ĐTC Phanxicô: Không dửng dưng trước tiếng kêu đói của dân chúng

ĐTC Phanxicô: Không dửng dưng trước tiếng kêu đói của dân chúng

Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với dân chúng

Tin Mừng hôm nay (Ga, 6 1-15) thuật lại câu chuyện hóa bánh và cá ra nhiều. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Chúng ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" (c.5). Thực vậy, số tiền mà Chúa và các tông đồ có không đủ để nuôi đám đông đó. Và rồi thánh Anrê, một người trong số Mười hai dẫn đến với Chúa Giêsu một cậu bé với tất cả những gì mà cậu có, đó là năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá; nhưng ông Anrê chắc chắn rằng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người (c.9). Tuy nhiên Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ bảo mọi người ngồi xuống, rồi Chúa Giêsu cầm lấy bánh và cá và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn (c.11), và tất cả mọi người được ăn no thỏa.

Với trang Tin Mừng này, phụng vụ dẫn chúng quay trở lại Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng của thánh Marcô với ánh mắt của Chúa Giêsu, thấy dân chúng thật đông, Chúa Giêsu động lòng thương (Mc 6,34).

Chúa Giêsu quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người

Hôm nay một lần nữa thánh Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Sự kiện xuất phát từ một thực tế cụ thể: dân chúng đang đói và Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải bận tâm đến vấn đề này của Ngài để cơn đói của dân chúng được thỏa mãn. Đối với đám đông, Chúa Giêsu trao ban một cách nhưng không, không có giới hạn. Ngài đã trao ban Lời của Ngài, sự au ủi, ơn cứu độ, và cuối cùng là sự sống của Ngài; nhưng một điều chắc chắn là Ngài quan tâm đến lương thực của thân xác. Và chúng ta, các môn đệ của Ngài, chúng ta không thể dửng dưng, xem như không có gì xãy ra. Chỉ cần lắng nghe những nhu cầu đơn giản nhất của dân chúng và ở gần bên những hoàn cảnh cụ thể của họ chúng ta sẽ có thể được lắng nghe khi chúng ta nói về những giá trị cao cả

Dấn thân quảng đại của tình liên đời hướng đến người nghèo

Tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại đang đói bánh ăn, đói tự do, công bằng, hòa bình, và trên hết đói ân sủng Thiên Chúa, không bao giờ dừng lại. Ngày hôm nay Chúa Giêsu tiếp tục nuôi dân người, hiện diện sống động và an ủi dân chúng. Ngài thực hiện điều này qua chúng ta. Bởi vậy Tin Mừng mời gọi chúng ta sẵn sàng và nhiệt thành. Đứng trước mọi hình thức của tiếng kêu đói, của biết bao nhiêu anh chị em ở khắp nơi trên thế giới, chúng ta không thể là những khán giả xa cách và thản nhiên. Lời công bố của Chúa Kitô, bánh của sự sống đời đời, đòi hỏi một sụ dấn thân quảng đại của tình liên đời hướng đến người nghèo, người yếu đuối, người rốt hết, người không có khả năng tự vệ. Hành động gần gũi và bác ái này là sự minh xác tốt nhất về phẩm chất đức tin của chúng ta, ở tầm mức cá nhân và cộng đoàn.
Tài nguyên của nhân loại không được bỏ phí

Vào cuối bài tường thuật, Thánh Sử cho biết khi tất cả đã no nê, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi" (c.12). Những lời này chỉ cho thấy Chúa Giêsu quan tâm đến những người đang bị đói, Ngài lo lắng chăm sóc cả đến những mẫu bánh nhỏ không bị mất đi, bị bỏ phí, bởi vì chính những mẫu bánh này Ngài đã nuôi dân chúng.
Noi gương Chúa Giêsu, toàn thể nhân loại được mời gọi làm như Ngài, các tài nguyên có trên thế giới không bị bỏ phí, chúng không thể được dành riêng cho những mục đích tự hủy diệt của con người, nhưng để phục vụ cho mục đích chính đáng và sự phát triển hợp pháp của nó.

Chúng ta cùng cầu xin Đức Trinh nữ Maria để các chương trình dành cho sự phát triển, lương thực, tình liên đới được chiếm ưu thế chứ không phải là các chương trình của hận thù, vũ trang và chiến tranh thắng thế.

Ngọc Yến

ĐTC: Hãy làm mọi sự để tôn vinh Chúa

ĐTC: Hãy làm mọi sự để tôn vinh Chúa

Tôn vinh Thiên Chúa là kim chỉ nam của lương tâm chúng ta
“Các con hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”: thánh Phaolô đã khuyến khích chúng ta như thế trong bài sách thánh chúng ta vừa nghe. Tôn vinh Thiên Chúa trong mỗi việc chúng ta làm: đó là tiêu chuẩn tối hậu cho các lời nói và việc làm của chúng ta; nó là tổng hợp cô đọng cho thấy thế nào là sống tình bạn với Chúa Giêsu. Nó chỉ cho chúng ta con đường khi chúng ta không chắc chắn đâu là điều đúng cần phải làm, nó giúp chúng ta nhận ra tiếng Chúa nói trong sâu thẳm lương tâm chúng ta để chúng ta có thể hiểu biết ý Ngài. Tôn vinh Thiên Chúa là kim chỉ nam của lương tâm chúng ta.
Vì ơn cứu độ của anh chị em chúng ta
Thánh Phaolô cũng đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn khác: “Hãy cố gắng làm đẹp lòng mọi người trong mọi hoàn cảnh, để họ có thể được cứu độ.” Tất cả chúng ta là con cái Chúa; tất cả chúng ta có cùng ước mơ, hy vọng và mong đợi. Khi một số người trong chúng ta bị chán nản thất vọng, những người còn lại nên cố gắng làm cho ngày sống của họ tươi sáng lên và nâng họ đứng lên. Điều này giúp cho tất cả chúng ta sống trong tình bạn và bày tỏ tình yêu của Chúa và niềm vui của đức tin trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta tiếp tục làm điều này, nó sẽ giúp các anh chị em của chúng ta biết Chúa Giêsu, Đấng cứu độ và niềm hy vọng của thế giới.
Hãy bắt chước Chúa Kitô như các thánh
Có lẽ các con đang tự hỏi: “Tôi có thể làm điều này không? Nó có quá sức tôi không?” Chắc chắn nó là một sứ vụ nặng nề, nhưng không phải là không thể. Một lần nữa, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta: “Hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Kitô.” Chúng ta có thể thực hiện sứ vụ này bằng cách bắt chước Chúa Giêsu, như thánh tông đồ Phaolô và các thánh đã làm. Chúng ta hãy nhìn lên các thánh. Các ngài đang sống Tin mừng, bởi vì các ngài đã chuyển sứ điệp của Chúa Kitô vào trong cuộc sống của các ngài. Hôm nay là ngày lễ thánh Inhaxiô. Như một quân nhân trẻ, ngài quan tâm đến vinh quang của chính mình, nhưng vào thời gian thuận tiện, ngài đã bị thu hút bởi vinh quang của Chúa và ở đó ngài khám phá trung tâm và ý nghĩa của chính cuộc sống. Vì vậy chúng ta hãy bắt chước các thánh. Hãy để mọi sự chúng ta làm là vì vinh quang của Chúa và vì ơn cứu độ của các anh chị em của chúng ta.

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô: Không tôn thờ và phục vụ các thần tượng

ĐTC Phanxicô: Không tôn thờ và phục vụ các thần tượng

Để có thể yêu thương cần phải tự do, không nô lệ các thần tượng, không thờ lậy và phục vụ chúng. Thần tượng là một dự phóng của chính mình trong các sự vật và các dự án, khiến cho người ta bị mù lòa, hy sinh mọi sự cho lợi lộc,  làm hư hại cuộc sống, tàn phá gia đình, và bỏ bê giới trẻ cho các mô thức phá hoại.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiên chung sáng thứ tư hàng tuần trong đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ ĐTC khai triền đề tài: “Ngươi sẽ không có các thần nào khác trước mặt Ta” (Xh 20,3) và ngài giải thích tội tôn thờ thần tượng, rất thời sự ngày nay.

Đâu là Thiên Chúa thật của tôi

ĐTC nói: Giới răn cấm làm các thần tượng hay hình ảnh của mọi loại thực tại; thật thế mọi sự có thể được dùng như thần tượng. Chúng ta đang đề cập tới một khuynh hướng của con người,  không tha cho các tín hữu cũng như người vô thần. Chẳng hạn là các kitô hữu chúng ta có thể tự hỏi: đâu là Thiên Chúa thật của tôi? Đó là Tình Yêu Duy Nhất và Ba Ngôi hay là hình ảnh của tôi, sự thành công cá nhân của tôi, kể cả thành công trong lòng Giáo Hội nữa? Tội tôn thờ thần tượng không chỉ liên quan tới các việc phụng tụ giả dối của ngoại giáo. Nó là một cám dỗ thường xuyên  của đức tin. Nó hệ tại việc thần thánh hóa điều không phải là Thiên Chúa” (GLCG, 2113).

Một vị thần trên bình diện hiện sinh là gì? Một vị thần cho tất cả mọi ngày, vị thần của chúng ta, vị thần… Một vị thần. Nó là điều ở trung tâm cuộc sống, và điều khiến cho ta nghĩ tùy thuộc nó. Người ta có thể lớn lên trong một gia đình kitô một cách bình thường nhưng trên thực tế lại tập trung vào các điểm quy chiếu xa lạ với Tin Mừng. Con người không sống mà không tập trung vào một điều gì đó. Và khi đó thế giới cống hiến cho nó “siêu thị” các thần tượng, có thể là các sự vật, các hình ảnh, các tư tưởng, các vai trò.

Chẳng hạn cả việc cầu nguyện nữa. Chúng ta phải cầu xin Thiên  Chúa, là Cha của chúng ta. Nhưng tôi nhớ có một lần đi đến một giáo xứ trong một giáo phận kia để dâng Thánh Lễ, và tôi phải ban Phép Thêm Sức tại một giáo xứ khác cách đó một cây số. Tôi đã đi bộ qua một công viên đẹp. Trong công viên có hơn 50 – hơn 50 vì tôi không thể đếm hết – hơn 50 cái bàn nhỏ với hai cái ghế và người ta ngồi trước mặt nhau. Họ làm gì thế? Họ coi bói toán. Họ đến đó để cầu thần tượng. Thay vì cầu khẩn Thiên  Chúa, là sự quan phòng tương lai, thì họ tới đó để ném bài, đọc các lá bài để thấy tương lai. Đây là việc tôn thờ thần tượng của thời đại chúng ta.

Tôi xin hỏi anh chị em: có bao nhiêu người trong anh chị em đi ném, đi đọc các là bài để trông thấy tương lai? Bao nhiêu người trong anh chị em chẳng hạn đã đi coi bói tay để trông thấy tương lai, thay vì đi cầu nguyện với Chúa?

Đây là sự khác biệt: Chúa sống động; các thứ khác là các thần tượng, tôn thờ thần tượng không có ích gì.

Việc tôn thờ thần tượng phát triển như thế nào? Giới răn miêu tả với các câu: “Ngươi sẽ không làm cho mình thần tượng cũng như hình ảnh.. .Ngươi sẽ không phủ phục trước chúng và sẽ không phục vụ chúng” (Xh 20,4-5).

Từ “thần tượng” trong tiếng Hy Lạp phát xuất từ động tử “trông thấy”. Một thần tượng là một “thị kiến” hướng tới chỗ trở thành một yên trí, một ám ảnh. Thần tượng thật ra là một dự phóng chính mình nơi các sự vật hay các dự án. Người tra dùng quảng cáo cho sự năng động này: tôi không trông thấy sự vật trong nó, nhưng tôi nhận thức cái xe đó, cái smartphone dó, vai trò đó –  hay các sự vật khác – như là một phương tiện để thực hiện chính tôi, và đáp trả lại các nhu cầu nòng cốt của tôi. Tôi tìm kiếm nó, nói về nó, nghĩ tới nó; tư tưởng chiếm hữu sự vật đó hay thực hiện dự án đó, đạt tới địa vị đó, xem ra là một con đường tuyệt diệu cho niềm hạnh phúc, một cái tháp giúp đạt tới trời (x. St 11,1-9) và tất cả phục vụ mục đích ấy.

Các thần tượng cướp mất sự sống

Khi đó chúng ta bước vào câu thứ hai: “Ngươi sẽ không phủ phục  trước chúng”. ĐTC giải thích điểm này như sau:

Các thần tượng đòi hỏi một việc phụng tự, đòi hỏi các lễ nghi. Người ta quỳ lậy chúng và hy sinh mọi sự. Vào thời xa xưa người ta sát tế người cho các thần tượng, nhưng cả ngày nay nữa người ta hy sinh con cái cho công danh của mình – anh chị em nói chuyện với một kẻ biết trèo lên cao – người ta hy sinh con cái, bằng cách lơ là với chúng hay một cách đơn sơ chỉ sinh ra chúng thôi. Sắc đẹp đòi hỏi các hiến tế người. Biết bao nhiều giờ phải ngồi trước gương. Vài người, vài phụ nữ mất thời giờ để trang điểm… Và đây cũng là tôn thờ thần giả. Nhưng trang điểm có phải là điều xấu đâu! Nó là chuyện bình thường, không phải để trở thành một nữ thần.

Sắc đẹp đòi hỏi các hiến tế người; danh vọng đòi sát tế chính mình, sát tế sự vô tội và sự liêm chính của mình. Các thần tượng đòi hỏi máu. Tiền bạc ăn cắp sự sống, và khoái lạc đưa tới sự cô đơn. Các cơ cấu kinh tế hy sinh mạng sống con người cho các lợi ích lớn hơn.

Chúng ta có nghĩ tới biết bao nhiêu người không có việc công ăn việc làm không? Tại sao các giới doanh thương của doanh nghiệp, của hãng xưởng đó đã lại quyết định bỏ, đuổi công nhân để kiếm tiền lời. Đó là thần tượng tiền.

Người ta sống trong giả hình bằng cách làm và nói điều người khác chờ đợi, bởi vì ông thần của sự tự khẳng định áp đặt như thế. Và thế là người ta làm hư hỏng đời sống, phá tán các gia đình, và bỏ rơi ngưởi trẻ cho các mô thức hủy hoại, miễn là được thêm lời. Cả ma túy cũng là một thần tượng. Có biết bao nhiêu người trẻ tàn phá sức khỏe, cho tới mạng sống, khi tôn thờ thần ma túy.

Thần tượng biến con người thành nô lệ

Tại đây chúng ta tới giai đoạn thứ ba thê thảm hơn: “… và ngươi sẽ không phục vụ chúng”. Các thần tượng nô lệ hóa. Chúng hứa hẹn hạnh phúc nhưng lại không trao ban nó; và người ta rơi vào chỗ sống vì điều đó hay quan niệm đó, bị nắm bắt trong một lốc xoáy tự hủy diệt, trong việc chờ đợi một kết quả sẽ không bao giờ tới.

Anh chị em thân mến, các thần tượng hứa hẹn sự sống, nhưng trong thực tế chúng lấy mất đi sự sống. Thiên Chúa thật không đòi hỏi sự sống, nhưng trao ban sự sống, ngài hiến tặng sự sống. Thiên Chúa thật không cống hiến một dự phóng sự thành công của chúng ta, nhưng dậy chúng ta yêu thương. Thiên Chúa thật không đòi con cái, nhưng trao ban Con Ngài cho chúng ta. Các thần tượng dự phóng các giả thiết tương lai, và khiến chúng ta khinh rẻ hiện tại; Thiên  Chúa thật dậy chúng ta sống trong thực tại của ngày hôm nay, cụ thể, chứ không phải với các ảo ảnh về tương lai: hôm nay và ngày mai và ngày mốt bằng cách bước tới tương lai. Sự cụ thể của Thiên Chúa thật chống lại cái lỏng lẻo của các thần tượng. Tôi mời anh chị em hôm nay suy tư điều này: Tôi có bao nhiêu thần tượng hay đâu là thần tượng ưu tiên của tôi?

Linh Tiến Khải

Mề đai kỷ niệm năm thứ 6 triều đại Giáo hoàng Phanxicô

Mề đai kỷ niệm năm thứ 6 triều đại Giáo hoàng Phanxicô

 

Từ ngày 26/07, tại Cơ quan quản lý tài sản của Tòa Thánh và các địa điểm của nhà sách Vatican có bán một mề-đay được phát hành nhân dịp kỷ niệm năm thứ 6 triều đại Giáo hoàng Phanxicô. Mề-đay có các đặc điểm như sau:
Mặt trước: những dải ánh ánh sáng đồng tâm, tỏa ra từ một chim bồ câu, chiếu sáng huy hiệu của ĐTC; những dải sáng này tượng trưng cho những ân huệ mà Chúa Thánh Thần ban cho cho Giáo Hội. Bên dưới có tên của nghệ nhân sáng tác.
Ở cạnh của mề đay có dòng chữ E CIVITATE VATICANA (Thành Vatican) và con số của huy chương.
Mặt sau: phía trên có hình ảnh cành ôliu và vòng tay người mẹ ôm đứa con, là biểu tượng chiến thắng của hòa bình. Còn phần bên dưới diễn tả chiến tranh, với hình ảnh là dây thép gai – biểu tượng của sự cưỡng ép và bạo lực. Hoa anh túc – biểu tượng của những người chết trong chiến tranh – phân chia hai phần trên dưới.
“Không có gì bị mất với hòa bình. Mọi thứ đều có thể với chiến tranh” được trích từ sứ điệp radio của ĐGH Pio XII vào ngày 24/08/1939. Một thế kỷ sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, chọn lựa giữa hòa bình và chiến tranh vẫn là thảm kịch xảy ra hàng ngày với tất cả mọi người.
Mề đay được thực hiện bởi Chiara Principe. Mỗi mề đay có đính kèm chứng nhận bảo đảm, có số hiệu, với con dấu nổi của Phủ quốc vụ khanh Tòa Thành và của Sở đúc tiền và huy chương của Italia.

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho các nạn nhân vụ hỏa hoạn ở Hy lạp

ĐTC Phanxicô cầu nguyện cho các nạn nhân vụ hỏa hoạn ở Hy lạp

ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt ĐTC gửi điện tín chia buồn với giáo quyền và chính quyền Hy Lạp về các vụ hỏa hoạn xảy ra những ngày vừa qua.

Điện tín do ĐHY Parolin ký có viết rằng ĐTC rất đau buồn khi nghe tin thảm cảnh các vụ hỏa hoạn tại Hy Lạp. Ngài liên đới với các nạn nhân và phó thác những người đã chết cho tình yêu thương xót của Chúa. ĐTC khích lệ chính quyền dân sự và các nhân viên tiếp tục công tác cứu trợ và khẩn nài Thiên  Chúa an ủi và củng cố mọi người.

Như đã biết mấy chục vụ hỏa hoạn đã xảy ra bên Hy Lạp, đặc biệt tại thành phố nghỉ mát Mati, đã khiến cho hơn 100 người chết và 1.500 căn nhà cũng như hàng trăm xe hơi bị thiêu rụi. Chính quyền của thủ tướng Alexis Tsipras đã tuyên bố quốc tang ba ngày. Mati là thành phố du lịch nằm cách thủ đô Athenes 49 cây số về mạn đông bắc và có số người chết cháy đông nhất. Họ bị kẹt trong nhà và trong xe hơi  trên đường trốn chạy. Tại Attica tình hình cũng nghiêm trọng và cũng có mấy chục người thiệt mạng.

ĐC  Sebastianos Rosolatos, TGM Athènes, chủ tịch HDGM Hy Lạp, cũng bầy tỏ đau buồn trước tai nạn trên đây. Ngài nói: các sự kiện như thế này phải khiến cho chúng ta đặt câu hỏi liên quan tới việc bảo vệ và tôn trọng môi sinh cũng như các luật lệ xây cất. Không thể xây cất bừa bãi mà không có sự kiểm soát và giấy phép cần thiết. Các tai ương loại này xảy ra cũng bởi các hành động vô trách nhiệm của con người.

Các toán cứu trợ Pháp, Đức và Đan Mạch đã đến Hy Lạp trợ giúp lực lượng cứu hỏa, cũng như đến Thụy Điển để dập tắt các vụ cháy rừng chưa từng thấy tại đây. Italia cũng đã gửi hai máy bay Canadair . Còn Na Uy, Đức và Lituania cũng cho trực thăng tới giúp chống lại hỏa hoạn. Sáng thứ 3 vừa qua vẫn còn có 27 vụ cháy tiếp tục. Tình hình tại miền nam Thụy Điển nghiêm trọng, đặc biệt chung quanh thủ đô Stsockholm, và nhiệt độ trong suốt tuần này sẽ là 30 độ C, khiến cho rừng cây càng dễ bị cháy hơn nữa (Avvenire 24-7-2018)

Linh Tiến Khải

Đài phát thanh Vatican vẫn phát sóng ngắn đến các nước Phi châu

Đài phát thanh Vatican vẫn phát sóng ngắn đến các nước Phi châu

Giáo hội tại Phi châu có thể tin tưởng vào sự cộng tác bền vững của Bộ Truyền thông trong việc phổ biến không chỉ sứ điệp của Tin mừng và tiếng nói của Đức Thánh Cha, nhưng cả những tin tức về Giáo hội sinh động của châu lục, tất cả những thành công cũng như những thách đố và đau khổ của Giáo hội. Đó là lời khẳng định của ông Paolo Ruffini, tân Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, trong sứ điệp gửi đến các thành viên của Liên Hội đồng Giám mục Đông phi, gọi tắt là Ameceam, đang tham dự đại hội lần thứ 19.

Các Giám mục Đông phi đang nhóm khóa họp toàn thể lần thứ 19, bắt đầu từ ngày 13/07 và kéo dài 10 ngày, tại Addis Abeba ở Etiopia. Trong sứ điệp gửi đến đại hội, ông Ruffini nhắc lại Thượng hội đồng Giám mục đặc biệt về Phi châu, sự kiện đã mở đường cho những đầu tư ý nghĩa vào các đài phát thanh giáo phận. Ông nhận định đó là một quyết định có tính ngôn sứ, can đảm và có tầm nhìn xa. Ông cám ơn các đài phát thanh giáo phận tại Phi châu về sự cộng tác chặt chẽ với đài phát thanh Vatican, không chỉ mang Tin mừng nhưng còn mang tiếng nói của ĐTC đến với nhiều gia đình Công giáo.

Ông Ruffini khẳng định rõ rằng, sức mạnh tổng hợp này sẽ tiếp tục trong bối cảnh thay đổi của “cuộc cải cách của các phương tiện truyền thông Vatican”. Dù cho cuộc cải cách về truyền thông của Vatican, theo đó, phương tiện truyền thông kỹ thuật số sẽ cần phải là một phần của nền tảng chính để truyền bá Tin Mừng, nhưng ĐTC Phanxicô cũng bày tỏ mong muốn của ngài là chú ý quan tâm đến những quốc gia ít khả năng tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật tân thời.  

Ông Ruffini viết trong sứ điệp: “Cuộc cải cách của các phương tiện truyền thông Vatican sẽ không bỏ lơ cũng như không từ bỏ các nước như vậy – mà một số lượng đáng kể trong số đó là ở châu Phi. Đài phát thanh Vatican cho đến ngày nay tiếp tục phát sóng trên nền tảng kỹ thuật số mới nhưng cũng duy trì các cách phát thanh truyền thống của nó như qua các làn sóng ngắn cho các quốc gia vẫn cần dịch vụ này.”

Vào tháng 3/2017, các Giám mục Phi châu lo lắng về việc việc chương trình phát sóng của Đài phát thanh Vatican trên các sóng ngắn có thể bị chấm dứt. Các ngài khẳng định việc phát thanh này "bảo đảm cho hàng triệu người châu Phi cơ hội được nghe Đức Thánh Cha và chia sẻ những quan tâm  và sứ vụ của Giáo Hội". Hai tháng sau, ĐTC đã đáp lại sự lo âu này, khi khẳng định rằng việc sử dụng sóng ngắn "sẽ không bị bỏ".

Kể từ tháng 1 năm nay, châu Phi cũng nhận được chương trình phát qua vệ tinh từ cơ quan truyền thông Vatican. Để thực hiện công việc này, Bộ Truyền thông đã bắt đầu một chương trình trang bị cho các đài phát thanh địa phương các thiết bị để chuyển đổi những chương trình này thành sóng FM. (Cath.ch 16/07/2018)

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô: Nhà truyền giáo đặt trung tâm sứ điệp vào Đức Giêsu và ra đi với một phương tiện khó nghèo

ĐTC Phanxicô: Nhà truyền giáo đặt trung tâm sứ điệp vào Đức Giêsu và ra đi với một phương tiện khó nghèo

Tin Mừng hôm nay (Mc 6: 7-13) tường thuật lại khoảnh khắc Chúa Giêsu sai Mười Hai Tông đồ ra đi thi hành sứ mạng. Sau khi gọi các ông từng người một, "để họ ở với Ngài" (Mc 3:14), lắng nghe Lời Ngài và quan sát cử chỉ chữa bệnh của Ngài, và bây giờ Ngài gọi các ông một lần nữa để "sai họ đi từng hai người," (6, 7) đến những ngôi làng mà Ngài sẽ đến. Đây là một cách "thực tập" cho những gì các ông sẽ được kêu gọi thi hành với quyền năng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa phục sinh.

ĐTC giải thích: Đoạn Tin Mừng tập trung vào phong cách của người truyền giáo, chúng ta có thể tóm tắt trong hai điểm: Truyền giáo có một trung tâm; truyền giáo có một khuôn mặt.

Người môn đệ được sai đi thi hành sứ vụ trước hết có một trung tâm để qui chiếu, đó là con người của Chúa Giêsu.

 Đoạn Tin Mừng chỉ cho thấy chính Chúa Giêsu là nhân vật chính trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng qua cách sử dụng một loạt các động từ: "Ngài gọi các ông", "sai đi", "trao quyền","truyền lệnh" “nói với họ"(câu 7.8.10). Tất cả những điều này CGS thực hiện để các ông ra đi và thi hành việc của nhóm Mười Hai; và điều này chỉ cho thấy các việc làm của nhóm Mười Hai bắt nguồn từ một trung tâm. Chính các ông đảm nhận sự hiện diện và công trình của Chúa Giêsu trong hành động truyền giáo của các ông. Các Tông Đồ không có gì để loan báo, cũng như khả năng để biểu lộ, nhưng các ông nói và hành động như là "những người được sai đi", là những sứ giả của Chúa Giêsu.

ĐTC nhận xét rằng: Đoạn Tin Mừng này cũng liên quan đến chúng ta, không chỉ các linh mục, mà là tất cả những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tôi, chúng ta được kêu gọi làm chứng trong các môi trường khác nhau của cuộc sống, Tin Mừng của Chúa Kitô. Đối với chúng ta sứ mệnh này chỉ được xác thực khi nó được bắt đầu từ trung tâm không thay đổi đó là Chúa Giêsu. Loan báo Tin Mừng không phải là một sáng kiến của các tín hữu, của các nhóm hay thậm chí là một tập hợp lớn, nhưng đó là sứ mệnh của Giáo Hội và sứ mệnh này không thể tách rời khỏi sự hiệp nhất với Chúa. Không một Kitô hữu nào có thể loan báo Tin Mừng "một mình", nhưng chỉ được sai đi từ Giáo Hội, một Giáo Hội đã nhận được sự ủy thác từ chính Chúa Kitô.

Và ĐTC tiếp tục: Đặc điểm thứ hai của phong cách của người truyền giáo có thể nói đó là một khuôn mặt, trong đó bao gồm sự khó nghèo của phương tiện. Sự trang bị cho hành trình truyền giáo đáp ứng một tiêu chuẩn tiết kiệm. Thực tế, Nhóm Mười Hai có mệnh lệnh "không mang gì ngoài một cây gậy cho cuộc hành trình: không bánh mì hay túi xách, cũng không phải tiền trong thắt lưng" (c. 8). Vị Tôn sư muốn họ tự do và nhẹ nhàng, không có sự trợ giúp và đặc ân, chắc chắn chỉ có tình yêu của Ngài dành cho họ, và sức mạnh từ Lời mà họ nhận được từ Ngài và loan báo. Cây gậy và đôi dép, những gì dành cho những người hành hương, bởi vì các ông là sứ giả của vương quốc Thiên Chúa, không phải là những người quản lý toàn năng, không phải là các viên chức bất động, không phải đang thực hiện chuyến lưu diễn.

Và với "khuôn mặt" này cũng cho thấy sứ điệp mà các ông loan báo sẽ được đón nhận như thế nào. Thực tế điều có thể xảy ra: sứ điệp không được hoan nghênh hoặc lắng nghe (c. 11). Đó cũng là sự nghèo đói: kinh nghiệm thất bại. Câu chuyện của Chúa Giêsu, người đã bị từ chối và đóng đinh, cho thấy trước số phận của những người mang sứ điệp của Ngài. Và chỉ khi chúng ta hợp nhất với Ngài, Người đã chết và sống lại, chúng ta có thể tìm thấy lòng can đảm trong sứ vụ truyền giáo.

Đức Thánh Cha kết luận: Chúng ta cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, người Tông đồ đầu tiên và là nhà thừa sai của Lời Chúa, giúp chúng ta mang sứ điệp Tin Mừng đến với thế giới với niềm hân hoan khiêm tốn và rạng ngời, vượt lên trên bất kỳ sự từ chối, hiểu lầm hay bách hại nào. (Rei 15/07/2018

Ngọc Yến

Tòa Thánh kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến tranh

Tòa Thánh kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến tranh

NEW YORK. Đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở New York, Đức TGM Bernardito Auza, kêu gọi bảo vệ trẻ em trong chiến cuộc, vì ”bảo vệ các em ngày nay chính là phòng ngừa các xung đột trong tương lai.”

Trong bài tham luận hôm 9-7-2018 tại cuộc thảo luận mở của Hội đồng bảo an LHQ ở New York, Đức TGM Auza nhắc đến bản tường trình của ông Tổng thư ký LHQ về mức độ kinh khủng và trầm trọng của những vi phạm và lạm dụng đối với các trẻ em trong các cuộc xung đột võ trang trên thế giới. ”Thật là đau lòng vì các trẻ em bị nhắm tới như những mục tiêu, bị giết và bị sử dụng như những khiên thuẫn hoặc như bom người.”

Đức TGM Auza đặc biệt nhắc đến 3 điểm, trước hết là trách nhiệm hệ trọng phải hành động đứng những những cuộc tấn công trẻ em, như biến các em thành chiến binh, đưa các em vào vòng nô lệ tình dục, bắt cóc ồ ạt và các vụ bạo hành khác chống lại trẻ em.

Thứ hai cần ưu tiên tái hội nhập các trẻ em cựu chiến binh. Các em bị kẹt trong chiến cuộc như thế phải được coi trước tiên như những nạn nhân, cho dù, dưới sự kiểm soát của các nhóm võ trang, có thể các em đã phạm những tội ác. Sự thành công trong việc phục hồi và tái hội nhập là điều hữu ích không những cho trẻ em, nhưng còn cho toàn thể xã hội nói chung.

Thứ ba, cần bảo đảm cho các trẻ em nạn nhân các cuộc xung đột quyền được giáo dục. Một nền giáo dục vững chắc là cách tốt nhất để bảo đảm cho các nạn nhân xung đột ngày nay trở thành những người xây dựng hòa bình trong tương lai. Trong lãnh vực này, qua các cơ cấu khác nhau tại các vùng xung đột, Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo đang tích cực dấn thân săn sóc nhiều trẻ em nạn nhân bạo lực, qua các cơ cấu giáo dục và phục hồi do Giáo Hội đảm trách. (Rei 10-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

ĐTC Phanxicô: Chúa mời gọi chúng ta khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Ngài

ĐTC Phanxicô: Chúa mời gọi chúng ta khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Ngài

Thiên Chúa không theo những định kiến và lý luận của con người. Mầu nhiệm Nhập Thể là sự vấp ngã của con người khi họ không hiểu và chấp nhận một Thiên Chúa cao cả lại mang lấy thân xác con người, sống và hoạt động như con người, yêu thương và cứu độ qua con người. Thiên Chúa đã đảo lộn cách suy nghĩ lý luận đó của con người. Đó là ý tưởng được Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ trong bài huấn dụ trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật mùng 08/07. Ngài mời gọi các tín hữu khiêm nhường và ngoan ngoãn lắng nghe Chúa. Đức Thánh Cha bắt đầu bài huấn dụ:

“Trang Tin mừng hôm nay (x. Mc 6,1-6) kể lại việc Chúa Giêsu trở về làng quê Nadarét và Ngài giảng dạy trong hội đường Do thái vào ngày Sabát. Từ khi Chúa Giêsu rời khỏi Nadarét và bắt đầu rao giảng tại các làng và các làng mạc lân cận, Ngài chưa bao giờ đặt chân trở lại quê hương của mình. Hôm nay Ngài đã trở về. Do đó, có cả làng đến lắng nghe người con của xứ sở, người con mà danh tiếng của vị thầy khôn ngoan và người chữa lành quyền năng đã lan khắp vùng Galilê và xa hơn nữa. Nhưng điều có thể được xem như là một sự thành công, thì lại trở thành một sự từ chối mạnh mẽ, đến nỗi Chúa Giêsu không thể thực hiện phép lạ nào tại đó, mà chỉ chữa lành được một ít người (x. câu 5).

Thánh Máccô đã xây dựng cách chi tiết tiến trình của ngày hôm đó: đầu tiên dân làng Nadarét lắng nghe, rồi ngạc nhiên; sau đó họ bối rối tự hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao?”; và cuối cùng, họ vấp ngã vì Ngài, khi biết Ngài chỉ là người thợ mộc, con bà Maria và họ đã nhìn thấy Ngài lớn lên giữa họ (cc. 2-3). Bởi thế Chúa Giêsu kết luận với một thành ngữ đã trở thành ngụ ngôn: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (c.4).”

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: “Chúng ta tự hỏi mình: tại sao những người đồng hương với Chúa Giêsu lại từ ngạc nhiên trở nên không tin? Họ đã so sánh giữa nguồn gốc khiêm nhường của Chúa Giêsu và các khả năng hiện có của Ngài: một thợ mộc, không học hành, nhưng giảng dạy hay hơn các kinh sư ký lục và thực hiện các phép lạ. Và thay vì mở lòng mình trước thực tại, họ lại vấp ngã. Theo dân thành Nadarét, Thiên Chúa quá cao cả để có thể hạ mình nói qua một con người đơn hèn như thế! Đó là sự vấp ngã của mầu nhiệm nhập thể: sự kiện khó chấp nhận khi  một Thiên Chúa nhập thể làm người, suy nghĩ với tâm trí của con người, làm việc và hành động với đôi tay con người, yêu thương bằng trái tim con người, một Thiên Chúa lao nhọc, ăn uống ngủ nghỉ như một người trong chúng ta. Con Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của con người: không phải các môn đệ rửa chân cho Chúa, nhưng chính Chúa đã rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-20). Đây là lý do của sự vấp ngã và không tin, không chỉ của thời đại đó, mà của mỗi thời đại, ngay cả ngày nay.

Sự đảo lộn mà Chúa Giêsu thực hiện giúp cho các môn đệ ngày xưa và cả ngày nay kiểm tra chính cá nhân mình và cộng đoàn. Thật ra, ngay cả trong thời đại chúng ta, cũng có thể có những định kiến ngăn cản chúng ta đón nhận thực tế. Nhưng hôm nay Chúa mời chúng ta có thái độ khiêm nhường lắng nghe và ngoan ngoãn chờ đợi, bởi vì ơn Chúa thường đến với chúng ta theo cách bất ngờ, không giống như chúng ta chờ mong.

Ví dụ, chúng ta cùng suy nghĩ về Mẹ Têrêsa Calcutta. Một nữ tu bé nhỏ – không ai cho mẹ 10 lia – mà mẹ đã đi khắp các con đường để đón những người hấp hối để họ có một cái chết xứng đáng. Người nữ tu bé nhỏ này với lời cầu nguyện và hành động của mình đã thực hiện những điều kỳ diệu! Sự bé nhỏ của một phụ nữ đã cách mạng hoạt động bác ái trong Giáo hội. Đó là một mẫu gương cho chúng ta ngày nay.

Thiên Chúa không theo những định kiến. Chúng ta phải cố gắng mở tâm hồn và tâm trí để đón nhận thực tại thần linh xảy đến với chúng ta. Nó đòi phải có đức tin: thiếu đức tin là một cản trở đối với ơn của Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu sống như thể Thiên Chúa không hiện diện: họ lặp đi lặp lại các cử chỉ và dấu hiệu của đức tin, nhưng chúng không tương hợp với sự gắn bó thật sự với con người của Chúa Giêsu và Tin mừng. Ngược lại, mỗi Kitô hữu – tất cả chúng ta, mỗi người trong chúng ta –  được mời gọi đào sâu sự thuộc về căn bản này khi tìm cách làm chứng cho nó với một lối sống thích hợp luôn được hướng dẫn bởi tình bác ái.

Chúng ta cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh nữ Maria, cởi bỏ sự cứng cỏi của trái tim và sự chật hẹp giới hạn của tâm trí, để chúng ta mở lòng ra với ân sủng, với chân lý và với sứ vụ thiện hảo và thương xót, được ban cho tất cả, không trừ một ai. (Rei 08/07/2018)

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô thăm nhà thờ chính tòa Bari và viếng ảnh Đức Mẹ Odegitria

ĐTC Phanxicô thăm nhà thờ chính tòa Bari và viếng ảnh Đức Mẹ Odegitria

Chiều thứ bảy 07/07, vào cuối ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình tại Trung đông với các vị lãnh đạo các Giáo hội và các Cộng đoàn Kitô, trước khi rời Bari trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn viếng thăm nhà thờ chính tòa Bari – được dâng kính Đức Mẹ Lên trời.

Từ Tòa Giám mục, Đức Thánh Cha đã nhìn thấy nhà thờ chính tòa ở cạnh đó, có từ thế kỷ 12, và Đức Thánh Cha muốn đến ngắm nhìn, thăm và kính viếng bức ảnh Đức Maria Odegitria. Theo tương truyền, bức ảnh Odegitria được đưa từ Constantinople, Thổ nhĩ kỳ, đến Bari vào thế kỷ thứ 8, trong thời lạc giáo tiêu hủy các ảnh tượng. Bức ảnh Đức Mẹ với Chúa Giêsu; Đức Mẹ tỏ cho con người thấy Ngài chính là Đường, Đường lên Nước Trời.

Cha Franco Lanzolla, cha sở nhà thờ chính tòa chia sẻ rằng đó là giây phút riêng tư của Đức Thánh Cha; ngài đã muốn đi một mình. Cha Lanzolla xúc động với cuộc viếng thăm cá nhân của Đức Thánh Cha, đến kính viếng bức ảnh Odegitria, một bức ảnh cổ kính, bức ảnh đã đón nhận nước mắt cùng với các ước mơ và hy vọng của hàng triệu tín hữu Đông phương cũng như Tây phương.

Đức Thánh Cha âm thầm đến nhà thờ, dâng một bó hoa đơn sơ, cùng với điều căn bản là cầu nguyện cho Giáo hội và hòa bình. Với sự dịu dàng. Đức Thánh Cha đã có một sự thinh lặng huyền nhiệm. Cuộc viếng thăm chỉ có Đức Thánh Cha, Đức Giám mục giáo phận và cha Lanzolla.

Cha Lanzolla chia sẻ thêm rằng sự thinh lặng sâu lắng này ghi dấu ngày dành cho hòa bình, để cầu xin Chúa soi sáng tâm trí và lương tâm con người. Cha nói: “thật là xúc động khi nghe nói về hòa bình qua cái nhìn của một em bé: các trẻ em của chúng ta là ngôn ngữ và gương mặt của hòa bình.” Cha cho biết là thành phố Bari tôn trọng buổi cầu nguyện. Cả thành phố trở thành nơi cầu nguyện, cả những ai ở tại nhà của họ. Thành phố thinh lặng để tôn trọng Đức Giáo hoàng và buổi cầu nguyện.

Cha Lanzolla kết luận: Đức Thánh Cha đã để lại cho Bari “hương thơm của một con người đã mời gọi chúng ta dám cầu xin hòa bình, mời gọi chúng ta trở thành người kiến tạo sự hiệp thông, cả dân sự và tôn giáo.” (Rei 07/07/2018)

Hồng Thủy

 

Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo Kitô

BARI. ĐTC và 19 thủ lãnh của các Giáo Hội Kitô đã trao đổi với nhau tại Đền Thánh Nicola ở Bari đề các vấn đề của Trung Đông.

Trong Vương cung thánh đường, ở gian giữa, các băng ghế dài được khiêng đi để đặt một bàn tròn lớn ở giữa, chung quanh là 20 chiếc ghế hoàn toàn giống nhau, dành cho ĐTC và 19 vị thủ lãnh các Giáo Hội khác, trước mỗi vị có một micro, và đàng sau mỗi ghế có một ghế dành cho các vị phụ tá của trưởng phái đoàn. Ngoài ĐTC, các vị Thượng Phụ của Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, còn có đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther ở Thánh Địa, và một nữ mục sư thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Trung Đông. Ngồi cạnh ĐTC là Đức TGM Pierbattista Pizzaballa, dòng Phanxicô, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem. Đức TGM có nhiệm vụ trình bày một bài giáo đầu, mở ra cuộc đối thoại.

Cuộc đối thoại và thảo luận hoàn toàn dành riêng, nên mọi người khác phải ra ngoài, ngoại trừ các vị phụ giúp các Thượng Phụ, các thông dịch viên bằng 5 thứ tiếng được sử dụng là Ý, Arập, Hy Lạp, Anh và Pháp. Ngoài ra cho các nhân viên thu hình mạch kín để các thông dịch viên có thể theo dõi và thi hành công việc. Sau cùng ở trong một góc thánh đường có 4 ghế dành cho ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Angelo Becciu nguyên là Phụ tá quốc vụ khanh, ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông phương, va sau cùng là ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Kết thúc cuộc gặp gỡ và trao đổi vào lúc quá 1 giờ trưa, ĐTC và tất cả các vị ra ngoài nhà thờ, trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu.

Lời đúc kết của ĐTC

Đứng tại thềm Nhà thờ thánh Nicola, ĐTC nói với mọi người rằng:

”Sự hiện diện của các tín hữu Kitô ở Trung Đông sẽ có tính chất ngôn sứ hơn nếu sự hiện diện ấy làm chứng nhiều hơn về Chúa Kitô vị Vua Hòa bình (Xc IS 9,5). Chúa đã không cầm gương, nhưng yêu cầu các môn đệ hãy xỏ gươm vào bỏ. Cả cuộc sống Giáo Hội chúng ta cũng bị cám dỗ theo những tiêu chuẩn của thế giới, tiêu chuẩn quyền bính và lợi lộc, lèo lái và đồng lõa. Có tội của chúng ta, không sống theo đức tin, làm lu mờ chứng tá. Chúng ta cảm thấy cần phải tái trở về với Tin Mừng, là bảo đảm cho tự do chân chính, và cần cấp thiết thi hành ấy ngay bây giờ, trong đêm đen của Trung Đông đang hấp hối. Như trong đêm lo âu tại Vườn Giệtsimani, không phải sự bỏ chạy hoặc gươm giáo báo trước bình minh rạng ngời của Phục Sinh, nhưng chính sự hiến thân theo gương Chúa.

Tin Mừng của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại vì tình thương, xuất phát từ Trung Đông, đã chinh phục tâm hồn con người qua các thế kỷ, vì Tin Mừng ấy không gắn bó với quyền lực của trần thế này, nhưng gắn bó với sức mạnh yếu đuối của thập giá. Tin Mừng thúc đảy chúng ta hằng ngày trở về với các kế hoạch của Thiên Chúa, chỉ tìm thấy nơi Chúa an ninh và an ủi, loan báo Chúa cho tất cả mọi người, bất chấp những khó khăn. Đức tin của những người đơn sơ, chiếu tỏa ở Trung Đông, là nguồn mạch từ đó chúng ta cần kín múc để giải khát và thanh tẩy như đã xảy ra khi chúng ta trở về nguồn cội, hành hương đến Jerusalem, tại Thánh Địa hoặc các đền thánh ở Ai Cập, Giordani, Liban, Siria, Thổ Nhĩ Kỳ và các nơi khác trong vùng.

Khích lệ lẫn nhau, chúng tôi đã đối thoại trong tình huynh đệ. Đó là một dấu chỉ sự gặp gỡ và hiệp nhất cần luôn tìm kiếm, không sợ sự khác biệt. Hòa bình cũng vậy, cần phải vun trồng cả nơi những thửa đất khô cằn của những đối nghịch, vì ngày nay, không có con đường khác để tiến tới hòa bình. Không phải những cuộc đình chiến được bảo đảm bằng các bức tường và thử sức mạnh mang lại hòa bình, nhưng là ý chí thực sự lắng nghe và đối thoại. Chung tôi đã quyết tâm tiến bước, cầu nguyện và làm việc, chúng tôi cầu mong cho nghệ thuật gặp gỡ trổi vượt trên những chiến lược đụng độ, cầu mong những biểu dương dấu hiệu quyền lực đe dọa nhường chỗ cho sức mạnh của những dấu chỉ hy vọng: những người thiện chí và tín ngưỡng khác nhau không sợ nói chuyện với nhau, đón nhận những lý lẽ của người khác và chăm sóc nhau. Chỉ như thế, khi lo liệu để không ai bị thiếu cơm bánh và việc làm, phẩm gia và hy vọng, những tiếng la ó của chiến tranh mới biến thành bài ca hòa bình.

Kêu gọi chấm dứt chiến tranh

ĐTC nói tiếp:

”Để thực hiện điều đó, điều thiết yếu là những ngừơi nắm giữ quyền bính quyết liệt phục vụ hòa bình và không cho lo tư lợi của mình. Cần chấm dứt sự thủ lợi của thiểu số trên lưng nhiều người khác. Cần chấm dứt những vụ chiếm đất xâu xé các dân tộc, chấm dứt tình trạng sự thật phe phái trổi hơn những hy vọng của dân. Chấm dứt việc lợi dụng Trung Đông để phục vụ cho những lợi lộc xa lạ với Trung Đông.

 Chiến tranh là tai ương bi thảm đang tấn kích Trung Đông yêu quí. Chính dân nghèo là những nạn nhân trước tiên. Chúng ta hãy nghĩ đến Siria bị tàn phá đau thương. Chiến tranh là con đẻ của quyền lực và nghèo đói. Chúng ta chiến thắng chiến tranh bằng cách từ bỏ những chủ trương thống trị và loại trừ nghèo đói. Bao nhiêu xung đột đã được hun đúc từ những hình thức cực đoan và cuồng tín, dưới những danh nghĩa tôn giáo, nhưng trong thực tế chúng xúc phạm đến danh Thiên Chúa là Hòa bình, và bách hại những người anh em từ lâu vẫn sống cạnh mình. Những bạo lực từ xưa vẫn được nuôi dưỡng bằng võ khí. Không thể lên tiếng nói về hòa bình trong khi lại âm thầm theo đuổi cuộc chạy đua rõ trang ồ ạt. Đây là một trách nhiệm rất nặng đè trên lương tâm của các dân nước, đặc biệt là những cường quốc. Ta đừng quên thế kỷ vừa qua, đừng quên các bài học Hiroshima và Nagasaki. Đừng biến các lãnh thổ Trung Đông nơi Ngôi Lời hòa bình đã sinh ra, thành những miền đen tối thinh lặng. Cần chấm dứt sự ngoan cố đối nghịch nhau, chấm dứt sự khao khát lợi lộc, chẳng nhìn mặt ai, miễn là chiếm được những mỏ dầu khí, không để ý gì đến căn nhà chung và không chút lo lắng dự về sự kiện thị trường năng lượng điều khiển khi luật sống chung giữa các dân tộc.

Bảo vệ gia sản tinh thần của Trung Đông

ĐTC cũng nói rằng ”để mở ra những con đường hòa bình, cần hướng nhìn về người đang kêu cầu sự sống chung huynh đệ với người khác. Cần bảo vệ mọi sự hiện diện không những của các nhóm dân đa số mà thôi. Cần mở toang tại Trung Đông còn đường dẫn tới quyền công dân chung, con đường dẫn tới một tương lai được đổi mới. Cả các tín hữu Kitô cũng là những công dân với trọn danh nghĩa, bình quyền với những người khác.

”Chúng ta rất lo lắng nhưng không thiếu hy vọng hướng nhìn về Jerusalem thành phố của mọi dân tộc, thành duy nhất, thánh thiêng đối với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo toàn thế giới, cần phải bảo tồn căn tính và ơn gọi của thành này, vượt lên trên những tranh biện và căng thẳng. Cần phải tôn trọng qui chế hiện nay của Jerusalem theo những gì đã được cộng đồng quốc tế quyết định và nhiều lần được các cộng đồng Kitô tại Thánh Địa yêu cầu. Chỉ có một giải pháp thương thuyết giữa người Israel và Palestine, được cộng đồng các dân nước mong muốn và cổ võ, mới có thể đưa tới một nền hòa bình ổn định và lâu bền, bảo đảm sự chống chung của hai quốc gia cho hai dân tộc.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến thảm trạng các trẻ em tại Trung Đông, bị thiệt mạng trong các cuộc bao vây, hoặc trên tị nạn. Bao nhiêu trẻ em phải sống giữa những nơi đổ vỡ, giữa bom đạn, thay vì tại trường học. Ước gì nhân loại lắng nghe tiếng kêu của các trẻ em. Chính khi lau nước mắt các em mà thế giới tìm lại phẩm giá của mình.

Kết thúc bài kết luận của ĐTC, một số em bé đã thả các chim câu như dấu chỉ hòa bình.

Tiếp đến, ngài và các vị Thượng Phụ về tòa TGM Bari và dùng bữa trưa, kết thúc Ngày suy tư và cầu nguyện hòa bình Trung Đông.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

Đức Thánh Cha và các Thượng Phụ cầu nguyện cho hòa bình Trung Đông

BARI. ĐTC và các vị Thượng Phụ và thủ lãnh nhiều Giáo Hội Đông Phương đã cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông tại Bari sáng 7-7-2018.

 Hưởng ứng sáng kiến của ĐTC và đến tham dự, có các thủ lãnh của 19 Giáo Hội Kitô Trung Đông, gồm Chính Thống, Chính Thống Đông Phương, Chính Thống Siriac, và 6 Thượng Phụ Công Giáo.

 ĐTC Phanxicô đã chọn thành phố Bari làm nơi cử hành Ngày suy tư và cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông vì thành Bari có hài cốt của Thánh Nicola, GM thành Smyrne hồi thế kỷ thứ 4 bên Thổ Nhĩ kỳ đã được 64 thủ thủy thành Bari đưa về đây năm 1087. Thánh nhân rất được các tín hữu Kitô Đông phương tôn kính. Ngoài ra thành Bari, hiện có 325 ngàn dân cư, vẫn được coi là ngã tư của các dân nước và là phòng thí nghiệm đối thoại, tại đây có Trung tâm Đại Kết Salvatore Manna, Học viện thần học của các cha dòng Đa Minh và nhiều sáng kiến khác. Bari cũng được coi là cửa sổ hướng về đông phương, là điểm gặp gỡ giữa các tín hữu Công Giáo và Chính Thống, và là nơi thu hút nhiều tín hữu hành hương đến từ các nước Đông Âu. Cũng tại đây nhiều văn kiện quan trọng về sự hiệp nhất Kitô đã được phê chuẩn.

 Mỗi năm có hơn 1 triệu tín hữu và du khách đến Bari. Tầng hầm Vương cung thánh đường thánh Nicola có thể chứa được 250 người. Mỗi thứ năm, khi các tín hữu Chính Thống Nga cử hành phụng vụ, thì tầng hầm này đầy người. Các tín hữu Chính Thống Nga đông nhất, rồi tới người Rumani, Hy lạp và Giorgia. Nhưng cũng có cả các tín hữu Chính Thống đến từ Etiopia và Eritrea bên Phi Châu.

 Viếng hài cốt thánh Nicola

 Lúc quá 8 giờ sáng, ĐTC đã chào thăm các Thượng Phụ trớc Vương cung thánh đường thánh Nicola, trước hàng ngàn tín hữu tụ tập trước thánh đường. Vào bên trong, ngài đã chào thăm cộng đoàn các cha dòng Đa Minh được ủy thác cai quản Thánh đường, trước khi xuống hầm đền thờ. Tại đây cái đèn hình con thuyền có một ngọn lửa được đốt lên, hình con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Trên truyền có thánh Nicola và trên vai thánh nhân có 2 chén thánh tượng trưng Giáo Hội Đông Phương và Giáo Hội Tây Phương, với những chữ viết bằng tiếng Hy Lạp và la tinh, ghi lại ước nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: ”Ước gì chúng được nên một”. Hai chén này được đựng các dầu khác nhau, chứng tỏ các nghi lễ khác nhau họp thành Giáo Hội, tượng trưng sự phong phú của Giáo Hội.

 Buổi cầu nguyện cho hòa bình

 Sau nghi thức viếng mộ, ĐTC và các Thượng Phụ ra ngoài thánh đường để lên xe bus đi tới khu vực vòng cung cạnh bờ biển, gọi là Rotonda, cạnh đường Giannella. Hàng chục ngàn tín hữu đã có mặt sẵn tại đây, họ đứng dọc theo con đường ven biển, và vài trăm người khác đứng trước lễ đài có mái che, lưng quay ra biển.

 ĐTC và 19 thượng phụ ngồi thành hàng dài trên lễ đài, phía sau lưng là Thánh giá lớn và ảnh Thánh Nicôla.

 Lời dẫn nhập của ĐTC

 Trong lời dẫn nhập buổi cầu nguyện vào lúc 9 giờ rưỡi, ĐTC nói:

 ”Chúng ta đến hành hương tại Bari, cửa sổ mở toang hướng về Đông Phương, mang trong tâm hồn các Giáo Hội, các dân tộc chúng ta và nhiều người đang sống trong những tình cảnh rất đau thương. Chúng ta nói với họ: ”Chúng tôi gần gũi anh chị em”.

 ”Anh chị em thân mến, tôi chân thành cám ơn anh chị em đã đến đây với lòng quảng đại và mau mắn. Và tôi rất biết ơn tất cả anh chị em đang đón tiếp chúng tôi tại thành phố này, thánh phố gặp gỡ và đón tiếp.

 Trong hành trình chung, Mẹ Thiên Chúa nâng đỡ chúng ta, ở đây Mẹ được tôn kính dưới tước hiệu là Odegitra, nghĩa là Vị Chỉ Đường. Tại đây có hài cốt thánh Nicola, vị GM Đông Phương, rất được tôn kính, vượt lên trên các biển khơi và ranh giới giữa các Giáo Hội. Xin Thánh Nhân, vị làm phép lạ, chuyển cầu để chữa lành các vết thương mà bao nhiêu người đang mang trong lòng. Tại đây chúng ta chiêm ngắm chân trời và biển cả, và chúng ta cảm thấy được thúc đẩy để sống ngày này với tâm trí hướng về Trung Đông, ngã tư của các nền văn hóa và là chiếc nôi của các tôn giáo độc thần lớn.

 ”Tại đó Chúa đã đến viếng thăm chúng ta, Người là ”mặt trời mọc lên từ trên cao” (Lc 1,78). Từ đó ánh sáng đức tin đã lan tỏa trên toàn thế giới. Từ đó đã nảy sinh những dòng nước mát linh đạo và đời đan tu. Tại đó các nghi lễ cổ kính, có một không hai, được bảo tồn cùng với những phong phú khôn lường của nghệ thuật thánh và thần học, ở đó có gia sản của các giáo phụ trong đức tin. Truyền thống này là một kho báu cần phải được chúng ta hết sức bảo tồn, vì tại Trung Đông có căn cội của chính tâm hồn chúng ta.

 Thảm trạng Trung Đông

 ”Nhưng trên vùng Trung Đông huy hoàng ấy có một màn đen dầy đặc bao phủ, nhất là trong những năm gần đây: chiến tranh, bạo lực và tàn phá, chiếm đóng và những hình thức cực đoan, cưỡng bách di cư và bỏ rơi, tất cả diễn ra trong sự thinh lặng của bao nhiêu người và với sự đồng lõa của bao nhiêu người khác. Trung đông đã trở thành phần đất của những người rời bỏ quê hương của mình. Và có nguy cơ sự hiện diện của các anh chị em chúng ta trong đức tin bị xóa bỏ, làm biến dạng chính miền này, vì một Trung Đông không có tín hữu Kitô, thì sẽ không còn là Trung Đông nữa.

 ”Ngày hôm nay bắt đầu bằng kinh nguyện, xin ánh sáng của Chúa phá tan bóng đen trên thế giới. Trước mộ thánh Nicola, chúng tôi đã thắp lên cây đèn một ngọn, biểu tượng của Giáo Hội duy nhất. Ngày hôm nay, cùng nhau chúng tôi muốn thắp lên một ngọn lửa hy vọng. Ước gì những cây nến sáng chúng ta sẽ đặt trở thành dấu chỉ một ánh sáng còn chiếu tỏa trong đêm tối. Thực vậy, các tín hữu Kitô là ánh sáng thế gian (Xc Mt 5,14) không những khi mọi nơi chung quanh đều sáng ngời, nhưng cả khi trong những lúc đen tối của lịch sử, họ không cam chịu bóng đen bao trùm, nhưng nuôi dưỡng tim đèn hy vọng bằng dầu kinh nguyện và tình thương. Vì khi chúng ta giơ tay lên cao để cầu nguyện và khi chúng ta giơ tay ra cho anh em mà không tìm kiếm tư lợi, thì ngọn lửa của Thánh Linh, Thánh Thần hiệp nhất, Thánh Thần an bình, sẽ cháy sáng và chiếu tỏa.

 ”Hiệp nhau chúng ta cùng cầu nguyện kể khẩn cầu Chúa Tể Trời Cao ơn hòa bình, ơn mà người kẻ hùng mạnh trên trái đất này chưa tìm được. Từ dòng sông Nilo đến thung lũng sông Giordan, và xa hơn, tiến qua sông Oronte cho đến sông Tigre và Eufrate, vang dội tiếng kêu của Thánh Vịnh: ”Hòa bình xuống trên bạn!” (1,22,8). Chúng ta hãy lập lại cho những anh chị em đang chịu đau khổ và những bạn hữu của mọi dân tộc, và tín ngưỡng: ”Xin hòa bình ở trên các bạn!”. Cùng với tác giả thánh vịnh, chúng ta đặc biệt khẩn cầu cho Jerusalem, Thành Thánh được Thiên Chúa yêu thương và đang bị thương vì con người, Chúa vẫn còn khóc thương và nói: ”Hòa bình xuống trên ngươi!

 ”Hãy có hòa bình!”: đó là tiếng kêu của bao nhiêu Abel ngày nay đang vọng lên trước tòa Chúa. Chúng ta không thể để cho người ta nói về họ, tại Trung Đông cũng như các nơi khác trên thế giới, rằng ”Tôi đâu có phải là người canh giữ em tôi!?” (St 4,9). Sự dửng dưng giết hại và chúng ta muốn là tiếng nói chống lại sự giết người bằng sự dửng dưng. Chúng ta muốn lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, cho những người chỉ có thể nuốt lệ, vì Trung Đông ngày nay đang khóc, đang đau khổ và thinh lặng, trong khi những người khác chà đạp nó và tìm kiếm quyền hành và của cải. Chúng ta cầu nguyện cho những người bé nhỏ, đơn sơ, và bị thương: ”xin cho anh chị em được hòa bình! Thiên Chúa của mọi an ủi (2 Cr 1m3), chữa lành những con tim tan vỡ và băng bó các vết thương (Xc Tv 147,3) lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con”!

 Cầu nguyện

 Sau lời dẫn nhận của ĐTC, các vị thủ lãnh các Giáo Hội lần lượt xướng lên những lời khẩn nguyện, bằng các thứ tiếng địa phương, xin Chúa thương ban hòa bình cho Trung Đông, xen kẽ đó là hai bài đọc Sách Thánh và Tin mừng, và các thánh ca.

 Cuối buổi cầu nguyện, một đoàn các trẻ em đã mang những ngọn nến sáng lên lễ đài để trao cho ĐTC và các Thượng Phụ để các vị đặt trên giá.

 Sau buổi cầu nguyện, các vị trở lại Vương cung thánh đường để tham dự cuộc gặp gỡ đối thoại trong 2 tiếng đồ.

Giuse Trần Ngọc Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

VATICAN. ĐTC phê bình thái độ ”khép kín đối với những người cũng có quyền được an ninh và điều kiện sống xứng đáng như chúng ta. Sự khép kín đó xây dựng các bức tường, thực sự hay tưởng tượng, thay vì xây cầu.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua, 6-7-2018 tại Đền thờ Thánh Phêrô, để cầu cho những người di dân và những người cứu cấp, nhân dịp kỷ niệm 5 năm cuộc viếng thăm lịch sử của ngài tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia, ngày 8-7 năm 2013, nơi các thuyền và tàu của người di dân thường cập bến trên đường từ Phi châu tìm vào Âu Châu.

Trong số những người hiện diện trong thánh lễ cũng có khoảng 200 người tị nạn và thiện nguyện. Khoảng 15 điều hợp viên các miền thuộc phân bộ di dân và tị nạn trong Bộ Phát Triển nhân bản toàn diện, một số thành viên của hải quân tuần duyên Italia, tổ chức bác sĩ không biên giới và tổ chức thiện nguyện ”Save the Children” (Hãy cứu các trẻ em). Phần thánh ca do các nữ tu nam nữ thuộc Huynh Đoàn Đan tu Jerusalem ở Roma.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY John Ribat, và 10 GM, cùng với 20 LM, trong đó có 2 vị Phó Tổng thư ký thay ĐTC đặc trách về di dân và tị nạn, thuộc Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đó là cha Fabio Baggio dòng Scalabrini ngừơi Ý và cha Michael Czerny, dòng Tên người Canada.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC nhận xét rằng trong số những người bé nhỏ bị tiêu diệt như ngôn sứ Amos đã tố giác trong bài đọc thứ I (Am 8,4.11), nạn nhân của nền văn hóa loại bỏ, cũng có những người di dân và tị nạn tiếp tục gõ cửa các quốc gia sung túc hơn. ĐTC nhắc rằng cách đây 5 năm tại đảo Lampedusa, ngài đã trích dẫn lời Chúa hỏi Cain: ”Em ngươi ở đâu? Máu của em ngươi đã kêu thấu tới Ta”. Đây không phải là câu hỏi được gửi đến những ngừơi khác, nhưng là câu được gửi đến tôi, đến bạn, và mỗi người trong chúng ta. Rất tiếc những câu trả lời cho tiếng gọi đó, tuy quảng đại, nhưng không đủ, và ngày nay chúng ta lại thương khóc hàng ngàn người chết”.

Dựa vào bài Tin Mừng, ĐTC khẳng định rằng Chúa hứa giải phóng mọi người bị áp bức trên thế giới, nhưng Chúa cần chúng ta để làm cho lời hứa ấy được ứng nghiệm. Chúa cần đôi mắt của chúng ta để thấy những nhu cầu của anh chị em. Ngài cần đôi tay của chúng ta để cứu giúp. Chúa cần tiếng nói của chúng ta để tố giác những bất công diễn ra trong thinh lặng nhiều khi đồng lõa của nhiều người”.

Và ĐTC xác quyết rằng ”đứng trước những thách đố di dân ngày nay, câu trả lời duy nhất hữu lý là câu trả lời liên đới và thương xót; một câu trả lời không quá tính toán, nhưng đòi một sự phân phối công bằng các trách nhiệm, một sự thẩm định lương thiện và thành thực về những giải pháp khác và một sự quản trị thận trọng.. Nền chính trị đúng đắn trù định những giải pháp thích hợp để bảo đảm an ninh, tôn trọng các quyền và phẩm giá của mọi người, biết nhìn đến thiện ích của đất nước mình và để ý đến thiện ích của các nước khác, trong một thế giới ngày càng liên quan với nhau”.

Cầu cho di dân và tị nạn

Trong thánh lễ, một số lời nguyện phổ quát đã được xướng lên, trong đó có lời cầu xin Chúa chúc lành cho những người cứu giúp thuyền nhân trên Địa Trung Hải và xin Chúa gia tăng nơi mỗi người lòng can đảm nói lên sự thật và tôn trọng mỗi sinh mạng con người.

Cộng đoàn cũng cầu nguyện cho những người thiệt mạng, những người sống sót và những người trợ giúp họ.

Trong lời nguyện kết thúc, ĐTC cầu xin Thiên Chúa là ”Cha tất cả mọi người, đối với Chúa không có ai là người ngoại quốc, không ai bị loại trừ khỏi tình phụ tử của Chúa, xin Chúa yêu thương nhìn đến những người tị nạn, di dân, các nạn nhân bị chia cách, các trẻ em bị bỏ rơi và vô phương thế tự vệ, để tất cả mọi người được sự nồng ấm của một gia cư và một tổ quốc, và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con một trái tim quảng đại và nhạy cảm đối với những người nghèo khổ và bị áp bức”.

Thánh lễ cầu nguyện do ĐTC chủ sự mang một ý nghĩa đặc biệt giữa lúc liên đảng mới lên cầm quyền tại Italia quyết định đóng cửa các hải cảng không đón nhận các tàu vớt thuyền nhân, một số nước khác ở Âu Châu đóng cửa biên giới không nhận người di dân và tị nạn, và Liên hiệp Âu Châu gặp khó khăn trong việc tìm ra một chính sách thống nhất đối với người di dân và tị nạn. (Rei 6-7-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

4 Đấng đáng kính mới của Giáo hội

Sáng ngày 05/07, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Đức Hồng Y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ phong thánh và ĐTC đã cho phép công bố các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 4 vị Tôi tớ Chúa và tôn phong các ngài lên bậc Đấng đáng kính. Tất cả 4 vị đều là giáo dân.

1. Giorgio La Pira

Giorgio La Pira, người được xem là một thị trưởng thánh”, sinh ngày 09/01/1904, tại Pozzallo, miền Sicilia, nước Ý, nhưng ngài lại hoạt động chính yếu tại thành phố Firenze, nơi ngài làm thị trưởng từ năm 1951-1957 và từ năm 1961-1965. Nhiệm vụ này đối với Đấng đánh kính La Pira, một cách căn bản, là mang cơm bánh và ân sủng cho dân chúng, nghĩa là đáp lại các yêu cầu của đức tin và cả những nhu cầu vật chất, như nhà cửa và công việc.

Ngài cũng là giáo sư đại học, nhà nghiên cứu, thành phần của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo, bộ trưởng, con người của đức tin và cầu nguỵện, một người kiến tạo hòa bình thật sự.

Điều đánh động tất cả mọi người chính là tình yêu của ngài đối với người nghèo và sự khiêm nhường của ngài: khi giao tiếp với các lãnh đạo thế giới cùng thời, ngài ngủ trên chiếc giường sắt nhỏ, trong một căn phòng đơn sơ, trong đan viện của các tu sĩ Đaminh ở San Marco. Đấng đánh kính La Pira qua đời tại Firenze ngày 05/11/1977.

2. Carlo Acutis

Carlo Acutis sinh ngày 03/05/1991, tại Luân đôn, Sau đó gia đình Acutis chuyển về Milano và tại đây, cậu bé bắt đầu có một mối quan hệ đức tin ngày càng mạnh mẽ hơn cho đến hết tiểu học.

Yêu thích các trang internet, Acutis đã biến nó thành phương tiện truyền giáo. Triển lãm ảo về phép lạ Thánh Thể mà cậu đã thực hiện vào năm 14 tuổi làm chứng cho điều này. Trung tâm của cuộc đời Acutis chính là Thánh Thể, "đường cao tốc đến thiên đàng" của anh, kinh Mân Côi, tình yêu dành cho người khác.

Acutis là một cậu bé sống như tất cả mọi người nhưng yêu mến Chúa Kitô cho đến khi qua đời bởi bệnh bạch cầu cấp vào ngày 12 tháng 10 năm 2006 tại Monzaqua, khi mới 15 tuổi.

3. Alessia González-Barros y González

Alessia González sinh ngày 07/03/1971, tại Madrid. Cô gái người Tây ban nha này cũng qua đời khi còn rất trẻ, chỉ 14 tuổi, sau nhiều lần giải phẫu để chữa trị một khối u ác tính. Alessia đã chịu đựng đau khổ để cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo hoàng và cho tha nhân. Alessia qua đời tại Pamplona ngày 05/12/1985.

4. Pietro Di Vitale

Pietro Di Vitale sinh ngày 14/12/1916 tại Castronovo, tỉnh Sicilia. Di Vitale tham gia Hội Công giáo Tiến hành và là thành viên dòng Ba Phanxicô. Anh có lòng sùng kính Thánh Thể và Đức Maria cách đặc biệt. Dù rất chăm chỉ và say mê học tập. Di Vitale không quên các hoạt động bác ái và tình yêu dành cho tha nhân.

Di Vitale kết thúc hành trình trần thế ở tuổi 23, ngày 29/01/1940, sau khi thân xác bị hao mòn dần bởi căn bệnh bao tử đầy đau đớn mà anh chịu đựng từ những năm trung học.

 

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Cuộc đời của Johannes de Habsbourg-Lorraine, từ một chủ ngân hàng trở thành linh mục

Johannes de Habsburg-Lorraine, cháu trai của cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo, được phong chức linh mục vào ngày 16 tháng 6 năm 2018 tại Verolliez, trong Cộng đoàn Fraternité Eucharistein. Hành trình không bình thường của một "đứa trẻ của thế giới vĩ đại" cuối cùng đã tìm thấy Chúa Giêsu ở nơi "những người bé nhỏ".

Johannes sinh năm 1981, trong một gia đình nổi tiếng nhất ở châu Âu, có truyền thống Công Giáo lâu đời. Ông bà của Johannes là cặp vợ chồng hoàng gia cuối cùng của Áo. Thụy Sĩ là quốc gia lưu vong đầu tiên của họ, sau sự sụp đổ của chế độ quân chủ Áo-Hung năm 1918.

Đi khắp các nơi trên thế giới, sau đó gia đình của Johannes trở về Helvetia. Gia đình hoàng gia này có đời sống thực hành đạo nền tảng, tham dự thánh lễ mỗi ngày trong tuần. Nhưng đối với Johannes, khuôn mặt của Chúa Giêsu chưa thực sự có điểm nhấn trong tâm hồn cậu. Johannes thừa nhận: "Tôi ngoan đạo, tôi tham dựThánh lễ và cầu nguyện, nhưng không thực sự biết rằng Đức Kitô đang sống động, rằng Ngài đã nhập thể và thực sự hiện diện với chúng ta”. Trong giai đoạn này, Johannes có những quan tâm khác hơn là tôn giáo. Chàng thanh niên đặt mục tiêu tạo ra sự nghiệp trong thế giới tài chính. Sau khi học tại Romont và sau đó tại trường cao đẳng Sait-Michel ở Fribourg, Johannes bắt đầu học kinh tế. Chỉ mới 23 tuổi, chàng trai gia nhập một ngân hàng Paris chuyên về sáp nhập và mua lại. Uy tín, tiền bạc, có tầm nhìn xa, Johannes đạt được những gì mình mãi mê tìm kiếm.

Nhưng tận trong cõi lòng Johannes cảm thấy có một điều gì đó không ổn. Anh nói. "Bao quanh tôi là những người cởi mở và thân thiện; tôi sống trong một bầu khí tốt. Tôi có rất nhiều bạn. Nhưng đồng thời tôi cảm thấy rất cô đơn và có một cảm giác tận cõi lòng thiếu một điều gì đó trong tâm hồn tôi. Trong môi trường kinh doanh này, một nơi tình yêu không bao giờ thực sự là cho không, tôi hiểu "sự phù vân của thế giới". Không có gì sai khi làm tài chính, nhưng tôi nhận ra rằng người ta không thể đặt tất cả cuộc sống, tất cả sự tin tưởng của mình trong đó". Johannes rời ngân hàng Paris sau một năm để cống hiến hoàn toàn cho một nhiệm vụ khác:có ý nghĩa .

Cha của Johannes, người đã tham gia tại Viện Philanthropos ở Freiburg, đã mời anh ở đó một ngày. Tại đây anh đã gặp một "thế giới mới", nơi anh gặp những người mà "Thiên Chúa là tất cả". Sau đó, anh hiểu sâu sắc thêm rằng trái tim mình khát khao Đức Kitô và quyết định theo học tại học viện nằm trên ngọn đồi Bourguillon.

Trong các cuộc nghiên cứu của mình, anh có một cuộc thảo luận quyết định với em gái, Marie-des-Neiges, người mới 17 tuổi, "đã có một cuộc gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa". Cô đề nghị: "Hãy nói với Chúa Giêsu đến trong tâm hồ anh". Câu nói này khơi dậy trong Johannes một lời van nài nội tâm, cho đến một buổi sáng vào tháng 10 năm 2005, tại nhà thờ Philanthropos, trong Thánh lễ với vai trò là người giúp lễ, anh cảm thấy bên trong một niềm vui lạ thường, một tình yêu mà Đức Kitô mang đến cho anh. Anh nói: "Tôi có một sự hiểu biết bất ngờ rằng Chúa Giêsu là tất cả cho tôi và tôi là tất cả cho Ngài". Một trải nghiệm mà anh mô tả là không thể nói được. Ý tưởng trở thành linh mục bắt đầu nảy sinh trong anh.

Từ khi bắt đầu học tại Philanthropos, Johannes trở nên gần gũi hơn với cộng đoàn Fraternité Eucharistein, có trụ sở tại Valais. Lòng nhiệt thành, tôn  trọng, tiếp đón những người nghèo của các thành viên đã gây ấn tượng nơi Johannes. Anh quyết định thực hiện một năm nghỉ phép trong cộng đoàn.

Từ buổi tối đầu tiên, Johannes có một cuộc gặp quyết định cho hành trình tâm linh của mình. Đó là David, một người sử dụng ma túy và từng được điều trị ở bệnh viện tâm thần. Người thanh niên này ban đầu có vẻ "rất kỳ lạ", anh ta nói chuyện với Johannes hàng giờ về niềm đam mê  Star Wars.

Johannes  thú nhận: "Tôi tự hỏi làm thế nào tôi có thể dành cả một năm với những người như thế này. Một thách thức đối với tôi, tôi cảm thấy lần đầu tiên trong cuộc đời mình là không có khả năng để yêu người thân cận trong sự thật. Sau đó tôi hét lên với Chúa cầu xin ân sủng để có thể vượt qua điều này. Đó là lần đầu tiên tôi “quỳ gối". Cuối cùng, một tình bạn đẹp và lâu dài được hình thành giữa Johannes và David. Johannes trở thành người đỡ đầu cho chàng trai. Johannes hứa sẽ cố gắng hết sức để đến tiến tới chức linh mục. Trong thời gian học Johannes có nhiều bài viết và bài viết cuối cùng của anh có tựa đề "đe dọa của TC". Johannes nói: "Nhiều người sợ từ bỏ chính mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong cuộc sống cụ thể của họ, bởi vì họ sợ phải từ bỏ sự an toàn và những thành công đã đạt được. Trong Kinh Thánh cũng cho thấy Thiên Chúa dường như là một mối đe dọa đối với người được tuyển chọn. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa vô cùng tốt lành, là Đấng  duy nhất có thể thực sự nâng cao con người lên".

Trở lại và dành tất cả thời gian cho cộng đoàn Fraternité Eucharistein, Johannes có nhiều cuộc gặp gỡ khác với những "người nhỏ bé". Một trong những sứ vụ mà cộng đoàn đã đặt ra là đón  tiếp và trợ giúp người "bị lãng quên" của xã hội. Được trang bị với một sự nhạy cảm trí tuệ và nghệ thuật, công việc của Johannes chủ yếu là về thủ công. Một công việc mà từ khi lên 10 tuổi Johannes đã làm, anh không bao giờ nghĩ đến việc sẽ sử dụng nó. Johannes  nói: "Chúa phán với tôi như với Áp-ra-ham hay Môi-se, “hãy rời bỏ xứ sở của người”. Tôi hiểu rằng Ngài đã trồng tôi ở vùng đất mới này, nơi tôi có thể mang lại hoa trái tốt nhất”.

Johannes được chịu chức linh mục ngày 16 tháng 6 năm 2018, tại Verolliez, trên cánh đồng tử đạo, ngay cạnh Tu viện Saint-Maurice. Johannes mau mắn phó thác để cố gắng hơn nữa sự dấn thân của mình với người lân cận, cho Giáo Hội và cộng đoàn Fraternité. Cha muốn đặt mình hoàn toàn vào sự phục vụ của đặc sủng đặc biệt của Eucharistein, đó là phát triển của đức tin qua đời sống cộng đồng, sùng kính Thánh Thể, cũng như chia sẻ cuộc sống với những người gặp khó khăn.(Cath.ch 13/06/2018)

Ngọc Yến

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

Tòa Thánh quan tâm đến số phận 1,2 triệu người làm nghề biển

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi quan tâm đến số phận của 1 triệu 200 ngàn người làm nghề biển trên thế giới.

Trong sứ điệp công bố hôm 8-7-2018, nhân dịp ”Chúa nhật Biển Cả”, ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, nhắc đến sự kiện 90% hàng hóa cần thiết cho đời sống thường nhật của con người, được chuyên chở bằng đường biển từ miền này sang miền khác trên thế giới. Công việc này đòi nhiều hy sinh từ phía những người làm nghề biển: nhiều người phải sống nhiều tháng trời trong những phòng chật hẹp trên các tàu chở hàng, xa cách gia đình và những người thân yêu, và tại nhiều hải cảng, họ thường không được lên bờ. Thời gian các tàu hàng dừng lại ở các cảng bị thu hẹp tối đa, khiến thủy thủ đoàn không có đủ thời giờ để nghỉ ngơi và giải trí. Nhiều khi các giới hữu trách biện minh cho biện pháp này vì những lý do an ninh hoặc vì những qui luật của xí nghiệp liên hệ.

Ngoài ra, nhiều khi các vị tuyên úy hoặc những người thiện nguyện thuộc các ban mục vụ dân biển không được phép lên tàu để viếng thăm và làm mục vụ cho các tín hữu làm công trên tàu.

Và mặc dù có một hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn tối thiểu trên biển, trong nhiều trường hợp, các công nhân làm nghề hàng hải bị lường gạt về vấn đề lương bổng hoặc bị bóc lột. Thêm vào đó, từ năm 2012 đến 2017, có 1.300 công nhân các tàu bị bỏ rơi vì những lý do khác nhau ở các cảng nước ngoài, không được nhiên liệu, lương thực hoặc lương bổng. Một điều tích cực là tình trạng an ninh trên biển cả tương đối được cải tiến.

Trong sứ điệp, Bộ Phát triển nhân bản toàn diện ca ngợi sự dấn thân của tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) chống lại sự ô nhiễm biển khơi vì những đống rác plastic và giảm bớt đồ phế thải của tàu.

Chúa nhật dân biển được đề ra hồi năm 1975 do sáng kiến của các vị tuyên úy Công Giáo, Anh giáo và các Giáo Hội tự do, nhắm lưu ý dư luận về số phận của những người làm nghề biển và các ngư phủ, để góp phần cải tiến.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin, trưa chúa nhật 8-7 vừa qua tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC cũng nhắc đến Chúa nhật dân biển và nói: ”Tôi cầu nguyện cho họ và gia đình họ, cũng như cho các vị tuyên úy và những người thiện nguyện thuộc ”Tông Đồ Biển Cả”. Tôi đặc biệt nhớ đến những người đang sống trong những điều kiện làm việc không xứng đáng trên biển, cũng như những người dấn thân giải thoát các biển khỏi sự ô nhiễm” (KNA, Rei 8-7-2018)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher – Ngoại trưởng Tòa Thánh – thăm Nam Hàn

Đức Tổng Giám mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, đang thực hiện chuyến viếng thăm Nam Hàn từ thứ tư, 04/07 đến thứ hai, 08/07/2018.

Sáng nay, 05/07, Đức Tổng Giám mục Gallagher đã gặp Tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in; sau đó ngài cũng đã thăm khu vực phi quân sự phân cách hai miền Nam Bắc Triều tiên.

Ngày mai, theo chương trình, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ có cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Kang Kyung-wha, và khoảng 40 đại biểu Công giáo. Ngày thứ 7, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ phát biểu tại diễn đàn Công giáo về hòa bình và nhân quyền. Và cuối cùng, Đức Tổng Giám mục Gallagher sẽ chủ sự Thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Mân Đông ở thủ đô Seul.

Trong thông cáo báo chí, Vatican cho biết cuộc gặp gỡ giữa Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh và Tổng thống Nam Hàn rất thân mật và đề cập đến nhiều vấn đề. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã chuyển đến Tổng thống Nam hàn lời chào, sự hỗ trợ và lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô cho hành trình hòa bình và hòa giải trên bán đảo Triều tiên. Thông cáo cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tái khởi động tất cả các sáng kiến nhân đạo hữu ích, cũng như nhu cầu cấp thiết để thúc đẩy nền văn hóa hòa bình nơi giới trẻ.

Trong cuộc gặp gỡ, Tổng thống Nam Hàn đã nói với Đức Tổng Giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh rằng “Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đóng góp cho sự thành công của Hội nghị thượng đỉnh giữa hai miền Nam Bắc Triều tiên, nhờ sứ điệp hòa bình và hòa giải của ngài.

Đức Tổng Giám mục Gallagher đã được Đức Hồng y Andrew Yeom Soo-jung – Tổng Giám mục Seul, Đức Tổng Giám mục Alfred Xuereb – Sứ thần Tòa Thánh tại Nam Hàn, Đức Cha Hyginus Kim Hee-joong – Tổng Giám mục Gwangju và Đức cha Francis Xavier Yu Soo-il của giám hạt quân đội ở Hàn quốc tháp tùng viếng thăm Khu vực an ninh chung gần với biên giới của hai miền Nam bắc – nơi đã trở thành biểu tượng sau chiến tranh (1950/1953) và là một trong những dấu tích cuối cùng của cuộc chiến tranh lạnh. Đức Tổng Giám mục Gallagher đã bày tỏ hy vọng rằng miền biên giới sẽ trở thành nơi của hy vọng và hòa giải. Ngài cũng cầu nguyện, nhân danh Đức Thánh Cha Phanxicô, để trong tương lai, nơi này sẽ là nơ của hy vọng và hòa giải.

Trong buổi họp báo sau đó, Đức Tổng Giám mục Gallagher khẳng định rằng thỏa thuận đạt được giữa hai lãnh đạo Nam Bắc Triều tiên là một giây phút lịch sử, “một thời kỳ hy vọng và Đức Thánh Cha ủng hộ phong trào này. Chúng ta không nghi ngờ rằng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, nhưng sự quyết tâm mà người Hàn Quốc luôn bày tỏ sẽ giúp họ trên hành trình và chờ đợi họ trong tương lai, tôi chắc chắn rằng với những lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của các Kitô hữu và của những người nam nữ có đức tin tốt lành trên toàn thế giới, nhiều điều tốt đẹp sẽ đạt được trong những tháng tới. Chúng ta cầu nguyện cho điều này.”

Được hỏi nếu ngài có một thông điệp riêng cho người dân Bắc Hàn, Đức Tổng Gallagher nói: “Chúng ta hãy tiến lên, đối mặt với những thách thức của chúng ta: bất kể chúng ta từ phía nào của biên giới, bất kể chúng ta gặp hoàn cảnh nào, chúng ta phải cố gắng hành động để thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên khắp bán đảo Triều Tiên, nhờ sự đóng góp của cả các nước bạn bè.”

Trong chuyến đi, Đức Tổng Giám mục Gallagher cũng viếng thăm địa điểm xây dựng nhà thờ Công giáo được xây dựng tại khu an ninh chung (JSA), dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 3 năm sau. Nhà thờ có từ nhiều thế kỷ hiện tại sẽ đóng cửa vào cuối thời gian xây dựng. (Sismografo 05/07/2018)

Hồng Thủy

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

Lần đầu tiên một giáo dân làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh

VATICAN. Lần đầu tiên một giáo dân được bổ nhiệm làm Bộ trưởng tại Tòa Thánh.

Đó là Ông Paolo Ruffini, được ĐTC bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Truyền Thông, kế nhiệm Đức ông Dario Eduardo Viganò từ chức.

Ông Ruffini, 62 tuổi, cho đến nay là Giám đốc đài truyền hình TV2000 của HĐGM Italia. Ông sinh ngày 4-10-1956 tại Palermo (cháu của ĐHY Ernesto Ruffini – 1888-1967 -, TGM giáo phận Palermo), tốt nghiệp luật khoa tại Đại học La Sapienza ở Roma, và hành nghề ký giả từ năm 1979. Ông hoạt động cho báo Il Mattino ở Napoli, Il Messaggero ở Roma, rồi làm cho đài phát thanh Rai, trước khi chuyển sang đài truyền hình Rai 3, La 7. Từ năm 2014, ông làm giám đốc đài TV2000.

Bộ Truyền thông được ĐTC Phanxicô thành lập cách đây 3 năm bằng cách gộp 9 cơ quan thông tin của Vatican thành một, trong đó có Đài Vatican, Trung Tâm Truyền Hình, Báo Quan sát viên Roma, Phòng báo chí Tòa Thánh, nhà in và nhà xuất bản Vatican, sở nhiếp ảnh… Tổng cộng số nhân viên gần 700 người.

Bộ này có 1 Đức Ông làm Tổng thư ký, Lucio Adrian Ruiz. Bộ này có 6 Hồng y và 7 GM thành viên (trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, GM Mỹ Tho) cùng với 3 giáo dân khác.

Bộ truyền thông ban đầu được gọi là “Segretaria per la comuninicazione” nhưng từ tháng 2 năm nay được đổi thành ”Dicastero per la comunicazione”

G. Trần Đức Anh OP 

Ý cầu nguyện tháng 7 của ĐTC: cầu cho các Linh mục trong sứ vụ của các ngài

Ý cầu nguyện tháng 7 của ĐTC: cầu cho các Linh mục trong sứ vụ của các ngài

Vatican – Trong tháng 7 này, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu đồng hành với các Linh mục bằng tình bạn với các ngài.

Trong video ý cầu nguyện thứ 7 của năm 2018, ĐTC đã xin các tín hữu giúp cho các Linh mục trên toàn thế giới cảm thấy được đồng hành và nâng đỡ trong sứ vụ của các ngài. ĐTC cũng nhấn mạnh đến sự da dạng phong phú của các hoạt động mà các Linh mục đang thực hiện và sự mệt mỏi do nhiều nghĩa vụ các ngài phải thực hiện.

ĐTC nói: “Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các Linh mục, để những ai cảm thấy mệt mỏi và cô đơn trong hoạt động mục vụ, có thể tìm thấy sự giúp đỡ và an ủi trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa và nhờ tình bạn với các anh em linh mục của các ngài.” ĐTC cũng nói thêm: “Vào những lúc đó, thật là tốt khi các Linh mục nhớ rằng dân chúng yêu quý các Linh mục của họ; họ cần và tin tưởng các ngài."

Theo niên giám Tòa Thánh, trên toàn thế giới hiện có 415 656 Linh mục. Trong số này, các Linh mục tại Mỹ châu chiếm 37,4%, châu Âu chiếm 31,6% và Á châu 15,1%, Phi châu 13,4% và cuối cùng, châu Đại dương chiếm 2,5%. Các Linh mục phải thi hành công tác mục vụ, chăm sóc cho hơn 1,2 tỷ người Công giáo trên khắp các châu lục.

Đầu sứ điệp video, ĐTC suy tư về “sự mệt mỏi của các Linh mục.” Ngài nói: “Anh chị em có biết đã bao lần tôi nghĩ về sự mệt mỏi của các Linh mục không?” Các ngài “ với các ưu điểm và khuyết điểm, hoạt động trong nhiều lãnh vực, môi trường khác nhau. Hoạt động trong nhiều hoàn cảnh chờ đợi các ngài, các ngài không thể lặng yên không làm việc sau một sự thất vọng."

Cha Frédéric Fornos, dòng Tên, giám đốc quốc tế của Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo hoàng đã giải thích: “Sứ vụ mà Chúa ủy thác cho các mục tử đòi hỏi một sự dấn thân hoàn toàn để phục vụ tha nhân và sứ vụ, nhưng sứ vụ này rất đòi hỏi, khó khăn, mà nếu không có một tình bạn thẳm sâu với Chúa, không có sự cầu nguyện và sự trợ giúp nâng đỡ của cộng đoàn, thì các Linh mục không thể hoàn thành sứ vụ. Đó là lý do tại sao ĐTC mời gọi các tín hữu đồng hành với các Linh mục bằng tình bạn với các ngài." (Rei 03/07/2018)

Hồng Thủy

Tòa Thánh kêu gọi tăng cường cộng tác chống khủng bố

Tòa Thánh kêu gọi tăng cường cộng tác chống khủng bố

NEW YORK. Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tăng cường cộng tác giữa cơ quan LHQ và chính quyền các nước và cấp hạ tầng ở các địa phương trong cuộc chiến chống khủng bố.

Đức TGM Bernardito Auza, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở LHQ New York, đưa ra lời kêu gọi trên đây hôm 29-6-2018 tại Hội nghị cấp cao về chống khủng bố, khóa họp thứ 4 về sự tăng cường vai trò và khả năng của LHQ trong việc hỗ trợ các quốc gia thành viên thi hành chiến lược chung của LHQ chống nạn khủng bố.

Đức TGM Auza đề cao tầm quan trọng của sự cộng tác trong lãnh vực này, nhưng đồng thời nhấn mạnh rằng ”điều hết sức quan trọng là phải tuân hành luật pháp, các hiệp ước về nhân quyền và công pháp quốc tế về nhân đạo, để ngăn ngừa những kẻ khủng bố coi những vụ lạm dụng nhân quyền như cái cớ để biện minh cho những hành động đáng kinh tởm của họ. Mọi chiến thuật chống khủng bố để xảy ra những vụ lạm dụng nhân quyền thì luôn có những phản ứng tiêu cực, vì lạm dụng nhân quyền sẽ gia tăng sự ủng hộ của dân địa phương dành cho khủng bố”.

Đức TGM Auza cũng nói rằng ”Cùng với các phương tiện và tài nguyên ở địa phương nhắm ngăn ngừa các cá nhân hoặc nhóm trở thành cực đoan và biến thành kẻ khủng bố, mỗi chiến lược chống khủng bố cũng phải có sự can dự của xã hội dân sự để giải quyết những vấn đề của các cộng đồng dễ gặp nguy cơ tạo nên sự cực đoan và sự tuyển mộ những thành phần có thể trở thành khủng bố”. (Rei 30-6-2018)

G. Trần Đức Anh OP