người không muốn ai can thiệp vào cái hủ riêng mình!  Cái hủ “trứng luộc ăn liền” chứa đầy những thèm khát hưởng thụ và tìm mọi phương thế để hưởng thụ!

Nghịch lý trầm kha này đã cho thấy rõ  chân tướng âm mưu của Satan quỉ dữ, luôn đối lập với Thiên Chúa, đối lập với Tin Mừng. Do đó, hai ngàn năm sau ngày Tin Mừng Giáng Thế, những con mắt thịt trần gian vẫn luôn trong tư thế tẩy chay Tin Mừng chỉ vì một lẽ: Tin Mừng đòi đổi mới. Mà đổi mới là bất lợi. Đổi mới là phải đổi lòng ích kỷ thành quảng đại, đổi lòng chai dạ đá hóa ra mềm mại, đổi mặt dày mặt dạn của satan nên khuôn mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa… Đổi mới là phải kiến tạo một thế giới của Thiên Chúa, kiến tạo một cộng đồng nhân loại theo tinh thần Tin Mừng, phải tái lập quan hệ với sự sống vĩnh cửu thay cho sự sống tạm bợ ở đời nầy… Không chấp nhận đổi mới, đồng nghĩa với việc giữ nguyên“mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” , mà “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu”

Những con mắt thịt ở trong nhà mình

Về với thực tế quanh ta, với hơn 80 triệu con người thân thương gần gũi nhất, cùng dòng máu, cùng màu da, cùng trải qua bao cuộc thăng trầm để bảo tồn nòi giống Tiên Rồng hùng anh Dũng Lạc, để nhìn lại hành trình của Tin Mừng Chúa Giêsu Cứu Thế. Số phận của Tin Mừng, của các Ngôn Sứ cũng không khác gì số phận Đức Giêsu ngày ấy. Nhưng niềm tự hào chân chính vẫn trào dâng trong chúng ta vì máu Các Thánh Tử đạo đã trổ sinh muôn ngàn hạt giống Đức Tin trên mảnh đất nầy.

Tuy nhiên, nếu Tin Mừng ở đâu cũng phải chung số phận chịu tẩy chay, chịu thanh trừng, thì ở nhà mình, ở đất nước mình chắc hẳn càng không tránh khỏi. “Thế, thân, ngân, lý” của Tin Mừng và các ngôn sứ Việt Nam chẳng khác gì “thế, thân, ngân, lý” của Chúa Giêsu Kitô ngày ấy- cũng đã bị lòng ích kỷ, tính kiêu ngạo, “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” tẩy chay tới mức triệt để. Một phần mười dân số chấp nhận Tin Mừng và chấp nhận đổi mới chưa đủ làm chứng rằng Chúa Giêsu không bị thanh trừng!  Lòng con người đang đóng kín, không muốn cho ánh sáng chân lý lọt vào, sợ đổi mới, vì họ đang có một hạnh phúc ảo. Hơn nữa, họ vẫn đang tìm mọi cách để kéo dài hạnh phúc ảo ấy đến muôn năm! Cái hạnh phúc tức thời của lòng ích kỷ. Là Cha là Mẹ, có lẽ không ai dám “khôn ba năm dại một giờ”“đốt nhà mình để luộc quả trứng ăn liền cho tương lai  cháu con lâm cảnh màn trời chiếu đất”. Cũng vậy, càng không thể liều lĩnh “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu” ở đời nầy vậy!

Để Tin Mừng được đón nhận trên quê hương, có người nghĩ rằng: chứng nhân tại một đất nước thắm máu các thánh tử đạo mà không chấp nhận tử vì đạo thì quả thật là vô lý! Nhưng cách tử-vì-đạo-cách-có-lợi cho mình và cho Giáo Hội nhất,  chắc chắn phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, phải theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để sống tốt cuộc sống Tin Mừng. Trong đó, có cả việc cần thiết phải nói cho những kẻ đốt nhà mình hoặc nhà người khác rằng: quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở mảnh đất nầy, ở trần gian nầy, nhưng là ở một Thiên Quốc vĩnh cửu. Anh có thể ăn một quá trứng luộc chính bằng cả giang san nầy đi nữa, thì anh có sống đời đời chăng? Có hạnh phúc đời đời chăng? Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin! “Hãy sám hối và tin và Tin Mừng”

Nguyện xin hướng dẫn của Thánh Phaolô Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” giúp chúng con kiên trì, kiên vững theo bước chân khiêm tốn nghèo hèn của Chúa Giêsu – nhưng rất mạnh mẽ, để đem hạnh phúc thật cho nhân loại..  Và cùng xác tín với Thánh Phaolô rằng: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”  (2Cr 12,9-10)

PM. Cao Huy Hoàng

 

GP.VINH: Sự việc vừa xảy ra tại giáo điểm Con Cuông ngày 1 tháng 7-2012

GP.VINH: Sự việc vừa xảy ra tại giáo điểm Con Cuông ngày 1 tháng 7-2012

Nguồn: Cônggiáo.info

Linh mục, giáo dân bị hành hung; ảnh tượng bị đập nát

Liên tiếp trong những thời gian qua, giáo dân tại giáo điểm Con Cuông (thuộc xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An) luôn chịu sự kìm kẹp, phân biệt đối xử và vu khống bởi chính quyền địa phương. Chính quyền liên tục cho người đe dọa, ngăn cản, khủng bố linh mục và bà con giáo dân. Gần đây nhất là sự kiện hàng trăm cán bộ và côn đồ đến quấy rối, ngăn cản không cho linh mục GB. Nguyễn Đình Thục cử hành Thánh lễ mừng kính thánh Gioan Tẩy giả ngày 24.6.2012. Sự kiện hôm nay 1.7.2012 là cao điểm và là kết quả những toan tính lâu dài, được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng của các thế lực đen tối.

Theo lời của nữ tu Đinh Thị Bắc thì vào lúc 11 giờ 50 phút, xe công an, xe tuyên truyền của Phòng Văn hóa huyện Con Cuông, dân phòng và một nhóm côn đồ đã tập trung trước cổng nhà nguyện giáo điểm Con Cuông. Công an tiến hành phá khóa lao vào và dùng vũ lực của số đông trấn áp hai nữ tu Đinh Thị Bắc và Hồ Thị Hiền đang phục vụ tại đây. Công an viên Phạm Văn Tuyên đã đấm đá một nữ giáo dân tên là Bảy khi chị lên tiếng đòi nhóm người này dừng việc hành hung các nữ tu.

Đến 13 giờ 30, một số bà con cư trú tại giáo điểm Con Cuông đã đến nhà nguyện và bắt đầu đọc kinh. Khoảng 50 người bắt đầu la ó, gào thét, xô đẩy giáo dân ra khỏi nhà nguyện. Đội ngũ cán bộ và nhóm côn đồ lúc trưa ùa vào nhạo cười, đập phá bàn ghế, hoa nến, chén đĩa. Nghiêm trọng nhất là việc đập nát tượng Đức Mẹ trên cung thánh.

Vào khoảng 14 giờ, khi linh mục GB. Nguyễn Đình Thục đặt chân tới khuôn viên nhà nguyện để chuẩn bị cử hành thánh lễ Chúa nhật, lập tức, bị một số cán bộ và nhóm người đông đảo đang đợi sẵn ùa đến bao vây yêu cầu linh mục không được cử hành thánh lễ và đấm đá túi bụi vào ngài. Bà con giáo dân thấy họ đánh đập cha xứ như vậy thì xông lên chịu đòn thay. Vì giáo dân ít nên họ tiếp tục càn lướt, đánh đập làm bị thương nhiều người. Đặc biệt, có trường hợp chị Maria Ngô Thị Thanh bị côn đồ dùng loa cầm tay đánh vào đầu gây chấn thương dập sọ não, hiện đang phải cấp cứu tại Hà Nội. Tuy nhiên sau đó, số giáo dân ít ỏi đã cố gắng đẩy lui những người xúc phạm nơi thánh. 41 người phía chính quyền chiếm giữ nhà nguyện thấy tình hình bên ngoài bất ổn nên chốt cửa, tự giam mình bên trong.

Linh mục GB. Nguyễn Đình Thục đã dâng lễ ngay tại sân nhà nguyện vì các đối tượng bên trong không chịu mở cửa. Mái ngói của nhà nguyện luôn phải hứng chịu những trận mưa gạch đá, các cánh cửa nhà nguyện bị tháo dỡ. Bà con hoang mang chứng kiến sự hiện diện của cảnh sát cơ động 113 và một lực lượng quân đội với súng ống sẵn sàng chĩa vào nhà nguyện.

Cùng thời điểm đó, nhận được tin linh mục và bà con đồng đạo của mình gặp nạn, đông đảo giáo dân hạt Bột Đà lên hiệp thông, san sẻ những đau thương hoạn nạn đang xẩy đến với họ. Toàn thể giáo dân có mặt hết sức bất bình và phẫn nộ trước cảnh nhà cầm quyền trấn áp và bắt đi nhiều tín hữu. Nhóm 41 đối tượng trên có cả một số thành viên ban ngành cấp huyện, xã và côn đồ sợ hãi trước tinh thần giáo dân nên không dám rời ra khỏi nhà nguyện. Số đối tượng quá khích còn lại phía ngoài vẫn tìm cách khống chế bà con giáo dân. Khi Thánh lễ đang diễn ra, có hai đối tượng người Thanh Chương xông vào ném đá nhà nguyện. Giáo dân đã giữ lại và họ khai báo là chính quyền địa phương đã trả 500.000 đồng cho một lần đến quấy rối.

Đến 16 giờ 30' cùng ngày, sau khi thánh lễ kết thúc, ông Vi Văn Kim, Phó chủ tịch huyện Con Cuông; ông Hoàng Đình Tấn, Trưởng công an huyện; ông Bằng, công an tỉnh Nghệ An đã vào làm việc. Ông Kim buộc phải thừa nhận những việc làm trên đây là sai trái và nói lời xin lỗi trước mặt đông đảo bà con giáo dân đang hiện diện.

4 giờ sau, bất chấp sự đe dọa từ phía chính quyền, giáo dân vẫn tập trung đông đảo yêu cầu chính quyền lập biên bản làm rõ sự việc đã xảy ra. Mãi đến 22 giờ, sau nhiều lý do quanh co để nhằm chối bỏ trách nhiệm, biên bản cũng được lập xong theo đúng những gì đã xảy ra nhưng lại phải “chờ con dấu”. Trong biên bản, phía chính quyền buộc phải thừa nhận việc cho người đến quấy phá, đánh đập giáo dân, xúc phạm ảnh tượng, nơi thờ tự là những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật và gây chia rẽ khối đoàn kết trong quần chúng nhân dân.

Đến 3 giờ 30' sáng ngày 02.07.2012, trật tự tại giáo điểm Con Cuông mới được vãn hồi. Sau đêm thức trắng đảm bảo an toàn tính mạng cho bà con đồng đạo tại xã Yên Khê và phụ cận, giáo dân các nơi bắt đầu ra về trong tâm trạng bất an vì những nhức nhối chưa được chính quyền cộng tác giải quyết tại đây.

Sự kiện này mới chỉ là bước khởi đầu cho những âm mưu đen tối của thế lực sự dữ. Mặc dầu vậy, bà con giáo dân tại giáo điểm Con Cuông, cùng với sự hiệp thông chia sẻ của giáo dân toàn giáo phận, luôn sẵn sàng vác lấy thập giá Đức Kitô, trên bước đường mưu cầu bình an, tự do tôn giáo, để công lý và hòa bình được thực thi trên mảnh đất miền tây xứ Nghệ.

Để chia sẻ với những đau thương của anh chị em giáo dân Con Cuông, xin mọi người cùng hiệp ý cầu nguyện cho các nạn nhân của bạo quyền và bất công; cầu cho các cấp lãnh đạo chính quyền sớm nhận ra những nhu cầu chính đáng, những quyền lợi cơ bản của người dân được đáp ứng.

 

Đồng Lam

(GPVO 3.7.2012)

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: chúa nhật 1-7-2012

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: chúa nhật 07-01-2012

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa chúa nhật 07-01-2012, ĐTC mời gọi các tín hữu hoạt động trong ngành y tế hãy biểu lộ lòng từ bi và yêu thương của Chúa cho các bệnh nhân.

Tham dự buổi đọc kinh có hàng ngàn tín hữu hành hương tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô, dưới bầu trời nắng gay gắt của mùa hè. Đây là buổi đọc kinh truyền tin cuối cùng tại Quảng trường này trước khi ĐTC di chuyển đến Dinh thự mùa hè ở Castel Gandolfo từ chiều thứ ba, 07-03-2012, và ngài chỉ trở lại Vatican vào cuối tháng 9 tới đây.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài diễn giải về ý nghĩa bài Tin Mừng chúa nhật thứ 13 thường niên hôm qua, với giai thoại Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành một em bé gái và một phụ nữ bị bệnh băng huyết. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật hôm nay, thánh sử Marco kể lại cho chúng ta trình thuật hai cuộc chữa lành bệnh một cách lạ lùng mà Chúa Giêsu thực hiện cho hai người nữ: trước tiên là con gái của một thủ lãnh Hội đường tên là Giairo, và tiếp đến là một phụ nữ bị bệnh băng huyết (Xc Mc 5,21-43). Đó là hai giai thoại trong đó ngươi ta có thể đọc ở hai bình diện: bình diện thể lý thuần túy: Chúa Giêsu cúi mình trên đau khổ của nhân loại và chữa lành thân xác; và bình diện thiêng liêng: Chúa Giêsu đến để chữa lành tâm hồn con người, ban cho họ ơn cứu độ và kêu gọi họ hãy tin nơi Ngài. Thực vậy, trong giai thoại thứ nhất, khi hay tin con gái của Ông Giairo đã chết, Chúa Giêsu nói với viên thủ lãnh Hội đường: ”Đừng sợ, nhưng hãy tin!” (v.36), ngài dẫn ông đi vào nơi em bé gái đang nằm và Ngài kêu lên: ”Hỡi bé gái, Ta bảo con: hãy chỗi dậy!” (v.41). Và em bé chỗi dậy, bước đi. Thánh Giêrônimo chú giải những lời này, nhấn mạnh đến quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu: ”Hỡi em bé, hãy chỗi dậy cho Ta: không do công trạng của con, nhưng do ơn thánh của Ta. Vậy con hãy trỗi dậy cho Ta: sự kiện được chữa lành không tùy thuộc sức mạnh của con” (Omelie sul Vangelo di Marco,3).

”Giai thoại thứ hai, – người đàn bà bị bệnh băng huyết, – lại làm nổi bật thể thức Chúa Giêsu đến để giải thoát con người trong toàn thể. Thực vậy, phép lạ diễn ra theo hai giai đoạn: trong giai đoạn thứ nhất diễn ra sự chữa lành thể lý, nhưng giai đoạn này có liên hệ chặt chẽ với sự chữa lành sâu xa hơn, sự lành bệnh mà ơn thánh của Chúa ban cho những người cởi mở tin tưởng nơi Ngài. Chúa Giêsu nói với phụ nữ: ”Hỡi con, đức tin đã cứu con. Con hãy đi bình an và được lành khỏi bất hạnh của con!” (Mc 5,34).

Hai giai thoại lành bệnh này, đối với chúng ta, là một lời mời gọi hãy vượt lên trên quan niệm hoàn toàn theo chiều ngang và duy vật về cuộc sống. Chúng ta xin Chúa giải thoát khỏi bao nhiêu vấn đề, khỏi những khốn khó cụ thể, và đó là điều chính đáng, nhưng điều mà chúng ta phải nài nỉ cầu xin, chính là một niềm tin ngày càng vững chắc, xin Chúa đổi mới cuộc sống chúng ta và xin một niềm tín thác vững mạnh nơi tình yêu, nơi sự quan phòng của Chúa, Ngài không bỏ rơi chúng ta.

Chúa Giêsu quan tâm đến đau khổ của con người, ngài cũng giúp chúng ta nghĩ đến tất cả những người đang giúp các bệnh nhân vác thánh giá của họ, đặc biệt là các bác sĩ, các nhân viên y tế và các vị tuyên úy nhà thương. Họ là ”những kho dự trữ tình thương” mang lại thanh thản và hy vọng cho những người đau khổ. Trong thông điệp ”Deus caritas es”, Thiên Chúa là tình thương, tôi đã nhận xét rằng trong việc phục vụ quí giá ấy, trước tiên cần có khả năng nghề nghiệp chuyên môn – đó là một nhu cầu cơ bản đầu tiên, – nhưng khả năng này tự nó không đủ. Thực vậy, con người còn cần tình người và cần sự quan tâm của người khác. ”Vì thế, ngoài việc chuẩn bị về nghề nghiệp, các nhân viên y tế ấy còn cần đặc biệt một sự ”huấn luyện về tâm hồn”: cần dẫn đưa các bệnh nhân đến cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, trong Chúa Kitô là Đấng khơi dậy nơi họ tình thương và cởi mở tâm hồn họ đối với tha nhân” (n.31).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria tháp tùng hành trình đức tin của chúng ta và sự dấn thân yêu thương cụ thể của chúng ta, nhất là đối với những người đang ở trong tình trạng khốm khó, đồng thời chúng ta cầu xin sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ cho các anh chị em đang chịu đau khổ trong thân xác và tinh thần.

Chào thăm bằng các thứ tiếng

Sau khi ban phép lành, như thường lệ, ĐTC chào thăm các tín hữu hành hương bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Sloveni, Ba Lan và Italia. Ngài không quên gửi đến họ những lời nhắn nhủ thích hợp.

Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến các hội viên Hội Bạn hữu thánh nữ Veronica ở Liban, và nói rằng: ”Trong mùa hè này, tôi mời gọi anh chị em hãy biết dành thời giờ cho Thiên Chúa. Hãy biết làm chứng về sự hiện diện của Chúa giữa chúng ta. Hãy trở thành những người mang lòng từ bi và sự dịu hiền của Chúa đến cho mỗi người mà anh chị em gặp, nhất là những người đau khổ. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta hãy gạt qua những sợ hãi và nghi ngờ của chúng ta, và hãy hãnh diện làm chứng về niềm tin của chúng ta.

Với các tín hữu tiếng Đức, ĐTC nói: ”Tôi vui mừng chào tất cả các tín hữu và du khách nói tiếng Đức. Tin Mừng theo thánh Marco mà chúng ta đọc trong năm nay vẫn thuật lại cho chúng ta những lần Chúa Giêsu chữa lành và hồi sinh cho những người bị người khác cô lập và bị bỏ rơi. Tình thương của Thiên Chúa trao ban sự sống và cộng đoàn hiệp thông. Nhưng chúng ta chỉ thực sự là những người được lãnh nhận hồng ân nếu chúng ta cũng trở thành những người trao ban. Chỉ khi trao ban, từ bỏ và trao tặng, thì chúng ta mới nhận lãnh điều mà chúng ta không đáng lãnh nhận. Xin Chúa Thánh Linh hướng dẫn và ban ánh sáng của Ngài cho anh chị em để cởi mở đối với điều thiện và kiện toàn những điều ấy”.

Với các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha, ĐTC đặc biệt nhắc đến các bạn trẻ thuộc giáo xứ thánh Augustino ở Guadalix. Ngài nói: ”Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với ông Giairo: ”Đừng sợ nhưng hãy tin” và cầm tay con gái của ông, Ngài làm cho em hồi sinh. Anh chị em thân mến, qua đức tin, Chúa Giêsu làm cho chúng ta được tham dự chính sự sống thần linh của Ngài. Ước gì thời kỳ nghỉ hè này là một cơ hội để củng cố đức tin, qua việc cầu nguyện và bác ái.”

Sau cùng, khi chào thăm bằng tiếng Ý, ĐTC nhắc đến các tín hữu thuco giáo xứ thánh Gioan Tẩy Giả ở Latisana và các giáo dân thuộc gia đình thánh Camillo ở miền Piemonte tây bắc Italia. Cho tất cả mọi người, Ngài cầu chúc một chúa nhật tốt đẹp và một tháng 7 thanh thản, nghỉ hè an vui.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 43 vị Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 43 vị Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN. Sáng ngày 29-6-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ mừng kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ và trao dây Pallium cho 43 vị TGM chính tòa.

Dây Pallium là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình thánh giá màu đen, biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô.

43 vị TGM đến từ 27 quốc gia, đứng đầu là ĐHY Rainer Maria Woelki, TGM giáo phận Berlin, thủ đô nước Đức, và ĐHY Francisco Robles Ortega TGM giáo phận Guadalajara bên Mêhicô. Xét về quốc tịch, có 7 vị TGM nguòi Brazil, trong khi đó Hoa Kỳ, Canada và Philippines, mỗi nước có 4 vị TGM nhận dây Pallium lần nay; Italia và Ba Lan mỗi nước có 3 vị; Mêhicô, Ấn độ và Australia, mỗi nước có 2 vị. Có hai vị TGM người Ghana và Canada cũng xin dây Pallium, nhưng không đến Roma được, và sẽ nhận dây này qua vị Sứ thần Tòa Thánh.

Nghi thức trao giây Pallium năm nay được thu ngắn hơn: tên của các vị TGM được xướng lên trước khi ĐTC đi rước lên bàn thờ; và được cử hành ngay đầu buổi lễ, thay vì sau bài giảng như mọi khi, để nhấn mạnh rằng nghi thức này không phải là bí tích và để tránh cho việc cử hành Thánh Lễ bị ”gián đoạn” vì một nghi thức khá dài, với khoảng 45 vị TGM mỗi năm.

Trong số hơn 9 ngàn người hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô, có phái đoàn của tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Emmanuel tại Pháp hướng dẫn, tiếp đến 40 Hồng Y, lối 50 GM, và ngoại giao đoàn và chính quyền dân sự. Đặc biệt năm nay có Ca đoàn của Đan viện Westminster của Anh giáo ở Luân đôn cùng với ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, đảm nhận phần thánh ca trong buổi lễ.

Bài giảng

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng kể lại cuộc tuyên xưng của thánh Phêrô về Chúa Giêsu là Đức Messia và là Con Thiên Chúa, và Chúa tỏ lộ cho Phêrô sứ mạng trở thành ”đá tảng”, là nền tảng hữu hình trên đó toàn thể tòa nhà thiêng liêng của Giáo Hội được xây dựng (Xc Mt 16,16-19). Ngay sau đó, Chúa tiên báo cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Ngài, và Ngài khiển trách Phêrô vì đã ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa. ĐTC nói:

”Người môn đệ, do ơn Chúa, có thể trở thành đá tảng vững chắc, những cũng tỏ ra thực chất của mình, trong sự yếu đuối của con người: là một tảng đá trên đường, một tảng đá mà người ta có thể vấp phải – tiếng Hy Lạp là skandalon… Trong cảnh tượng này giữa Chúa Giêsu và Simon Phêrô, chúng ta thấy trước được phần nào thảm kịch lịch sử của chính chức Giáo Hoàng, trong đó có hai yếu tố cùng hiện diện: một đàng nhờ ánh sáng và sức mạnh đến từ trên cao, chức Giáo Hoàng là nền tảng của Giáo Hội lữ hành trong thời gian; và đàng khác qua dòng lịch sử ta cũng thấy rõ sự yếu đuối của con người mà chỉ có sự cởi mở đối với hoạt động của Thiên Chúa mới có thể biến đổi”.

Nhấn mạnh đến lời Chúa Giêsu hứa ”Các cửa hỏa ngục, nghĩa là những quyền lực của sự ác, cũng không thể thắng nổi Giáo Hội được xây dựng trên đá tảng Phêrô, ĐTC nói: ”Trong thực tế, lời hứa của Chúa Giêsu với Phêrô lớn lao hơn so với các lời hứa cho các ngôn sứ Cựu Ước: thực vậy, các ngôn sứ chỉ bị những kẻ thù phàm nhân đe dọa, trong khi Phêrô được bảo vệ chống lại các cửa hỏa ngục, chống lại quyền lực phá hoại của sự ác… Lời Chúa hứa với Phêrô liên hệ tới tương lai của Giáo Hội, tương lai của cộng đồng mới được Chúa Giêsu Kitô thiết lập và kéo dài trong mọi thời gian, vượt lên trên cuộc sống của chính Phêrô”.
ĐTC cũng giải thích ý nghĩa biểu tượng chìa khóa được Chúa Giêsu trao cho Phêrô và các môn đệ, nói lên quyền tháo cởi ”Tất cả những gì các con ràng buộc dưới đất, trên trời cũng ràng buộc, và tất cả những gì các con tháo cởi dưới đất, trên trời cũng được tháo cởi” (Mt 18,18).

ĐTC nói rằng những sự kiện ấy phản ánh điều này là ”Giáo Hội không phải là một cộng đoàn những người trọn hảo, nhưng là những người tội lỗi phải nhìn nhận mình cần tình thương của Thiên Chúa, cần được thanh tẩy qua Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô. Những câu nói của Chúa Giêsu về quyền bính của Phêrô và các Tông Đồ tỏ cho thấy rằng quyền bính của Thiên Chúa là tình thương, tình thương chiếu tỏa ánh sáng của Ngài từ Calvario. Vì thế chúng ta cũng có thể hiểu tại sao, trong trình thuật Tin Mừng, tiếp theo sự tuyên xưng đức tin của Phêrô là lời loan báo đầu tiên của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài. Thực vậy, qua cái chết của ngài, Chúa Giêsu đã chiến thắng quyền lực của hỏa ngục, trong máu ngài, ngài đã đổ xuống trần thế một dòng sông từ bi vô biên tưới gội cho toàn nhân loại bằng những dòng nước chữa lành”.

Trong phần kết luận, ĐTC nhắn nhủ các vị TGM chính tòa rằng: ”Dây Pallium mà tôi đã trao cho anh em sẽ luôn nhắc nhở cho anh em rằng anh em được thiết lập trong và cho mầu nhiệm cao cả về sự hiệp thông là Giáo Hội, là tòa nhà thiêng liêng được xây dựng trên Chúa Kitô là Đá Góc, và trong chiều kích trần thế và lịch sử của Giáo Hội, tòa nhà ấy được xây dựng trên đá tảng Phêrô. Được xác tín ấy linh hoạt, tất cả chúng ta cùng cảm thấy mình là những cộng tác viên của chân lý, và chúng ta biết rằng chân lý này là duy nhất, và là một hợp thanh, đòi mỗi người chúng ta và các cộng đoàn của chúng ta liên lỷ dấn thân hoán cải, trở về cùng Chúa duy nhất trong ở ơn thánh của Thánh Thần duy nhất”.

Kinh Truyền tin

Lúc 12 giờ trưa cùng ngày 29-6-2012, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh truyền tin với hàng ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Hiện diện tại Quảng trường có nhiều đại diện các phong trào và hội đoàn của giáo phận Roma mang các biểu ngữ biểu lộ tình hiệp thông và hỗ trợ sứ vụ của ĐTC, nhất là trong thời kỳ khó khăn hiện nay.
Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC nhắc nhở rằng ”hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô không phải chỉ chiếu sáng trên bầu trời Roma mà thôi, nhưng còn ở trong tâm hồn mọi tín hữu, được giáo huấn và gương lành của hai vị soi sáng, đang tiến bước ở mọi nơi trên thế giới trên con đường đức tin, cậy, mến”.

”Trên con đường cứu độ ấy, cộng đồng Kitô được sự hiện diện của Thánh Linh Thiên Chúa hằng sống nâng đỡ, cảm thấy được khích lệ tiếp tục tiến bước mạnh mẽ và thanh thản trên con đường trung thành với Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng của Chúa cho con người mọi thời đại. Chính trong hành trình thiêng liêng và truyền giáo phong phú ấy có lễ nghi trao dây Pallium cho các vị Tổng GM chính tòa mà tôi cử hành sáng nay tại Đền thờ Thánh Phêrô”.
ĐTC giải thích rằng nghi thức hùng hồn này nêu bật sự hiệp thông sâu đậm của cac vị Chủ Chăn với Người Kế vị thánh Phêrô, và mối giây liên hệ sâu xa nối kết chúng ta với truyền thống tông đồ. Đây chính là hai kho tằng thánh thiện, làm nền tảng cho sự hiệp nhất và tính chất Công Giáo của Giáo Hội: một khó tàng quí giá cần tái khám phá va sống thực với tất cả lòng nhiệt thành và dấn thân liên tục”. (SD 29-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Ngày quốc tế chống nạn tra tấn

Ngày quốc tế chống nạn tra tấn

Thứ ba 26-6-2012 là Ngày quốc tế chống nạn tra tấn. Ngày này đã do Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1987, tức cách đây 25 năm, để gây ý thức cho người dân thế giới đối với một tệ nạn kinh khủng vẫn còn được duy trì tại nhiều nước, mặc dù đã có luật cấm. Mục đích của ngày này cũng là để tỏ tình liên đới với hàng chục triệu nạn nhân bị tra tấn, hay bị đối xử tàn ác vô nhân và hạ nhục phẩm giá con người. Ngoài ra, Ngày quốc tế chống nạn tra tấn đã được Liên Hiệp Quốc thành lập để tái khẳng định quyền bình đẳng và các quyền bất khả xâm phạm của con người, là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới.

Tra tấn là một tội phạm chống lại nhân loại và nền dân chủ, vì nó xúc phạm tới các quyền con người và tàn ác không tha ai, kể cả các trẻ em, như các biến cố xảy ra mới đây bên Siria đã minh chứng. Nó là một tội phạm xảy ra tại các nước đang bị xâu xé vì chiến tranh xung khắc, hay bị cai trị bởi các chế độ độc tài, và cả trong các nước viện cớ ”an ninh quốc gia” để duy trì hay dung thứ cho tội tra tấn. ”An ninh quốc gia” là cớ được các chính quyền độc tài thường xuyên đưa ra để bắt bớ và bách hại các người bất đồng chính kiến, hay để tiêu diệt bất cứ ai mà họ coi là nguy hiểm cho quyền lực độc tài của họ. Tội danh rất mơ hồ của các nạn nhân luôn luôn là ”vi phạm luật lệ an ninh quốc gia, gây rối loạn và phá hoại tình đoàn kết dân tộc”. Mơ hồ nhưng qúa dư đủ để bị kết án và nhốt tù hàng chục năm, mặc dù họ chẳng có tội vạ gì. Điển hình như trong trường hợp của các nước còn đang bị chế độ cộng sản cai trị như Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Trong các chế độc tài đảng trị này, nhà nước không chỉ tra tấn các tù nhân, mà ”tra tấn nhân dân toàn nước” với chính sách gian dối, lừa đảo ”nói một đàng làm một nẻo”, quanh năm ngày tháng từ trung ương tới địa phương; với chủ trương ngu dân, nhồi sọ, lèo lái độc quyền huy động toàn lực truyền thông bóp méo sự thật. Không chỉ bằng lòng với việc ”nô lệ hóa toàn dân” bằng cách tước đoạt hết mọi quyền tự do của họ, với các báo đài và truyền hình nô lệ một chiều nhà nước liên lỉ ”tra tấn tinh thần và tâm lý nhân dân toàn nước”, hết thập niên này sang thập niên khác.

Thống kê năm 2011 của tổ chức Ân xá quốc tế cho biết trên thế giới vẫn còn có 101 quốc gia thi hành tra tấn, và trong nhiều trường hợp là chống lại những ai tham gia các cuộc biểu tình chống chính quyền. Điều 1 của Tuyên ngôn chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc công bố năm 1984 nhắc cho mọi người biết đây là ”một hành động, qua đó người ta cố ý gây ra đau đớn hay khổ sở mạnh mẽ thể lý hay tâm thần cho một người, nhằm lấy tin tức hay các lời khai thú để trừng phạt hay đe dọa họ”. Đã có 145 nước phê chuẩn tuyên ngôn này trong đó có Italia, nhưng cho tới nay 21 năm sau khi ký nhận chính quyền Italia vẫn chưa đưa ra luật chống nạn tra tấn.

Một số đông các nạn nhân của tra tấn là người tị nạn. Thống kê của Ủy ban Italia đặc trách người tị nạn, từ 16 năm qua chuyên phối hợp các dự án tiếp đón và săn sóc người tị nạn, cho biết cứ 4 người tị nạn thì có một người là nạn nhân của tra tấn. Nhân Ngày quốc tế chống nạn tra tấn, chiều 25-6-2012 Ủy ban đã tổ chức một buổi trình diễn kịch nghệ do các người tị nạn đảm trách tại rạp hát Quirino ở Roma. Cũng đã có các cuộc đốt đuốc biểu tình tại nhiều nơi.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn mốt số nhận định của ba Fiorella Rathaus, đặc trách Ủy ban Italia về người tị nạn, về các dự án trợ giúp các nạn nhân của tệ nạn tra tấn.

Hỏi: Thưa bà, xin bà cho biết một vài nhận định và kinh nghiệm của bà đối với các nạn nhân của tệ nạn tra tấn.

Đáp: Người bị tra tấn thường là một người đã bị đánh đập trên thân xác, nhưng cũng rất thường khi bị đánh đập trong tâm thần nữa, vì thế chúng tôi thích nói tới các ”vết thương vô bình”. Đó là một người đã bị đánh đập để khai thác tin tức và bị bắt buộc phải cộng tác, nhưng cũng nhiều khi là để cho nạn nhân hay cộng đoàn mà nạn nhân là thành phần phải thinh lặng. Vì thế chúng ta có thể nói rằng tra tấn là một phương thế, qua đó người ta tìm cách bịt miệng bất cứ ai chống đối quyền bính đang cai trị bằng bất cứ cách nào. Tra tấn là cái gì nhắm hủy diệt căn tính sâu xa của người bị tra tấn. Và rất tiếc nó là điều cũng được thi hành tại các nước mà chúng ta cho là dân chủ nữa. Tuyệt đối nó không phải chỉ là một hiện tượng xảy ra trong những trường hợp qúa quắt, hay trong các chế độ độc tài; và trong các năm trở lại đây chúng đã chứng minh cho thấy một cách tỏ tường như vậy.

Hỏi: Thưa ba, nạn tra tấn cũng là tệ nạn liên quan tới phái tính. Trong số các nạn nhân cũng có nhiều phụ nữ, có đúng thế không?

Đáp: Đúng vậy. Và trên nữ giới thì nạn tra tấn luôn luôn được thi hành qua việc hãm hiếp họ. Các sự kiện đã xảy ra tại cựu Yugoslavi đã đậy cho chúng ta biềt rằng hãm hiếp phụ nữ là một ”dụng cụ chiến tranh đích thực”. Trên thân thể của người đàn bà người ta gây chiến giữa nam giới, trong một cách thức nào đó. Đây là một tệ nạn thê thảm không chỉ xảy ra tại cựu Yugoslavi, mà cũng đã xảy ra tại Rwuanda trên các phụ nữ Tutsi. Cho tới nay chúng ta đã đề cập tới sự kiện phụ nữ bị sử dụng để tấn công cộng đoàn nam giới, nhưng thật ra nó cũng liên quan tới phụ nữ dấn thân trong lãnh vực chính trị hay trong các lãnh vực khác. Trong các trường hợp này phụ nữ bị bách hại bởi các lý do khác, và tra tấn luôn luôn và cần thiết là hình thức hãm hiếp.

Hỏi: Các nạn nhân mà Ủy ban của qúy vị trợ giúp đến từ các nước nào trên thế giới thưa bà?

Đáp: Ủy ban Italia đặc trách người tị nạn thường gặp gỡ các nạn nhân đến từ Phi châu. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng tai Italia chẳng hạn, các người đến từ châu Mỹ Latinh xin tị nạn khá hiếm. Vì thế tôi không muốn đưa

ra một kết luận chung thực sự chú ý tới tình hình xảy ra trên thế giới. Chúng ta biết rằng tại hơn 100 quốc gia nạn tra tấn rất là phổ biến, và đó là điều khiến cho chúng tôi lo lắng. Nạn tra tấn cũng được sử dụng tại các nước nổi tiếng là ”dân chủ”, vì thế tôi tránh định nghĩa các quốc gia tốt các quốc gia xấu. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, chúng tôi có nhiều nạn nhân đến từ các nước như Ivory Coast, Cộng hòa dân chủ Congo, là quốc gia bị nội chiến tàn phá từ bao nhiêu năm nay, và là nơi đã xảy ra các vụ tra tấn và bạo lực vượt ngoài mọi tiêu chuẩn và quy chiếu có thể có. Thề rồi cũng có các kinh nghiệm tột cùng của các nạn nhân đến từ các nước như Afghanistan, một quốc gia bị chiến tranh tàn phá. Rồi cũng còn có Somalia nữa. Thật khó mà chỉ cho thấy đâu là đầu và đâu là cuối của danh sách. Mới đây chúng tôi đã tiếp nhận nhiều người đến từ Eritrea, họ đã bị tra tấn tại quê hương đất nước của họ, và cũng bị tra tấn trong cuộc hành trình, rồi trong thời gian sống trong các trại giam bên Libya nữa.

Hỏi: Thưa bà Rathaus, có yếu tố nào chung cho tất cả các nạn nhân qua tới Italia không: họ hoàn toàn bị tàn phá, hay căn tính của họ bị hủy hoại?

Đáp: Vâng, tuyệt đối là như thế. Điều xảy ra như phản ứng từ con người của họ bộc lộ ra ngoài là sự ”bùng nổ tâm linh”. Và đấy là mục đích mà nạn tra tấn nhắm tới: đó là hủy diệt căn tính sâu xa của con người họ. Chúng tôi từng trông thấy những người gặp các khó khăn cùng cực. Nhìn thấy sự dữ một cách cận kề như vậy, sự dữ nhập thể, sự dữ mà một người cố ý làm cho một người khác, là một kinh nghiệm tuyệt đối không thể nào tả nổi. Tôi phải nói rằng đó là một kinh nghiệm, mà đối với cả chúng tôi là những người nghe kể lại các chuyện khác nhau, nó cũng tàn phá và không thể kể được. Thật ra, chúng ta thử tìm các từ của con người để bước vào trong một lãnh vực không còn tí gì là nhân bản nữa, mà chỉ còn là vô nhân thuần túy mà thôi.

Hỏi: Trong các năm qua, tức từ hơn 15 năm qua, y ban Italia đc trách người tị nạn đã đề ra một loạt các hoạt động nhằm nâng đỡ các anh chị em nạn nhân của tra tấn: từ trợ giúp pháp lý cho tới trợ giúp tâm lý vv… Thế thì có khả thế phục hồi nào cho các nạn nhân hay không thưa bà?

Đáp: Tại những nơi việc trợ giúp được thực hiện sớm, thì chắc chắn có các khả thể phục hồi. Tra tấn nhắm tàn phá căn tính sâu xa của bản vị con người. Nhiệm vụ của chúng tôi là tái lập cho bản vị của họ tất cả những gì có thể giúp họ hồi phục các mảnh căn tính đã bị xé rách và hủy diệt đó, tất cả những gì có thể giúp các nạn nhân nối kết lại các mảnh căn tính bị gẫy vụn ấy. Tại những nơi có thể can thiệp một cách mau chóng trong việc săn sóc y tế và tâm lý, thì có sự thành công đối với các khả năng hồi phục một cách rõ ràng. Chúng là các vết thương bên trong, bị chôn vùi đâu đó trong tâm trí, và nguy cơ đó là chúng có thể tái xuất hiện. Mặc đầu vậy, có thể thành công trong việc đạt tới một mức độ sống đứng đắn nào đó, và chúng tôi phải nhắm tới việc đạt mức độ ấy. Nói đến chuyện lành hoàn toàn là điều hơi lý thuyết. Nhưng chắc chắn là chúng tôi trợ giúp các nạn nhân trong các lộ trình hồi phục khiến cho chúng tôi phải nín thở, sau 15 năm hoạt động; và cũng rất may là chúng trao trả cho chúng tôi các cảm xúc nền tảng sâu đậm của con người.

(RG 25-6-2012)

Linh Tiến Khải

Công bố Văn kiện của Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc mục vụ ơn gọi linh mục

Công bố Văn kiện của Bộ Giáo Dục Công Giáo về việc mục vụ ơn gọi linh mục

VATICAN. Sáng 25-6-2012, Bộ giáo dục Công Giáo đã công bố văn kiện mới, tựa đề ”Những đường hướng mục vụ ơn gọi linh mục”.

Văn kiện dài lối 30 trang, soạn thảo trong vòng 7 năm qua, được ĐTC cho phép công bố ngày 25-3 năm nay và đã được ĐHY Tổng trưởng Zenon Grocholewski, Đức TGM Jean Louis Bruguès Tổng thư ký và Đức Ông Phó tổng thư ký Vencenzo Zani, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Ba phần của Văn kiện lần lượt trình bày ”Việc mục vụ ơn gọi trong thế giới ngày nay” (I); ”Ơn gọi và căn tính của chức linh mục thừa tác” (II) và sau cùng là ”Các đề nghị cụ thể cho việc mục vụ ơn gọi LM” (III).

Tài liệu này chủ yếu nói về tình trạng tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu đang bị khan hiếm ơn gọi LM một cách trầm trọng; trong số những nguyên nhân góp phần gây ra tình trạng này, có tình trạng giảm sút dân số và cuộc khủng hoảng gia đình, hiện tượng tục hóa, gương mù lạm dụng tính dục do một số LM, những ý tưởng sai lầm trong nội bộ Giáo Hội đưa tới sự coi rẻ đoàn sủng và sự chọn lựa độc thân, v.v. Nhiều cha mẹ, với những mong đợi về tương lai của con cái, nên ít quan tâm đến sự kiện con cái có thể được ơn gọi làm linh mục”. Cản trở ơn gọi LM, cũng có thể là chính đời sống LM bị thu hút vào sự miệt mài làm việc, với hậu quả là bị các hoạt động mục vụ đè bẹp, làm lu mờ và suy yếu kinh nghiệm sáng ngời về linh mục”.

Trong số những đề nghị cụ thể, Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo nhấn mạnh đến chứng tá vui tươi và trung thành của linh mục trong sứ vụ, đây có thể là một hình ảnh thu hút mạnh mẽ nơi giới trẻ về chức linh mục; ngoài ra có kinh nghiệm về thiện nguyện; học đường như một môi trường quan tâm đến sự huấn luyện con người toàn diện..

Họp báo

Trong cuộc họp báo, ba vị lãnh đạo của Bộ Công Giáo lần lượt giới thiệu nội dung 3 phần của Văn Kiện:

1. ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, đã giới thiệu lai lịch văn kiện và nội dung phần thứ I. Ngài cho biết tiến trình soạn Văn kiện đã diễn ra trong 7 năm, qua các Đại hội của Bộ giáo dục Công Giáo. Đại hội năm 2005 với sự tham dự của các HY và GM thành viên, đã thảo luận về ơn gọi LM và yêu cầu đào sâu vấn đề để chuẩn bị một văn kiện về việc cổ võ ơn gọi LM. Đại hội cũng đề ra một số tiêu chuẩn hướng dẫn việc soạn văn kiện, ví dụ:
– Mời gọi toàn thể cộng đoàn Giáo Hội tái ý thức về trách nhiệm giáo dục và mục vụ trong việc cổ võ ơn gọi LM;
– Cống hiến một ý tưởng rõ ràng về hình ảnh chức linh mục thừa tác và sự cần thiết cũng như vai trò của chức LM trong Giáo Hội.
– Khuyến khích mọi phần tử của Giáo Hội, đặc biệt là các nhóm, hội đoàn và phong trào, nâng đỡ các sáng kiến và tiến trình ơn gọi.
– Cung cấp những chỉ dẫn và gợi ý hành động rất cụ thể và rõ ràng để việc mục vụ được hữu hiệu.
– Soạn thảo một văn kiện ngắn và xúc tích.
Đường hướng trên đây đã được đào sâu trong Đại hội năm 2008 của Bộ giáo dục Công Giáo, trong khi đó, một cuộc tham khảo sâu rộng được thực hiện nơi các HĐGM, qua một bản câu hỏi được chuẩn bị kỹ lưỡng, với mục đích thu thập các đề nghị cho việc soạn thảo văn kiện. Các bản trả lời từ các nơi gửi về thật phong phú và dồi dào. Đại hội kế tiếp của Bộ đã cứu xét và phê chuẩn văn kiện này và ngày 25-3-2012, nhân kỷ niệm 25 năm Tông huấn ”Thầy sẽ ban cho các con những vị mục tử” (Pastores dabo vobis), ĐTC Biển Đức 16 đã cho phép công bố Văn kiện này.
ĐHY Grocholewski cho biết chìa khóa để đọc Văn kiện ”Những đường hướng mục vụ ơn gọi LM”, nhất là phần thứ I là ”Sự chăm sóc ơn gọi linh mục là một thách đố trường kỳ đối với Giáo Hội”. Điều này có nghĩa là Giáo Hội có nghĩa vụ liên lỷ phải đề nghị, phân định, bảo tồn và thăng tiến ơn gọi LM; tiếp đến việc săn sóc ơn gọi LM là một thách đố liên lỷ được gửi đến cộng đoàn Giáo Hội. Thực vậy hoa quả phong phú và dồi dào của Thánh Linh trong lãnh vực này là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để nhận ra và đo lường sức sinh động của một giáo phận, chất lượng đức tin và chứng tá Tin Mừng của giáo phận ấy, giá trị và đặc tính sâu xa của giáo phận ấy trong sự gắn bó theo Chúa Kitô.
Theo chiều hướng đó, Văn kiện ”Đường hướng mục vụ ơn gọi” liên hệ đặc biệt tới các Giáo Hội có truyền truyền kỳ cựu, trong đó sự dửng dưng đối với tôn giáo, cùng với sự yếu kém trong việc làm chứng tá Kitô, khiến cho ơn gọi trở nên khan hiếm và khô cằn. Ví dụ trường hợp của Âu Châu từ nhiều năm nay đang chịu đau khổ nhiều nhất vì thiếu ơn gọi linh mục.
Cũng trong phần thứ I, Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo nêu lên 3 lý do chính cản trở việc mục vụ ơn gọi tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, đó là:
– Sự giảm sút dân số và cuộc khủng hoảng gia đình làm cho con số các trẻ nam và người trẻ giảm bớt và khiến cho đời sống của họ, kể cả về phương diện đức tin, trở nên khó khăn và họ lo sợ trước một hiện tại bị phân tán và đe dọa, và trước một tương lai bấp bênh.
– Tiếp đến là sự lan tràn não trạng tục hóa và hậu quả là nhiều tín hữu từ bỏ đời sống Kitô. Tình trạng này càng làm cho họ khó thực hiện những chọn lựa quyết liệt và lâu dài trong thời gian, vì một bối cảnh văn hóa duy tương đối hơn, ảnh hưởng tiêu cực tới sự đào tạo các ơn gọi vững chắc và ổn định hơn.
– Thứ ba là tình cảnh khó khăn trong cuộc sống và sứ vụ của linh mục, phải chịu những biến đổi sâu đậm trong Giáo Hội và xã hội; hiện tượng đó thường làm cho LM, một đàng bị gạt ra ngoài lề và không còn quan trọng nữa, và đàng khác người ta có nguy cơ coi sứ vụ LM chỉ là một trong bao nhiêu nghề khác mà thôi. Những hiện tượng đó, thật rõ ràng tại nhiều nơi trên thế giới, có thể làm cho một số LM nản chí và sa xút về tinh thần.
Đứng trước tình trạng ấy, Phần thứ I trong Văn kiện mới của Bộ giáo dục Công Giáo liệt kê những điều kiện cần thiết để ơn gọi tìm được một mảnh đất phì nhiêu trong Giáo Hội và sự cởi mở của người trẻ đối với ơn gọi LM. Chẳng hạn:
– Cần kiến tạo một môi trường phong phú cho đời sống Kitô trong cộng đoàn Giáo Hội;
– Vai trò không thể thiếu được của việc cầu nguyện, xin Chủ mùa gặt sai nhiều trợ đến làm việc trong mùa gặt của Ngài;
– Giá trị của việc mục vụ toàn diện, thực thi một sự phối hợp, đồng qui các chương trình và đề nghị giữa các vị hữu trách khác nhau về giáo dục Công Giáo.
– Cần có một đà tái truyền giảng Tin Mừng và truyền giáo, khơi lên nơi người trẻ lòng hăng say mạnh mẽ đối với Tin Mừng
– Chức năng chủ yếu và không thể thay thế được của gia đình.
– Chứng tá cuộc sống vui tươi của các LM, sống phù hợp với niềm tin và ơn gọi của mình.
– Giá trị của trường học và đại học trong đó cần du nhận những cơ hội gặp gỡ và đào sâu ơn gọi Kitô.

2. Đức TGM Jean Louis Bruguès, OP
Phần thứ II của Văn kiện đã được vị Tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo là Đức TGM Jean Louis Bruguès, dòng Đa Minh, trình bày, nói về ”ơn gọi và căn tính của chức LM thừa tác”.
Phần này phê bình xu hướng dần dần biến chức linh mục thành một nghề, như thể đời sống trong sứ vụ LM có thể thu hẹp vào một loạt những điều cần phải làm theo khả năng nghề nghiệp chuyên môn. Thêm vào đó có những nguy hiểm thường gặp thấy trong kinh nghiệm đời sống LM như thái độ miệt mài làm việc thái quá, xu hướng cá nhân chủ nghĩa ngày càng gia tăng, nhiều khi khép kín linh mục trong sự cô độc tiêu tực và làm cho xuống tinh thần; sự lẫn lộn các vai trò trong Giáo Hội.
Đứng trước những tình trạng như thế, Phần II Văn kiện Bộ giáo dục Công Giáo đề nghị một số điểm suy tư, chẳng hạn ơn gọi LM luôn ở trong lãnh vực cuộc đối thoại yêu thương giữa Thiên Chúa và con người (n.5); tiếp đến, đạo lý thần học về ấn tích linh mục (n.6) đề ra một điều mới mẻ trong đời sống, đòi người được gọi phải đặc biệt chăm sóc quan hệ sinh động và liên lỷ với Chúa Kitô, dành trọn thời gian cần thiết cho Chúa và tiếp tục vun trồng, đào sâu quan hệ ấy mỗi ngày, như thể chạy đến cùng Chúa (Pl 3,12-14).
Trong các đoạn số từ 8 đến 10, Văn kiện Bộ giáo dục Công Giáo nhắc đến một loạt những hệ luận về cách thức khơi dậy, phân định và làm tăng trưởng ơn gọi LM. Ví dụ, để huấn luyện về sứ vụ LM, cần có một kinh nghiệm sâu xa về đời sống cộng đoàn để tránh những hình thức mới của xu hướng duy giáo sĩ, tập trung mục vụ, những dịch vụ mục vụ bán thời gian hoặc theo nhu cầu cá nhân; Cần có một sự hội nhập và trưởng thành đầy đủ về tình cảm, tránh những đề nghị ơn gọi cho những người có nhân cách mong manh; cần có một sự tham gia rộng rãi và ngoan ngoãn đối với bối cảnh Giáo hội, yêu thương cụ thể đối với giáo phận của mình đồng thời quảng đại cởi mở đối với chiều kích hoàn vũ của sứ vụ.

3. Đức Ông Vincenzo Zani
Phần thứ III là phần dài nhất của Văn kiện mang tựa đề ”Những đề nghị cho việc mục vụ ơn gọi LM” và do Đức Ông Vincenzo Zani, Phó tổng thư ký Bộ giáo dục Công Giáo trình bày.
Đức Ông Zani đã cung cấp một vài con số về tình hình ơn gọi LM trong Giáo Hội: tại Âu Châu trong 10 năm qua, số chủng sinh giảm mất gần 6 ngàn thầy, từ 27 ngàn trong năm 2000 xuống còn 21 ngàn trong năm 2010; tại Bắc Mỹ số chủng sinh hầu như đứng yên với 5.500 thầy; tại Nam Mỹ có phần giảm: từ 22 ngàn trong năm 2006 xuống còn 21 ngàn trong năm 2010; trong khi đó số chủng sinh tại Á và Phi châu tiếp tục gia tăng: từ 20 ngàn trong năm 2000 lên 27 ngàn chủng sinh tại Phi châu; từ 25 ngàn trong năm 2000 lên 33 ngàn trong năm 2010 tại Á châu.
Phần III của Văn kiện chứa đựng một loạt những chỉ dẫn cụ thể do các HĐGM được hỏi ý kiến gửi về. Văn kiện nhấn mạnh tầm quan trọng không thể thiếu được của việc cầu nguyện cho ơn gọi, đồng thời nhận xét rằng mặc dù có những cơ quan và tổ chức chuyên về ơn gọi LM ở cấp hoàn vũ, quốc gia và giáo phận, nhưng các cơ quan này không thể thay thế cho các thành phần khác nhau trong cộng đoàn Kitô: bắt đầu từ gia đình Công Giáo vốn được Công đồng chung Vatican 2 gọi là ”chủng viện đầu tiên” (OT 2): gia đình phải có thể cống hiến những điều kiện thuận lợi cho sự nảy sinh ơn gọi. Điều này có nghĩa là không bao giờ có thể quan niệm việc mục vụ gia đình và mục vụ ơn gọi, cũng như mục vụ giới trẻ và mục vụ học đường, như thể chúng là những lãnh vực độc lập và xa lạ với nhau.
Văn kiện trình bày một loạt nhận xét về giáo xứ, vai trò của các LM, tu sĩ, giáo lý viên và những ngừơui linh hoạt mục vụ giáo xứ.
Đoạn số 15 nhấn mạnh trách nhiệm đặc thù của chủng sinh đối với ơn gọi. Trong thời gian thụ huấn các chủng sinh cũng phải được huấn luyện về khả năng làm chứng tá và đề nghị cho người khác kinh nghiệm của họ trong việc đáp lại ơn gọi.
Văn kiện Tòa Thánh đặc biệt đề cao vai trò của các hội đoàn và phong trào của Giáo Hội trong việc khơi dậy và nuôi dưỡng ơn gọi LM. Văn kiện không quên vai trò của các nhóm lễ sinh, tức là những người giúp lễ, trong đề nghị ơn gọi linh mục. Thời gian phục vụ của họ có thể coi như một trường thực hành về sự cầu nguyện và phục vụ Giáo Hội.
Văn kiện của Bộ giáo dục Công Giáo kết luận rằng:
”Môi trường phì nhiêu đối với hạt giống ơn gọi LM chính là một cộng đoàn Kitô cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bằng phụng vụ và làm chứng tá bác ái; Bộ giáo dục Công Giáo khuyến khích toàn thể Giáo Hội, với lòng tín thác, hãy tái đảm trách quyết tâm giáo dục của mình để đón nhận tiếng Chúa gọi đi vào sứ vụ LM; tiếng Chúa gọi ngày nay vẫn dồi dào và thích ứng với nhu cầu của Giáo Hội cũng như nhu cầu rao giảng Tin Mừng trên thế giới.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế

Thánh Gioan Tẩy Giả cao trọng vì là ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 40.000 tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 24-6-2012, lễ kính thánh Gioan Tẩy Giả.

Trong các đoàn hành hương có một ban nhạc và một nhóm dân ca vũ Bolivia mặc sắc phục rực rỡ nhiều mầu rất đẹp. Chúa Nhật hôm qua tại Italia cũng là Ngày Bác ái của Đức Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha đã cám ơn tín hữu nước này như sau:

Anh chị em thân mến, tại Italia hôm nay là Ngày Bác Aí của Giáo Hoàng. Tôi cám ơn tất cả các cộng đoàn giáo xứ, các gia đình và các tín hữu riệng biệt vì sự yểm trợ liên tục và quảng đại nhằm trợ giúp các anh chị em găp khó khăn. Nhân dịp này tôi cũng nhắc nhớ rằng ngày mốt, nếu đẹp lòng Chúa, tôi sẽ làm một cuộc viếng thăm ngắn trong các vùng bị động đất mới đây tại miền Bắc Italia. Tôi muốn rằng nó là một dấu chỉ tình liên đới của toàn thể Giáo Hội với các anh chị em nạn nhân, vì thế tôi mời gọi tất cả mọi người đồng hành với tôi trong lời cầu nguyện.

Trước đó, trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về lễ kính thánh Gioan Tiền Hô như sau:

Hôm nay 24 tháng 6 chúng ta cử hành lễ trọng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Trừ Đức Trinh Nữ Maria ra, Gioan Tẩy Giả là vị thánh duy nhất mà phụng vụ mừng ngày sinh và Giáo Hội mừng sinh nhật thánh nhân vì nó gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Thật thế, từ trong lòng mẹ Gioan là tiền hô của Đức Giêsu: việc thụ thai ông cách lạ lùng đã được thiên thần báo cho Đức Maria biết như dấu chỉ ”không có gì là không thể được đối với Thiên Chúa” (Lc 1,37), sáu tháng trước khi xảy ra biến cố lạ lùng trao ban cho chúng ta sự cứu rỗi, sự kết hiệp của Thiên Chúa với con người bởi công trình của Chúa Thánh Thần. Bốn Phúc Âm nêu bật gương mặt của Gioan Tẩy Giả, là vị ngôn sứ kết thúc thời Cựu Ước và khai mào thời Tân ước, bằng cách cho chỉ cho thấy Đấng Cứu Thế nơi Đức Giêsu thành Nazareth, Đấng Được Thánh Hiến của Chúa. Thật vậy, chính Đức Giêsu đẽ nói về Gioan như sau: ”Chính ông là người Thánh Kinh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,10-11).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: cha của Gioan, ông Dakharia, chồng bà Elisabeth, bà con của Đức Maria, đã là tư tế của phụng tự do thái. Ông đã không tin ngay lập tức vào lời loan báo chức làm cha đã không được chờ đợi nữa, vì thế ông bị câm cho tới ngày con trẻ được cắt bì, mà ông và vợ đặt tên cho như Thiên Chúa đã chỉ định, là Gioan, có nghĩa là ”Chúa thương xót”. Được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, ông Dakharia đã nói về sứ mệnh của con minh: ”Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu của Đấng Tối Cao; con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết moi tội khiên” (Lc 1,76-77).

Đức Thánh cha nói thêm trong bài huấn dụ:
Tất cả những điều này được tỏ lộ ba mươi năm sau đó, khi Gioan bắt đầu ban phép rửa trong sông Jordan, bằng cách kêu gọi người ta chuẩn bị, với cử chỉ sám hối, cho biến cố đến gần của Đấng Cứu Thế, mà Thiên Chúa đã mạc khải trong khi ông sống trong sa mạc Giuđêa. Vì thế ông được gọi là ”Tẩy Giả”, nghĩa là ”Người thanh tẩy” (x, Mt 3,1-6). Một ngày kia, khi từ Nazareth, chính Đức Giêsu đến để được thanh tẩy; ban đầu Giaon từ chối, nhưng rồi ông đồng ý, và ông trông thấy Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu và nghe tiếng của Thiên Chúa Cha trên trời công bố Người là Con của Ngài (x. Mt 3,13-17). Nhưng sứ mệnh của ông Gioan đã chưa được thành toàn: ít lâu sau đó, ông được yêu cầu đi trước Đức Giêsu cả trong cái chết bạo lưc nữa; Gioan đã bị chém đầu trong ngục của vua Hếrôđê, và như hế ông đã làm chứng tá tràn đầy cho Chiên Con của Thiên Chúa, mà ông đã là người đầu tiên nhận biết và chỉ cho thấy một cách công khai.

Các bạn thân mếm, Đức Trinh Nữ Maria đã trợ giúp người bà con Elisabeth cao niên kết thúc thời kỳ mang thai Gioan. Xin Mẹ giúp tất cả bước theo Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, mà ông Tẩy Giả đã loan báo với lòng khiêm tốn lớn lao và nhiệt huyết ngôn sứ.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan và Ý. Trong tiếng Pháp Đức Thánh Cha nói gương của thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta hoán cải, làm chứng cho Chúa Kitô và loan báo Người trong lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện, là tiếng kêu trong sa mạc giống như thánh nhân cho đến chỗ hiến dâng mạng sống mình.

Chào các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha nói ngài hiệp ý với tổng giáo phận Poznan, các cha dòng Oratoriani, và tín hữu hành hương Đền thánh Mẹ Thiên Chúa Gostyn, nhân dịp mừng kỷ niệm 500 năm thành lập đền thánh. Ngài cảm tạ Chúa vì các ơn Chúa đã rộng ban cho các thế hệ nhờ lời bầu cử của Mẹ và ngài xin sự chở che của Mẹ đồng hành với mọi người.

Trong tiếng Ý ngài chào các thành viên của Hiệp hội thiện nguyện Pro Loco Italia, chúc mừng 50 năm thành lập hội và cầu chúc mọi may lành cho công tác của hội phục vụ gia tài văn hóa của Italia.

Linh Tiến Khải

ĐÂU RỒI GIOAN TIỀN HÔ 2012?

ĐÂU RỒI GIOAN TIỀN HÔ 2012?

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN NĂM B (24/06/2012)
LỄ SINH NHẬT THÁNH GIO-AN TẨY GIẢ
[Is 49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80]

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tiền Hô nhắc cho chúng ta yêu quí hơn, trân trọng hơn, tạ ơn Chúa nhiều hơn vì “sự hình thành, sinh ra, và hiện diện” của chúng ta trên đời, và nhất là tạ ơn Chúa bằng cách đặt mình vào kế hoạch, vào công cuộc của Thiên Chúa, làm chứng cho Thiên Chúa. Quả vậy, sự hình thành một thai nhi trong lòng mẹ, việc được sinh ra và sự hiện diện của bạn, của tôi, của mỗi một con người trên cuộc đời này, là một điều kỳ diệu đến mức khoa học chân chính chỉ còn cách chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa và ca tụng quyền năng vô biên của Ngài.
 
Hình thành thai nhi của Thánh Gioan càng đặc biệt hơn, vì Dacaria và Elisabeth đã già nua mà vẫn còn son sẻ. Ông bà vẫn khẩn nài Thiên Chúa ban cho một mụn con để nối dõi tông đường. Và Thiên Chúa đã nhậm lời: “Đang khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng  bên phải hương án làm ông hoảng sợ.  Sứ thần trấn an ông và bảo: “Này Ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Elisabéth, vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời” (Lc 1, 10-15).
 
Như vậy, chính Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời Gioan:
 
– Can thiệp vào sự hình thành phôi thai của thánh Gioan  (Lc 1,10-15).
 
– Can thiệp vào cả việc đặt tên được giấu kín cho đến ngày Gioan sinh nở: “Phải đặt tên là Gioan” “Tên cậu ấy là Gioan” (Lc 1, 59-65).
 
– Can thiệp vào sứ mạng làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa của Gioan ngay khi còn trong bụng mẹ khi sứ thần minh họa cho Mẹ Maria trong biến cố Truyền tin rằng “Kìa bà Elisabeth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1, 36-37).
 
– Can thiệp vào ý muốn của Dacaria, Ngài không làm cho ông toại nguyện có Gioan để nối dõi tông đường của mình, nhưng lại là để thực hiện chương trình của Thiên Chúa: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan.  Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”(Ga 1, 6-7 ; Lc 1, 17 ).
 
– Can thiệp vào việc hình thành nhân cách đơn sơ, bản tính cương trực và ý thức được sai đến: “ăn chấu chấu uống mật ong rừng, mặc áo lông, đi dép da thú, sống trong sa mạc…” mà không phải là con người lập dị, nhưng là con người đơn giản sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa, chuẩn bị cho sứ mạng Chúa giao phó; “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa” “Hãy bạt núi đồi, hãy lấp hố sâu” mà không sợ người ủng hộ “đồi núi quyền bính” hay kẻ chủ trương “hố trụy lạc” kết án; “Người đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi”“Người phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại” vì ý thức được sai đến để chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến. Thiên Chúa đã can thiệp để hình thành một con người cho công cuộc cứu rỗi của Ngài.
 
– Can thiệp vào ơn cứu độ của thánh Gioan bằng chính cái chết anh dũng của Người để làm chứng cho công lý của Thiên Chúa. Mẫu người được hình thành theo kế hoạch của Thiên Chúa, là mẫu người khiêm nhượng đặt mình vào trong chương trình của Ngài. Có thể nói từ các tổ phụ, các ngôn sứ đến vị ngôn sứ tiền hô gần nhất của Thiên Chúa Giáng Sinh, tất cả đều là những mẫu người khiêm nhượng, như Thiên Chúa là Đấng khiêm nhượng vô cùng.
 
Thế giới hôm nay đang có những con người kiêu căng, nghĩ mình có thể “sáng chế” ra một con người theo cách của Thiên Chúa, cho ngang bằng quyền năng của Thiên Chúa. Cũng lại có những người xem thường sự sống của con người, đến nỗi tự mình quyết định số phận của những con người được sinh ra, một cách vô ơn, một cách vô thần. Một đất nước mang tiếng là mất tự do cổ xúy việc phá thai đã đành, một đất nước nổi tiếng là văn minh nhất thế giới cũng đưa việc phá thai thành đạo luật, thì thế giới này đã quá rõ rằng lương tâm con người không còn nhìn nhận công trình kỳ diệu của Thiên Chúa nữa, nếu không nói là đang toa rập nhau chống lại Thiên Chúa.
 
Còn chúng ta, thiết tưởng Gioan Tiền Hô phải là hình ảnh người mẫu của Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta. Chúng ta cũng được hình thành cách lạ lùng qua sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hun đúc huấn luyện nhờ sự kết hiệp với Thiên Chúa trong sa mạc thiêng liêng của tâm hồn. Chúng ta cũng nhận lãnh sứ mệnh loan báo cho Nước Thiên Chúa đang đến, và nhất là làm chứng cho Tin Mừng, cho Công Lý của Thiên Chúa trên dặm trường hành hương về Đất Nước của Thiên Chúa, của chúng ta.
 
Ai không quí trọng sự sống của mình và của người khác, không biết ơn Chúa về sự hiện diện của mình trên đời, không ý thức sứ mệnh loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa đến cho mọi người, thì thiết tưởng, người ấy đang sống một cuộc sống vô nghĩa nhất, vô vị nhất.
 
Nhưng để thực hiện được ơn loan báo Tin Mừng, “làm tiếng kêu trong hoang địa”, làm công việc “dọn đường cho Chúa đến”, và làm chứng cho Tin Mừng và Công Lý của Thiên Chúa, hẳn phải là người khiêm nhượng nhất, chịu nghe tiếng Chúa, chịu kết hiệp mật thiết với Chúa trong thinh vắng, bằng lòng buông bỏ cái tôi kiêu ngạo to lớn của mình đi, bằng lòng thu nhỏ mình lại và đặt mình vào trong kế hoạch của Thiên Chúa như Thánh Gioan vậy.
 
Thế giới đang cần, xã hội đang cần, đất nước đang cần những chứng nhân anh dũng như Gioan Tiền Hô, những chứng nhân dám công khai lên tiếng chỉ ra những hành vi gian tà ám muội, chỉ ra những cách sống buông thả thối nát của những quan quyền, chỉ ra những tội lỗi tày trời của những kẻ chống lại Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, có vẻ như chúng ta còn đang ngó nhau chờ nhau hay cả nể sợ sệt hoặc trông đợi một Gioan Baotixita nào khác, mà không phải mỗi chúng ta!
 
Tại sao mỗi người chúng ta không thể là một Gioan Tiền Hô ngay trong cuộc sống của mình, ngay trong thời đại của mình, ngay lúc này? Có phải vì chúng ta chưa thông hiệp với Thiên Chúa và chưa thông hiệp với nhau? Có phải vì ma quỷ làm cho chúng ta suy yếu đi vì đã cắt đứt sự thông hiệp thánh thiện ấy? Hoặc tệ hơn nữa là chúng ta đã không đặt mình vào chương trình của Chúa lại còn vui vẻ đặt cuộc đời mình vào trong kế hoạch của ma quỷ chăng?
 
Kinh nghiệm mấy chục năm gần đây cho thấy bất cứ ai bắt tay thỏa hiệp với ma quỷ đều làm được nhiều việc cho sáng danh mình, nghĩa là “Tôi thì lớn lên mà Thiên Chúa thì nhỏ lại”. Thật đáng tiếc! Và tiếc nhất trong ngày sinh nhật của thánh Gioan Tiền Hô, người đã nêu gương sống một đời “Tôi thì nhỏ lại, để Thiên Chúa được lớn lên”.
 
Lạy Chúa, mỗi chúng con cần phải xét mình lại về cách trân trọng ơn gọi làm người, và làm chứng cho Thiên Chúa. Nguyện xin Thánh Gioan Tiền Hô cầu thay nguyện giúp, và xin Chúa cho chúng con noi gương Ngài trong cuộc sống hôm nay để sống khiêm cung, đơn giản, kết hiệp với Chúa, đặt mình trong chương trình của Chúa và cương trực làm chứng cho Thiên Chúa. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả

Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả

Pt. Phêrô Đặng Phi Hùng

Từ thế kỷ thứ IV cả hai giáo hội Đông phương lẫn La tinh đều mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả một cách trọng thể vào 6 tháng trước Lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh. Gioan Tẩy Giả còn được gọi Gioan Tiền Hô hay Loan Tin (Forerunner/Herald), người đi trước dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Trong Giáo hội Công giáo, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày tái sinh trên trời.” Nhưng chỉ có Thánh Gioan Tẩy Giả được biệt kính vào cả ngày sinh nhật lẫn ngày lìa đời, vào Chúa nhật như Chúa nhật tuần nầy vì cuộc đời Thánh Gioan gắn liền với cuộc đời Ngôi Hai Thiên Chúa: Gioan loan tin nhưng Chúa Giêsu là thông điệp; Gioan là tiếng kêu mà Chúa Giêsu là Sự Thật; Gioan nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa nhưng Chúa Giesu làm hoàn hảo lời hứa đó; Gioan rao giảng thống hối nhưng Chúa Giesu mang lại sự thứ tha; Gioan kêu gọi công bình và hoán cải nhưng Chúa Giêsu ban ân sủng tăng sức mạnh cho thay đổi và lớn lên; Gioan dọn đường nhưng Chúa Giesu chính là Đường.

Cuộc đời của Thánh Gioan và Chúa Giêsu rất lạ thường: Sự thụ thai của hai con trẻ được báo trước bởi cùng một Thiên Thần Gabriel; Cả hai được sinh ra bởi hai người nữ đáng lẽ không thể có con: bà Elizabeth tuổi đã già trong khi Đức Mẹ khấn trọn đời đồng trinh, không biết đến người nam; Cả hai con trẻ được đặt tên và trao nhiệm vụ từ lúc còn trong lòng mẹ: Gioan/Đấng Tiền Hô và Giêsu/Đấng Cứu Thế (Lk. 1:5 & 1:26); Cuối đời Thánh Gioan chịu chết vì đức tin và nhiệm vụ của Ông trước khi Chúa Giesu chịu chết vì tội nhân loại chúng ta trên Thánh Giá;

Chúa Giêsu cần Gioan loan báo trước khi đến như Thánh Gioan cần cha là Zachariah khỏi câm để xác nhận tên và nhiệm vụ Chúa giao phó cho mình (Lk. 1:64); Đức Mẹ cần thăm viếng bà Elizabeth để hài nhi Gioan giới thiệu hài nhi Giesu trong cung lòng các bà mẹ được chúc phúc.

Cuộc đời tiền hô và làm chứng của T. Gioan được tóm gọn lại trong 3 điểm:

1) Một Ngôn sứ đã làm phép rửa, rao giảng và giới thiệu Chúa Kitô đến với mọi người.

Sau khi xong nhiệm vụ giới thiệu, Ông tránh sang một bên để Chúa trực tiếp liên hệ với người ta.

2) Khiêm nhường nhưng cương quyết:

theo Phúc âm thuật lại sau khi làm phép rửa cho Chúa Giêsu tại sông Jordan, chính mắt Ông đã thấy Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Con và nghe trên trời có tiếng phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.” (Mk. 1:9) Ông giới thiệu đến toàn dân: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian….Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài.” (Jn. 1:15) Lần kia khi đứng với hai môn đệ thì bắt gặp Chúa Giêsu đi qua, Ông chỉ cho môn đệ: “Đây chính là Đấng Messiah-Thiên sai.” Sau đó hai môn đệ đã bỏ Ông và theo làm môn đệ Chúa Giêsu (Jn. 1:35). Lần khác Ông tuyên bố: “Chúa Kitô phải được nâng lên, còn tôi phải hạ xuống.” (Jn. 3:30) Ông cương quyết nhất định không nhượng bộ hành động trái luân lý và luật Chúa của vua Hêrođê dù việc đó dẫn đến cái chết (Lk. 3:19).

3) Tính cách nhân bản rất người của Gioan:

Sinh ra bởi một cặp vợ chồng rất già là một sự lạ; Cha bị câm suốt thời gian mẹ mang thai cũng lạ; Nhảy mừng trong lòng khi được hài nhi Giêsu trong cung lòng Đức Mẹ tới thăm càng lạ hơn; Lớn lên được tràn đầy Chúa Thánh Thần khi chứng kiến biến cố rửa tội ở sông Jordan với Chúa Ba Ngôi, thế nhưng không vì thế mà Gioan không có những thao thức, trăn trở về đức tin, về tâm linh theo Thánh ý Chúa. Một hôm lúc đang bị giam trong tù chỉ vì dám nói lên sự thật đã chỉ trích Vua Herođê cướp vợ của anh mình, sống với chị dâu tên Herodia, Gioan đã phái môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy chúng tôi muốn biết Thầy có phải là Đức Kitô Đấng đến để cứu nhân loại hay chúng tôi còn phải chờ một Đấng nào khác?” Chúa Giesu đáp: “Yes! Hãy về nói cho Gioan biết những điều mà các con thấy: người mù được thấy, người què được đi, người cùi được sạch, người điếc nghe được, người chết trỗi dậy, người nghèo được nghe tin mừng…” (Lk. 7:19)

Suy nghĩ về cuộc đời Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta tìm được 3 ý niệm để cùng nhau suy nghĩ trong những ngày tới:

1/ Sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải nói sự thật và cương quyết sống sự thật, cho dù điều đó đôi khi làm chúng ta thiệt thòi, đau khổ hoặc dẫn đến cái chết như Gioan. Thánh Gioan chỉ vì nói lên sự thật, cố gắng giúp đỡ cho vua Hêrôđê tốt hơn, nhưng hậu quả dẫn đến cái chết tức tưởi trong tù vì bị bà Herodia chị dâu sống bất hợp pháp với Herođê hãm hại.

2/ Là Kitô hữu chúng ta phải sống khiêm nhường: “Chúa phải lớn lên trong ta và cái tôi trong ta phải hạ xuống.” Sau khi giới thiệu Chúa cho người ta rồi thì đừng có nhận làm “tổng đại lý” của Chúa mà hỏng việc Chúa! Bổn phận chúng ta gieo còn Chúa cho ai gặt tuỳ Chúa, đừng thắc mắc, cũng đừng kể công mà mất phúc.

3/ Trong đời sống đức tin đôi lúc chúng ta có thể đặt câu hỏi nhưng đừng ngã lòng mất lòng trông cậy nơi Chúa. Phó thác không có nghĩa là gặp cái gì cũng tin, hoặc gặp cái gì cũng đòi phải được chứng minh. Đức tin và Đời sống người Kitô hữu là một bí nhiệm mà chỉ có Tình thương và lòng trông cậy vào Lời Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả mới giải đáp được.

Xin Thánh Gioan Tiền Hô giúp Kitô Hữu chúng con dám can đảm Tin và cương quyết Làm Chứng cho Chúa cho dù nơi trần thế chúng con chưa thấy được Chúa tỏ tường. Amen.

Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Tòa Thánh kêu gọi giúp các bà mẹ và con bị Aids (Sida)

Quốc vụ khanh Tòa Thánh kêu gọi giúp các bà mẹ và con bị Aids (Sida)

ROMA. ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc biệt trợ giúp các bà mẹ và các trẻ em bị bệnh Aids (Sida).

ĐHY Bertone đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài phát biểu sáng 22-6-2012, tại Hội nghị quốc tế kỳ 8 về bệnh Aids nhóm tại Viện Thánh Gallicano, thuộc khu Trastevera ở Roma với sự tham dự của Phu nhân tổng thống nước Guinea và 20 vị bộ trưởng y tế các nước Phi châu, cũng như ông Andrea Riccardi, Bộ trưởng cộng tác quốc tế thuộc chính phủ Italia, cùng với nhiều giới chức chính quyền về y khoa cũng như của Tổ chức WHO (OMS) (Sức khỏe thế giới). Hội nghị này diễn ra trong khuôn khổ chương trình gọi là DREAM do Cộng đồng thánh Egidio phát động và lần này có chủ đề là ”Hoan hô các bà mẹ! Hoan hô các trẻ em! Giảm bớt sự tử vong của các bà mẹ và làm giúp các trẻ em lớn lên mà không bị Aids”.

Trong bài phát biểu, ĐHY Quốc vụ khanh xác quyết sự dấn thân mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo trong việc phòng chống Aids: hiện nay 30% các trung tâm săn sóc người bị HIV-Aids trên thế giới do các tín hữu Công Giáo đảm trách. Đặc biệt tại Phi châu, hoạt động trợ giúp y tế của Giáo Hội Công Giáo thường cung cấp sự hỗ trợ cơ bản cho những người bị Aids sống ngoài khu vực thành thị và tại miền quê.

ĐHY cũng cám ơn Cộng đồng thánh Egidio với chương trình Dream gồm 33 trung tâm tại 10 nước Phi châu, tạo nên một kiểu mẫu hữu hiệu về kết quả, và nói lên sự dấn thân của Kitô hữu, với khả năng tháp tùng những người đau khổ, coi mỗi bệnh nhân như nhân vị, không bao giờ thu hẹp cá nhân vào bệnh tật.

ĐHY Bertone long trọng nói rằng: ”Trước sự hiện diện của bao nhiêu vị bộ trưởng và các vị đặc trách về sức khỏe, tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế, các quốc gia và các ân nhân: chúng ta hãy mau lẹ cung cấp cho các bệnh nhân Aids một sự săn sóc miễn phí và hữu hiệu! Ước gì mọi bệnh nhân được săn sóc chữa trị! Chúng ta hãy thi hành điều đó, bắt đầu từ các bà mẹ và các trẻ em. Tại nơi đây, nhân danh ĐTC, tôi lên tiếng thay cho bao nhiêu người đau khổ, bao nhiêu bệnh nhân không có tiếng nói. Chúng ta đừng mất thời giờ và hãy đầu tư mọi năng lực cần thiết cho công trình này!”.

ĐHY Quốc vụ khanh nói thêm rằng: Tại Phi châu cũng như Âu Châu chúng ta có nghĩa vụ đi tới mỗi phụ nữ bị HIV trong lúc thai nghén, cung cấp thuốc chữa trị cho họ, để họ sinh con không bị nhiễm Aids và để người con được lớn lên với sự tháp tùng của người mẹ.” (SD 22-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP