Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

Đức Thánh Cha cổ võ các dự án chống bắt trẻ em lao động nô lệ và đi lính

VATICAN. Sáng ngày 11-4-2014, ĐTC đã tiếp kiến các đại diện của Văn Phòng Công Giáo quốc tế về trẻ em, gọi tắt là BICE, và ngài đặc biệt chống lại tệ nạn bắt trẻ em lao động như nô lệ và phải đi lính.

ĐTC nhắc lại sự kiện Văn phòng Bice được thành lập sau khi ĐGH Piô 12 lên tiếng bênh vực trẻ em hậu thế chiến thứ 2. Từ đó tổ chức này luôn dấn thân thăng các quyền của trẻ em và góp phần vào Hiệp ước của LHQ cách đây 25 năm về việc bảo vệ các quyền của trẻ em.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng: ”Ngày nay, điều quan trọng là tiếp tục thi hành các dự án chống lại tệ nạn trẻ em phải lao động như nô lệ, trẻ em bị xung vào quân ngũ và mọi thứ bạo hành chống trẻ vị thành niên. Nói một cách tích cực, cần tái khẳng định quyền của trẻ em được lớn lên trong một gia đình, với cha với mẹ có khả năng kiến tại một môi trường thích hợp cho sự phát triển và sự trưởng thành tình cảm của các em”.

ĐTC nói thêm rằng ”Những điều trên đây đồng thời cũng bao gồm quyền của các cha mẹ được giáo dục con em mình về luân lý và tôn giáo. Và về vấn đề này tôi muốn bày tỏ sự phủ nhận của tôi đối với mọi sự thí nghiệm giáo dục trên trẻ em. Không thể thí nghiệm trên trẻ em và người trẻ. Những kinh hoàng trong việc lèo giáo dục như chúng ta đã thấy trong các chế độ độc tài giệt chủng hồi thế kỷ 20, vẫn chưa biến mất; chúng còn có tính chất thời sự dưới những bộ áo và đề nghị hác nhau, dưới chiêu bài tân tiến, chúng thúc đẩy các trẻ em và người trẻ tiến bước trên con đường độc tài của ”tư tưởng duy nhất”.

ĐTC nhắc nhở rằng ”Làm việc cho các nhân quyền đòi phải luôn giữa cho việc huấn luyện về nhân loại học được sinh động, được chuẩn bị kỹ lưỡng về thực tại con người, và biết trả lời cho những vấn đề và thách đố do các nền văn hóa hiện đại đề ra, cũng như não trạng được phổ biến qua các phương tiện truyền thông. Đối với anh chị em, vấn đề ở đây là cống hiến cho các vị lãnh đạo và nhân viên một sự thường huấn về nhân loại học trẻ em, vì các quyền lợi và nghĩa vụ có nền tảng nơi nền nhân lại học ấy và việc đề ra các dự án giáo dục cũng lệ thuộc vào đó”.

ĐTC cũng nhân danh toàn thể Giáo Hội xin lỗi vì những vụ vi phạm các quyền của trẻ em cho một số linh mục gây ra, những vụ lạm dụng tính dục trẻ em. ”Giáo Hội ý thức về những thiệt hại này. Đó là một lỗi bản thân và luân lý .. nhưng họ là những người của Giáo Hội. Và chúng tôi không muốn thối lui trong những biện pháp xử lý vấn đề này và hình phạt phải được đề ra. Trái lại, tôi tin rằng chúng ta phải rất mạnh mẽ, vì đối với các trẻ em không được đùa giỡn” (SD 11-4-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác… vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu Trọng Lư);hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp […]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được…” 
 
Vì thế, con mắt được gọi là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

1. Hai cách nhìn và hai lối sống
 
Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8).  

Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2).

Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có “chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!

Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện…

Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi… (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
 
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

2. Sứ điệp Lời Chúa
 
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:

Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?

Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?

Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật…;

Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Dothái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ…

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm… thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích… những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế!

Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).

Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “…giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô… và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo…! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho họ…". Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.

Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển

Ngọn đèn đức tin

Ngọn đèn đức tin

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Hãy biết mình

Hãy biết mình

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

"Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.

Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

LM Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức thống hối và giải tội

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức thống hối và giải tội

VATICAN. Lúc 5 giờ 10 chiều 28-3-2014, ĐTC đã chủ sự nghi thức thống hối tại Đền thờ Thánh Phêrô, với phần xưng thú và giải tội cá nhân sau đó.

Sau lời chào phụng vụ của ĐTC, 8 ngàn người đã nghe đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêsô (4,23-32) trong đó thánh nhân mời gọi các tín hữu hãy canh tân tâm trí và từ bỏ mọi hành vi xấu xa; tiếp đến là bài Tin Mừng theo thánh Gioan (13, 34-35; 15,10-13) qua đó Chúa Giêsu ban giới răn mới cho các môn đệ: hãy thương yêu nhau và tuân giữ các giới răn của Ngài.

Trong bài giảng, dựa vào các bài đọc, ĐTC quảng diễn hai yếu tố:

1. Thứ nhất là 'Hãy mặc lấy con người mới'. Con người mới, ”được tạo dựng theo Thiên Chúa” (Ep 4,24), sinh trong bí tích rửa tội, nơi họ nhận chính sự sống của Thiên Chúa, làm cho chúng ta trở thành con cái Chúa và tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.

ĐTC phân biệt đời sống bị tội lỗi làm biến dạng và đời sống được ân thánh soi sáng. ”Từ tâm hồn con người được đổi mới theo Thiên Chúa, nảy sinh những thái độ tốt lành: luôn nói sự thật và tránh gian dối; không trộm cắp, nhưng chia sẻ điều mình có với tha nhân, nhất là những người túng thiếu; không chiều theo cơn giận, oán hờn, và báo thù, nhưng hiền lành, đại đảm và sẵn sàng tha thứ, không nói hành nói xấu làm mất thanh danh người khác, nhưng cố gắng nhìn những khía cạnh tích cực của mỗi người.”

2. Yếu tố thứ hai là ở lại trong tình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu tồn tại mãi mãi, không bao giờ tận, vì là chính sự sống của Thiên Chúa. Tình yêu này chiến thắng tội lỗi và ban sức mạnh để trỗi dậy và trở nên trẻ trung. Thiên Chúa là Cha chúng ta không bao giờ mệt mỏi vì yêu thương, va mắt Ngài không nặng chĩu khi nhìn con đường trước nhà để xem người con đã ra đi và đã hư mất, nay trở về… Thiên Chúa không những là nguồn mạch tình yêu, nhưng trong Chúa Giêsu Kitô, Ngài còn kêu gọi chúng ta nói theo chính cách thức yêu thương của Ngài: ”Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Tùy theo mức độ Kitô hữu sống tình yêu này, mà họ trở thành môn đệ đáng tin cậy của Chúa Kitô trong thế giới. Tình yêu không chấp nhận khép kín nơi mình. Do bản chất, tình yêu là cởi mở, lan tỏa ra và phong phú, luôn sinh ra tình yêu mới”.

Sau bài giảng của ĐTC, mọi người đã xét mình trong thinh lặng, rồi xưng tội riêng và lãnh nhận bí tích xá giải do 61 linh mục và một số GM ban. Cả ĐTC cũng quì gối xưng tội với một cha giải tội trong một tòa giải tội ở gần cuối nhà thờ. Rồi ngài cũng giải tội cho một số hối nhân. Các cha giải tội hầu hết là các cha dòng thuộc đoàn giải tội ở 4 đại vương cung thánh đường Roma.

Buổi cử hành nghi thức thống hối kết thúc với phần tạ ơn và phép lành của ĐTC.

Đức TGM Rino Salvatore, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái Truyền Giảng Tin Mừng, là cơ quan đã đề xướng việc tổ chức nghi thức thống hối trong khuôn khổ đại lễ tha thứ ”24 giờ cho Chúa” được cử hành ở nhiều giáo phận trên thế giới, nói rằng:

”Sáng kiến này muốn thực sự là một đại lễ trong đó chúng ta được mời gọi suy tư về chính mình, tìm lại sự thật về đời sống chúng ta, và không quá tìm những lý lẽ biện minh cho những gì không tốt xảy ra, trái lại chân thành đặt mình trước Thiên Chúa, và trong kinh nghiệm ấy, sống kinh nghiệm được tha thứ, và được yêu mến mặc dù chúng ta là người tội lỗi”.

Sau nghi thức thống hối và hòa giải ở Đền thờ Thánh Phêrô, 3 thánh đường ở Roma là Nhà thờ Thánh nữ Agnès ở quảng trường Navova, nhà thờ Các Dấu Tích của Chúa ở quảng trường Argentina, va Vương cung thánh đường Đức Mẹ Maria ở khu Trastevere được mở cửa tới nửa đêm để các tín hữu xưng tội và chầu Mình Thánh Chúa. Nhiều bạn trẻ trải qua kinh nghiệm này với những người đồng lứa tuổi về việc tái truyền giảng Tin Mừng”.

Sáng kiến ”24 giờ cho Chúa” kết thúc với Kinh chiều I vào chiều thứ bẩy hôm nay, 29-3. (SD 28-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

Đức Thánh Cha khuyến khích các linh mục và giáo xứ trong việc giải tội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 600 LM và chủng sinh sáng ngày 28-3-2014, ĐTC khuyến khích các LM và các giáo xứ tạo điều kiện dễ dàng và sẵn sàng giải tội các tín hữu muốn lãnh nhận bí tích Hòa giải.

Các LM và chủng sinh năm cuối vừa kết thúc khóa học thường niên về bí tích giải tội và các vấn đề lương tâm, do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc nhở rằng vị giữ vai chính trong sứ vụ hòa giải là Chúa Thánh Linh. Ơn tha thứ mà bí tích này trao ban chính là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông truyền nhờ Thánh Linh của Ngài, vì thế anh em được kêu gọi luôn luôn là những người của Chúa Thánh Linh, là chứng nhân và là người hân hoan và hăng say loan báo sự sống lại của Chúa”.

ĐTC cũng khẳng định ”vai trò của vị giải tội vừa là y sĩ và là thẩm phán, nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng trong tư cách là y sĩ, vị giải tội được kêu gọi chữa lành, và trong tư cách là thẩm phán, vị ấy được kêu gọi xá giải.”

ĐTC ghi nhận rằng ”các tín hữu thường cảm thấy e ngại và cơ cực khi đi xưng tội, vì những lý do thực hành, cũng như vì khó khăn tự nhiên trong việc thú tội với một người khác, vì thế – ĐTC nói – chúng ta cần cố gắng rất nhiều, để không bao giờ trở thành chướng ngại, trái lại tạo điều kiện dễ dàng cho hối nhân đến gần lòng từ bi và ơn tha thứ.”

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy tránh hai thái cực: ngặt nghèo và lỏng lẻo. ”Cả hai điều này đều không mang lại ích lợi cho hối nhân. Trái lại lòng từ bi lắng nghe thực sự bằng con tim của Thiên Chúa và muốn tháp tùng linh hồn trong hành trình hòa giải. Bí tích giải tội không phải là một tòa kết án, nhưng là một sự cảm nghiệm ơn tha thứ và từ bi”.

Sau cùng, ĐTC nói rằng ”Trong tất cả các giáo phận và cộng đoàn giáo xứ cần đặc biệt chăm sóc việc cử hành bí tích tha thứ và cứu độ. Một điều tốt lành là trong mỗi giáo xứ, các tín hữu biết được khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng giải tội cho họ: khi có sự trung thành trong vấn đề này, thì người ta sẽ thấy thành quả. Điều này đặc biệt có giá trị đối với các cộng đoàn dòng tu có thể đảm bảo một sự hiện diện liên tục các cha giải tội”. (SD 28-3-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO GIA TRƯỞNG

Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse. Maria đã đính hôn với Giuse (x. Mt 1,18).Từ ngày hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại.

Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM. Phaolô BVĐ).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Ápraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nadarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nadarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo Hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẽ nổi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em.

Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.

LM Giuse Nguyễn hữu An

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

Cầu Nguyện Với Thánh Giuse

joseph family

Chúng ta chỉ biết một chút ít về Giuse khi các tác giả Tin Mừng thuật lại những biến cố xảy ra trước và sau khi Đức Giêsu giáng lâm. Ta biết về gốc gác của Giuse, về hôn ước giữa ông và Maria, về những trằn trọc trăm mối tơ vò để tìm ra giải pháp tối ưu cho chuyện vị hôn thê sắp cưới của mình có mang, rồi chuyện truyền tin trong giấc mơ và những chuyến hành trình lắm chông gai và mệt mỏi. Qua những tình tiết nhỏ nhặt đó, ta thấy Giuse hẳn phải là một người có tinh thần trách nhiệm như thế nào. Giuse đã không hành xử theo cảm tính hay chỉ làm mọi chuyện cho qua. Đã có lúc Giuse phân vân không biết rời bỏ Maria hay tiếp tục cuộc hôn nhân này. Nhưng khi nhận được lệnh của Chúa là hãy rước Maria về, ông đã thực thi mệnh lệnh ấy như thể đó là sứ mạng của mình, như là chọn lựa của mình, không một lời oán than hay một đòi hỏi xin giải thích.

Khi Maria lâm bồn, hẳn là ông đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm chỗ cho tươm tất. Khi không tìm thấy một nơi ấm êm và đường hoàng, hẳn là ông cũng buồn phiền lo lắng biết bao cho sức khỏe của vợ và hài nhi vừa mới sinh. Giữa đêm khuya giá lạnh, đang tựa đầu để mong nghỉ ngơi một chút thì đã phải vội vàng thức giấc để đưa vợ và con băng đường dài, trốn đi tị nạn ở nơi xa. Khi được lệnh trở về, ông cũng nghe ngóng tình hình, để quyết định xem nên cư trú ở đâu để vợ con có thể được an toàn, không bị những ganh ghét của thế lực trần gian làm hại. Và khi đã tìm được chỗ tốt nhất, ông tiếp tục hành nghề thợ mộc để kiếm cơm nuôi sống gia đình. Giuse đã hoàn toàn dành hết tâm huyết để chăm lo cho gia đình nhỏ bé, cùng với vợ giáo dưỡng Giêsu, cả thể chất lẫn tinh thần, với hết tất cả tình yêu và trách nhiệm của một người đàn ông cột trụ nơi tổ ấm.

Giêsu càng lớn lên, bình an và khỏe mạnh thì hình ảnh của Giuse cũng dần dần mờ nhạt đi. Đến một lúc, ta chẳng còn thấy Tin Mừng nhắc gì đến ông nữa. Ông qua đời khi nào, khi bao nhiêu tuổi… ta cũng chẳng hay biết. Giuse đã hoàn toàn để cho Chúa lớn lên, bằng cách để mình nhỏ bé đi. Những gì làm cho Chúa, ông kể như chẳng là gì to tát. Có chăng là trọn một niềm hạnh phúc vì cảm thấy vinh dự được Chúa cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài mà thôi.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện Giuse đã hy sinh thế nào cho Thiên Chúa và cho gia đình nhỏ bé của mình, cũng đủ để chúng ta mường tượng được công trạng của ngài to lớn trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Vậy cớ gì ngài không hô hào lên tiếng cho người ta biết về những hy sinh của mình? Làm như thế cũng đáng chứ, cũng là điều hợp tình hợp ý mà bấy lâu nay chúng ta vẫn hay làm đấy thôi. Nhưng dường như đối với Giuse, được phục vụ Chúa là một niềm vinh hạnh, được hy sinh cho người khác điều ta nên làm. Nó hiển nhiên như ta hít thở, chứ chẳng phải là điều gì đó ghê gớm đến độ đáng được nêu danh. Chính cái tính cách khoan khai, khiêm nhường và lặng lẽ ấy của Giuse đã giúp cho thánh nhân sống trọn một đời mà không đau khổ dằn dặt chi, không hụt hẫng, nhưng lúc nào cũng bình an, hạnh phúc.

Giuse không cần chi người ta biết đến và ca tụng, có lẽ bởi vì Giuse đã có được phần thường cho chính mình rồi. Ông là một trong những người đầu tiên thấy được tận mắt, sờ được bằng tay hình hài của Con Thiên Chúa. Một quãng thời gian dài, ông có Chúa kề bên, được tập cho Chúa nói, được mớm cho Chúa ăn, được vui cười với Chúa. Rồi bỗng một ngày, niềm hạnh phúc như ngập tràn khóe mắt khi tai ông nghe chính Thiên Chúa gọi mình hai chữ “bố ơi” thật ngọt ngào và êm ái. Ông là ai mà được diễm phúc trở thành người được Con Thiên Chúa gọi là cha? Cả một huyền nhiệm cao vời đang hiển lộ trước mặt ông: một Thiên Chúa làm người mà ông đang ẵm bồng đây, đang gặp gỡ từng giây phút đây, được ôm lấy từng ngày đây. Có Giêsu rồi, ông đâu cần tìm kiếm điều gì nữa. Có nguồn hạnh phúc ở đây rồi, cần gì phải theo đuổi điều gì nữa.

Giuse có lẽ đã tạ thế trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai. Ông không được nghe những lời giáo huấn vàng ngọc của người con yêu của mình dành cho dân chúng. Nhưng biết đâu, khi căn dặn các môn đệ hãy biết phó thác mọi sự cho Chúa Cha, hãy vác thập giá hằng ngày, hãy sống sống khiêm nhường nhỏ bé, Đức Giêsu đã nghĩ đến vị dưỡng phụ yêu quý của mình. Giuse đã biến cuộc đời mình thành một lời nguyện ca tuyệt vời dâng lên Chúa.

Hôm nay, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện với Thánh Giuse. Chúng ta hãy xin ngài chuyển cầu cùng Đức Giêsu, con ngài, cho chúng ta cũng biết sống khiêm nhu, âm thầm và lặng lẽ, suốt cuộc đời chỉ đi tìm một mình Chúa mà thôi, và dám can đảm để Chúa lớn lên, để mình nhỏ lại. Ước gì đó là niềm vui lớn nhất của cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại. Nhưng cả làng Vũ Ðại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giê-su. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giê-su. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.

Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.

Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.

Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.

Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.

Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.

Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.

Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.

Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.

Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu cảu mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa cha quyết định.

Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượng chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.

Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.

Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.

Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.

Hãy đặt ra cho mình một chương sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Thiên Chúa Cha, Đấn giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha gặp hàng giáo sĩ Roma: kêu gọi thực thi lòng từ bi

Đức Thánh Cha gặp hàng giáo sĩ Roma: kêu gọi thực thi lòng từ bi

VATICAN. Trong buổi gặp gỡ các LM Roma sáng thứ năm 6-3-2014, ĐTC Phanxicô đặc biệt nhắc nhở các vị thể hiện lòng từ bi đối với các tín hữu, đặc biệt qua bí tích Hòa Giải.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, 9 GM phụ tá, và khoảng 1 ngàn LM và phó tế phục vụ trong 330 giáo xứ thuộc giáo phận Roma.

Trong bài suy niệm sau bài đọc Tin Mừng theo thánh Matheo kể lại sự kiện Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi thấy con người mệt mỏi và kiệt lực như đoàn chiên không có mục tử chăm sóc, ĐTC gợi lại sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa mà thánh nữ Faustina truyền bá và nói rằng: ”Trong tư cách là các thừa tác viên của Giáo Hội, chúng ta có nhiệm vụ giữ cho sứ điệp về lòng từ bi thương xót của Chúa được luôn sinh động, nhất là trong các bài giảng, các cử chỉ và dấu hiệu, các quyết định mục vụ, ví dụ trả lại sự ưu tiên cho bí tích Hòa Giải và đồng thời cho các việc bác ái từ bi”.

ĐTC giải thích rằng: ”Chúa Giêsu đã có tâm lòng của Thiên Chúa, nghĩa là đầy dịu dàng đối với dân chúng, nhất là những người bị loại bỏ, các tội nhân, những bệnh nhân không ai chăm sóc.. Vì thế, theo hình ảnh vị Mục Tử Nhân Lành, linh mục là người từ bi và thương xót, gần gũi dân chúng và phục vụ tất cả mọi người. Bất cứ ai bị thương tổn trong cuộc sống một cách nào đó, có thể tìm thấy nơi vị linh mục sự quan tâm và lắng nghe. Đặc biệt linh mục chứng tỏ lòng từ bi qua việc ban bí tích Hòa Giải; biểu lộ tâm tình ấy trong thái độ, trong cách thức đón nhận, lắng nghe, khuyên bảo và ban phép xá giải..”

ĐTC cảnh giác và phê bình những linh mục ”được khử trùng”, lãnh đạm, những LM ”phòng thí nghiệm”, họ không giúp đỡ Giáo Hội. Ngài nói: chúng ta có thể nghĩ Giáo Hội ngày nay như một bệnh viện dã chiến săn sóc những người bị thương. Và có bao nhiêu ngừơi bị thương vì những vấn đề vật chất, vì những gương mù gương xấu, kể cả trong Giáo Hội, những người bị thương vì những ảo tưởng của trần thế”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC kêu gọi các LM đề phòng tránh hai thái độ lỏng lẻo và ngặt nghèo. Ngài nói: ”Giữa các cha giải tội, có những cách thức khác biệt, đó là điều bình thương, nhưng không thể có sự khác biệt về nòng cốt, nghĩa là về đạo lý luân lý lành mạnh và lòng từ bi. Thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm chứng về Chúa Giêsu Kitô, và cũng chẳng nâng đỡ những người mà chúng ta gặp”.

ĐTC giải thích rằng ”Người ngặt nghèo đóng đinh con người vào luật lệ được hiểu một cách lạnh lùng và cứng nhắc. Trái lại người lỏng lẻo chỉ có vẻ bề ngoài là từ bi, nhưng thực tế họ không coi trọng vấn đề lương tâm, coi nhẹ tội lỗi.”

”LM thực sự có lòng từ bi thương xót hành động như người Samaritano nhân lành, vì con tim của LM ấy có khả năng cảm thương, đó là con tim của Chúa Kitô.. Chúng ta biết rõ rằng thái độ lỏng lẻo cũng như thái độ ngặt nghèo đều không làm gia tăng sự thánh thiện. Trái lại lòng từ bi tháp tùng và làm gia tăng hành trình thánh thiện”. Sau cùng, ngài mời gọi các LM xét mình xem mình có lòng từ bi, cảm thông với dân chúng, về đời sống cầu nguyện: Ban tối, cha kết thúc mỗi ngày như thế nào? Với Chúa hay với máy truyền hình?

Hai mẫu gương linh mục

ĐTC ứng khẩu kể lại tấm gương của hai linh mục thuộc giáo phận Buones Aires, Argentina: vị thứ nhất nổi bật về việc giải tội và vị thứ hai về lòng từ bi.

”LM thứ nhất còn sống, linh mục nổi bật của Buenos Aires, cha ấy kém tuổi tôi, và sắp được 72 tuổi. Ngày nay phần lớn các linh mục trong giáo phận đến xưng tội với cha ấy. Một hôm cha ấy đến gặp tôi và nói: Thưa cha, con hơi bối rối, con tha thứ nhiều quá. Nhưng khi con cảm thấy cơn bối rối ấy tăng lên mạnh quá, con đến trước Nhà Tạm Mình Thánh Chúa và con nói với Chúa Giêsu: ”Tại Chúa đã làm gương xấu cho con!”

ĐTC Phanxicô bình luận rằng ”Nếu ai sống sự tha thứ ấy thì cũng có thể trao ban sự tha thứ ấy cho người khác”.

Về vị linh mục thứ hai, ĐGH Phanxicô thú nhận là đã lấy trộm Thánh Giá của vị ấy trong quan tài. ”Đó là một linh mục dòng Thánh Thể nổi tiếng và các LM khác cũng đến xưng tội với cha ấy. Một trong hai lần ĐGH Gioan Phaolô 2 đến thăm Argentina, ngài xin gửi đến cho ngài một cha giải tội ở tòa Sứ Thần Tòa Thánh, và người ta đã gửi vị linh mục ấy đến giải tội cho Đức Giáo Hoàng”.

”Khi vị linh mục ấy qua đời, thì tôi đang là Tổng đại diện và ở trong tòa Giám Mục. Tại đó cứ mỗi sáng tôi xuống xem máy Fax để coi có tin gì được gửi tới hay không. Và buổi sáng Phục Sinh, tôi đọc thấy tờ Fax báo: ”Hôm qua, cha Aristide đã qua đời”. Cha được 94 hay 96 tuổi, khoảng đó. Hôm ấy tôi phải đi gặp các linh mục ở nhà dưỡng lão, nhưng sau bữa trưa, tôi đến nhà thờ của cha Aristide. Trong tầng hầm nhà thờ chỉ có quan tài, hai bà cụ già và chẳng có hoa gì cả. Tôi tự nhủ: ”Vị linh mục này đã tha thứ bao nhiêu tội lỗi cho hàng giáo sĩ và giờ đây chẳng có bông hoa nào”. Nghĩ thế tôi đi lên và ra chỗ người bán hoa ở ngã tư đường để mua hoa, hoa hồng.

Trở lại hầm nhà thờ, tôi bắt đầu chuẩn bị trang điểm quan tài với các hoa vừa mua. Lúc ấy tôi nhìn thấy xâu chuỗi mân côi cha Aristide đang cầm ở tay, ”tên trộm' mà mỗi người chúng ta vẫn có trong lòng, chợt xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi liền lấy tay dứt thánh giá nhỏ của xâu chuỗi mân côi trong tay cha Aristide và cầu nguyện với cha: ”Xin cha cho con một nửa lòng từ bi của cha”. Tôi cảm thấy một cái gì mạnh mẽ. Thánh giá ấy tôi bỏ trong một túi nhỏ và luôn mang theo người. Bây giờ áo giáo hoàng không có túi ở ngực, nhưng tôi vẫn luôn mang một túi vải nhỏ bên trong với thánh giá ấy. Và khi có một ý tưởng xấu chống lại ai, thì tôi đặt tay trên túi vải đựng thánh giá ấy, và tôi cảm thấy ơn thánh” (mọi người vỗ tay!). (SD 6-3-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tiền và Nước Trời

Tiền và Nước Trời

Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:

Tiền có thể:

– Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng

– Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.

– Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.

– Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.

– Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.

– Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.

– Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.

– Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.

– Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.

– Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.

– Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa

– Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…

Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)

Đồng tiền là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè…

Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.

Chúa Giêsu không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.

Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.

Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)

Tâm sự của con chim Sẻ:

Bạn thân mến!

Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi…

Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư…

Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy…

Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che …

Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối…

Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?… (Mt.6:26)

Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!

Veritas Radio

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

“KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ”

Những ngày vừa qua, bức “Thư Ngỏ” viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x. vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. “Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao”. Nhưng “TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên”, nên “xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên”.

Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó”.

Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?

Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà “ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo” (Lc 16,8).

Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu” (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?

Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn “người quản gia” với dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó” (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.

Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.

Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng “tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè“, bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.

Câu hỏi: “Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?”.

Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.

1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình

Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.

Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.

Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ… Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: “Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!” (Mt 16, 26).

Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụï người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.

Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: “Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời”. Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự “giàu có”. Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa

Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó“. Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.

3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.

Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi“. Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. “Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với “những người công chính” là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).

Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?

Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?

Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).

“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.

Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.

Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.

Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.

Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.

Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.

Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).

Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?

Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.

Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.

Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.

Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?

LM. Giuse Nguyễn văn Nghĩa

Đức Thánh Cha cổ võ các tín hữu lãnh nhận bí tích Hòa Giải

Đức Thánh Cha cổ võ các tín hữu lãnh nhận bí tích Hòa Giải

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 20 ngàn tín hữu hành hương, sáng ngày 19-2-2014, ĐTC Phanxicô đã giải thích về bí tích Hòa giải và mời gọi các tín hữu siêng năng lãnh nhận bí tích này.

Trong số các tín hữu hiện diện, đông đảo nhất là các nhóm từ Italia, trong số này có 450 tham dự viên Hội nghị do cơ quan hành hương của giáo phận Roma tổ chức, 150 sĩ quan và binh sĩ thuộc trường hạ sĩ quan của Italia ở Italia, 1 ngàn tín hữu tham dự cuộc hành hương do Ngân hàng tín dụng Scafati và Cetara tổ chức. Từ các nước khác, đặc biệt có 25 LM thuộc giáo phận Meaux ở miền bắc Paris do ĐGM giáo phận hướng dẫn, 100 tín hữu từ tổng giáo phận Québec, Canada, do Đfc Cha Gérald Lacroix, hướng dẫn. Ngài sẽ được phong Hồng y vào thứ bẩy tới đây. Và rất nhiều nhóm nhỏ khác từ các nước.

Tuy giờ chính thức được ấn định cho buổi tiếp kiến là 10 giờ rưỡi, nhưng lúc 9 giờ 45, ĐTC đã xuất hiện tại quảng trường, trên chiếc xe Jeep mui trần màu trắng, tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu.

Bài giáo lý

Trong bài huấn giáo sau phần tôn vinh Lời Chúa, ĐTC đã tiếp tục loạt bài giáo lý về các bí tích và trình bày về bí tích giải tội. Ngài nói:

Qua các bí tích khai tâm Kitô giáo, rửa tội, thêm sức và Mình Thánh Chúa, con người con nhận sự sống mới trong Chúa Kitô. Giờ đây, sự sống này chúng ta ”mang trong bình sành” (2 Cr 4,7), chúng ta còn phải chịu cám dỗ, đau khổ, sự chết, và do tội lỗi, thậm chí chúng ta có thể đánh mất cả sự sống mới nữa. Vì thế Chúa Giêsu đã muốn Giáo Hội tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho các chi thể của mình, đặc biệt là với Bí tích Hòa giải và xức dầu bệnh nhân, hai bí tích này có thể được gọi chung là ”các bí tích chữa lành”. Bí tích hòa giải là một bí tích chữa lành. Khi tôi đi xưng tội, là để chữa lành, chữa lành linh hồn tôi, chữa lành con tim tôi, vì một số điều tôi đã làm, khiến cho tôi không được khỏe.

Hình ảnh Kinh Thánh diễn tả tốt đẹp nhất mối liên hệ sâu xa của hai bí tích này chính là giai thoại về việc tha thứ và chữa lành người bất toại, trong đó Chúa Giêsu tỏ ra ngài là bác sĩ của các linh hồn và thân xác (Xc Mc 2,1-12 // Mt 9,1-8; Lc 5,17-26).

1. Bí tích thống hối và hòa giải phát sinh trực tiếp từ mầu nhiệm phục sinh. Thực vậy, chiều ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ đang ở trong nhà tiệc ly khóa kín, và sau khi chào họ bằng câu ”Bình an cho các con!”, Ngài thổi hơi vào các ông và nói: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”. (Ga 20,21-23). Đoạn này tỏ cho chúng ta thấy năng động sâu xa nhất chứa đựng trong bí tích ấy. Trước hết, sự kiện ơn tha thứ các tội lỗi chúng ta không phải là cái gì chúng ta có thể tự ban cho mình, tôi không thể nói: ”Tôi tự tha thứ các tội lỗi cho tôi”. Ta xin ơn tha thứ, ta xin lỗi người khác, và trong phép giải tội, chúng ta xin Chúa Giêsu tha thứ. Ơn tha thứ không phải là thành quả nỗ lực của chúng ta, nhưng là một món quà, là ơn của Chúa Thánh Linh, Đấng làm cho chúng ta được tràn đầy ơn thanh tẩy nhờ lòng từ bi và ân phúc không ngừng trào ra từ trái tim bị đâm thâu qua của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại.

Thứ hai, sự kiện ấy nhắc nhớ chúng ta rằng chỉ khi nào chúng ta để cho mình được hòa giải, trong Chúa Giêsu, với Chúa Cha và với anh em mình, thì chúng ta mới có thể được thực sự sống trong an bình. Và điều này, tất cả chúng ta đều cảm thấy, trong tâm hồn, khi chúng ta đi xưng tội, với một gánh nặng đè trong tâm hồn, có phần đau buồn.. Và khi chúng ta cảm thấy ơn tha thứ của Chúa Giêsu, chúng ta được an bình, niềm an bình trong tâm hồn mà chỉ Chúa Giêsu mới có thể ban cho chúng ta.

2. Trong lịch sử, việc cử hành bí thống hối đã tiến từ một hình thức công khai đến hình thức xưng tội cá nhân và kín đáo. Nhưng điều này không được làm mất chiều kích Giáo Hội, vốn là bối cảnh sinh tử của bí tích này. Thực vậy, chính cộng động Kitô là nơi trong đó có Thánh Linh hiện diện, Ngài đổi mới các tâm hồn trong tình yêu Thiên Chúa và biến tất cả mọi anh em thành một cộng đoàn duy nhất trong Chúa Giêsu Kitô. Vì thế không phải chỉ xin Chúa tha thứ trong tâm trí mà thôi, nhưng còn cần khiêm tốn và tín thác xưng thú các tội của mình với vị thừa tác viên của Giáo Hội. Trong việc cử hành bí tích thống hối, vị linh mục không chỉ đại diện Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn đại diện toàn thể cộng đoàn nhìn nhận mình ở trong sự mỏng manh yếu đuối của mỗi phần tử, Giáo Hội cảm động lắng nghe sự thống hối của phần tử ấy, hòa giải với hối nhân, khích lệ và tháp tùng họ trong hành trình hoán cải và trưởng thành về mặt con người và Kitô.

Có thể có người nói: Tôi chỉ xưng tội với Thiên Chúa”. Đúng bạn có thể nói với Thiên Chúa: ”Xin tha thứ cho con” và kể các tội của bạn ra. Nhưng các tôi chúng ta cũng chống lại anh em, chống lại Giáo Hội và vì thế cần xin lỗi Giáo Hội và anh em, trong vị linh mục. Có thể người ấy lại nói: ”Nhưng thưa cha, con xấu hổ!” Nhưng xấu hổ như vạy là điều tốt, cảm thấy xấu hổ một chút cũng là điều lành mạnh. Vì khi một người không xấu hổ, nước nước chúng tôi họ bảo người ấy là ”vô liêm xỉ!”. Xấu hổ cũng là điều tốt vì làm cho chúng ta khiêm nhường hơn. Và vị linh mục đón nhận sự xưng thú ấy, và nhân danh Thiên Chúa, tha thứ. Và kể cả về mặt con người, nói với một người anh em, để xả hơi, cũng là điều tốt, nói với vị linh mục những điều đang đè nặng trong tâm hồn mình: mình cảm thấy nhẹ nhàng trước mặt Chúa, với Giáo Hội và anh em. Anh chị em đừng sợ xưng tội, một người đứng xếp hàng chờ xưng tội, có thể cảm thấy xấu hổ, nhưng rồi xưng tội xong, thì cảm thấy tự do, đẹp đẽ, được tha thứ và nên trong trắng, hạnh phúc. Đó là vẻ đẹp của phép giải tội.

Tôi muốn hỏi anh chị em, nhưng anh chị em đừng trả lời lớn tiếng nhe. Mỗi người tự trả lời trong tâm hồn: Lần chót bạn xưng tội cách đây bao lâu rồi? Mỗi người hãy xét xem nhé. 2 ngày, hai tuần, hai năm, 20 năm, hay 40 năm. Nếu thời gian qua lâu rồi, thì đừng để thêm ngày nào nữa. Hãy đi xưng tội, vị linh mục tốt lành. Và Chúa Giêsu càng tốt lành hơn các linh mục, Chúa Giêsu đón tiếp bạn. Ngài đón nhận bạn với bao nhiêu yêu thương. Hãy can đảm lên, hãy đi xưng tội.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, cử hành bí tích Hòa Giải có nghĩa là được ôm ấp trong một vòng tay nồng nhiệt; đó là vòng tay của lòng từ bi vô biên của Chúa Cha.

Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn thật đẹp, về người con bỏ nhà cha ra đi với tiền thừa tự, anh ta phung phí hết tiền bạc, rồi khi không còn gì nữa, anh quyết định trở về nhà cha, không phải như người con, nhưng như một người đầy tớ. Anh ta cảm thấy bao nhiêu tội lỗi trong con tim, bao nhiêu tủi hổ. Và điều ngạc nhiên là khi anh bắt đầu nói và xin lỗi, người cha không để anh ta nói: cha ôm lấy con, hôn con và mở tiệc mừng. Mỗi khi chúng ta xưng tội, Thiên Chúa cũng ôm lấy chúng ta, Thiên Chúa mừng lễ. Chúng ta hãy tiến bước trên con đường đó. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.

Chào thăm

Sau bài giáo lý trên đây bằng tiếng Ý, các linh mục thuộc các cơ quan Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt bài giáo lý trong các ngôn ngữ khác nhau: Pháp, Anh, Đức, Bồ đào nha, Arập, Ba Lan. Các vị cũng dịch những lời chào của ĐTC gửi đến các nhóm tín hữu hiện diện.

Chính ĐTC tóm tắt bài giáo lý bằng tiếng Tây Ban Nha và chào thăm các tín hữu hành thương thuộc ngôn ngữ này cũng là tiếng mẹ của ngài, đặc biệt là 40 vị giám dốc các trung tâm truyền giáo giáo phận ở Tây ban Nha và Mỹ la tinh, đang tham dự khóa họp quốc tế về linh hoạt truyền giaó ở Roma.

Với các tín hữu nói tiếng Bồ đào nha, ĐTC đặc biệt chào thăm các tín hữu thuộc Tổng giáo phận Chúa Cứu Thế ở Rio de Janeiro, Brazil, tháp tùng vị chủ chăn là Đức TGM Orani João Tempesta, thuộc dòng Xitô sẽ được phong hồng y vào sáng thứ bẩy 22-2 tới đây. ĐTC nói:

”Tôi cầu chúc anh chị em điều này: ước gì không điều gì và một ai có thể ngăn cản anh chị em sống và tăng trưởng trong tình bạn với Thiên Chúa là Cha; trái lại hãy để cho tình yêu Chúa luôn tái sinh anh chị em và hòa giải anh chị em với Chúa, với chính mình và với anh chị em. Xin phúc lành dồi dào của Chúa được đổ xuống trên anh chị em và gia đình anh chị em.

Sau cùng, ĐTC chào đông đảo các nhóm tiếng Ý, ngài nhắc đến 500 tham dự viên hội nghị do Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích tổ chức, được ĐHY Tổng trưởng Antonio Canizares Llovera hướng dẫn. Ngoài ra có 50 tham dự viên cuộc gặp gỡ do Hàn lâm viện Tòa Thánh bảo vệ sự sống tổ chức, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập tổ chức này. ĐTC nói: ”Tôi khích lệ anh chị em tiếp tục theo đuổi công trình quí giá là phục vụ Tin Mừng sự sống”.

ĐTC không quên chào thăm các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới. Ngài nói: Hỡi các bạn trẻ, xin Đức Trinh Nữ Maria giúp các con ngày càng hiểu giá trị của hy sinh trong việc huấn luyện các con về mặt nhân bản và Kitô giáo; hỡi anh chị em bệnh nhân quí mến, xin Mẹ nâng đỡ anh chị em trong việc đương đầu với đau khổ và bệnh tật trong thanh thản và can đảm. Và hỡi các đôi tân hôn, xin Mẹ hướng dẫn anh chị em xây dựng gia đình anh chị em trên những nền tảng vững chắc là lòng trung thành với thánh ý Chúa.

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu ĐTC còn dành hàng giờ để chào thăm các HY, GM, các tín hữu, các bệnh nhân và những người tàn tật.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Angelus: Đức Giêsu Đến Để Kiện Toàn Lề Luật

Angelus: Đức Giêsu Đến Để Kiện Toàn Lề Luật

VATICAN. Trưa Chúa Nhật, 16 tháng 2, hàng chục ngàn tín hữu hành hương từ khắp nơi trên thế giới đã tề tựu về quảng trường Thánh Phêrô, Vatican để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha, đọc Kinh Truyền Tin và nhận phép lành từ ngài.

Trong bài chia sẻ, Đức Thánh cha đã dựa vào nội dung đoạn Tin Mừng Mt 5,17-37, để triển khai những giáo huấn của Giêsu liên quan đến luật mới và luật cũ. Trước hết, ngài tóm tắt ý tưởng chính của đoạn Tin Mừng. Ngài nói:

“Bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay nằm trong của cái gọi là "Bài Giảng Trên Núi", bài giảng lớn đầu tiên của Đức Giêsu… Ngài nói rằng: "Các con đng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các Ngôn Sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Vì thế, Đức Giêsu không muốn xóa bỏ các giới răn mà Thiên Chúa đã ban qua Môsê, nhưng là mun mang nó đến sự kiện toàn. Và ngay sau đó, Ngài thêm rằng "sự kiện toàn Lề Luật" này đòi hỏi một sự công chính trỗi vượt hơn, một sự tuân thủ chân thực hơn. Ngài nói vi các môn đệ rằng:" Nếu các con không công chính hơn các lut sĩ và kinh sư, các con sẽ chẳng thể vào đưc Nước Trời" (Mt 5,20)

Sau đó, Đức Thánh Cha giải thích:

Nhưng sự "kiện toàn Lề Luật" này có nghĩa là gì? Và sự công chính trỗi vưt hơn bao hàm điều gì? Chính Đc Giêsu đã trả lời chúng ta bằng một vài ví dụ, khi so sánh luật cũ với luật mới của Ngài. Đức Giêsu rất thực tế, Ngài luôn giải thích bằng những ví dụ đ người ta có thể hiểu được. Bắt đầu từ điu răn th 5 trong Mưi Điu Răn: "Anh em đã nghe luật ngưi xưa dạy rằng: Chớ giết người;… còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: hễ ai giận ghét anh em mình, ngưi đó đáng b đưa ra xét xử rồi" (cc 21-22). Về điu này, Đức Giêsu nhắc nhớ chúng ta rằng lời nói cũng có thể giết người! Vì thế, chưa cn nói đến việc xâm phạm mạng sống người thân cận, việc trút lên họ sự căm phẫn và những lời hàm oan cũng đã phạm tội rồi.”

Đức Thánh Cha dừng lại đôi chút, và chia sẻ với mọi người về những điều xấu xa do chuyện ngồi lê đôi mách mang lại. Sau đó, ngài chia sẻ tiếp:

Đc Giêsu đề xuất với những ai theo Ngài về một tình yêu hoàn hảo: một tình yêu mà thưc đo duy nhất là chẳng có thưc đo, là đi xa vượt trên sự tính toán. Tình yêu dành cho người thân cận là một thái độ sâu sắc đến đ Đc Giêsu đã đến để xác nhận rằng tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa không thể nào chân thành nếu chúng ta không muốn có sự hòa bình với người anh em: "Vì thế, nếu các con đang dâng của lễ trên bàn thờ mà chợt nhớ là đang có điều bất hòa với người anh em, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với ngưi anh em trưc đã" (cc. 23-24). Thế nên, chúng ta được mời gọi để làm hòa với anh chị em của chúng ta trước khi biểu lộ lòng sùng kính của chúng ta với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện.”

Từ những gì đã chia sẻ ở trên, Đức Thánh Cha đi đến chiều sâu cốt lõi của việc tuân giữ lề luật của Chúa. Ngài nhấn mạnh, điều hệ trọng không phải là những gì ta thể hiện bên ngoài, nhưng là ý hướng thâm thúy bên trong, vì đó là nơi sẽ quyết định những gì ta làm là tốt hay xấu. Ngài chia sẻ:

“Từ những điều vừa nói, chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không coi trọng chỉ đơn thuần những việc tuân thủ quy luật hay những hành vi bên ngoài. Ngài đi đến tận cội rễ của Luật, chú ý trước hết đến ý hướng và con tim của con ngưi, nơi phát sinh những hành vi tốt hay xấu của chúng ta. Đ có được lối hành xử tốt đẹp và chân thực, những quy định của lề luật thôi thì chưa đ, nhưng cn động lực bên trong, diễn tả một sự khôn ngoan ẩn tàng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chỉ có thể nhận được nhờ Thánh Thần. Về phía chúng ta, nhờ đc tin nơi Đức Kitô, chúng ta có thể mở lòng mình ra để Chúa Thánh Thần hoạt động, Ngài có thể giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha đi đến kết luận là mọi giới răn đều quy về một giới răn quan trọng nhất là mến Chúa yêu người. Ngài nói:

ới ánh sáng những lời giáo huấn của Đức Kitô, mỗi điều luật đều cho thấy ý nghĩa trọn vẹn của nó như là đòi hỏi của tình yêu và tất cả nối kết với nhau trong một giới răn cao cả nhất: yêu mến Thiên Chúa với trọn con tim và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Như thường lệ, sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các hội đoàn, nhóm đang hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Luật của Chúa Giêsu

Luật của Chúa Giêsu

Thiên Chúa ban cho con người có tự do và để con người tự do định đoạt số phận của đời mình: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”. (Hc 15, 16-17).

Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống: cửa sinh“Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. (Hc 15, 19-20)

Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống.

Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10).

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9. Ngài nói với các môn đệ hai ngàn năm trước, mà nghe như đang nói với mỗi người chúng ta, trong thế giới nầy, trong đất nước nầy, trong xã hội và giáo hội hôm nay…

Yêu thương và tôn trọng nhau
 
Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23)

Chúa Giêsu dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

Nhìn thực tế cuộc sống đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người. Nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng anh em. Chúng ta đang trách mắng nhau, chửi bới nhau thậm tệ trên các phương tiện truyền thông? Một bên mắng là “đồ ngốc”. Bên kia mắng lại là “quân phá đạo, quân phản đạo”. Thực ra, không thấy có ai dám mắng anh em là “đồ ngốc”, nhưng ý nghĩa các bài viết, các bản tin còn thậm tệ hơn cái “đồ ngốc” ấy nữa, nhất là đối với các những người lớn hơn mình về vai trò nhiệm vụ trong xã hội và giáo hội. Không ai dám kết án chúng ta đã xem thường nhau, rồi xúc phạm đến nhau tới mức nào, nhưng tự thâm tâm chúng ta có thể trả lời được, nếu không, hãy mở to mắt nhìn những hậu quả. Kìa, những phê phán, những đánh giá đầy tính chủ quan lại được tung ra trên diện rộng đã gây nên những hậu quả khó lường. Có cả những hậu quả thảm khốc là làm cho người bị mắng là đồ ngốc lẫn người bị chửi là quân phản đạo, vẫn sống nhưng là như đã chết rồi. Người chết cái uy tín, kẻ chết cái niềm tin, cái nhiệt tình. Người thứ ba đứng bên ngoài vỗ tay reo hò rằng: chúng nó tàn sát lẫn nhau.

Chúng ta không giết người, vì không có gươm giáo, súng đạn, nhưng vì thiếu chân thành, chỉ cần một chữ ký, một quyết định, một bài báo, một bản tin, một tờ rơi, một cái búng tay ra mật lệnh, một cú phone, một cái enter.. dễ chưa từng có… Người anh em ta sẽ chết ngay dưới lưỡi gươm công luận, dưới búa rìu comments phê phán, dưới họng súng truyền thông.

Cũng vậy, chúng ta không giết người, nhưng vì không tôn trọng con người là tuyệt phẩm của Thiên Chúa, nên chỉ cần một viên thuốc, một lời kích động, một phút tư vấn (về sức khỏe, về sắc đẹp, về hạnh phúc) là có hằng trăm con người đỏ hon hỏn phải tức tưởi tắt thở lúc chưa kịp sinh ra. Những can phạm, không ai khác, chính những người thân thiết nhất của con người: cha giết con, chồng giết vợ, mẹ giết con, vợ giết chồng, chủ giết tớ, cấp quan cấp trên có quyền hành giết cấp dân đen cấp dưới không phương tiện chống cự, không tiếng nói…

Giữ tâm hồn trong sạch, xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần.

Điều răn thứ sáu dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vỡ lở, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt mây mưa thì, theo Chúa Giêsu, đã thành tội rồi.

Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, thì sớm muộn, con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.

Trước đây, người phụ nữ Á Đông rất kín đáo, rất đoan trang… Tại sao chỉ sau ba bốn chục năm, các thiếu nữ bây giờ không còn đoan trang như trước nữa? Có người cho là hội nhập văn hóa Tây Phương. Có người cho là đó là nét đẹp của Thượng Đế cần phải phô trương. Có người còn cho là không có gì là tội lỗi. Nhưng cũng có câu trả lời rằng: kẻ chống Chúa Giêsu biết cách làm cho người ta không giữ lời Chúa Giêsu dạy! Như vậy là đỗ thừa cho hoàn cảnh xã hội sao? Không, thiết tưởng, người phụ nữ không còn kín đáo nữa là do họ không những không còn quí trọng đức trinh khiết của mình và của người khác, mà còn thích thú làm cớ cho mình và người khác vấp phạm.

Cách đây 8 năm, tôi lên Sàigòn, ghé thăm anh bạn bán thuốc tây trước BV Bình Dân. Vừa nói chuyện vừa xem anh bán thuốc. Tôi thắc mắc không biết các em học sinh mang bảng tên lớp 10, lớp 11 vào mua thuốc gì mà anh bạn tôi lấy tiền rồi trao cho các em cái gì đó đựng trong túi xốp đen, đi ra. Chỉ ngồi chơi một tiếng mà có ít là 6 học sinh vào mua hàng rồi ra như vậy. Thấy tôi ngẩn ngơ, không đợi tôi lên tiếng hỏi, anh bạn tôi nói: “Mình không bán thì mấy tiệm kia cũng bán cho chúng nó thôi. Bạn lấy làm lạ phải không?” “Vâng, mình chẳng hiểu gì cả”. “Chúng nó mua que thử thai đấy. Học sinh bây giờ lớp 9 lớp 10, tụi nó thử cả rồi! Có trời mới biết chúng nó ngoan như thế nào. Khổ nỗi, cha mẹ thì chỉ biết “Con tôi nó học ngày học đêm! Tội nghiệp quá!” ….
 
Ấy là chuyện con nít. Còn chuyện người lớn thì “không chỉ nhìn phụ nữ, phụ nam cách thèm thuồng, mà còn đưa phụ nữ về nhà mình, hoặc đưa người tình nam về nhà mình sống chung bất hợp pháp thì còn gì để nói”. Cuộc sống không công chính vì lỗi đức trong sạch của người lớn ở bậc độc thân suốt đời, cũng như của người sống bậc hôn nhân đã làm niềm tin và lòng yêu mến của bậc bề dưới, của con cái chết dần chết mòn rồi đến giai đoạn tử vong không cứu kịp.

Giá trị hôn nhân công giáo hệ tại ở tính đơn hôn và vĩnh hôn. Vì vậy, những lạc thú ngoài hôn nhân làm mất giá trị đời sống công chính của hôn nhân công giáo. Biết thế, âm mưu của người chống lại Thiên Chúa là những chủ trương thành văn hoặc bất thành văn về việc tự do quan hệ, khuyến khích phá thai, còn tạo điều kiện tốt cho những cuộc ly hôn ly dị có pháp luật bảo đảm.

Từ đó, thế hệ những đứa con vất vưởng do những cuộc ly hôn, hoặc của những đứa con vô thừa nhận làm thay đổi cách nhìn truyền thống và giá trị của chữ Hiếu. Thế hệ trẻ của những con người nầy không còn yêu thương, kính trọng cha mẹ mình, vì cha mẹ đã không chu toàn đức công chính. “Tết em muốn về với Mẹ, mà không biết phải nói gì với chồng của Mẹ. Tết, em muốn về với Ba, cũng không biết phải nói sao với vợ của Ba”. Hoặc là, đã để lại cho chúng một dấu ấn không đẹp về cách hành xử của người lớn khi chúng không biết ba chúng nó là ai. Có trường hợp đáng tiếc, khi lớn lên nó biết ba của nó là một ông lớn trong xã hội. Thiên Chúa mà ông lớn không nhìn nhận thì huống chi là con ông.

Chúa Giêsu thật chí lý khi dặn dò chúng ta giữ tâm hồn thanh sạch. Nếu đức trong sạch được trân quí nơi ý thức của mỗi cá nhân, nơi giáo dục của mỗi gia đình, nơi chủ trương của xã hội thì ắt hẳn sẽ có một xã hội đầy nhân tính, xứng nhân phẩm, trọn vẹn nhân ái đúng nghĩa mà Thiên Chúa muốn.

Ngay chính thật thà
 
Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5,37)

Lòng ngay chính thật thà có thể nói sẽ hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Và yêu thương chân thành sẽ là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của những lạc thú xác thịt, của những âm mưu chia rẻ, âm mưu gây hận thù, oán trách.

Con người thời nay vẫn đồng hóa tình yêu với tính dục và cho là đó là tình yêu chân thành, mà không ngộ ra rằng đó là sự xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm của người mình yêu. Những người yêu nhau một cách xác thịt, không tin là họ đang lừa dối nhau, và mãi sống trong sự nhầm lẫn đáng tiếc vì ai cũng đang yêu chính mình.

Người công giáo phải được giáo dục tốt từ trong gia đình về đức tính thật thà. Vì nếu nơi Thiên Chúa không có gì là gian dối, thì Ngài cũng không thể chấp nhận con cái Ngài sống cách gian tà, quỷ quyệt. Cũng vậy Thiên Chúa tôn trọng sự thật, bênh vực công lý, trung tín lời hứa, và cũng muốn con cái Ngài như vậy.

Con rắn ngày xưa phỉnh gạt bà Eva ăn trái cấm. Con rắn ngày nay còn quỷ quyệt tinh xảo hơn: không cần phỉnh gạt ai cả, nhưng mở đường gian tà thênh thang cho con người đi lên tới đỉnh danh vọng, tới đích tỷ phú, tới hạnh phúc trần gian thừa mứa chán chê! Ai không đi theo đường của nó, thì nó nhẹ nhàng quyến rủ mời mọc lịch sự chưa từng có! Ai đã theo con đường của nó, tự động sẽ phát sinh những chuyện gian tà, gây nên những hỗn độn: chê bai chỉ trích điều công chính lẫn điều không công chính, làm cho không ai phân biệt được phải trái nữa. Cái nào cũng phải. Cái nào cũng trái. Lúc ấy, nó sẽ đắc thắng.

Chuyện không đáng kể, mà cũng phải kể. Đó là chuyện có vài người không đáng kể, thích thêm mắm muối ớt tỏi làm lệch lạc sự thật đáng quí, ảnh hưởng tới một số người đáng kể. Trong khi đó, đức công chính Chúa Giêsu dạy là “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5, 37)

Có anh bạn từ rất xa, phone cho tôi thăm hỏi: “Lâu nay làm gì mà vắng bóng thế?” Tôi trả lời “Vẫn thế thôi mà”. Anh hỏi tiếp: “Bệnh hay là định gác bút rồi?” “Không, vẫn bình thường mà?”- “Mình chả thấy bài ông đâu cả?” “Có mà. Ông đọc trang nào?” “Mình chỉ đọc độc một trang “Nhân Viên Công Lực” thôi ! Chửi nghe sướng!”. “Ồ, thế thì làm sao được! Phải đọc dăm bảy trang mới khách quan ra được chứ!”. Anh bạn tôi cúp máy!
 
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, mà còn giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Sự công chính

Sự công chính

Truyện kể: Có thánh lễ an táng trong khu phố. Mọi người trong xóm đạo đều có mặt. Cha xứ có công truyện phải vắng mặt vào ngày đó, nhưng cha rất vui lòng vì có cha phó sẽ cử hành thánh lễ an táng. Cha phó là người dễ dãi và nhạy bén, cảm tình. Khi chiều đến, cha xứ trở về hỏi han xem lễ an táng diễn tiến thế nào? Cha phó trả lời:

– Mọi sự tốt đẹp, không có vấn đề gì cả. Đông người tham dự, nhưng cũng có một vấn đề nho nhỏ. Vấn đề gì thế? Bà Robinson có mặt tại lễ an táng và như cha biết bà là người Tin Lành.

– Oh, không có vấn đề, vì tôi cũng mong có bà hiện diện ở đó vì bà là bạn thân của gia đình đó mà.

– Nhưng bà ta đã xếp vào hàng đi lên rước lễ.

Cha xứ vội ngồi xuống ghế và với vẻ mặt lo lắng bồn chồn. Cha giật nẩy mình hỏi:

– Điều gì đã xảy ra?

– Bà ta xếp hàng lên rước lễ và chỉ còn cách có hai người nữa thì con mới nhìn thấy bà ta.

Cha xứ hỏi dồn: Kể tiếp, kể tiếp và cha đã nghĩ gì và làm gì?

– Con không biết phải làm sao nữa, nhưng con phải quyết định nhanh. Con quyết định ngay rằng con nên làm điều mà con tin Chúa Giêsu sẽ làm.

– Oh, không, lạy Chúa tôi, chắc là cha đã không làm điều đó chứ!

Khi mở mắt đón chào một ngày mới, mỗi người chúng ta đều có quyền chọn lựa cho mình một thái độ sống vui hay buồn. Nếu chọn sống vui, chúng ta sẽ có một ngày vui tươi an lạc. Chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận mọi trạng huống xảy đến, dù thuận lợi hay không thuận lợi. Đối diện với cuộc sống hằng ngày, chọn lựa thái độ sống là cần thiết, như tác giả sách Đức Huấn Ca đã viết: Trước mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ, họ thích thứ nào thì được thứ ấy (Hc 15,17). Sự lành hay sự dữ, mong ước thứ nào sẽ được thứ ấy. Vì sự tốt lành mà chúng ta nhìn thấy nơi người khác, thì cũng ẩn hiện trong chúng ta. Những lỗi lầm chúng ta nhìn thấy nơi người khác, cũng là lỗi lầm của chúng ta. Những khả thể chúng ta nhận biết nơi người khác, thì cũng khả thể nơi mình. Nhận biết sự tốt đẹp chung quanh, cũng chính là sự tốt đẹp của chúng ta.

Thế giới chung quanh là một sự phản ánh, giống như chiếc gương phản chiếu khuôn mặt của chúng ta. Để thay đổi thế giới quanh ta, chúng ta phải thay đổi chính mình trước. Khi chúng ta than phiền hay càm ràm, thì chỉ làm cho vấn đề thêm rắc rối và tồi tệ hơn. Bất cứ điều gì chúng ta quan tâm, đó là trách nhiệm của chúng ta. Điều chúng ta nhìn thấy nơi người khác thì cũng xuất hiện nơi con người chúng ta. Nhìn thấy cái tốt nơi người khác và chúng ta cũng trở nên tốt. Những gia sản mà chúng ta chia sẻ cho người khác, là chúng ta đang cho chính mình. Ước mong sự tốt lành và chúng ta sẽ được tốt lành. Yêu và chúng ta sẽ được yêu. Tìm học hỏi và chúng ta sẽ được hiểu biết. Lắng nghe và lời của chúng ta sẽ được lắng nghe. Chúng ta nhìn vào gương với khuôn mặt rạng rỡ, chúng ta sẽ vui mừng vì cùng khuôn mặt vui tươi đang nhìn lại mình.

Thiên Chúa truyền dạy chúng ta hãy tránh điều ác và thực hành điều thiện: “Người không truyền dạy cho ai làm điều gian ác và không cho phép một ai phạm tội.” (Hc 15,20). Con người yếu đuối hay hướng chiều về đàng xấu và thích tìm thoả mãn những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Chúng ta biết rằng thả dốc thì dễ dàng và để thuyền trôi xuôi theo dòng thì nhẹ nhàng thoải mái, không cần phải gắng sức chèo chống. Sống thỏa mãn theo các đòi hỏi của nhu cầu bản năng tự nhiên xem ra không khó. Các loài thú vật luôn sống theo bản năng: Đói tìm ăn, khát tìm uống và đến mùa, đến ngày đi tìm thỏa mãn nhu cầu tính dục tự nhiên. Con người thì cao trọng hơn con vật bội phần. Tuy rằng con người vẫn còn thú tính, nên đôi khi cũng lạc bước tìm thoả mãn các thú vui. Con người có trí khôn, tự do và ý chí. Nhờ có trí khôn, con người đã có những bước tiến nhảy vọt cả về đời sống tâm linh, về luân lý đạo đức và khoa học kỹ thuật.

Trải qua lịch sử ngàn năm, con người đã cố gắng góp nhặt và hệ thống hoá những tư tưởng, suy tư, chiêm niệm và tu thân để đi tìm chân lý. Sự khám phá tâm linh thì như đi vào một cõi vô định, tâm trí của con người chìm sâu vào các bí nhiệm và huyền nhiệm. Hành trình đi vào nội tâm sâu thẳm, tự con người vẫn chưa tìm được ngõ ra. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Corintô đã khai mở một cửa ngõ: “Nhưng chúng tôi thuyết sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở, để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi.” (1 Cr 2,7). Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, đã mạc khải mầu nhiệm cao siêu của Nước Trời qua chính Con Một là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là trưởng tử và trung gian của vạn vật. Phaolô đã diễn tả: “Nhưng chúng tôi rao giảng như lời đã chép: Sự mắt chưa từng thấy và tai chưa từng nghe, và lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người.” (1 Cr 2,9). Tình yêu là tất cả.

Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã gom trọn những lỗi lầm mà con người thường hay ngã phạm, cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Những tội về giết người, phẫn nộ, chửi rủa anh em là ngốc, là khùng, tội ước muốn điều tà dâm, gây dịp tội của con mắt và của tay chân, tội ngoại tình, tội bỏ vạ cáo gian và thề gian dối… Chúng ta biết các cám dỗ về đàng tội, luôn rình chờ sự sơ hở của ý chí chọn lựa trong mọi nơi và mọi lúc. Khi chúng ta thiếu tỉnh thức, các dịp tội sẽ xâm nhập vào tâm trí một cách rất tinh tế và nhẹ nhàng tưởng như vô thưởng vô phạt. Chúa Giêsu cảnh tỉnh: “Vậy Thầy bảo cho anh em biết, nếu các con không ăn ở công chính hơn các kinh sư và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.” (Mt 5,20). Chúa Kitô thấu tỏ tấm lòng của các vị lãnh đạo tôn giáo, vì lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Họ trang sức bên ngoài với lễ phục tươm tất gọn gàng nhưng trong lòng chứa đầy những ý tà và sự gian dối. Chúa mời gọi chúng ta sống công chính không chỉ trước mặt người đời, nhưng là trước mặt Thiên Chúa.

Một trong những lỗi lầm mà chúng ta thường hay phạm nhất là sự nói dối. Đôi khi chúng ta muốn nói dối để tránh tội và chối tội vì sợ bị vạ lây. Có khi nói gian hay chứng dối để được thêm lợi lộc tiền của. Khi tiền đề câu truyện là sự nói dối, chúng ta cứ phải nói dối tiếp để bịa thêm truyện. Cứ thế, càng nói dối càng xa sự thật. Chúa nhắc nhở chúng ta: “Nhưng lời nói của các con phải là: Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt truyện là bởi ma quỷ mà ra.” (Mt 5,37). Lòng con người sâu thẳm, chẳng mấy ai có thể dò thấu. Ở đời, người ta có thể dùng ảnh hưởng quyền lực và tiền bạc để che giấu sự thật, nhưng không thể lừa dối lương tâm. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát và làm sáng tỏ mọi vấn đề. Hằng ngày, qua truyền thông báo chí, chúng ta biết có rất nhiều câu truyện gian dối và lừa đảo đã bị phát giác và bại lộ. Mỗi người hãy tự cảnh tỉnh lương tâm của mình qua công ăn việc làm, qua lời ăn tiếng nói, qua việc khai báo bản thân và qua việc hành xử trong cuộc sống. Hãy luôn nhớ, có thì nói có, không thì nói không.

Lạy Chúa, Chúa Giêsu phán: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa để chúng con sống như con cái sự sáng giữa ban ngày. Chúng con sẽ suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và luôn sống trong sự thật.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nữ hoàng Elizabeth sẽ viếng thăm Đức Thánh cha Phanxicô vào ngày 3 tháng 4 – 2014

Nữ hoàng Elizabeth sẽ viếng thăm Đức Thánh cha Phanxicô vào ngày 3 tháng 4 – 2014

Nữ hoàng Elizabeth sẽ viếng thăm Đức Thánh cha Phanxicô vào ngày 3-4 thumbnail

Nữ hoàng sẽ có chuyến viếng thăm lịch sử Đức Thánh cha trong năm nay, và cuộc hội kiến này được cho là “thân mật” vì nữ hoàng sẽ viếng thăm nhà trọ của Đức Thánh cha chứ không phải Dinh Tông tòa.

Chuyến công du nước ngoài đầu tiên trong vòng 3 năm nay của nữ hoàng sẽ chứng kiến bà viếng thăm Đức Thánh cha tại Vatican trong một cuộc hội kiến có khả năng bỏ qua truyền thống.

Tân Tổng Giám mục Justin Welby của Canterbury đã hội kiến Đức Thánh cha Phanxicô, vị giáo hoàng nổi tiếng ghét hình thức.

Được biết thay vì tiếp nữ hoàng tại căn hộ giáo hoàng, Đức Thánh cha sẽ đón bà đến nhà trọ của ngài.

Chuyến viếng thăm này sẽ làm tăng thêm mối quan hệ giữa hai Giáo hội Anh giáo và Công giáo và sẽ được 4 triệu người Công giáo Rôma nồng nhiệt hoan nghênh.

Cuộc hội kiến này chắc chắn sẽ khác hẳn với chuyến viếng thăm Vatican năm 1980 của nữ hoàng, khi đó bà là nữ hoàng Anh đầu tiên có chuyến viếng thăm nhà nước đến đây. Bà cũng là người đầu tiên tiếp đón Đức Giáo hoàng khi Đức Gioan Phaolô II viếng thăm London năm 1982.

Đức Thánh cha có phòng tại Domus Sactae Marthae, nhà trọ 5 tầng do các nữ tu quản lý. Tại đây người ta thường thấy ngài tự nấu mì ống, hay ăn trong căng tin. Chính tại nơi đây hai người chắc chắn sẽ có cuộc hội kiến lịch sử.

Nữ hoàng sẽ viếng thăm Đức Thánh cha vào tháng 4, ngay trước ngày sinh nhật lần thứ 88 của bà và sau khi Đức Thánh cha biệt kiến Tổng thống Barack Obama.

Nguồn: The Telegraph

UCANEWS VN

Haiti bốn năm sau ngày động đất

Haiti bốn năm sau ngày động đất

Phỏng vấn bà Maria Vittoria Rava, chủ tịch tổ chức phi chính quyền Rava, về công tác cứu trợ nhân dân Haiti

Bốn năm đã trôi qua kể từ khi Haiti bị động đất, khiến cho 230 ngàn người chết và hơn một triệu người mất hết nhà cửa phải sống cảnh màn trời chiếu đất.

Người dân Haiti lại càng phải khốn khổ hơn vì hai trận bão lớn xảy ra sau đó. Các tai ương này đã đánh gục nền kinh tế vốn đã èo ọt của người dân hòn đảo này và đã gây ra nhiều trận dịch kiết lỵ, cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người khác, đặc biệt là các trẻ em.

Thảm cảnh của người dân Haiti xem ra đã bị thế giới lãng quên, nhưng cuộc khủng hoảng này vẫn tiếp tục cật vấn lương tâm mọi người.

Như đã biết, lúc 16 giờ 53 phút ngày 12 tháng Giêng năm 2010, một trận động đất mạnh 7 chấm theo thước Richter đã tàn phá đảo Haiti, khiến cho 230 ngàn người thiệt mạng và hơn một triệu người trở thành dân tị nạn với hai bàn tay trắng, vì đã mất mất hết nhà cửa và gia tài sản nghiệp. Thủ đô Port-au-Prince biến thành một đống gạch vụn đổ nát, kể cả dinh tổng tổng thống và các dinh thự của chính quyền cũng sụp đổ. Hàng trăm ngàn xác chết bị kẹt dưới các tòa nhà đổ nát, hay nằm nhiều ngày sau đó trên các đường phố, mà không được ai chôn cất.

Tình hình của các thành phố và làng mạc xa xôi còn thê thảm hơn nữa, vì các toán cứu trợ đã chỉ có thể tới giúp dân chúng nhiều tuần sau đó. Trận động đất đã khiến cho các cầu, đường lộ và hầm bị sập, đất bị lở, khiến cho việc lưu thông hoàn toàn bị gián đoạn. Hai trận bão càn quét Haiti sau đó đã khiến cho tình trạng sống của dân chúng càng thê thảm hơn. Ngoài cảnh nhà cửa bị tàn phá đổ nát, hàng chục ngàn xác chết rải rác khắp nơi, còn có hàng ngàn trẻ em mồ côi lang thang thất thểu vô định trên các đường phố, và hàng ngàn người bị chết vì dịch tả.

Nhân dân Haiti, một quốc gia nghèo nhất thế giới, đã phải đương đầu với một thảm cảnh to lớn vượt qúa mọi sức lực của họ. Một phong trào liên đới quốc tế đã được phát động nhưng đã không thành công trong việc vực dậy một đất nước hoàn toàn kiệt quệ. Và ngày nay, bốn năm đã trôi qua kể từ sau cuộc động đất kinh hoàng ấy, Haiti vẫn là một đống đổ nát hoang tàn và cảnh hỏa ngục vẫn còn đó.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Maria Vittoria Rava, chủ tịch tổ chức phi chính qyuyền Rava, về công tác cứu trợ Haiti. Tổ chức Rava đã hiện diện tại Haiti từ 27 năm nay và điều khiển một loạt các dự án trợ giúp phát triển tại đây.

Hỏi: Thưa bà Rava, tình hình tại Hati hiện nay ra sao, có còn khó khăn hay không?

Đáp: Tình hình vẫn luôn luôn rất khó khăn. Cũng rất khó diễn tả bằng lời nói, bởi vì chỉ khi tới Haiti thì người ta mới nhận thức được tình hình của quốc gia xó xỉnh này của trái đất, nơi chỉ có các đống rác, các đổ vỡ và tuyệt vọng.

Không có gì thay đổi, trong nghĩa những người đã mất nhà cửa hiện nay vẫn không có nhà ở: họ sống dưới lều bạt, hay trong các nhà vá víu tạm bợ bằng đủ mọi vật liệu mà họ tìm được… Đã không có việc tái thiết đất nước.

Hỏi: Chúng ta nhớ cuộc tranh đua liên đới quốc tế được phát động ngay sau khi trận động đất xảy ra tại Haiti: Nó có đem lại vài kết qủa nào không thưa bà, hay đã chỉ là các lời hứa suông không được thực hiện?

Đáp: Điều mà tôi có thể nói đó là thí dụ như trong trường hợp của chúng tôi, tất cả những gì lạc quyên được đều đã được sử dụng cho các công tác cứu trợ ngay lập tức, chứ không cần phải đợi nhiều năm. Nó đã mang lại kết qủa, mà mỗi lần qua Haiti đều khiến cho tôi ngạc nhiên. Đã có hàng ngàn trẻ em được giúp đỡ mỗi ngày. Chúng là các trẻ em mồ côi sau trận động đất đã sống lang trang trên các đường phố và không nơi nương tựa, vì cha mẹ và người thân đã chết hết. Nói chung chắc chắn đã có vài cơ quan không hoạt động tốt. Tôi không phải là người có bổn phận nói lên điều này, bởi vì chúng tôi chỉ là một cái ”bàn đạp nhỏ”, nhưng với tất cả số tiền mà người ta đã quyên góp được, chia ra cho mỗi đầu người trong số hàng triệu dân Haiti, thì có thể làm một cài gì nhiều hơn nữa, rất nhiều hơn nữa.

Nhân dân Haiti đáng được hưởng điều đó, vì họ rất muốn vươn lên và làm lại cuộc sống. Khi bạn cho họ một cơ may, một dịp tốt, một công việc, họ biết tận lực và phục hồi. Tôi trông thấy điều này nơi các bạn trẻ, mà tôi biết và chúng tôi theo dõi với các học bổng cấp cho họ. Thật là không thể tin được, và rất cảm động: mỗi khi trở về nhà tôi đều nghĩ: chúng tôi đã làm được quá ít.

Hỏi: Các việc cấp thiết nhất hiện nay rất tiếc liên quan tới các trẻ em. Tổ chức của bà đã can thiệp một cách cụ thể như thế nào trong lãnh vực này?

Đáp: Các dự án của chúng tôi tập trung vào việc trợ giúp các trẻ em. Lý do cũng là vì các em rất thiếu dinh dưỡng, và đây cũng là lý do khiến cho nhiều em phải chết. Thiếu nước, thiếu vệ sinh, thiếu cả nước trong lành để uống. Chúng tôi có một trung tâm chống bệnh kiết lỵ. Trung tâm này được thành lập sau trận dịch kiết lỵ đầu tiên, mỗi năm tiếp đón 20,000 bệnh nhân và dĩ nhiên là luôn luôn đầy các trẻ em, là những người giòn mỏng yếu đuối nhất và các em là những người đầu tiên phải chết, nếu không được chuyền nước. Và mỗi khi có mưa là bệnh dịch tả lại gia tăng. Thế rồi chúng tôi cũng có nhà thương nhi đồng Thánh Damiano, là nhà thương nhi đồng duy nhất tại Haiti, hằng năm đã săn sóc cho 80,000 trẻ em: có các em được săn sóc trong một ngày, có các em phải nhập viện vì các trường hợp khẩn cấp, có các em khác nữa nhập viện để được giải phẫu, có các em được săn sóc vì bị ung thư. Chúng tôi cũng có một khu vực sản khoa dành cho các bà mẹ và các trẻ em sinh sau khi xảy ra trận động đất, bởi vì vài nhà thương ít ỏi đều đã sụp đổ hết. Vì thế nhà thương thánh Damiano là điểm quy chiếu của toàn nước Haiti. Nhà thương của chúng tôi nhận được sự hỗ trợ của các bác sĩ nhà thương Buzzi ở Milano, Nhà thương Chúa Hài Đồng Roma và nhà thương Di Ponte tỉnh Varese. Các chuyên viên của các nhà thương nói trên đã cộng tác với chúng tôi bằng cách cống hiến cho chúng tôi các khả năng chuyên môn của họ. Đây là một kích thích để thành lập nhiều nhà thương thánh Damiano khác. Thế rồi chúng tôi cũng có các nhà mồ côi tại Kenscoff gần nhà thương thánh Damiano và nhà Trẻ thơ thánh Anna ở Saint Louis, là nơi chúng tôi tiếp đón 2.000 trẻ em vô gia đình, nơi các em được yêu thương săn sóc và giáo dục trong tình yêu và niềm vui. Chúng tôi đã có thể tiếp đón các em nhờ hệ thống nhận nuôi trẻ em mồ côi từ xa, với sự đóng góp tài chánh của rất nhiều các cha mẹ nuôi. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 2013 nhiều cha mẹ nuôi đã chọn tới nghỉ tại nhà này.

Hỏi: Tổ chức Rava không chỉ trợ giúp người dân Haiti, nhưng cũng tạo công ăn việc làm cho 1.600 người nữa, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Vâng đúng thế. Đây là điều đẹp nhất và lần nào cũng khiến cho tôi cảm động. Đây là điều chúng tôi đã thực hiện tại Francisville với ”Thành phố nghề nghiệp”, nơi chúng tôi dậy nghề cho các thanh thiếu niên và là nơi chúng tôi trú ngụ mỗi khi tới Haiti. Nó là một khách sạn nhỏ gọi là ”Biệt thự Francesca”, nơi chúng tôi ngủ nghỉ bằng cách trả mỗi ngày 25 mỹ kim. Tại khách sạn này có các trẻ em bụi đời làm việc như là những nhân viên giúp việc và các em được trả lương. Có rất nhiều kiểu tạo cho các em một công việc làm. Giáng Sinh vừa qua tôi đã ăn trưa với một vài em được một số vị hảo tâm Italia cho học bổng để các em theo học tại đại học. Biết bao nhiêu lần người ta cảm động, vì các trẻ em chiếm đa số tại Haiti, và các em bị chết vì tật bệnh và thiếu dinh dưỡng.

Số trẻ em tử vong rất cao. Và khi bạn được một trẻ em bé bỏng như vậy ôm chặt lấy mình, thì bạn bị chinh phục ngay. Nhưng cả khi bạn có trước mặt một thanh niên 20 tuổi đi nữa, nhìn đôi mắt của họ chất chứa dấu ẩn các câu chuyện không thể tin được. Có khi họ đã mất tất cả gia đình trong trận động đất cách đây bốn năm, nhưng họ vẫn còn có ý chí phấn đấu vươn lên và dấn thân xây dựng. Họ đã ghi danh theo học đại học và thi đậu qua kỳ sát hạch, mà bên Italia các người trẻ có đủ mọi điều kiện thuân lợi trong cuộc sống cũng còn than là khó. Bên Haiti này các kỳ thi sát hạch đó lại còn khó hơn biết bao nhiêu, bởi vì có rất ít chỗ trong ngành Y khoa của đại học Haiti. Nhưng các bạn trẻ này đã muốn thắng vượt các chướng ngại đó và chọn con đường khó. Khi tôi hỏi họ: “Sao? các kỳ thi như thế nào, có khó không? Có vất vả không?” Và bạn có thể tưởng tượng ra hoàn cảnh sống thiếu thốn khó khăn trăm bề của họ. Họ đâu có nhà cửa và ghế salong để ngồi thoải mái nghỉ mệt vào buổi chiều đâu. Thế nhưng họ trả lời: ”Không, không khó, không mệt, không vất vả. Tôi đang theo đuổi giấc mơ của tôi. Từ khi tôi gia nhập đại học, tất cả chỉ là một con đường xuống dốc dễ dàng!”

(RG 12-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio