Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Nhận xét tổng quát về Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Thánh Giuse

Nhập đề

 Có nhiều cách thức trình bày chân dung của thánh Giuse, cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày đức Maria. Những cuốn sách soạn để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của thánh cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Chúa Giêsu. Về phía thần học, người ta chú trọng đến tương quan giữa thánh Giuse với Đức Mẹ (hôn nhân và khiết tịnh) hoặc so sánh đặc ân (vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời).

 Công đồng Vaticanô II đã mở ra một hướng đi mới trong thần học về đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mặc khải (Thánh Kinh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng khác, cần hướng đến vai trò của đức Maria trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh. Chương VIII của hiến chế tín lý về Hội thánh đã được soạn theo chiều hướng đó. Từ sau công đồng, khoa Thánh-mẫu-học đã tiến triển rất nhiều, cách riêng do sự thúc đẩy của đức Gioan Phaolô II. Tiếc rằng những sách viết về thánh Giuse theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít.

 Trong loạt bài này chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình bày vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm của đức Kitô và của Hội thánh, dựa theo tông huấn Redemptoris Custos của đức thánh cha Gioan Phaolô II (ban hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:

 1/ cần chú ý đến các dữ kiện của mặc khải, chứ không phải là các ngụy thư hay các mặc khải tư;

 2/ cần nêu bật vai trò của thánh Giuse trong chương trình cứu độ : ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu thế, và vì thế trở nên mẫu gương cho Hội thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân cứu độ.

 I. THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH

 Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử thánh Giuse ?

 Xin trả lời là các nguồn sử liệu về thánh Giuse rất hiếm. Thật ra điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Chúa Giêsu, các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân ước không cung cấp nhiều chi tiết. Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.

 Riêng đối với thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin mừng, đặc biệt là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh Luca. Dù sao, khi so sánh với những tài liệu về đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng đức Maria còn hiện diện trong giai đoạn hoạt động công khai của Chúa Giêsu, và thậm chí sau khi Chúa Phục sinh và Lên trời ; còn thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi tìm lại Chúa Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.

 Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, nhiều Tin mừng ngụy thư ra đời, nhằm mô tả chi tiết về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và thánh Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ hai khía cạnh: lịch sử và thần học. Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan. Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin mừng. Thật vậy, các sách Tin mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng ?loan báo Tin mừng?, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của đức Giêsu. Vì thế nếu ai muốn truy tầm nơi các sách Tin mừng những tài liệu để viết tiểu sử đức Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ thấy đủ chất liệu.

 Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về thánh Giuse. Tân ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên những đoạn văn Tin mừng đã phác hoạ vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi đức Giêsu Kitô.

 Trong bài này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân ước nói đến thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo sát những đoạn văn Cựu ước đã được Hội thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của thánh Giuse .

 Mục 1. Tin mừng thánh Matthêu

 I. Tổng quát

 Trong bốn sách Tin mừng, thánh Matthêu nói nhiều hơn hết về thánh Giuse: trong hai chương đầu, thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần nào hoạ laị vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu ước. Ngoài ra, đức Giêsu được gọi là ”con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.

 Thánh Luca cũng nhắc đến thánh Giuse trong hai chương đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến đức Maria. Dù sao, thánh Luca bổ túc thêm cho thánh Matthêu nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Chúa Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai lần nữa trong Tin mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (Lc 3,23 và 4,22).

  Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin mừng thánh Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong Tin mừng thánh Marcô .

 Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin mừng thánh Matthêu, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin mừng thời niên thiếu” (hoặc ”Tin mừng thơ ấu”), tuy rằng thuật ngữ này không được chính xác lắm.

 Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu (48 câu) và Luca (132 câu) không hẳn là thuật lại gia thế của Chúa Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự thụ thai trinh khiết trong cung lòng đức Maria và sự giáng sinh tại Bêlem, hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Chúa Giêsu (đừng kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12 tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đíchụ gì ? Tại sao phải thêm hai chương này, trong khi thánh Marcô và thánh Gioan bắt đầu Tin mừng với cuộc đời công khai của đức Giêsu ? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai quan điểm.

 1/ Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào đời, tựa như Abraham, Môsê, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa nơi các ”Tin mừng nguỵ thư”. Tuy nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng, nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phái đến những vị cứu tinh.

 2/ Quan điểm thứ hai cho rằng hai chương này là một thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin mừng. Tin mừng cứu độ của đức Kitô được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt qua nhưng đã được phác hoạ ngay từ khi Người ra đời. Nói khác đi, đức Kitô là Đấng cứu độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh. Nơi thánh Matthêu, cốt yếu Tin mừng có thể tóm lại như thế này: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Mêsia được hứa cho dân tộc Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua Hêrôđê tìm cách thủ tiêu Người; cũng như về sau này các nhà lãnh đạo Do thái sẽ lên án xử tử Người, Mt 27,1-2), đang khi đó Tin mừng lại được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham dự tiệc trong Nước Thiên Chúa, Mt 8,11 ; 28,19ụ).

 Thiết tưởng hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc ”Tin mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền với toàn bộ Tin mừng. Theo nhãn giới này, ?Tin mừng niên thiếu?cũng có những nét giống với tự ngôn của Tin mừng theo thánh Gioan, nói về nguồn gốc của đức Giêsu trước thời kỳ hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga 1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản văn.

 Xét về cấu trúc hai chương đầu theo Tin Mừng thánh Matthêu, đã có nhiều đề nghị phân đoạn.

 1/ Một ý kiến cho rằng toàn bộ sách Tin mừng theo thánh Matthêu được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ thư của ông Môsê. Cụ thể là các lời giảng của đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước Trời :

 a) bài giảng trên núi công bố hiến chương Nước Trời, ở các chương 5-7;

 b) bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;

 c) bài giảng về các dụ ngôn giải thích bản chất Nước Trời, chương 13;

 d) bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội thánh, mầm mống của Nước Trời, chương 18;

 e) bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Thiên Chúa vào thời cánh chung, chương 24-25.

 Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với việc trưng dẫn 5 câu Kinh thánh để kết thúc 5 đoạn văn :

 Nhập đề : Gia phả (1,1-17)

 a) Isaia 7,14 : Ơn gọi của Giuse (1,18-25)

 b) Mikha 5,2 : Vua Hêrôđê, các nhà chiêm tinh, Bêlem (2,1-12).

 c) Hôsê 11,1 : Trốn sang Ai-cập (2,13-15)

 d) Giêrêmia 31,15 : Tàn sát các anh hài (2,16-18)

 e) Isaia 4,3 (Tl 13,5?) : Từ Ai cập trở về Nazareth (2,19- 23).

 Dĩ nhiên các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn :

 2/ Dựa theo các giấc mơ của thánh Giuse dẫn tới hành động.

 Trong Tân ước, chỉ có Tin mừng Matthêu đề cập đến giấc mơ như là một phương tiện mặc khải ý Chúa. Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy bà Maria làm vợ ; đưa thánh gia sang Ai- cập ; trở về quê hương ; định cư ở Nazareth. Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12). Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất :

 a) nhập đề : mô tả hoàn cảnh

 b) công thức : ”này kìa sứ thần Chúa hiện đến báo  mộng cho ông rằng”

 c) sứ điệp : thiên sứ trao cho ông một công tác ”hãy đem” (hãy mang)

 d) tuân hành: ông Giuse tuân hành

 e) trích dẫn Kinh thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một danh hiệu của đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người Nazareth.

 3/ Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của đức Giêsu:

a) Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Mêsia), con vua Đavit, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).

 b) Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa đã trở nên con vua Đavit do ông Giuse thuộc dòng dõi Đavit chấp nhận hài nhi được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).

 c) Ở đâu (Ubi)? Bêlem, thành phố Đavit, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12)

 d) Từ đâu (Unde)? Từ Bêlem của người Do thái, đi lánh nạn sang Ai-cập giống như ông Môsê, về miền Galilê của dân ngoại, định cư tại Nazareth.

 4/ Dựa theo những cuộc di chuyển địa lý : Bêlem, Ai-cập, Nazareth.

 a) chương 1 diễn ra tại Bêlem, thành phố vua Đavit

 b) chương 2, tường thuật việc di chuyển từ Bêlem sang vùng đất dân ngoại (Ai cập), để rồi kết thúc với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nazareth.

 Những cuộc di chuyển này không phải là do ngẫu nhiên, nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ : ”ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn? : đức Giêsu sinh tại Bêlem như là Mêsia lãnh tụ Israel dõng dõi vua Đavit (2,6); sang Ai cập và ra khỏi đó như là con Thiên Chúa (2,15) ; về Nazareth, trở thành biệt hiệu ”Giêsu Nazareth” (2,23).

Bài 2 lần tới: khảo sát các bản văn Kinh Thánh về thánh Giuse

G. Phan Tấn Thành OP

Ý chỉ cầu nguyện tháng Ba của Đức Thánh Cha: Cầu nguyện cho các gia đình

Ý chỉ cầu nguyện tháng Ba của Đức Thánh Cha: Cầu nguyện cho các gia đình

 

VATICAN: Trong tháng Ba, ý chỉ cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô đặc biệt hướng về gia đình. Đức Thánh Cha chia sẻ: “Gia đình là một trong những tài sản quý giá nhất của nhân loại. Nhưng gia đình chẳng phải cũng dễ bị thương tổn nhất sao? Khi gia đình không được chăm sóc và bảo vệ, khi gặp phải những khó khăn về kinh tế, sức khỏe hay bất cứ một hình thức nào khác; con cái sẽ phải lớn lên trong những hoàn cảnh bấp bênh, buồn chán.”

Thật vậy, trong đoạn video có cảnh một bé gái đang ngồi trên cầu thang với vẻ mặt lo lắng, buồn bã. Em đang lắng nghe tiếng đập cửa, tiếng khóc la rên rỉ dường như đang bị tắc nghẹt trong cổ họng của một đứa trẻ khác bên trong cánh cửa đóng kín sau lưng em.

Đức Thánh Cha nói: “Cha muốn chia sẻ với các con, hiệp cùng với Đức Giêsu, ý chỉ cầu nguyện của cha trong tháng này: ‘Cầu cho các gia đình đang gặp khó khăn nhận được sự trợ giúp cần thiết và cho các trẻ em được lớn lên trong môi trường lành mạnh và an toàn.’”

Vũ Đức Anh Phương (SJ)

3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô qua các con số

3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô qua các con số

3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô qua các con số

ROMA. Nhân dịp kỷ niệm 3 năm Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô, mạng internet ”Sismografo” ở Italia đã làm tổng kết hoạt động của ngài qua các con số:

Tổng cộng trong hơn 1 ngàn ngày, ngài đã đọc 628 bài diễn văn và 180 bài giảng, công bố 153 sứ điệp, cử hành 382 thánh lễ tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Martha, trong số này con số thánh lễ trong năm ngoái giảm bớt nhiều so với 2 năm trước đó.

ĐTC đã thực hiện 124 buổi tiếp kiến chung và tiếp kiến dịp Năm Thánh, ngài chủ sự 168 buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu tại Roma và các nơi khác, thực hiện 11 chuyến viếng tại Italia và 12 lần viếng thăm tại hải ngoại với gần 2 tháng ở nước ngoài và di chuyển 152 ngàn cây số tức là gần 4 vòng trái đất.

Ngoài Tông Sắc ”Khuôn mặt thương xót” (Misiricordiae Vultus) ấn định Năm Thánh ngoại thường, ĐTC đã công bố hai thông điệp ”Lumen Fidei”, Ánh sáng đức tin, và Laudato sí, Chúc tụng Chúa, một tông huấn Evangelii Gaudium, ”Niềm Vui Phúc Âm”. Ngoài ra, ĐTC công bố 15 Tông Hiến, 101 thư và 29 Tông thư, 9 Tự Sắc và khoảng 20 kinh nguyện

Dùng bữa với người nghèo

Để kỷ niệm 3 năm Giáo Hoàng, chiều chúa nhật 13-3-2016, ĐTC Phanxicô sẽ dùng bữa với những người vô gia cư tại nhà thờ thánh Lorenzo chỉ cách Vatican 50 mét.

Thánh đường này ở cạnh trung tâm giới trẻ quốc tế, là nơi giữ bản gốc Thánh Giá giới trẻ mà ĐGH Gioan Phaolô 2 trao cho giới trẻ nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần đầu tiên cử hành cách đây 33 năm (1983).

Bữa ăn tối của ĐTC với những người vô gia cư ở khu vực Vatican sẽ kết thúc sáng kiến ”cầu nguyện đường trường 24 tiếng đồng hồ” được khởi xướng để cảm tạ Chúa vì 3 năm Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô, đồng thời xin Chúa chúc lành cho bản thân và sứ vụ của Người.

Cuộc cầu nguyện này sẽ được khởi sự lúc 10 giờ tối thứ bẩy, 12-3, với việc Chầu Mình Thánh Chúa và thánh lễ trọng thể lúc 11 giờ đêm. Trưa chúa nhật 13-3, các tín hữu sẽ tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC tại Quảng trường Thánh Phêrô và lúc 2 giờ chiều chúa nhật này, sẽ có buổi đọc kinh Mân Côi của các trẻ em. Nhiều phong trào và hội đoàn đã đăng ký thay phiên nhau tham gia các giờ cầu nguyện với thánh ca và phần linh hoạt phụng vụ (AGI 9-3-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Giáo hội Nam Hàn mở Cửa Thánh tôn vinh các vị tử đạo

Giáo hội Nam Hàn mở Cửa Thánh tôn vinh các vị tử đạo

Nhà thờ Công giáo ở Yakhyeon

Tổng Giáo phận Seoul mở Cửa Thánh tại 3 thánh địa dành kính các vị tử đạo trước đây của Giáo hội Công giáo Nam Hàn nhân kỷ niệm 150 năm đánh dấu ngày khởi đầu cuộc bách hại Kitô hữu ở Byeong.

Hoạt động này trong năm dành tưởng nhớ các vị tử đạo được Đức Hồng y Andrew Yeom Soo-jung của Seoul tuyên bố, theo hãng tin Fides của Vatican.

Các cửa thánh được mở tại ba thánh địa nơi các vị tử đạo bị giết hại, gồm thánh địa Jeoldusan; thánh địa ở Saenamteo, và nhà thờ Công giáo ở Yakhyeon.

Sau khi cuộc bách hại đạo bắt đầu năm 1866, khoảng 9000, gần phân nửa số người Công giáo ở Nam Hàn lúc đó, bị giết chết vì đức tin.

UCANEWS-VN

ĐTC gặp gỡ các gia đình và dâng thánh lễ cho các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh

ĐTC gặp gỡ các gia đình và dâng thánh lễ cho các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh

Các linh mục, tu sĩ,, chủng sinh và tín hữu chờ đợi tham dự thánh lễ với ĐTC tại sân vận động Venustiano Carranza

Tường thuật cuộc gặp gỡ của ĐTC với các gia đình tại sân vận động Tuxtla Gutierrez và thánh lễ với các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại tổng giáo phận Morelia

Sáng thứ ba 16-2-2016 chuyến công du Mexico của ĐTC đã tiến hành được một nửa. Từ thủ đô Mexico ngài lấy máy bay tới thăm tổng giáo phận  Morelia cách đó 210 cây số để dâng  thánh lễ với các linh mục, nam nữ tu sĩ và chủng sinh, và vào ban chiều ngài gặp gỡ giới trẻ tại sân vận động Morelos y Pavón. Nhưng trước hết xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại sinh hoạt chiều ngày thứ hai của ĐTC.

Sau thánh lễ với các cộng đoàn các thổ dân bang Chiapas tại sân vận động thành phố San Cristobal de las Casas, ĐTC đã về toà giám mục để dùng bữa trưa với đại diện các thổ dân và đoàn tuỳ tùng. Ngồi cùng bàn với ĐTC có ĐTGM Felipe Arizmendi Esquivel, ĐGM phụ tá, và 8 anh chị em thổ dân.

Vào lúc 15 giờ chiều ĐTC đã đến thăm nhà thờ chính toà San Cristobal de las Casas, dâng kính Đức Mẹ Thăng Thiên. Nhà thờ này được xây giữa các năm 1500-1600 và được trùng tu vào thập niên 1920. Mặt tiền mầu vàng gạch, trắng và đỏ, trang hoàng theo kiểu ba rốc, moresco, thổ dân và hoa lá, có nhiều tượng các thánh. Bên trong nhà thờ có các bức vẽ của họa sĩ Miguel Cabrera thuộc thế kỷ XVIII, các đà bằng gỗ mạ vàng, và một giá sách tuyệt đẹp. Vị Giám Mục đầu tiên của giáo phận là tu sĩ  Bartholome de las Casas (1474-1566). Nhà thờ có chỗ cho 400 người.

Hiện diện trong nhà thờ có nhóm các cụ già và người đau yếu. ĐTC đã vào nhà thờ qua ngã nhà nguyện Mình Thánh Chúa, và dâng hoa cho hình Đức Mẹ, trước khi đi ra cửa chính. Ngài đã tặng nhà thờ chính toà một chén thánh và một áo lễ. Tiếp đến ĐTC đi xe tới sân bay San Cristobal de las Casas cách đó 4 cây số rồi dùng  trực thăng đến Tuxtla Gutierrez, cách đó 50 cây số để gặp gỡ các gia đình.

Tiếp đón ĐTC tại sân trực thăng có ĐC Fabio Martinez Castillo và vài giới chức chính quyền địa phương. Từ đó ĐTC đi xe đến sân vận động “Victor Manuel Reyna” cách đó một cây số. Sân chơi banh bầu dục bên cạnh vận động trường có thể chứa 10,000 người  và tại khoảng trống giữa hai sân có chỗ cho 30,000 người, riêng sân vận động có 40,000 chỗ ngồi. Tín hữu đã đến đông đảo và chiếm hết mọi chỗ có thể chiếm. Có nhiều người đến từ các nước châu mỹ latinh khác.

Xe chở ĐTC đã đi một vòng sân vận động để ngài chào tín hữu. Tín hữu vẫy cờ toà thánh, vẫy khăn, mũ, bong bóng và mọi thứ họ có trong tay chào mừng ĐTC trong bầu khí lễ hội tưng bừng tự phát của người dân châu mỹ latinh.

Tại sân vận động ông thống đốc bang Chiapas đã giao chìa khóa thành phố cho ĐGH, như dấu chỉ sự tiếp đón nồng hậu và thân tình ngụ ý nói rằng đây là nhà của Đức Giáo Hoàng.

Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong bầu khí một buổi cử hành lời Chúa. Sau lời chào mừng của ĐTGM Martinez Castillo đã có 4 gia đình chia sẻ chứng từ cuộc sống của họ với những khó khăn trắc trở, vui buồn và hy vọng.

Các gia đình ước mơ

Ngỏ lời chào mừng ĐTC ĐC Martinez Castillo đã cám ơn Chúa về sự hiện diện của ĐTC trong giáo phận. ĐC nói: “Thưa ĐTC, chúng con là các gia đình mơ ước. Chúng con mơ ước xây dựng một nước Mêhicô công bằng, huynh đệ và liên đới hơn. Chúng con mơ ước bẻ gẫy sự thờ ơ trước các gia đình thiếu thốn. Chúng con ước mơ là men lòng thương xót, thương xót như Thiên Chúa Cha, khởi hành từ các gia đình của chúng con. Chúng con mơ ước trung thành với căn tính và sứ mệnh của chúng con, vượt qua các khó khăn và các tấn kích có thể có trong xã hội chống lại gia đình. Chúng con cũng mơ ước rằng các người lãnh đạo và các nhà lập pháp bảo vệ sự sống, bảo vệ gia đình, thiện ích chung và căn nhà chung, mà chúng ta tất cả đều có trách nhiệm săn sóc.”

Cặp đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm là Humberto và Claudia Gómez, Humberto lấy Claudia đã ly dị và có 3 con. Hai người có với nhau một đứa con 11 tuổi, là chú giúp lễ. Vì hôn nhân không hợp pháp nên hai người không được lãnh các bí tích. Nhưng họ xả thân trong các công tác bác ái trợ giúp ngưởi nghèo, thăm viếng người bệnh, các tù nhân và người nghiện ma túy. Thật là tuyệt diệu khi ở giữa gia đình có Thiên Chúa hiện diện!

Chứng từ thứ hai là của chị Beatrice Munhos Hernandez 52 tuổi, y tá, là mẹ có con, không chồng. Vì cảnh nhà nghèo, bạo lực và bị cha bỏ bê, nên Beatrice cảm thấy thiếu thốn tình yêu và đã có các liên hệ tính dục và mang thai nhiều lần. Chị đã bị cám dỗ phá thai, nhưng nhờ ơn Chúa đã thắng vượt được và can đảm nuôi dậy các con. Tuy cuộc sông bấp bênh và cô đơn, nhưng kinh nghiệm gặp Chúa trong Giáo Hội đã giúp chị loan báo tình yêu cho người trẻ, cho các bà mẹ sống một mình và cho các gia đình bị đổ bể. Chị xin ĐTC cầu nguyện cho hàng ngàn phụ nữ đứng trước giải pháp giả dối của việc phá thai để họ có thể gặp Giáo Hội và được tiếp đón.

Chứng từ thứ ba là của anh Manuel 14 tuổi, tàn tật khi 5 tuổi vì bị teo cơ bắp, phải ngồi xe lăn. Tuy cuộc sống rất buồn, vì không được chạy nhảy vui chơi như các trẻ em khác, nhưng Manuel vẫn hy vọng và yêu Chúa, can đảm sống và trao ban can đảm cho gia đình và người khác. Trước đó trong gia đình luôn luôn xảy ra cãi vã xung khắc. Nhưng rồi tình hình gia đình thay đổi, mọi người đã cùng nhau đi lễ, đọc kinh. Hiện nay Manuel gia nhập nhóm bạn trẻ trong giáo xứ và loan báo Tin Mừng cho tha nhân, viếng thăm người bệnh. Anh xin ĐTC cầu nguyện các bạn trẻ Mêhicô đang đi theo con đường xấu của bạo lực, ma tuý. Anh mời gọi các bạn trẻ gia nhập nhóm các bạn trẻ để sinh hoạt và ra khỏi sự cô đơn của mình.

Chứng từ thứ tư là của một gia đình với con cái và cha mẹ sống hạnh phúc cuộc sống gia đình từ 50 năm qua, vì hiểu biết các giá trị của cuộc sống kitô và việc lãnh nhận các bí tích. Họ xin ĐTC cầu nguyện cho các gia đình Mêhicô phải sống cảnh nghèo nàn, vì thiếu công ăn việc làm, đồng lương thấp và giá cả các nhu yếu phẩm qúa cao.

Gia đình tổ ấm yêu thương là giấc mơ của Thiên Chúa

Ngỏ lời với các gia đình ĐTC cám ơn vùng đất này đã cho ngài nếm hưởng hương vị của gia đình, của mái nhà, vì qua các chứng từ họ đã mở cửa nhà, cuộc sống và cho phép mọi người ngồi vào bàn chia sẻ bánh, đến từ các khó khăn của cuộc sống thường ngày, bánh của các niềm vui, niềm hy vọng, các giấc mơ và của mồ hôi trước các đắng cay, thất vọng và các ngã quỵ. ĐTC đặc biệt cám ơn anh Manuel về chứng từ trao ban can đảm cho cha mẹ, bạn bè và tất cả mọi người hiện diện. Ngài cám ơn cha mẹ anh đã quỳ trước xe lăn cầm tờ giấy cho anh đọc và nói: Anh chị nhìn hình ảnh nảo vậy? Cha mẹ quỳ trước đứa con đau yếu…Chúng ta đừng quên hình ảnh này. Cả khi thình thoảng họ cãi nhau. Có vợ chồng nào không cãi nhau bao giờ không? Lại càng tệ hơn khi có mẹ chồng mẹ vợ xía vào nữa. Nhưng không quan trọng. Họ yêu nhau. Họ đã chứng minh cho chúng thấy rằng họ yêu nhau và có khả năng vì tình yêu quỳ trước mặt đứa con bệnh tật của mình. Xin cám ơn các bạn về chứng tá đã cho chúng tôi và cám ơn con Manuel vì chứng tá và nhất là vì gương sáng của con. Mấy từ “trao ban can đảm” con dùng đánh động cha rất nhiều. Con đã trao ban can đảm cho cha mẹ, ngưòi thân và bạn bè. Trao ban can đảm đó là điều mà Chúa Thánh Thần luôn muốn làm giữa chúng ta: ban tặng cho chúng ta các lý do để tiếp tục đánh cá với cuộc đời, mơ mộng và xây dựng một cuộc sống có hương vị của tổ ấm, của gia đình.

Gia đình tổ ấm đó là điều Thiên Chúa Cha đã luôn luôn tưởng tượng ra, và đã chiến đấu ngay từ thời xa xưa để thực hiện nó. Khi tất cả xem ra đã mất vào buổi chiều ấy trong vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đã trao ban can đảm cho đôi vợ chồng trẻ, và chỉ cho họ thấy rằng chưa mất hết tất cả. Khi dân Israel cảm thấy không còn một ý nghĩa trong việc băng ngang qua sa mạc nữa, Thiên Chúa  Cha đã khích lệ họ can đảm với bánh manna. Và khi tới thời viên mãn Thiên Chúa Cha đã trao ban can đảm cho nhân loại, bằng cách ban Con Ngài cho chúng ta. Chúng ta tất cả đều sống kinh nghiệm ấy trong các thời điểm và các hình thức khác nhau. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa không thể làm khác.

Thiên Chúa luôn luôn trao ban can đảm

Và ĐTC giải thích lý do Thiên  Chúa có thể trao ban can đảm cho chúng ta như sau:

Bởi vì tên Ngài là tình yêu, tên Ngài là món quà nhưng không, tên Ngài là tận hiến, tên Ngài là thương xót. Tất cả những điều đó Ngài đã cho chúng ta biết trong tất cả sức mạnh và sự rõ ràng của nó nơi Chúa Giêsu, Con của Ngài, là Đấng đã tiêu hao cuộc đời mình cho đến chết để khiến cho Nước của Thiên Chúa được hiện thực. Một Vương quốc mời gọi chúng ta tham dự vào cái luận lý mới, làm di chuyển một năng động có thể mở các tầng trời, con tim, trí óc, và đôi tay của chúng ta, và thách đố chúng ta với các chân trời mới. Một Vương quốc có hương vị của gia đình, có mùi vị của cuộc sống chia sẻ. Ngài có thể biến đổi các viễn tượng, các thái độ, các tâm tình của chúng ta, nhiều khi đã bị loãng trong rượu của ngày lễ. Ngài có thể chữa lành con tim chúng ta, và mời gọi chúng ta bắt đầu trở lại nhiều lần hơn nữa, bẩy mươi lần bẩy. Ngài luôn luôn có thể khiến cho mọi sự trở nên mới mẻ.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nhắc lời lời anh Manuel xin ngài cầu nguyện cho biết bao người trẻ chán nản và đang sống các lúc khó khăn. Họ không hăng hái, không có sức lực, không muốn làm gì cả, vì họ cảm thấy cô đơn. ĐTC nói : « Các cha mẹ hãy suy nghĩ : Anh chị em có nói chuyện với các con hay chơi với chúng hay luôn luôn bận rộn ? »

Chứng từ của chị Beatrice thì nói tới sự bất an và đơn độc. Sự tạm bợ, thiếu thốn không có cả đến cái tối thiểu để sống có thể khiến cho chúng ta  tuyệt vọng, âu lo, không biết phải làm gì để tiến tới, nhất là khi có con cái phải săn sóc.  Chúng ta hãy nghĩ tới tất cả những người, tất cả các phụ nữ đã trải qua kinh nghiệm mà chị Beatrice đã sống. Cái bấp bênh vật chất đã thế, còn có cái bấp bênh nguy hiểm hơn nảy sinh từ sự cô độc và lẻ loi nữa. Có nhiều cách chiến đấu chống lại nó. Một cách là qua các luật lệ bảo vệ và bảo đảm cho cái tối thiểu cần thiết để mỗi gia đình và mỗi người có thể lớn lên qua việc học hành, và có một công ăn việc làm xứng đáng. Cách khác nữa như anh Humberto và chị Claudia nói tới đó là tìm thông truyền tình yêu của Thiên  Chúa mà họ đã kinh nghiệm trong việc phục vụ và trợ giúp tha nhân. Các luật lệ và dấn thân cá nhân giúp bẻ gẫy vòng luẩn quẩn của sự bấp bênh. Anh chị đã tự linh hoạt mình, đã cầu nguyện, sống với Chúa Giêsu, và hội nhập vào cuộc sống của Giáo Hội. Anh chị đã dùng một kiểu diễn tả hay đẹp : Chúng con chia sẻ với người anh em yếu đuối, người bệnh, người nghèo, người bị tù. Xin cám ơn anh chị.

Các thực dân ý thức hệ tàn phá gia đình

ĐTC nói thêm trong bài giảng : Ngày nay chúng ta thấy gia đình bị suy yếu nhiều mặt. Có người nghĩ rằng nó là một mô thức lỗi thời rồi, không có khả năng tìm ra chỗ đứng của mình bên trong các xã hội của chúng ta nữa, viện cớ tinh thần tân tiến ngày càng tạo thuận tiện cho một hệ thống dựa trên mô thức của sự cô đơn. Và chúng len lỏi vào trong các xã hội của chúng ta, các xã hội tự hào là tự do, dân chủ, tối thượng như thế nào. Các thực dân ý thức hệ đang tàn phá gia đình như thế nào. Rốt cuộc chúng ta đã trở thành các thuộc địa ý thức hệ tàn phá gia đình, tàn phá nòng cốt của gia đình là nền tảng của một xã hội lành mạnh.

Đừng kết thúc ngày sống mà không làm hoà và tha thứ cho nhau

Dĩ nhiên, sống trong gia đình không  luôn luôn dễ dàng, thường đau đớn và mệt nhọc, nhưng như tôi đã nói nhiều lần về Giáo Hội, tôi cũng áp dụng nó cho gia đình: tôi thích một gia đình bị thương mỗi ngày tìm kết nối tình yêu hơn là một gia đình, một xã hội bệnh hoạn vì đóng kín và sự thoải mái của nỗi sợ hãi yêu thương. Tôi thích một gia đình ngày này qua ngày khác tìm bắt đầu trở lại hơn là một gia đình và một xã hội chiêm ngưỡng chính mình và bị ám ảnh bởi sự sang trọng và các tiện nghi. « Anh chị có con không ? Không, chúng tôi không có con vì chúng tôi thích đi nghỉ hè, du hành và mua sắm… Sự sang trọng, tiện nghĩ và con cái : khi anh chị muốn có một đứa con thì thời điểm đã qua rồi. Điều này tạo ra hư hại biết bao ! Tôi thích một gia đình với gương mặt mệt mỏi vì các hy sinh hơn là các gương mặt trang điểm đẹp không biết đến sự hiền dịu và cảm thương. Tôi thích một người đàn ông và một người đàn bà, ông Aniceto và bà vợ, với gương mặt nhăn nheo vì các chiến đấu mọi ngày và sau hơn 50 năm họ tiếp tục yêu nhau : chúng ta có họ ở đây. Và người con của ông bà đã học được bài học : anh ta có 25 năm cuộc sống hôn nhân. Đó là các gia đình ! Khi tôi hỏi hai ông bà cho biết ai là người đã kiên nhẫn hơn trong 50 năm chung sống họ trả lời : «  Cả hai, Thưa ĐTC ». Bởi vì trong một gia đình để đi đến chỗ mà họ đã tới cần phải có sự kiên nhẫn, tình yêu thương, cần phải biết tha thứ cho nhau. Tốt hơn là thỉnh thoảng tranh luận và đôi khi có đĩa bay chén bay, tốt thôi : xin anh chị em đừng sợ. Lời khuyên duy nhất đó là đừng bao giờ kết thúc một ngày sống mà không làm hoà với nhau trước, bởi vì nếu anh chị em kết thúc ngày sống với chiến tranh, anh chị em sẽ thức dậy với chiến tranh lạnh và chiến tranh lạnh thì nguy hiểm lắm trong gia đình, vì nó gài mìn từ dưới các vết nhăn của sự thuỷ chung hôn nhân.

Những vết nhăn nói lên lịch sử cuộc đời

Liên quan tới các vết nhăn tôi nhớ chứng tá của một minh tinh màn bạc nổi tiếng mỹ châu latinh. Khi  bà hầu như 60 tuổi và bắt đầu nhận ra các vết nhăn, người ta khuyên bà sửa sang sắc đẹp chút ít để tiếp tục làm việc. Bà trả lời rõ ràng là : « Các vết nhăn này tôi đã phải trả bằng biết bao công việc và cố gắng, rất đau đớn và một đời sống tràn đầy. Tôi không có ý sửa sang chúng đâu ! Chúng là các dấu vết lịch sử đời tôi ». Và bà tiếp tục là một minh tinh màn bạc lớn… Trong hôn nhân cũng thế. Cuộc sống hôn nhân phải được canh tân mỗi ngày. Và như tôi đã nói trước đây tôi thích các gia đình với các vết nhăn, với các vết thương, với các vết thẹo nhưng vẫn tiếp tục tiến bước, bởi vì các vết thương và các vết thẹo, các vết nhăn ấy là hoa trái của lòng chung thủy và của một tình yêu đã không luôn luôn dễ dàng. Tình yêu không dễ dàng, không, nó không dễ dàng ! Nhưng nó là điều xinh đẹp nhất mà một nguời nam và một người nữ có thể trao ban cho nhau. Tình yêu đích thật, cho suốt cả cuộc đời.

Và ĐTC kết thúc bài giảng như sau : Anh chị em Mêhicô thân mến, anh chị em có « một cái gì hơn nữa », anh chị em chạy đua và có lợi thế. Anh chị em có Đức Bà Guadalupe là Đấng đã muốn viếng thăm các vùng đất này, và điều này cho chúng ta xác tín rằng qua sự bầu cử của Mẹ giấc mơ được gọi là gia đình này sẽ không thất bại bởi sự bất ổn và cô đơn. Mẹ luôn sẵn sàng bảo vệ các gia đình và tương lai của anh chị em, Mẹ luôn luôn sẵn sàng trao ban cho chúng ta can đảm bằng cách ban Con Mẹ cho chúng ta. Vì thế tôi xin anh chị em hãy nắm tay nhau và chúng ta cùng cầu nguyện. Và ĐTC đã cùng mọi ngưòi đọc kinh Kính Mừng cầu cho các gia đình.

Ngài nói thêm : Chúng ta cũng đừng quên thánh Giuse thợ, luôn luôn tiến bước, luôn luôn lo lắng cho gia đình. Và giờ đây trong bầu khí lễ hội gia đình này tôi xin mời tất cả  các cặp vợ chồng hiện điện canh tân các lời hứa hôn nhân trong thinh lặng. Và những người đã đính hôn thì hãy xin ơn có một gia đình chung thuỷ và tràn đầy tình yêu. Trong thinh lặng xin anh chị em hãy canh tân các lời hứa hôn nhân và các cặp đính hôn thì xin ơn có một gia đình chung thuỷ và tràn đầy tình yêu.

Tiếp đến ĐTC đã ban phép lành toà thánh cho tất cả mọi người.  

Sau khi từ giã các gia đình ĐTC đã ra phi trường « Angel Albino Corzo Tuxtla » cách đó 30 cây số lấy máy bay trở về thủ đô Mêhicô. Máy bay đã tới phi trường « Benito Juarez » sau gần hai giờ bay. Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Toà Sứ Thần Toà Thánh dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Sáng thứ ba hôm qua lúc 7 giờ 15 phút ĐTC đã rời Toà Sứ Thần để ra phi trường lấy máy bay tới tổng giáo phận Morelia cách đó 210 cây số để cử hành thánh lễ với các linh mục, nam nữ tu sĩ và chủng sinh. Morelia có 600 ngàn dân cư, trong miền trung Mêhicô ở độ cao hơn 1,900 mét. Được thành lập năm 1541 như là thành phố của thổ dân Michoacan. Sau đó nó đổi tên là thành Valladolid và nổi tiếng là « Ngôi vườn của Tây Ban Nha mới ». Năm 1828 thành phố vinh danh ông  José Maria Morales y Pavón, người hùng của nền độc lập Mêhicô, và mang tên Moralia. Thành phố được tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc coi là gia tài của nhân loại vì có lối kiến trúc thời thuộc địa. Trung tâm thành phố có các dinh thự xây bằng đá đỏ kiểu ba rốc. Hằng năm tại đây đều có các đại hội phim ảnh, biểu diễn đại phong cầm và âm nhạc quan trọng. Đại học San Nicolas de Hildago được thành lập năm 1551, hiện có 45,000 sinh viên. Tổng giáo phận Morelia được thành lập năm 1536 và trở thành giáo tỉnh năm 1863. Giáo phận có hơn 2,6 triệu dân, 94% theo công giáo, gồm 237 giáo xứ, 2,016 nhà thờ hay cứ điểm truyền giáo. Nhân lực của giáo phận gồm 437 linh mục giáo phận, 127 linh mục dòng, 306 tu huynh, hơn 1,000 nữ tu và 110 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 134 cơ sở giáo dục, 147 trung tâm bác ái. Năm ngoái có thêm gần 54,000 người được rửa tội.

Máy bay chở ĐTC đã tói phi trường Morelia sau gần một giờ bay.  Từ phi trường ĐTC đã đi trực thăng tới gần chỗ đậu xe và từ đó đi xe vào sân vận động «Venustiano Carranza » cách đó 9 cây số. Sân vận động này có chỗ cho 20,000 người.  Xe díp chở ĐTC đã đi một vòng để DTC chào mọi người. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng của thổ dân Purépecha..

Học sống và cầu nguyện như Chúa Giêsu

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn Kinh Lạy Cha và gương sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Có câu nói : « Bạn hãy nói cho tôi biết bạn cầu nguyện thế nào, và tôi sẽ nói cho bạn biết bạn sống thế nào. Bạn hãy nói cho tôi biết bạn sống thế nào, và tôi sẽ nói cho bạn biết bạn cầu nguyện ra sao »… Cần phải học cầu nguyện như chúng ta học đi, học nói, học lắng nghe. Trường cầu nguyện là trường của cuộc sống và trường của cuộc sống là nơi chúng ta học cầu nguyện. Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ và gửi các vị đi chia sẻ cuộc sống của Ngài, sự thân tình với Ngài ; và trong khi họ ở với Ngài, Ngài làm cho họ sờ mó được trong thịt xác của Ngài sự sống của Thiên Chúa  Cha. Lời Kinh Lậy Cha Chúa Giêsu dậy có hương vị sự sống, kinh nghiệm sự đích thật. Ngài đã biết sống bằng cách cầu nguyện và cầu nguyện bằng cuộc sống, khi nói Lậy Cha chúng con.

Các linh mục và những người sống đời thánh hiến không phải là công chức của Thiên Chúa

ĐTC nhắc lại cho các linh mục tu sĩ và chủng sinh biết ý nghĩa ơn gọi đời thánh hiến như sau :

Ngài đã mời gọi chúng ta chia sẻ cuộc sống của Ngài, chia sẻ cuộc sống thiên linh : khốn cho chúng ta nếu chúng ta không chia sẻ nó, khốn cho chúng ta nếu chúng ta không là các chứng nhân của điều chúng ta đã thấy và đã nghe, khốn cho chúng ta ! Chúng ta không là và không muốn là các công chức của Thiên Chúa, chúng ta không phải và không muốn là các công nhân của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta được mời gọi  tham dự vào cuộc sống của Chúa, chúng ta được mời gọi bước vào trong con tim của Ngài, một con tim cầu nguyện và sống khi nói Lạy Cha chúng con. Sứ mệnh là gì, nếu nó không nói với cuộc sống của chúng ta : Lậy Cha chúng con ?

Chịu trận là khí giới ma quỷ thích sử dụng nhất để cám dỗ chúng ta

Liên quan tới lời xin đừng để cho chúng con sa chước cám dỗ, ĐTC nói : Cám dỗ nào có thể đến từ các môi trường nhiều lần bị thống trị bởi bạo lực, thối nát, buôn bán ma tuý, khinh rẻ nhân phẩm, thờ ơ trước khổ đau và sự bấp bênh ? Chúng ta có thể có cám dỗ nào trước thực tại xem ra đã trở thành một hệ thống không lay chuyển ? Sự chịu trận. Trước thực tại này có thể thắng chúng ta một trong các vũ khí  ma quỷ thích dùng nhất là sự chịu trận. Môt sự chịu trận khiến cho chúng ta tê liệt  và ngăn cản chúng ta không chỉ bước đi, mà cũng ngăn cản chúng ta mở đường nữa ; một sự chịu trận không chỉ gây kinh hoàng, mà còn nhốt chúng ta trong công sự của các phòng thánh và các an ninh bề ngoài ; một sự chịu trận không chỉ ngăn cản loan báo tin mừng, mà còn ngăn cản chúng ta chúc tụng nữa. Một sự chịu trận không chỉ ngăn cản chúng ta đưa ra các chương trình, mà còn ngăn cản chúng ta liều lĩnh và biến đổi các sự vật nữa.

ĐTC đã nhắc tới gương sống của ĐC Vasco Vasquez de Quiroga, Giám Mục tiên khởi Michoacán, tuy là người Tây Ban Nha nhưng ngài đã trở thành thổ dân. Tả lại thực tại sống của thổ dân Purhepechas ngài nói : họ bị bán, bị xúc phạm và lang thang ngoài chợ và lượm rác rưởi vứt trên đất ». Nhưng thực tại này thay vì khiến cho ngài trở thành chua cay và chịu trận đã lay động đức tin cuộc sống và lòng cảm thương của ngài và kích thích ngài thực hiện nhiều sáng kiến là hơi thở trước thực tại bất công khiến cho người ta tê liệt. Nỗi đớn đau của người anh em biến thành lời cầu nguyện, và lời cầu nguyện biến thành câu trả lời cụ thể thăng tiến cuộc sống của các thổ dân. Và thổ dân gọi ngài là « Tata Vasco » cha Vasco, bố Vasco.

Sau khi từ giã các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và mọi người ĐTC đã di xe về Toà tổng giám mục để dùng bữa trưa với đoàn tuỳ tùng và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh hoạt ban chiều là viếng thăm nhà thờ chính toà Morelia và gặp gỡ giới trẻ tại vận động trường José Maria Morelos y Pavón vào lúc 4 giờ chiều. 

Thứ tư 17-2-2016 ĐTC viếng thăm giáo phận Ciudad Juarez cách thủ đô Mexico 1,543 cây số, thăm các tù nhân trung tâm cải huấn CeReSo và gặp gỡ giới lao động trong toà nhà thể thao thành phố.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Xin cho các cơ mày đối thoại giữa đức tin Kitô và các dân tộc Á châu gia tăng

Xin cho các cơ mày đối thoại giữa đức tin Kitô và các dân tộc Á châu gia tăng

Trong tháng hai này ĐTC Phanxicô mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới cầu xin cho các cơ may đối thoại và gặp gỡ giữa đức tin kitô và các dân tộc Á châu gia tăng.

Trong 100 năm qua số tín hữu kitô trên thế giới giảm tại Âu châu nhưng gia tăng tại Á châu, từ 4% lên 13% và tại Phi châu, từ 2% lên 23% cũng như tại Châu Mỹ Latinh số kitô hữu gia tăng 10%. Hiện nay trên thế giới số kitô hữu được 2 tỷ, và Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới.

Riêng Giáo Hội Công Giáo từ năm 2005 tới 2013 có số giáo dân gia tăng 12% từ 1 tỷ 115 triệu lên 1 tỷ 254 triệu, nghĩa là gia tăng 139 triệu. Trong cùng thời gian đó dân số địa cầu từ 6 tỷ 463 triệu lên 7 tỷ 94 triệu người. Như thế số tín hữu công giáo trên toàn cầu từ 17,3% tăng lên 17,7%.

 Trong năm 2013 số tín hữu công giáo âu châu được 287 triệu gia tăng 6,5 triệu so với năm 2005. Trong khi số tín hữu công giáo tại Phi châu hồi năm 2005 là 153 triệu đã lên tới 206 triệu trong năm 2013, tức gia tăng 34%. Số tín hữu công giáo từ 17,1% tăng lên 19%.

Tại châu Mỹ số tín hữu công giáo tăng 10,5% và chiếm 63% tổng số dân, trong khi tại Á châu số tín hữu công giáo từ 2,9% trong năm 2005 tăng lên 3,2% trong năm 2013. Như thế số tín hữu công giáo Á châu nói riêng và số kitô hữu nói chung vẫn là thiểu số.

Ngày 17 tháng 8 năm 2014 trong chuyến viếng thăm Nam Hàn ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu, gồm 19 HDGM thuộc 27 nước và 9 thành viên liên kết không có HĐGM. Ngỏ lời chào ĐTC ĐHY Oswald Gracias, TGM Bom bay, chủ tịch Liên HĐGM Á châu đã nêu bật rằng 60% dân số toàn cầu sống tại Á châu. Á châu là một đại lục trẻ, trong đó đa số các dân tộc đều trẻ trung. Vì thế trong nhiều cách thế Á châu là nền tảng đối với tương lai của thế giới và tương lai của Giáo Hội. Tuy bản chất người dân Á châu là tôn giáo, nhưng bản chất ấy đang bị đe dọa trầm trọng bởi tinh thần tục hóa và duy vật. Tuy tâm hồn người dân Á châu coi sự sống là thánh thiêng, nhưng các đe dọa sự sống gia tăng. Tuy người dân á châu tìm kiếm và đánh gia cao cộng đoàn, nhưng ý thức này đang bị đe dọa bởi chủ thuyết cá nhân. Ngày Giới Trẻ Á châu đã cho thấy người trẻ Nam Hàn sinh động và hăng say chừng nào. Đại Hàn là một vùng đất, trong đó các giáo dân đã có một vai trò đặc biệt trong việc rao truyền Tin Mừng, và vì thế Đại hàn trở thành một mô thức cho nhiều Giáo Hội khác. Các Giám Mục Á châu cương quyết dấn thân làm cho con người của Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài ngày càng được hiểu biết, yêu mến và tin theo hơn. Các Giám Mục sẽ làm điều đó với lời nói, cuộc sống và công việc làm.

Ngỏ lời với các Giám Mục tại đền thánh Haemi, nơi 132 vị tử đạo Nam Hàn đã chết để làm chứng cho Chúa hồi thế kỷ XVIII, ĐTC Phanxicô đã khích lệ các Giáo Hội Á châu linh động và có óc sáng tạo trong việc làm chứng tá cho Tin Mừng, qua nỗ lực đối thoại và cởi mở đối với tất cả mọi người. Đây là thách đố lớn, vì trước hết nó đòi hỏi các kitô hữu Á châu ý thức sâu xa về căn tính của chính mình, có khả năng rộng mở tâm trí, có khả năng đặt mình vào trong tình trạng của người khác để hiểu họ và chân thành tiếp đón những người mà chúng ta nói chuyện với. Nếu chúng ta muốn thông truyền một cách tự do, cởi mở và hiệu quả với người khác, chúng ta phải biết rõ mình là ai, điều mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và điều Chúa xin chúng ta. Và để cuộc đối thoại không trở thành cuộc độc thoại, các kitô hữu phải rộng mở tâm trí để chấp nhận các cá nhân và các nền văn hóa khác, mà không sợ hãi, vì sợ hãi là kẻ thù của các rộng mở.

 

Tuy nhiên, vì là những người tội lỗi tín hữu có thể gặp nhiều chướng ngại cản ngăn việc thực hiện chứng tá này. Trước hết là ánh sáng loé mắt của khuynh  hướng tương đối hóa làm lu mờ ánh quang chân lý và suy yếu căn tính kitô. Thứ hai là khuynh hướng hời hợt bề ngoài, chạy theo các mốt thời thượng, các thứ vô ích ít giá trị và các lo ra, thay vì tập trung vào những gì thực sự quý báu. Đây là cám dỗ thường xuyên của nền văn hoá để cao cái phù du mau qua và cống hiến nhiều nơi giải trí và chạy trốn thực tại. Nếu không đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô và các chân lý, kitô hữu có nguy cơ bị gẫy gập, biến việc thực thi nhân đức thành duy hình thức, và biến việc đối thoại trở thành một hình thức thương thuyết hay thoả hiệp về những bất đồng. Cám dỗ thứ ba mà kitô hữu có thể gặp phải là cái an ninh bề ngoài nấp sau các câu trả lời dễ dàng, có sẵn, các luật lệ hay điều khoản. Trái lại, việc đối thoại đòi buộc phải đi ra khỏi chính mình, tìm cách làm cho người khác hiểu mình, làm nảy sinh ra chứng tá và sứ mệnh. Trong nghĩa này đức tin khiến cho chúng ta có khả năng vừa can đảm vừa khiêm tốn trong chứng tá hy vọng và yêu thương. Căn tính kitô của chúng ta là vĩnh viễn dấn thân chỉ thờ lậy Thiên Chúa, yêu thương nhau, phục vụ nhau và qua gương sống cho thấy chúng ta tin gì và hy vọng gì, và ai là Đấng chúng ta đặt lòng tin tưởng. Đó là điều mà chúng ta được mời gọi chia sẻ môt cách chân thành, liêm chính, không kiêu căng, qua việc đối thoại của cuộc sống thường ngày, đối  thoại của tình bác ái và trong tất cả các dịp có thể. Căn tính kitô phong phú, vì nó liên tục nảy sinh và được dưỡng nuôi bằng ơn thánh cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa và các thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nó đem lại hoa trái của công lý, lòng nhân hậu và hoà bình. Căn tính kitô đó được thể hiện trong các chương trình mục vụ cho giới trẻ, trong việc phục vụ người nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, và trong các nỗ lực vun trồng ơn gọi linh mục tu sĩ.

Trong cuộc đối thoại thách đố lớn là đặt mình vào trong tình trạng của người khác để hiểu điều họ muốn thông truyền nhưng không nói ra bằng lời, liên quan tới các kinh nghiệm, các khó khăn, niềm hy vọng, các ước mong thầm kín trong tim của họ. Chúng ta phải có cái nhìn thiêng liêng và kinh nghiệm cá nhân để nhìn các người khác như anh chị em, và lắng nghe vượt ngoài các lời nói và hành động điều con tim họ ước mong thông truyền cho chúng ta. Trong nghĩa này việc đối thoại đòi hỏi phải có một tinh thần chiêm niệm đích thực: tinh thần chiêm niệm, cởi mở và tiếp đón tha nhân. Khả năng đặt mình vào trong tình trạng của người khác khiến cho chúng ta có khả năng đối thoại một cách nhân bản, trong đó các lới nói, các tư tưởng và các vấn nạn vọt lên từ một kinh nghiệm của tình huynh đệ và tính nhân bản chia sẻ… Việc dấn thân đối thoại được xây nền trên chính cái luận lý việc nhập thể của Chúa Giêsu: trong Ngài chính Thiên Chúa đã trở thành một người trong chúng ta, đã chia sẻ cuộc sống của chúng ta và đã nói thứ ngôn ngữ của chúng ta. Khi nhìn vào đại lục Á châu với diện tích đất đai rộng rãi, với các nền văn hóa và các truyền thống cổ xưa, chúng ta ý thức được rằng trong chương trình của Thiên Chúa, các cộng đoàn kitô của anh em thực sự là một đoàn chiên nhỏ, nhưng được giao phó cho sứ mệnh đem ánh sáng Tin Mừng cho tới tận cùng bờ cõi trái đất.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng hai  này hiệp ý với ĐTC và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho các cơ may đối thoại và gặp gỡ giữa đức tin kitô và các dân tộc Á châu gia tăng.

(Ý chỉ truyền giáo tháng 2-2016)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân tại Istanbul

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân tại Istanbul

Đức Cha Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân khủng bố tại Istanbul

 

VATICAN. ĐTC kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân vụ khủng bố sáng ngày 12-1-2016 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.

Vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 13-1-2016, ĐTC nói với các tín hữu tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican:

”Trước khi kết thúc cuộc gặp gỡ này của chúng ta, trong đó chúng ta đã cùng nhau suy tư về Lòng Thương xót cảu Thiên Chúa, tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện cho các nạn nhân vụ khủng bố xảy ra hôm qua (12-1) tại Istanbul. Xin Chúa là Đấng Thương Xót, ban ơn an bình cho những người quá cố, an ủi các thân nhân, sự cương quyết liên đới với toàn thể xã hội và hoán cải tâm hồn của những kẻ tàn bạo”.

Vụ khủng bố ở trung tâm du lịch tại Istanbul, giữa Đền thờ Xanh và Đền thờ Santa Sofia đã làm cho 10 du khách bị thiệt mạng, trong đó có 8 người Đức, một số người bị thương nặng. Theo nhà nước Thổ nhĩ kỳ, thủ phạm vụ khủng bố tự sát này là một người Siria gốc Arập Saudi. Các chuyên gia cho rằng qua các vụ khủng bố này. Nhà Nước Hồi giáo IS muốn đánh vào các nguồn lợi kinh tế quan trọng của các nước Hồi giáo ”ôn hòa” như Ai Cập, Tunisi và Thổ Nhĩ kỳ (SD 13-1-2016)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha: các công việc bác ái là trọng tâm đức tin

Đức Thánh Cha: các công việc bác ái là trọng tâm đức tin

Đức Thánh Cha nhắc nhở  các công việc bác ái là trọng tâm đức tin

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhắc nhở các tín hữu rằng các công việc từ bi bác ái là trọng tâm đức tin, là tiêu chuẩn phân biệt chân giả trong hành trình đức tin của chúng ta.

Trên đây là nội dung bài giảng thánh lễ sáng thứ năm, 7-1-2016, ĐTC cử hành tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Marta ở Nội thành Vatican. Việc cử hành thánh lễ tại đây được ĐTC mở lại, sau một thời gian tạm nhưng trong dịp lễ giáng sinh. Ngài diễn giải bài đọc thứ I trích từ thư thứ I của thánh Gioan Tông Đồ, trong đó thánh nhân nhắn nhủ các tín hữu ”hãy ở lại trong Chúa.. Người ở lại trong Chúa là người có Chúa Thánh Linh và để cho mình được Chúa hướng dẫn”. Thánh Gioan cũng cảnh giác các tín hữu đừng nghe theo bất kỳ tinh thần nào, hãy kiểm chứng chúng để xem chúng có từ Thiên Chúa hay không.

Từ giáo huấn trên đây của Thánh Gioan, ĐTC nhắc nhở mọi người hãy tập phân định những gì xảy ra trong tâm hồn mình, loại từ tinh thần thế tục làm cho chúng ta xa Chúa. Cần thực thi sự phân định ấy theo tiêu chuẩn mà thánh Gioan nêu lên: ”Tinh thần nào nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác thể thì bởi Thiên Chúa, và tinh thần nào không nhìn nhận Chúa Giêsu thì không phải bởi Thiên Chúa”.

ĐTC nói: “Nếu chúng ta cảm thấy bao nhiêu ý tưởng, tâm tình tốt trong tâm hồn, nhưng nếu những thứ đó không đưa ta đến cùng Chúa là Đấng đã nhập thể làm người, nếu chúng không đưa ta đến gần tha nhân, đến người anh em, thì chúng không phải bởi Thiên Chúa. Vì thế thánh Gioan bắt đầu đoạn thư này bằng câu: ”Đây là giới răn của Thiên Chúa: chúng ta hãy tin nơi danh của Con Ngài là Đức Giêsu Kitô và chúng ta hãy yêu thương nhau… Chúng ta có thể để ra bao niêu kế hoạch mục vụ, sáng chế ra các phương pháp mới để đến gần dân, nhưng nếu chúng ta không theo con đường của Thiên Chúa nhập thể để đồng hành với chúng ta, thì chúng ta không đi đúng đường, đó là thái độ chống Kitô, là tinh thần thế gian.. Cụ thể là: những công việc từ bi bác ái chính là sự tuyên xưng cụ thể của chúng ta nơi Con Thiên Chúa nhập thể làm người: những công việc đó là viếng thăm người bệnh, cho kẻ đói ăn, săn sóc những người bị gạt bỏ.. Tại sao vậy? Thưa vì mỗi người anh em mà chúng ta phải yêu mến chính là thân thể của Chúa Kitô. Thiên Chúa đã nhập thể để đồng hóa với chúng ta. Người đau khổ chính là Chúa Kitô chịu khổ đau”. (SD 7-1-2016)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tai

VATICAN. ĐTC kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân bị thiên tai tại Hoa Kỳ, Anh, Nam Mỹ và đặc biệt tại Paraguay.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 30-12-2015, ĐTC nói: ”Tôi mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân thiên tại xảy ra trong những ngày qua tại Hoa Kỳ, Anh quốc, Nam Mỹ, nhất là tại Paraguay, gây ra nhiều nạn nhân, nhiều người phải di tản và thiệt hại nặng nề. Xin Chúa ban ơn an ủi cho các dân tộc bị nạn và tình liên đới huynh đệ trợ giúp họ trong tình cảnh khó khăn”.

Lốc xoáy ở vùng Dallas và lụt tại tiểu bang Mississippi và vài bang khác, đã làm cho 26 người bị thiệt mạng trong vòng 1 tuần lễ. Mưa lũ và lụt lội tại miền bắc và đông bắc Anh Quốc gây thiệt hại hàng trăm triệu Euro. Tại Nam Mỹ, cụ thể tại Uruguay, miền bắc Argentina và nam Brazil, gần 170 ngàn người phải di tản vì lụt, riêng tại Paraguay, con sông cùng tên bị tràn nước khiến cho 130 ngàn người phải tản cư. 4 người chết vì cây đổ đè. (Tổng hợp 30-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đại hội quốc tế thứ 40 các ca đoàn thiếu nhi nhóm tại Roma

Đại hội quốc tế thứ 40 các ca đoàn thiếu nhi nhóm tại Roma

Đại hội quốc tế lần 40

ROMA. Trong những ngày này, từ 28-12 đến 1-1, Đại hội quốc tế lần thứ 40 của các ca đoàn thiếu nhi đang tiến hành ở Roma với chủ đề: ”Các em hãy hát lên niềm hy vọng của mình”.

Đại hội tiến hành 3 năm một lần. 6 ngàn thiếu nhi thuộc các ca đoàn đến từ 18 quốc gia, trong đó có Italia, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Brazil, Ba Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Ai Len và một số nước khác trong đó có Hàn Quốc và Nhật Bản.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều thứ hai 28-12-2015, các ca viên thiếu nhi đã bắt đầu cuộc rước từ Lâu đài Thiên Thần, tiến qua đường Hòa giải, và Quảng trường Thánh Phêrô, trước khi vào Đại thính đường Phaolô 6 để tham dự lễ nghi khai mạc đại hội do Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, chủ sự từ lúc 6 giờ chiều.

Lúc 10 giờ sáng thứ ba 29-12-2015, các ca đoàn thiếu nhi đã tham dự thánh lễ tại nhiều thánh đường ở Roma và sinh hoạt. Ban tối lúc 8 giờ rưỡi, các em trình diễn thánh ca tại nhiều thánh đường.

Thứ tư 30-12, các em tham dự các buổi cầu nguyện cho hòa bình và ban tối tiếp tục trình diễn thánh ca tại các nhà thờ,

Sáng thứ năm 31-12-2015, các ca đoàn sẽ tập dợt thánh lễ bế mạc tại Đại thính đường Phaolô 6 trước khi được ĐTC tiếp kiến lúc 11 giờ tại đây.

Sau cùng, lúc 10 giờ sáng ngày Tết Dương Lịch, các ca đoàn sẽ tham dự thánh lễ bế mạc Đại hội tại Đền thờ Thánh Phêrô do ĐTC Phanxicô cử hành, nhân dịp Ngày Hòa Bình Thế giới. (SD 28-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Một số nhận định của cha Federico Lombardi về chuyến công du Phi châu của ĐTC Phanxicô

Một số nhận định của cha Federico Lombardi về chuyến công du Phi châu của ĐTC Phanxicô

Father Federico Lombardi, S.J.

Một số nhận định của Linh Mục Federico Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Toà Thánh, về chuyến công du Phi châu vừa qua của ĐTC Phanxicô

Như quý vị đã biết, Đức Thánh Cha Phanxicô vừa kết thúc chuyến công du Phi châu ba nước Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi về hôm 30 tháng 11 vừa qua. Ngày mùng 1 tháng 12 phóng viên Alessandro Gisotti của chương trình Ý ngữ đài Vaticăng đã phỏng vấn Linh Mục Federico Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, là người đã tháp tùng ĐTC trong những ngày qua. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định tổng kết của ngài.

Hỏi:  Thưa cha Lombardi, đây là lần đầu tiên ĐTC Phanxicô viếng thăm Phi châu. Nhưng nhìn các hình ảnh người ta có cảm tưởng ngài rất thoải mái trong mọi tình trạng. Là người theo sát ĐTC trong chuyến công du cha có các cảm tưởng nào?

Đáp: Đúng thế. ĐTC đã hoàn toàn thoải mái, và tôi còn nói rằng cả các anh chị em phi châu cũng rất thoải mái trong việc gặp gỡ và đón tiếp ĐTC nữa. Đã có một ước mong gặp gỡ nhau rất sâu đậm từ cả hai phía. ĐTC luôn luôn nói về cuộc gặp gỡ: đó đã là một cuộc gặp gỡ thật đẹp giữa ĐTC và Phi châu! Dĩ nhiên, Phi châu đối với tất cả chúng ta và đối với thực tại của thế giới ngày nay, nó hơi ở vùng ngoại ô trên bình diện quyền bính trong thế giới hiện tại, và vì thế ĐTC muốn đi Phi châu một cách đặc biệt  và cả trong một nước như Trung Phi, là một trong các quốc gia bị tàn phá nhất Phi châu hiện nay, để chứng minh cho thấy sự chú ý của ngài đối với toàn đại lục này, và đối với các quốc gia đau khổ vì nhiều khía cạnh của nghèo đói, bệnh tật, bị gạt bỏ ngoài lề, và của khó khăn tìm ra con đường cho tương lai trong phẩm giá tràn đầy của con người.

Hỏi: Trong cả ba nước đã được viếng thăm, ĐTC thường bỏ một bên diễn văn đã dọn sẵn để nói buông, cho tới chỗ đối thoại với những người hiện diện, nhất là với giớii trẻ. Sự đáp trả của dân chúng đã thật là ngoại thường, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đúng thế. Đây là điều chúng ta đã hiểu ngay từ đầu triều đại của ngài, đó là kiểu ĐTC truyền thông. Ngài rất ưa thích kiểu tự phát này, kiểu đối thoại, kiểu lôi cuốn cử tọa, bằng cách trả lời và nói chuyện với các người hiện diện, làm sao để họ cảm nhận và thấy rằng họ là phần tích cực của một tiến trình đối thoại và dấn thân. Điều này cũng đã xảy ra bên Á châu. Tôi đã rất bị đánh động về sự kiện chính trong các chuyến công du đầu tiên bên Á châu, trong đó ĐTC đã ở trong một nền văn hóa vô cùng khác biệt, và với sự khó khăn sử dụng ngôn ngữ của những người hiện diện, vì thế cần phải có thông dịch viên, nhưng kiểu truyền thông này đã chạy một cách hoàn hảo. Như vậy, người ta thấy đặc sủng truyền thông tự phát, của các cử chỉ và tất cả cách diễn tả mà ĐTC có. Ngài thành công trong việc vượt thắng các khác biệt ngôn ngữ. Điều này, nếu đã thành công bên Á châu, thì cũng đã thành công bên Phi châu, nơi chúng ta thấy sự sẵn sàng của người trẻ trong sự phấn khởi đuợc lôi cuốn của họ. Các dịp cổ điển, trong đó ĐTC ưa thích con đường đối thoại, là các cuộc gặp gỡ với người trẻ và cả các cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ tu sĩ, nghĩa là khi ngài đứng trước  một cử toạ, mà ngài cảm thấy được đưa tới chỗ đối thoại một cách tự phát hơn.

Hỏi: Đã có sự chờ đợi lớn đối với việc mở Của Thánh của nhà thờ chính toà Bangui. Cử chỉ này sẽ thực sự là một trong các viên đá ghi dấu triều đại giáo hoàng của ĐTC Phanxicô, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Đúng thế. Ở đây tôi tin rằng chúng ta tất cả đều đã có một suy tư, và tự hỏi việc mở Cửa Thánh sớm hơn ngày đã loan báo, tức mùng 8 tháng 12 là ngày chính thức bắt đầu Năm Thánh Lòng Thương Xót, có ý nghĩa gì? Và chúng ta đã nghĩ đây là một luật trừ đối với những người đang đặc biệt sống trong hoàn cảnh khó khăn. Họ gặp khó khăn trong việc di chuyển hay tham dự các biến cố thế giới lớn, do đó đây là một cử chỉ chú ý tới địa phương. Nhưng trước khi mở Cửa Thánh ĐTC đã nói: “Đây là thủ đô tinh thần của thế giới, chiều nay”. Như vậy, chính ngài đã cho cử chỉ này một ý nghĩa không phải chỉ là địa phương, mà thực sự là đại đồng. Trong một nghĩa nào đó, tôi tin rằng chúng ta phải nói: Năm Thánh Lòng Thương Xót, đối với những ai đã theo dõi chuyến viếng thăm này, chúng tôi đã rất hiểu rằng đối với ĐTC nó đã được mở ra từ bên đó. ĐTC là người đi ra các vùng ngoại biên và nói rằng cần phải chú ý tới vùng ngoại ô của Giáo Hội, chú ý tới các người nghèo, các người đau khổ vv… và ngài đã muốn mở Năm Thánh Lòng Thương Xót trong một tình trạng “của vùng ngoại biên” để thực sự trao ban cho nó ý nghĩa tình yêu thương của Thiên Chúa, được biểu lộ ra cả với một sự chú ý ưu tiên đối với những người nghèo và những ai đau khổ. Điều này không lấy mất đi cái gì nơi tầm quan trọng của lễ nghi khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót ngày mùng 8 tháng 12, và việc mở các cửa năm thánh khác trên thế giới, trong viễn tượng của Năm Thánh Lòng Thương Xót đại đồng, được phổ biến khắp nơi trên toàn cầu. Tại sao? Bởi vì lòng thương xót của Thiên Chúa có thể gặp tại bất cứ đâu. Tuy nhiên, việc bắt đầu, kiểu thứ nhất, trong đó ĐTC đã muốn loan báo đã là ở bên đó. Và tôi muốn nói thêm một điều nữa. Sau khi mở Cửa Thánh và bắt đầu buổi canh thức, ĐTC đã giải tội cho 5 người trẻ. Đó đã là một buổi canh thức khó khăn, bởi vì ban đêm tại Bangui, với tất cả các vấn đề sẵn có, thật không dễ dàng cho người trẻ đến và tham dự! Như vậy, đối với người nhìn từ bên ngoài xem ra đó là một buổi canh thức đôi khi không có các đám rất đông người tham dự. Tuy nhiên, vào sáng hôm sau tôi đã nói chuyện với Đức Giám Mục và với vài linh mục, các vị đã rất hứng khởi và hài lòng, bởi vì các vị nói đã có rất đông người trẻ xưng tội, trong suốt buổi canh thức và suốt đêm, sau khi ĐTC đã khai mạc. Điều này có nghĩa là giới trẻ đã hoàn toàn hiểu đây là gì. Như vậy, Năm Thánh Lòng Thương Xót là đi gặp gỡ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cả qua bí tích Giải Tội, và các người Trung Phi, giới trẻ đã hiểu rất rõ. Đối với tôi xem ra đó cũng là một sứ điệp  mà chúng ta phải nhận thức được. ĐTC  đã không chỉ mở một cánh cửa một cách biểu tượng, nhưng cũng đã cử hành Bí Tích Hoà Giải, và tất cả đã đi nếm hưởng cánh cửa thiêng liêng này là Bí Tích Hoà Giải. Chúng ta phải học từ các anh chị em Trung Phi ý nghĩa của Năm Thánh, bằng cách nghĩ tới tất cả những gì người ta đang thảo luận cả tại Roma này, từ bình diện phối hợp tới bình diện kinh tế và an ninh vv… và nói rằng: “A, chúng tôi đã hiểu rồi: Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được biểu lộ, và chúng ta phải nhận lấy nó trong các bí tích một cách thiêng liêng”.

Hỏi: Chúng ta hãy ở lại trong điểm này. Trước chuyến công du của ĐTC đã không thiếu  người khuyên ĐTC đừng đi Trung Phi vì các lý do an ninh. Với chuyến viếng thăm của ngài ĐTC Phanxicô đã cho một chứng tá can đảm lớn, và nó cũng sẽ trao ban hy vọng cho người dân Trung Phi, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Rất đúng.Tôi tin rằng tất cả những người đã phát biểu ý kiến, bắt đầu từ bà tổng thống chuyển tiếp, đều đã bầy tỏ lòng biết ơn đối với ĐTC đã đến Trung Phi, dù biết rằng có rất nhiều nỗ lực, kể cả các nỗ lực mạnh mẽ từ phía các lực lượng quyền bính  trên thế giới ngày nay khuyên ngài đừng đi. Nhưng mà ĐTC đã đi, ngài chứng minh cho thấy sự cương quyết hoàn toàn của ngài, không bao giờ để cho mình bị đặt vào trong sự không chắc chắn liên quan tới việc này, và đây đã là một sứ điệp – một phần chính của sứ điệp – mà ĐTC đã mang lại: “Tôi đến, tôi đến và tôi muốn đến với anh chị em, chính vì anh chị em đang gặp khó khăn, và tôi ở với anh chị em để khích lệ anh chị em tìm ra con đường cho tương lai”. Như thế khía cạnh này của lòng can đảm đối với vấn đề an ninh là một khía cạnh minh nhiên sự hiện diện của ĐTC tại Trung Phi. Tôi xin được phép ghi nhận rằng trong khía cạnh này ĐTC Phanxicô cũng tiếp tục một truyền thống của các vị tiền nhiệm, vì ai có một chút trí nhớ đều nhớ rằng trong nhiều trường hợp khác nhau các vị tiền nhiệm cũng đã phải quyết định đi viếng thăm, dù trong các hoàn cảnh khó khăn, và các Giáo Hoàng chứng minh cho thấy một lòng can đảm đáng kể, và kháng cự các áp lực ngược lại. Chuyến công du cuối cùng khá gần với thời gian  là chuyến viếng thăm của ĐTC Biển Đức XVI bên Libăng – đối với những ai còn nhớ – nó đã xảy ra trong một hoàn cảnh nóng cháy của Trung Đông, của miền bắc Libăng, trong xung đột và với các cuộc mưu sát. Vì thế, đó cũng đã là một tình trạng, trong đó quyết định của ĐTC đi thăm đã được đánh giá cao như là một cử chỉ can đảm và một sứ điệp hoà bình. Và ai có trí nhớ dai hơn và trở lại thời Đức Gioan Phaolô II, thì biết rằng Đức Gioan Phaolô II cũng đã có lòng can đảm như thế, ngài vẫn công du trong những hoàn cảnh khó khăn, và không cần ai phải dậy cho ngài. Ai biết và nhớ, thì chẳng hạn như chuyến viếng thăm Sarajevo: người ta đã tìm thấy chất nổ ở dưới một cây cầu nơi ĐTC đi qua, người ta đã không biết đó là một việc dàn cảnh hay là một cuộc mưu sát, nhưng đã có sự kiện ấy. Như vậy, cả chuyến viếng thăm Sarajevo nữa, ai có trí nhớ thì đều biết là đã có vấn đề an ninh. Và ai có trí nhớ dai hơn nữa thì nói tới chuyến viếng thăm Nicaragua của ngài hồi năm 1983, trong đó đã có một tình trạng căng thẳng rất hiển nhiên, bên ngoài và bên trong, và nó cũng đã được biểu lộ ra trong chuyến viếng thăm. Và khi Đức Gioan Phaolô II đi thăm Perù, trong thời gian du kích quân “Con đường sáng” hoành hành, đã có các vụ mưu sát đó đây trong nước này. Như vậy, sự kiện các Giáo Hoàng đi thăm những nơi nào cần đi thăm, nơi có sự chờ đợi, nơi cũng có một vài nguy hiểm, nhưng cũng chính vì sứ điệp đem trong chính nó sự cần thiết của một dấn thân, của một sự can đảm, còn nếu không thì sứ điệp… chả nhẽ là đi du lịch, nghĩa là đi vì có sự cần thiết, và điều này cũng có giá phải trả!

Tôi xin phép được nói thêm, bởi vì đây đã là một khía cạnh mà trong các ngày qua người ta đã đặt nghi vấn nhiều lần – có một giai thoại khác đã đánh động tôi: đó là trong các tuần trước nữa, trong số các nỗ lực khác nhau nhằm thuyết phục hay trình bầy các khó khăn và các nguy hiểm, tôi cũng đã tiếp chuyện một người đã nói chuyện với các nhân vật có quyền cao hơn tôi, và ông ta cho tôi biết các khó khăn và các nguy hiểm, đặc biệt trong việc viếng thăm khu phố hồi và đền thờ hồi giáo. Ông ta đã nói một cách kính trọng và với xác tín. Thế mà tôi lại gặp ông ta trong đền thờ, đó là một nhân vật quan trọng cũng như nhiều vị khác trong đền thờ, và ông ta đã nhảy lên vì sung sướng, hứng khởi một cách tuyệt đối và nói: “Quý vị thật ghê gớm! Quý vị quá dũng cảm! ĐTC đã làm chính điều cần làm… Chúng tôi tất cả đều vô cùng biết ơn ngài!” Như vậy chính ông ta là nhân vật đã lo lắng, đã nhận ra rằng quyết tâm của ĐTC đi thăm Trung Phi và đến thăm cả đền thờ hồi giáo  nữa có một ý nghĩa vô cùng quý báu đối với tất cả mọi người, và đặc biệt đối với cộng đoàn hồi giáo của thủ đô Bangui và của Trung Phi.

Hỏi: Thưa cha, mùng 1 tháng 12 hôm nay là Ngày quốc tế chống bệnh liệt kháng AIDS. Đây cũng đã là một đề tài hiện diện một cách mạnh mẽ trong chuyến công du của ĐTC Phanxicô, cách riêng tại Uganda…

Đáp: Vâng. Uganda là một quốc gia có nhiều hệ lụy đối với bệnh liệt kháng. Trường hợp bị bệnh AIDS đầu tiên đã được khám phá ra tại Uganda hồi năm 1982: việc lan tràn của bệnh dịch liệt kháng rất lớn, rồi có dấn thân mạnh mẽ của các chính quyền địa phương, cũng như của Giáo Hội tại Uganda để chống lại bệnh dịch này – và chúng ta phải nói là rất may với các kết quả đáng kể trong việc ngăn chặn và giảm sự lan tràn của nó. Dĩ nhiên là đề tài đã hiện diện trong chuyến viếng thăm của ĐTC. Chúng ta đã nghe chứng từ của một thiếu nữ trong buổi gặp gỡ giới trẻ, và đã hiểu sống với bệnh AIDS có nghĩa là gì. Thật là một chứng từ rất đánh động! ĐTC cũng đã gặp các người đặc trách các sinh hoạt  này, chẳng hạn, cho các trẻ em bị bệnh liệt kháng của “Dự án Mơ Ước”. ĐTC đã nói tới bệnh AIDS, khi viếng thăm Nhà Bác Ái Nalukolongo. Vì thế, ngài hoàn toàn ý thức được điều này. Trong buổi họp báo trên chuyến bay về Roma cũng đã có một câu hỏi liên quan tới vấn đề này, và ai đó đã giải thích sai, làm như thể là ĐTC đã lướt qua vấn đề, không chú ý. Trái lại, ĐTC đã muốn lồng nó vào trong một bối cảnh rộng rãi và tổng quát hơn của tất cả các trách nhiệm, mà nhân loại và các dân tộc có, để tạo dựng công lý, phát triển, và dĩ nhiên để chống lại các điều kiện của nghèo túng và thiếu sức khoẻ đang có đó đây trên thế giới. Ngài đã cho rằng câu hỏi chỉ liên quan một cách chuyên biệt tới việc dùng túi cao su là quá hạn hẹp, và vì thế có thể tạo ra hiểu lầm. Nhưng chúng ta có thể nói rằng – và thật tốt, khi nhắc đến như anh đã nói đúng – trong ngày quốc tế chống bệnh liệt kháng – nói rằng Giáo Hội đi tiên phong, đặc biệt tại Uganda, cũng như tại các quốc gia khác của Phi châu, với nhiều sáng kiến rất rộng rãi: chống lại bệnh AIDS dĩ nhiên có nghĩa là có hoạt động phòng ngừa, và tất cả các chuyên viên đều biết rằng trong việc phòng ngừa sự kiện giảm các sinh hoạt thái quá trong các liên hệ tính dục chung chạ, hay nhiều, và vô trách nhiệm là khía cạnh chính và hữu hiệu nhất: “tiết dục” và “trung thành” là hai từ quan trọng đầu tiên  giúp chống lại bệnh AIDS một cách hữu hiệu,  và một cách chính xác tất cả khía cạnh giáo dục, mà Giáo Hội làm trong nghĩa này, là điều quan trọng trước tiên. Thế rồi, còn có tất cả khía cạnh của việc chữa trị, bởi vì nói rằng: “Tốt, các bạn hãy dùng túi cao su và sẽ không lây bệnh AIDS”… Nhưng rồi tất cả những ai bị bệnh, và nhiều lắm, thì ai chữa trị cho họ đây? Có tất cả sinh hoạt chữa trị với việc dùng các thứ thuốc chống vi rút, theo dõi các bệnh nhân và gần gũi họ; lo lắng cho các bà mẹ và các trẻ em; lo lắng cho các bà mẹ góa bụa… Đó là tất cả một lãnh vực, trong đó sự hiện diện của Giáo Hội  vô cùng quan trọng – đặc biệt tại Uganda – nhưng cũng ở khắp mọi nơi. Như vậy, tôi tin rằng thật là đúng đắn nhắc tới dấn thân của Giáo Hội trong lãnh vực này, và hiểu rằng không cần phải có một quan niệm rất hạn hẹp về một vấn đề, mà ĐTC cũng biểu lộ sự chú ý của ngài và một việc lượng định chuyên biệt các trường hợp có thể có, khi ngài nói tới vấn đề của điều răn thứ năm hay thứ sáu. Việc chú ý tới vấn đề tự nó và dấn thân của Giáo Hội tại Phi châu trong lãnh vực bệnh AIDS vô cùng rộng rãi, khổng lồ, như tôi đã nói. Tôi muốn trở lại khía cạnh giáo dục của lời mời gọi nêu bật cung cách hành xử có trách nhiệm trong cuộc sống hôn nhân, trong cuộc sống lứa đôi, và tránh một việc sử dụng tính dục vô trách nhiệm, không hạn chế,  là một điểm tuyệt đối quan trọng, kể cả đối với việc phòng ngừa nữa.  Ngoài ra, khi nhớ tới ngày này, hôm nay, đặc biệt đối với các anh chị em Phi châu cũng là ngày lễ nhớ nữ chân phước Anuarite Nengapeta, là một nữ tu đã bị giết năm 1964, chính vì đã chống lại các đòi hỏi giao hợp tính dục của các lãnh tụ phiến quân Congo. Như thế chị là một vị tử đạo của lòng trung thành với sự khiết tịnh, với dấn thân của chị, và nhiều người tại Phi châu coi chị như là người che chở dấn thân của các kitô hữu và của Giáo Hội trong cuộc chiến đấu chống lại bệnh AIDS. Một người đã sống cho việc phục vụ và đã chết vì trung thành với dấn thân của mình trong lãnh vực thê thảm này đối với vấn đề liệt kháng.

Hỏi: Khi tìm nối liền các chuyến viếng thăm trong ba nước Kenya, Uganda và Cộng hoà Trung Phi, theo cha đâu là sứ điệp mạnh mẽ nhất mà ĐTC Phanxicô đã để lại cho Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng để lại cho toàn đại lục Phi châu, chứ không phải chỉ riêng cho ba nước được viếng thăm mà thôi?

Đáp: Tôi sẽ rất thành thật, khi trả lời câu hỏi này. Điều đã đánh động chúng ta tất cả khi đi Phi châu, đó là giới trẻ. Đại đa số các người hiện diện và hoan hô ĐTC, kể cả và đặc biệt là dọc theo các con đường, là các trẻ em và người trẻ. Đa số dân chúng rất trẻ, và vì thế chúng ta hiểu tại sao cả các chuyên viên dân số cũng nói rằng chỉ trong vòng vài thập niên nữa dân số phi châu sẽ phát triển lên đến hàng tỷ người, và như vậy Phi châu sẽ là một lục địa có một tầm quan trọng, cả trên bình diện dân số toàn cầu nữa. ĐTC hiện diện, Giáo Hội hiện diện, hiện diện cho trẻ em, hiện diện cho các người trẻ này, hiện diện cho tương lai của dân tộc này, hiện diện với sự chân tình. Có Giáo Hội, và Giáo Hội đồng hành, và là một dấu chỉ của việc quy chiếu, của niềm hy vọng, cuả sự tin tưởng đối với một tương lai tốt đẹp hơn của một đại lục đã có một sự phát triển không thể tin được: dù chúng ta muốn hay không muốn, tốt hay xấu, đó là điều người ta sẽ phải trông thấy, phải xây dựng trong tinh thần trách nhiệm… Khi trông thấy các HĐGM gặp gỡ ĐTC, tôi đã bị đánh động bởi sự kiện vài vị cao niên nhất là các giám mục thừa sai âu châu, trong khi đa số, hầu như tất cả, trái lại, là các Giám Mục phi châu, địa phương. Như thế Giáo Hội đã lớn lên bên Phi châu, đã đâm rễ sâu, hiện diện và đồng trách nhiệm đối với việc phát triển của các dân tộc này.  Giáo Hội là phi châu với các người phi châu, và đồng hành với đại lục này trong các vấn đề và trong các niềm hy vọng của nó. Trung Phi đã là một tình trạng sống thê thảm hơn một chút, vì thế ĐTC đã dấn thân hơn để đem lại hy vọng và các định hướng tích cực cho tương lai nước này. Các nước khác đã tiến hơn một chút, được hệ thống hóa hơn một chút, như Kenya và Uganda, nhưng Giáo Hội hiện diện cho tất cả mọi người. Giáo Hội cùng đi  với mọi người và là một Giáo Hội phi châu, với một Giáo Hoàng đại đồng, cảm thấy mình là phi châu với những người phi châu, và ngài đã thực sự thành công trong việc đối thoại và được lắng nghe như một người cha bởi tất cả các kitô hữu và tất cả những người thiện chí sống ở đó. Tất cả mọi người. Để kết thúc với một hình ảnh đã rất đánh  động tôi: sự kiện ĐTC đi xe díp cùng với Imam để chào mọi người đã là một sứ điệp rất mạnh mẽ. ĐTC đã gặp gỡ và gặp gỡ trở lại trên khán đài của cuộc đối thoại liên tôn, gồm ĐTGM, nữ mục sư chủ tịch của các cộng đoàn tin lành, và Imam hồi giáo, là một sứ điệp rất mạnh mẽ. Đó là tương lai của Phi châu. Giáo Hội đóng góp phần mình, và không nghĩ là phải làm một mình. Nhưng Giáo Hội làm với các người khác, cho sự đối thoại, cho nền hoà bình, với sự trợ giúp của tất cả mọi người thiện chí, và đặc biệt với các tín hữu.

(SD 1-12-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Các ký giả quốc tế phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tể trên chuyến bay từ Bangui về Roma

Chiều thứ hai vừa qua trên chuyến bay từ thủ đô Bangui của Cộng hoà Trung Phi về Roma, ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài một giờ liên quan tới chuyến tông du Phi châu, cũng như một số vấn đề của Giáo Hội và quốc tế. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn ĐTC.

Trước hết cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, thay mặt các nhà báo cám ơn ĐTC về truyền thống họp báo sau mỗi chuyến công du, nhất là sau chuyến viếng thăm dầy đặc sinh hoạt như chuyến viếng thăm ba nước Kenya Uganda và Cộng hòa Trung Phi. Cha cũng cám ơn chị Elena Pinardi của Liên hiệp Phát thanh truyền hình Âu châu đã phát trực tiếp chuyến viếng thăm Trung Phi, nhờ đó hình ảnh các sinh hoạt của ĐTC đã đến với khán thính giả thế giới. Cha cũng chúc mừng Liên hiệp mừng 65 năm hoạt động.

Trước tiên là anh Namu Name của Nhật báo quốc gia Kenya. Anh hỏi:

Thưa ĐTC, tại Kenya ĐTC đã viếng thăm các gia đình nghèo ở Kangemi. ĐTC đã nghe các câu chuyện của họ bị loại trừ khỏi các quyền con người như thiếu nước trong lành để uống. Trong cùng ngày ĐTC đã đến sân vận động Kasarani để gặp gỡ giới trẻ. Các ban trẻ cũng kể cho ĐTC nghe tình cảnh không được hưởng các quyền căn bản của họ, vì sự hà tiện và gian tham thối nát của con người. ĐTC đã cảm thấy gì khi nghe các câu chuyện như vậy. Và phải làm gì để chấm dứt các tình trạng bất công này thưa ĐTC?

Đáp: Liên quan tới vấn đề này tôi đã nói rất mạnh ba lần. Trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất các Phong trào bình dân tại Vaticăng, lần thứ hai tại Santa Cruz de la Sierra bên Bolivia, rồi còn hai lần nữa: đó là một chút trong Thông điệp “Niềm vui Phúc Âm”, rồi một cách rõ ràng hơn trong Thông điệp “Laudato si’”. Tôi không nhớ các thống kê, vì thế xin anh chị em đừng đăng tải các thống kê mà tôi sẽ nói, bởi vì tôi không biết chúng có thật không. Nhưng mà tôi tin là có tới 80% tài nguyên thế giới nằm trong tay của 17% dân chúng toàn cầu – tôi không biết có thật không nhưng nếu nó không thật thì nó đã được tìm ra, vì các sự việc là như thế. Nếu có ai trong anh chị em biết thống kê, thì xin nói để nó được điều chỉnh. Đây là một hệ thống, trong đó ở trung tâm có tiền bạc, có thần tiền, Tôi nhớ có lần gặp một vị đại sứ lớn nói tiếng Pháp nói với tôi câu này – ông ta không phải là người công giáo – ông nói: “Chúng tôi đã rơi vào chỗ tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc”. Và nếu các sự việc tiếp tục như thế, thì thế giới sẽ tiếp tục như vậy. Anh hỏi tôi cảm thấy gì, khi nghe các chứng từ của người trẻ và tại Kangemi, tôi đã nói rất rõ về các quyền con người. Tôi cảm thấy đau đớn. Và tôi nghĩ làm sao mà người ta không cảm thấy điều đó… Một nỗi đớn đau rất lớn. Chẳng hạn hôm qua, tôi đã tới thăm nhà thương nhi đồng, đây là nhà thương nhi đồng duy nhất tại Bangui và toàn Trung Phi. Và trong khu vực chữa trị cấp bách họ không có dưỡng khí. Có rất nhiều trẻ em thiếu dinh dưỡng, nhiều lắm! Và bà bác sĩ nói với tôi: “Đa số các em sẽ chết, bởi vì các em bị bệnh sốt rét rừng rất nặng, và các em thiếu dinh dưỡng”. Tôi không muốn giảng đâu, nhưng mà Chúa đã luôn luôn quở trách dân Israel, nhưng đó là từ mà chúng ta chấp nhận, vì nó là Lời Chúa, chúng ta tôn thờ thần giả. Và đó là tôn thờ thần giả, khi một người đánh mất đi căn tính của mình, là con cái Thiên Chúa, nhưng lại thích tìm cho mình một vị thần hợp với mình. Đây là nguyên tắc. Và nếu nhân loại không thay đổi, thì các bần cùng, các thảm cảnh, chiến tranh, trẻ em chết vì đói, bất công sẽ tiếp tục… Số người chiếm giữ 80% của cái thế giới nghĩ gì? Đây không phải là chủ thuyết cộng sản đâu, đây là sự thật. Đó là sự thật, thật không dễ nhìn nó, và tôi xin cám ơn anh đã đặt câu hỏi này, bởi vì đó là cuộc sống.

Câu hỏi thứ hai là của anh Mumo Makau của Radio thủ đô Kenya. Anh hỏi:

Thưa ĐTC con muốn biết đâu đã là lúc đáng ghi nhớ nhất trong chuyến viếng thăm này của ĐTC tại Phi châu? ĐTC có sẽ mau trở lại viếng thăm Phi châu không, và mục tiêu tới là ở đâu?

Đáp: Chúng ta hãy bắt đầu từ phần cuối của câu hỏi: nếu mọi chuyện xuôi chảy, tôi tin là chuyến viếng thăm tới sẽ là Mêhicô. Ngày tháng chưa được xác định. Thứ hai, tôi có trở lại Phi châu không? Tôi không biết, tôi già rồi… Các chuyến du hành nặng nề…Và câu hỏi thứ nhất là gì nhỉ? Xin đợi một chút, tôi phải nghĩ đã. Điều đáng nhớ đó là đám đông dân chúng, niềm vui và khả năng mừng lễ, mừng lễ với cái dạ dầy trống rỗng. Đối với tôi Phi châu đã là một sự ngạc nhiên. Tôi nghĩ Thiên Chúa khiến cho chúng ta ngạc nhiên, nhưng cả Phi châu cũng gây kinh ngạc cho chúng ta. Và có nhiều lúc đáng ghi nhớ lắm. Đám đông, đám đông dân chúng. Họ cảm thấy được viếng thăm. Họ có một ý thức tiếp đón, bởi vì họ sung sướng cảm thấy được viếng thăm. Thế rồi mỗi nước có căn tính riêng của mình. Kenya thì tân tiến hơn một chút, phát triển hơn. Uganda có căn tính của các vị Tử Đạo: người dân Uganda, công giáo cũng như anh giáo, tôn kính các vị tử đạo. Tôi đã ở trong hai đền thánh: anh giáo trưóc, rồi tới công giáo  và ký ức của các vị tử đạo là căn tính của họ. Lòng can đảm trao ban mạng sống cho một lý tưởng. Và Trung Phi thì có ước muốn hòa bình, hoà giải, tha thứ… Cho tới cách đây 4 năm các tín hữu công giáo, anh giáo, hồi giáo sống chúng với nhau như anh em. Hôm qua tôi đã đi thăm đền thờ hồi giáo. Tôi đã cầu nguyện trong đó, và cả Imam cũng đã lên xe giáo hoàng để đi một vòng trong sân vận động nhỏ. Đó là những cử chỉ bé nhỏ mà tôi làm, và đó là diều mà họ muốn. Và có một nhóm nhỏ – tôi tin là kitô hữu vì họ nói họ là kitô hữu – rất là bạo lực, tôi không hiểu rõ lắm, nhưng không phải là Nhà nước hồi giáo, nó là một cái gì khác. Nhưng mà là kitô. Và họ muốn có hoà bình. Giờ đây nếu có các cuộc bầu cử họ đã lựa chọn Nhà nước chuyển tiếp, họ đã chọn bà thị trưởng như là tổng thống của Nhà nưóc chuyển tiếp, và bà sẽ tổ chức các cuộc bầu cử. Nhưng họ kiếm tìm hòa bình, hòa giải giữa họ. Không có thù hận.

Tới phiên anh Philip Putella của hãng tin Reuters hỏi ĐTC

Thưa ĐTC, ngày nay người ta nói nhiều về vụ Vatileaks. Không đi sâu vào vụ xử án đang xảy ra, con muốn hỏi ĐTC tại Uganda ĐTC đã nói buông rằng gian tham hối lộ có ở khắp mọi nơi, và cả trong tòa thánh Vaticăng nữa. Như thế câu hỏi của con là đâu là tầm quan trọng của báo chí tự do và của giáo dân trong việc nhổ tận gốc rễ sự gian tham hối lộ này, tại khắp nơi nó hiện diện?

Đáp: Tôi sẽ nói là báo chí tự do, đời và cả tôn giáo nữa, nhưng chuyên nghiệp. Bởi vì sự chuyên nghiệp của báo chí có thể là đời hay tôn giáo: điều quan trọng đó là  các chuyên viên, thật vậy, để các tin tức không bị lèo lái, có đúng thế không? Đó. Đối với tôi nó quan trọng, bởi vì việc tố cáo các bất công, các gian tham hối lộ là một công việc đẹp: “Ở đó có gian tham hối lộ!” Và rồi người có trách nhiệm phải làm cái gì đó, đưa ra một phán đoán, loan báo một toà án. Nhưng báo chí nguyên nghiệp phải nói tất cả, mà không rơi vào trong ba tội thông thường nhất là thông tin sai lạc, nói một nửa và không nói nửa kia, vu khống – bào chí chuyên nghiệp, khi không có sự chuyên nghiệp, thì làm bẩn người khác với sự thật hay không sự thật – và nói xấu, tức là nói những điều lấy mất đi danh tiếng của một người với các điều, mà trong lúc này không gây hại gì cả, có lẽ đó là các điều trong quá khứ… Và đó là ba thiếu sót mưu sát tính chuyên nghiệp của báo chí. Chúng ta cần có sự chuyên nghiệp, sự đúng đắn: câu chuyện là như thế, câu chuyện là như thế, câu chuyện là như thế. Và liên quan tới việc gian tham hối lộ, phải coi kỹ các dữ kiện và nói lên các dữ kiện ấy: phải, có gian tham hối lộ ở đây, vì cái này, vì cái này, vì cái này.  Rồi, một nhà báo mà chuyên nghiệp nếu sai, thì xin lỗi. Tôi đã tin rằng, nhưng rồi tôi nhận thấy là không có, và như thế các chuyện xuôi chảy. Nó rất là quan trọng.

Tới phiên anh Philippe de Saint Pierre, đặc trách đài truyền hình công giáo Pháp. Chúng ta sang Paris, mọi người đều gần gũi với nước Pháp trong lúc này. Anh hỏi:

Thưa ĐTC, DTC đã trao ban danh dự cho khán đài có sự hiện diện của ĐTGM, Imam và Mục Sư tại Bangui. Ngày nay hơn bao giờ hết người ta nói rằng khuynh hướng tôn giáo quá khích đe dọa toàn hành tinh. Chúng ta đã thấy tại Paris. Như vậy trước nguy hiểm này DTC có nghĩ rằng các vị lãnh đạo tôn giáo phải can thiệp nhiều hơn vào lãnh vực chính trị hay không?

Đáp: Can thiệp vào lãnh vực chính trị, nếu anh muốn nói là “làm chính trị”, thì không. Hãy làm linh mục, mục sư, imam, rabbi: đó là ơn gọi của họ. Nhưng người ta làm chính trị một cách gián tiếp: bằng cách giảng các giá trị, các giá trị đích thật, và một trong các giá trị  lớn nhất là tình huynh đệ giữa chúng ta. Chúng ta tất cả là con cái của Thiên Chúa, chúng ta có cùng Cha. Cần phải làm chính trị trong nghiã này: một chính trị của sự hiệp nhất, của hoà giải… và của một từ, mà tôi không thích nhưng phải dùng nó, đó là của sự “khoan nhượng”, nhưng không phải chỉ của sự khoan nhượng, mà là của sự chung sống, của tình bằng hữu. Nó là như vậy. Khuynh hướng quá khích là một căn bệnh có trong tất cả mọi tôn giáo. Chúng tôi là công giáo chúng tôi cũng đã có vài khuynh hướng quá khích, không phài vài, mà biết bao nhiêu qúa khích. Mà người ta lại tin là sự thật tuyệt đối, và người ta tiếp tục bằng cách bôi nhọ người khác với sự vu khống, nói xấu và họ làm bậy, họ làm bậy. Và tôi nói lên điều này, vì nó là Giáo Hội của tôi: cả chúng ta nữa, tất cả! Và phải chiến đấu. Khuynh hướng quá khích tôn giáo không phải là tôn giáo. Tại sao? Bởi vì nó thiếu Thiên Chúa. Nó là tôn thờ thần giả cũng như tiền bạc là thần giả. Làm chính trị trong nghĩa thuyết phục người có khuynh hướng này là một nền chính trị, mà chúng ta là hàng lãnh đạo tôn giáo phải làm. Nhưng khuynh hưóng quá khích luôn luôn kết thúc trong một thảm kich hay trong các tội phạm. Nó là một điều xấu, nhưng trong mọi tôn giáo đều có một mảnh nhỏ.

Tiếp theo đây là chị Cristina Caricato của TV2000, là đài truyền hình công giáo của các Giám Mục Italia. Chị hỏi

Thưa ĐTC sáng nay khi chúng ta đang ở Bangui, thì tại Vaticăng có vụ xử án Đức Ông Vallejo Balda và bà Chaouqui cũng như hai nhà báo. Con xin đưa ra câu hỏi mà nhiều người khác cũng muốn đưa ra: đó là tại sao lại có hai người này? Làm sao trong tiến trình cải tổ mà ĐTC đã bắt đầu hai người thuộc loại này lại đã có thể vào trong Uỷ ban COSEA đưọc? ĐTC có tin là mình đã lầm hay không?

Đáp: Tôi tin là đã có một lầm lẫn. Đức Ông Vallejo Balda đã vào Ủy ban vì chức vụ ngài đã có, và đã có cho tới nay. Ngài đã là thư ký của Sở tài chính Tòa Thánh, nên đã vào. Còn bà Chaouqui, tôi không chắc chắn, nhưng tin là mình không sai, nếu nói là chính ngài đã giới thiệu bà như là một phụ nữ hiểu biết thế giới của các tương quan thương mại. Nó là như thế và họ đã làm việc. Khi công việc đã xong, thì trong các thành viên của uỷ ban gọi là COSEA có vài người ở tại chức trong Vaticăng, cả chính Đức Ông Vallejo Balda. Còn bà Chaouqui thì đã không ở trong Vaticăng nữa. Vài người nói rằng bà đã giận dữ vì vậy, nhưng các thẩm phán sẽ nói cho chúng ta biết sự thật liên quan tới các ý hướng như họ đã làm. Đối với tôi, đó đã không phài là một ngạc nhiên, nó đã không khiến cho tôi mất ngủ, bởi vì họ đã cho thấy công việc đã bắt đầu với Uỷ Ban 9 Hồng Y là tìm kiếm gian tham hối lộ và những gì không ổn. Và ở đây tôi muốn nói lên một điều, không có Vallejo và Chaouqui, nhưng tất cả mọi người, mọi sự. Thế rồi nếu chị muốn, tôi trở lại đề tài gian tham hối lộ. Từ “gian tham hối lộ” một trong hai người Kenya đã nói 13 ngày trước cái chết của thánh Gioan Phaolô II, trong buổi đi đàng Thánh Giá, khi đó do ĐHY Ratzinger hướng dẫn. Ông đã nói đến các “dơ bẩn của Giáo Hội” ông dã tố cáo điều đó trong ngày thứ Sáu tuần thánh. Thế rồi, ĐGH Gioan Phaolô II qua đời trong tuần bát nhật Phục Sinh. ĐHY Ratzinger trở thành Giáo Hoàng. Nhưng trong thánh lễ cho việc bầu giáo hoàng ngài đã là Hồng Y niên trưởng. Ngài cũng đã nói lên cùng điều ấy, và chúng tôi đã chọn ngài vì sự tự do nói lên các chuyện này. Và từ lúc đó có trong không khí của Vaticăng là ở đây có gian tham hối lộ: có sự thối nát. Trên sự phán đoán này, tôi đã cho các thẩm phán các tố cáo cụ thể: bởi vì điều quan trọng  đối với việc bệnh vực là đưa ra các lời tố cáo. Tôi đã không đọc các lời tố cáo cụ thể, kỹ thuật. Tôi đã muốn là chuyện này kết thúc trước ngày mùng 8 tháng 12 cho Năm Lòng Thương Xót. Nhưng tôi tin là không thể làm được, bởi vì tôi muốn là tất cả các luật sư bào vệ có giờ để bênh vực, có sự tự do bênh vực. Và họ đã được chọn làm sao, thì là cả lịch sử. Nhưng việc gian tham hối lộ đến từ xa…

Hỏi: Nhưng ĐTC có ý tiến hành như thế nào để những chuyện như vậy không xảy ra nữa?

Đáp: Tôi cám ơn Chúa vì không có Lucrezia Borgia. (Các nhà báo đều cười). Nhưng tôi không biết, tiếp tục với các Hồng Y, với ủy ban để quét dọn sạch sẽ.

Cha Lombardi nói bây giờ tới phiên anh Nestor Ponguta người Colombia của Radio W và Caracol:

Thưa ĐTC con xin hỏi ĐTC về một đề tài đặc biệt liên quan tới Mỹ châu Latiinh bao gồm cả đất nước Argentina của ĐTC nữa. Tại Argentian với ông Macrri sau 12 năm sống dưới chế độ của bà Kirchner, đang hơi có thay đổi. ĐTC nghĩ gì về các thay đổi này, và nền chính trị tại châu Mỹ Latinh đang theo một hướng đi mới như thế nào?

Đáp: Tôi dã nghe vài ý kiền, nhưng thực ra vể tình hình địa lỹ chính trị trong lúc này thì tôi không biết nói gì. Thực sự là như vậy, tôi không biết. Bởi vì có các vấn đề trong nhiều nước trong đường lối này, nhưng thật sự tôi không biết nó đã bắt đầu tại sao và như thế nào. Tôi thực sự không biết. Có nhiều nước châu mỹ latinh ở trong tình trạng của một chút thay đổi này, đúng vậy, nhưng tôi không biết giải thích nó.

Tiếp đến là anh Juergen của hãng tin DPA Nam Phi

 Thưa ĐTC bệnh AIDS đang tàn phá Phi châu. Các thuốc điều trị có nghĩa là ngày nay nhiều người có thể sống lâu hơn. Nhưng mà nạn dịch tiếp tục. Chỉ tại Uganga năm ngoái đã có tới 135 ngàn trường hợp lây bệnh mới. Tại Kenyha tình hình còn tệ hơn. AIDS là lý do đầu tiên gây ra cái chết cho người trẻ phi châu. Thưa ĐTC, ĐTC đã gặp gỡ các trẻ em bị bệnh liệt kháng và đã lắng nghe chứng từ cảm động tại Uganda. Nhưng ĐTC đã nói rất ít về đề tài này. Chúng ta biết là việc phòng ngừa là nền tảng. Chúng ta biết là bao cao su không phải là phương thế duy nhất giúp chặn đứng nạn địch. Nhưng chúng ta cũng biết nó là một phần quan trọng của câu trả lời. Có lẽ đã đến lúc làm nhẹ bớt các lập trường của Giáo Hội  đối với vấn đề này, và cho phép dùng bao cao su để phòng ngừa việc lây bệnh chưa thưa ĐTC?

Đáp: Đối với tôi câu hỏi xem ra nhỏ qúa và cũng là một câu hỏi phiến diện nữa. Đúng, nó là một trong các phương thế. Trong điềm này nền luân lý của Giáo Hội – tôi nghĩ – đang đứng trước một sự phức tạp. Nó là điều răn thứ năm hay thứ sau? Bênh vực sự sống hay liên hệ tính dục rộng mở cho sự sống? Nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề lớn hơn. Câu hỏi này khiến tôi nghĩ tới câu hỏi, mà một lần kia người ta đã đưa ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chữa bệnh ngày sabát có hợp pháp không ?” Phải chữa lành! Câu hỏi là có được phép chữa bệnh như thế không, nhưng thiếu dinh dưỡng, khai thác bóc lột con người, lao động nô lệ, thiếu nước trong lành để uống, đó là các vấn đề. Chúng ta không nói tới việc có thể dùng cái băng này hay cái băng kia cho một vết thương bé tí. Vết thương lớn đó là bất công xã hội, bất công môi sinh, bất công mà tôi đã nói tới, của khai thác bóc lột và thiếu dinh dưỡng. Cái đó thì có. Tôi không thích đi xuống các suy tư có tính cách giải nghi học, khi ngưòi ta chết vì thiếu nưóc trong lành  và vì đói, vì thiếu nhà ở… Khi tất cả mọi người đều được chữa lành, hay khi sẽ không còn có các bệnh thê thảm này  mà con người gây ra, vì bất công xa hội hay để kiếm được nhiều tiền hơn, tôi tin rằng có thể hỏi: “Có đưọc phép chữa bệnh ngày thứ bẩy không ?” Tại sao, nếu người ta tiếp tục chế tạo vũ khí và buôn bán vũ khí? Các cuộc chiến là ly do gây ra chết chóc lớn lao hơn nhiều… tôi sẽ nói là đừng nghĩ tới việc có được phép hay không được phép chữa bệnh ngày sabat. Tôi sẽ nói vơi nhân loại: hãy tạo dựng công bằng, và khi tất cả mọi người sẽ được  chữa lành, khi không còn bất công trên thế giới này nữa, thì chúng ta có thể nói tới ngày sabat.

Anh Marco Ansaldo của nhật báo “Cộng hòa” Italia hỏi:

Thưa ĐTC, trong các nhật báo tuần qua có hai biến cố lớn được các phương tiện truyền thông nói tới: một là chuyến viếng thăm của ĐTC tại Phi châu, và chúng con hạnh phúc vì nó đã kết thúc thành công lớn duới mọi khía cạnh. Thứ hai là một cuộc khủng hoảng quốc tế xảy ra giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã bắn hạ một máy bay Nga bay trên không phận Thổ trong vòng 17 giây khiến cho có các lời tố cáo, không xin lỗi từ phiá này và tố cáo từ phiá kia, tạo ra cuộc khủng hoảng không cần phải có trong tình hình đệ tam thế chiến từng mảnh mà ĐTC nói tới. Con xin hỏi đâu là lập trường của Tòa Thánh Vaticăng trong vấn đề này? ĐTC có nghĩ tới việc viếng thăm Armenia nhân dịp kỷ niệm 101 năm các biến cố của Armenia vào tháng 4 năm tới như ĐTC đã làm với Thổ Nhĩ Kỳ hay không?

Đáp: Năm ngoái tôi đã hứa với ba vị Thượng Phụ  là sẽ đi. Có lời hứa. Tôi không biết tôi có thể thực hiện được không, nhưng có hứa rồi. Thế rồi các chiến cuộc. Chiến tranh xảy ra vì tham vọng. Tôi nói tới các chiến tranh, không phải các cuộc chiến tự vệ chính đáng chống lại một kẻ xâm lăng bất công – nhưng các cuộc chiến làm thành một kỹ nghệ. Trong lịch sử chúng ta đã thấy biết bao lần một quốc gia. Ngân quỹ không chạy. Thôi chúng ta hãy làm một cuộc chiến, và thế là hết thiếu hụt. Chiến tranh là một áp phe, một áp phe buôn bán khí giới. Các kẻ khủng bố có khí giới không? Có lẽ họ có một ít. Ai là người cho họ khí giới để gây chiến tranh? Có cả môt mạng lưới lợi nhuận: nơi đâu có tiền bạc, thì đàng sau có quyền lực. Quyền bính đế quốc hay quyền bính  kết hợp. Nhưng từ bao năm nay chúng ta đang ở trong chiến tranh, và mỗi lần càng nhiều hơn: các mảnh, ít là các mảnh và càng ngày chúng càng to hơn. Tôi nghĩ gì à? Tôi không biết Tòa Thánh Vaticăng nghĩ gì. nhưng tôi nghĩ gì? Tôi nghĩ rằng chiến tranh là một tội, và nó chống lại nhân loại, tàn phá nhân loại, gây ra cảnh khai thác bóc lột, buôn người và biết bao nhiều điều khác … Cần phải chặn nó lại. Tại Liên Hiệp Quốc tôi đã nói điểu này hai lần, ở đây bên Kenhya cũng như bên New York. Ước chi công việc của quý vị không là một chủ trương duy danh tuyên bố, nhưng hiệu nghiệm: ước chi người ta tạo dựng hòa bình. Họ làm biết bao nhiêu diều. Ỏ dây bên Phi châu tôi đã thấy các lính bảo hòa làm việc. Nhưng điều này không hữu hiệu. Các cuộc chiến không phải của Thiên  Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa của hòa bình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới, Ngài đã làm mọi sự tốt đẹp, tất cả đều tốt đẹp, và rồi như Thánh Kinh trình thuật, một người anh em giết người anh em khác: đó là cuộc chiến thứ nhất. Đệ nhất thế chiến giữa các anh em. Tôi không biết, các điều này đến với tôi như thế, và tôi nói lên diều này với rất nhiều đau đớn.

  Anh Beaudonné thuộc đài Truyền hình Pháp, hỏi ĐTC: Hôm nay, hội nghị thế giới về thay đổi thời tiết khai mạc tại Paris; ĐTC đã cố gắng nhiều để mọi sự tiến hành tốt đẹp. Nhưng chúng ta đang chờ đợi rất nhiều từ hội nghị thượng đỉnh quốc tế này: chúng ta có chắc rằng hội nghị COP 21 này sẽ là điểm khởi đầu của biện pháp giải quyết không?

ĐÁP: Tôi không chắc, nhưng tôi có thể quả quyết rằng: hoặc bây giờ hay không bao giờ nữa. Ngay từ hội nghị đầu tiên, hình như nhóm tại Tokyo, cho đến ngày nay, đã chỉ có rất ít thành quả đạt được, và mỗi năm tình hình càng trầm trọng hơn. Trong một buổi họp với giới sinh viên đại học về đề tài “chúng ta muốn để lại cho con cháu của thế hệ này thế giới nào”, một người đã nói: Mà có chắc là thế hệ này sẽ để lại đàn con cháu không? Chúng ta đang ở mức giới hạn, giới hạn của cuộc tự tử tập thể, nếu muốn dùng một chữ mạnh bạo. Và tôi tin chắc rằng hầu như tất cả mọi nhân vật có mặt tại Paris, hiện diện tại hội nghị COP 21, đều ý thức được điều này, và muốn làm một cái gì đó. Hôm trước, tôi có đọc thấy sự kiện tại Groenlandia, các vùng băng đá đã mất đi hàng tỷ tấn. Trong Thái Bình Dương, có một quốc gia đang mua đất đai của một nước khác để thuyên chuyển quốc gia đến đó, bởi vì trong vòng 20 năm nữa, đất nước này sẽ không còn hiện hữu nữa. Không, tôi có lòng tin. Tôi tin tưởng rằng những người này sẽ làm một điều gì đó… Tôi tin chắc rằng họ có thiện chí hành động, và tôi mong được như vậy. Tôi cầu nguyện cho điều này

Delia Gallagher, phái viên đài CNN, hỏi ĐTC:

Kính thưa ĐTC, ngài đã thực hiện nhiều cử chỉ đầy sự tôn trọng và tình thân hữu đối với người hồi giáo. Con tự hỏi: hồi giáo và giáo huấn của tiên tri Mohamed còn có thể nói gì với thế giới ngày nay?

ĐÁP: Tôi không hiểu rõ lắm câu hỏi này… Nhưng mà người ta có thể đối thoại: họ có những giá trị, nhiều giá trị. Họ có nhiều giá trị và các giá trị này rất xây dựng. Ngay cả tôi, tôi cũng có một kinh nghiệm tình bạn, nhưng mà tình bạn là một lời quá mạnh, với một người hồi giáo, một vị lãnh đạo thế giới… Chúng tôi có thể nói chuyện: ông ấy có những giá trị riêng, tôi có những giá trị của tôi. Ông ấy cầu nguyện, tôi cầu nguyện. Có nhiều giá trị lắm chứ! Chẳng hạn như cầu nguyện. Ăn chay cũng là một giá trị tôn giáo chứ. Còn nhiều giá trị khác nữa. Không thể xóa bỏ một tôn giáo chỉ vì trong một lúc nào đó, tronog một thời điểm lịch sử nào đó có một hay nhiều nhóm quá khích. Dĩ nhiên là các cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo vẫn luôn có trong lịch sử xưa nay. Ngay cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải xin lỗi. Bà hoàng Caterina de Medici đâu có phải là một vị thánh đâu? Và rồi cuộc chiến Ba Mươi năm, rồi Đêm của thánh Bartolomeo… nữa? Ngay cả chúng ta, chúng ta cũng phải xin lỗi vì những kẻ cực đoan thái quá trong những cuộc chiến tôn giáo. Người hồi giáo họ cũng có những giá trị và có thể đối thoại với họ được. Ngày hôm nay, tôi đã đến một  đền thờ hồi giáo, tôi đã cầu nguyện tại đó, rồi Imam hồi giáo đã muốn cùng đi với tôi một vòng quanh sân vận động nhỏ, nơi có bao nhiêu người khác không có chỗ vào, phải đứng bên ngoài…Trên xe chở tôi, có ĐGH và Imam. Cũng như ở khắp mọi nơi, có những người mang nhiều giá trị tôn giáo, có những người không mang giá trị nào… Nhưng mà có biết bao nhiêu chiến tranh, không chỉ có những chiến tranh tôn giáo mà thôi… người ky tô chúng ta cũng đã từng gây ra nhiều chiến tranh Vụ cướp phá Roma đâu có phải do người hồi giáo gây ra đâu. Họ cũng có các giá trị, nhiều giá trị.

Đến lượt Marta Calderon, thuộc hãng thông tấn Catholic News Agency, cô hỏi:

Kính thưa ĐTC, chúng con biết ngài sẽ viếng thăm Mêhicô. Chúng con muốn, nếu có thể, biết thêm nhiều hơn về chuyến viếng thăm này và vẫn trong chiều hướng viếng thăm những quốc gia có nhiều vấn đề, ĐTC có nghĩ đến chuyện thăm dân nước Colombia hay là trong tương lai, thăm cả các nước như Perù hay  không?

ĐÁP: Quý vị biết đó, vào tuổi tôi, đi nhiều quá không tốt… Nếu ở đó không có Đức Mẹ, thì tôi sẽ chẳng đến thành phố Mêhicô đâu, vì tiêu chuẩn các cuộc viếng thăm là đi thăm ba hay bốn thành phố chưa bao giờ được các Giáo Hoàng viếng thăm. Nhưng tôi sẽ đi Mêhicô vì Đức Mẹ. Rồi tôi sẽ đi Chiapas, ở miền Nam giáp giới với Guatemala, rồi sang Morella, và gần như là chắc chắn trên đường về Roma, tôi sẽ ghé lại một ngày, hay là ít hơn một chút, ở Ciudad Juarez. Còn về việc viếng thăm các nước Mỹ la tinh khác thì vào năm 2017, tôi đã được mời đến Aparecida, Đức Mẹ Apảecida bổn mạng của các nước Mỹ châu nói tiếng Bồ Đào Nha. Quý vị biết là Mỹ châu la tinh có hai vị bổn mạng mà! Từ đó có thể nghĩ đến chuyện viếng thăm một nước khác, sau khi dâng lễ tại Aparecida… Nhưng hiện thời thì chưa có chương trình nào…

Câu hỏi kế tiếp là của Mark Masai, thuộc đài National Media của Kenya.

Anh hỏi: Trước hết, xin cám ơn ĐTC đã viếng thăm Kenya và Phi châu. Chúng con vẫn chờ đợi ĐTC đến Kenya lần nữa, không phải để làm việc mục vụ mà để nghỉ ngơi. Chuyến viếng thăm vừa rồi của ĐTC là chuyến đầu tiên và mọi người đều đã lo lắng nhiều về vấn đề an ninh. ĐTC sẽ nói gì với thế giới luôn đinh ninh rằng Phi Châu là vùng đất chỉ có chiến tranh và đầy dẫy hủy hoại mà thôi?

ĐÁP: Tôi không hiểu rõ lắm chiều hướng của câu hỏi này…. Phi châu là nạn nhân. Phi châu đã và luôn luôn bị các cường quốc khác bóc lột. Từ Phi châu, bao nhiêu người đã bị bắt và đem bán sang Mỹ châu làm nô lệ. Có bao nhiêu cường quốc chỉ biết tìm cách chiếm đoạt những tài nguyện lớn lao của Phi châu, tôi không rõ lắm, nhưng có lẽ Phi châu là lục địa giàu nhất đấy… Họ không nghĩ đến chuyện giúp đỡ lục địa này lớn mạnh, phát triển, kiến tạo công ăn việc làm cho người dân nơi đây… Họ chỉ muốn bóc lột… Phi châu là một lãnh thổ tử đạo, tử đạo vì bị bóc lột suốt dòng lịch sử. Những kẻ cho rằng tất cả các thiên tai và chiến tranh đều đến từ Phi châu đã không hiểu rõ là một số hình thức mệnh danh là phát triển có thể gây hại cho toàn nhân loại chừng nào. Vì thế, tôi rất yêu quý Phi châu bởi lẽ Phi châu đã là một nạn nhân của các cường quốc khác.

Đến đây, cha Lombardi nói rằng buổi nói chuyện đã kéo dài một tiếng đồng hồ và chấm dứt các câu hỏi. Trước khi kết thúc cuộc phỏng vấn, các ký giả muốn tặng ĐTC một cuốn sách mà tuần báo Paris Match của Pháp ấn hành và tặng cho các vị nguyên thủ quốc gia hiện diện trong hội nghị COP 21 về thay đổi thời tiết đang nhóm tại Paris. Cuốn sách gồm 1.500 hình ảnh về các vấn đề môi sinh do các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và tài tử thực hiện, cũng được tặng cho ĐTC. Sau đó, cha Lombardi đã cám ơn ĐTC mặc dù mệt mỏi sau chuyến viếng thăm, vẫn dành thời giờ cho các ký giả phỏng vấn. Mọi người xin chúc ĐTC an vui trở lại Roma và tiếp tục hoạt động bình thường. ĐTC Phanxicô cười và cám ơn các ký giả cùng công việc của họ. Ngài nói: Cám ơn quý vị về công việc của quý vị. Bây giờ là lúc dọn bữa trưa, nhưng người ta nói là hôm nay quý vị sẽ phải nhịn đói vì phải làm việc trên cuộc phỏng vấn này. Cám ơn quý vị nhiều vì công việc của quý vị và vì những câu hỏi, về sự quan tâm của quý vị. Chỉ có một điều tôi muốn nói nói rõ là tôi trả lời theo những gì tôi biết, còn những gì tôi không biết thì tôi không nói tới. Tôi không bày đặt gì cả. Xin cám ơn mọi người.

Linh Tiến Khải – Mai Anh

Tóm lược Phúc trình chung kết Thượng Hội Đồng Giám mục

Tóm lược Phúc trình chung kết Thượng Hội Đồng Giám mục

Pope arrived on the last day of Synod 2015

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 đã kết thúc tốt đẹp và đã thông qua Phúc trình chung kết, với những hướng đi tích cực cho việc mục vụ gia đình trong hoàn cảnh xã hội ngày nay.

Trong phiên họp khoáng đại thứ 18 và là phiên cuối cùng chiều thứ bẩy, 24-10 vừa qua, các nghị phụ Thượng HĐGM đã bỏ phiếu về bản tường trình chung kết gồm 94 đoạn. Toàn bộ đã được thông qua với đa số 2 phần 3, tức là tối thiểu 177 phiếu trên 265 nghị phụ hiện diện. Đây là văn kiện được các nghị phụ đệ lên ĐTC và ngài đã cho phép công bố.

Phúc trình mô tả gia đình là ánh sáng trong bóng đen của thế giới. Thực vậy gia đình ngày nay tuy có bao nhiêu khó khăn, nhưng cũng có khả năng rất lớn đương đầu và phản phản ứng trước những khó khăn ấy.

Phúc trình chung kết mạch lạc và đón nhận rất nhiều sửa chữa tài liệu làm việc do các nghị phụ đề nghị, và do đó phản ánh tiếng nói của Thượng HĐGM.

Những đoạn bàn về các gia đình ở trong tình trạng khó khăn:

Đặc biệt có hai đoạn được chấp thuận với 178 và 180 phiếu, vừa đủ để được thông qua với 2 phần 3 số phiếu. Trong những đoạn này có nói về phương thức mục vụ dành cho các gia đình bị thương tổn hoặc ở trong những tình trạng ”bị rối”, không hợp với giáo luật và kỷ luật của Giáo Hội, cụ thể là những cặp sống chung không kết hôn, những cặp chỉ kết hôn dân sự, những người ly dị tái hôn dân sự và cách thức mục vụ dành cho những trường hợp này trong thái độ tích cực và tiếp đón.

Văn kiện tái khẳng định đạo lý về sự bất khả phân ly của bí tích hôn phối, đặc tính này không phải là cái ách, nhưng là hồng ân của Thiên Chúa, là chân lý dựa trên Chúa Kitô và mối liên hệ của Người với Giáo Hội. Đồng thời các nghị phụ nhấn mạnh rằng chân lý và lòng từ bi thương xót đều đồng qui trong Chúa Kitô. Từ đó, Thượng HĐGM kêu gọi đón tiếp các gia đình bị thương. Tuy không nói rõ ràng về việc cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ, nhưng Thượng HĐGM nhắc nhớ rằng họ không bị vạ tuyệt thông và để tùy sự phân định của các vị mục tử, phân tích tình trạng gia đình phức tạp của họ. Các nghị phụ nhấn mạnh rằng sự phân định này phải được thực hiện theo giáo huấn của Hội Thánh, trong niềm tín thác lòng thương xót của Chúa không bị phủ nhận đối với bất kỳ một ai.

Đối với những người sống chung, Văn kiện tái khẳng định rằng cần phải cứu xét tình trạng của họ một cách tích cực, tìm cách biến hoàn cảnh ấy thành cơ hội hoán cải, tiến đến sự viên mãn của hôn nhân và gia đình, dưới ánh sáng Tin Mừng.

Về những người đồng tính luyến ái

Văn kiện khẳng định rằng không được kỳ thị những người có xu hướng đồng tính luyến ái, nhưng đồng thời cho biết Giáo Hội chống lại sự kết hiệp giữa những người đồng phái và không chấp nhận những sức ép từ bên ngoài trên Giáo Hội về vấn đề này.

Có những đoạn đặc biệt nói về những người di dân, tị nạn, bị bách hại, gia đình của họ bị phân tán và họ có thể trở thành nạn nhân của nạn buôn người. Thượng HĐGM kêu gọi đón tiếp họ, tái khẳng định các quyền và cả nghĩa vụ của họ đối với những nước đón nhận họ.

Đề cao giá trị phụ nữ, bảo vệ trẻ em và người già

Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM cũng trình bày những suy tư đặc thù về phụ nữ, người nam, trẻ em, là những bản lề của đời sống gia đình, đồng thời tái khẳng định sự bảo vệ và đề cao giá trị những vai trò của họ.

Đối với các phụ nữ, Thượng HĐGM cầu mong họ nắm giữ một vai trò quan trọng hơn trong tiến trình huấn luyện các thừa tác viên thánh chức, trong khi đối với các trẻ em, các vị đề cao vẻ đẹp của sự nhận con nuôi và ủy thác, tái tạo những mối liên hệ gia đình bị gián đoạn. Thượng HĐGM cũng không quên những người góa bụa, người khuyết tật, người già, các ông bà nội ngoại là những người giúp thông truyền đức tin trong gia đình và cần phải bảo vệ họ chống lại nền văn hóa gạt bỏ. Cả những người không kết hôn cũng được nhắc đến vì sự dấn thân của họ trong Giáo Hội và trong xã hội.

Cuồng tín, cá nhân chủ nghĩa, nghèo đói..

Văn kiện chung kết Thượng HĐGM cũng bàn đến những bóng đen của thời đại ngày nay đang đè nặng trên gia đình: trước tiên là thái độ cuồng tín về chính trị và tôn giáo thù nghịch đối với Kitô giáo, trào lưu cá nhân chủ nghĩa gia tăng, ý thức hệ về giống (gender), các cuộc xung đột, bách hại, nạn nghèo đói, công ăn việc làm bấp bênh, nạn tham ô hối lộ, những cưỡng bách kinh tế loại trừ gia đình khỏi lãnh vực giáo dục và văn hóa, hiện tượng hoàn cầu hóa sự dửng dưng đặt tiền bạc chứ không phải con người ở trung tâm xã hội, nạn dâm ô và sự suy giảm dân số.

Tăng cường chuẩn bị hôn phối

Thượng HĐGM đặc biệt kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn phối, nhất là đối với những người trẻ dường như lo sợ đối với hôn nhân: cần có một sự huấn luyện thích hợp cho họ về tình cảm, tập nhân đức khiết tịnh, và tự chủ. Trong viễn tượng này, các nghị phụ nhắc nhở về mối liên hệ giữa hành vi tính dục và hành vi sinh sản giữa vợ chồng, trong đó con cái là hoa trái quí giá nhất, vì chúng mang trong mình ký ức và hy vọng của một hành vi yêu thương. Một liên hệ khác cũng được tái khẳng định là liên hệ giữa gia đình và ơn gọi sống đời gia đình và ơn gọi sống đời thánh hiến. Cả việc giáo dục về tính dục, về thể xác và thăng tiến việc làm cha làm mẹ theo tinh thần trách nhiệm theo giáo huấn của Đức Phaolô 6 trong Thông Điệp ”Humanae vitae” (Sự sống con người) cũng là điều chủ yếu, cũng vậy vai trò hàng đầu của các cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái.

Bảo vệ sự sống từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên

Thượng HĐGM kêu gọi các chính quyền hãy ”thăng tiến và nâng đỡ các chính sách gia đình, trong khi các tín hữu Công Giáo dấn thân trong chính trị được nhắn nhủ bảo vệ gia đình và sự sống vì xã hội nào lơ là đối với gia đình thì sẽ mất viễn tượng tương lai của mình. Về vấn đề này, Thượng HĐGM tái khẳng định sự thánh thiêng của cuộc sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên và cảnh giác chống lại những đe dọa trầm trọng đối với gia đình như nạn phá thai và làm cho chết êm dịu.

Những đoạn cuối cùng dành cho các hôn nhân hỗn hợp, trong đó các nghị phụ nhấn mạnh các khía cạnh tích cực đối với việc thăng tiến đối thoại đại kết và liên tôn. Rồi tái khẳng định sự cần thiết phải bảo vệ tự do tôn giáo và quyền phản kháng lương tâm trong xã hội.

Giáo hội cần canh tân ngôn ngữ đễ loan báo Tin Mừng

Văn kiện chung kết trình bày một suy tư dài về sự cần thiết phải thay đổi ngôn ngữ của Giáo Hội, làm cho nó có ý nghĩa hơn để việc loan báo Tin Mừng gia đình đáp ứng thực sự những mong đợi sâu xa nhất của con người. Thực vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là trình bày một qui tắc, nhưng là loan báo ơn mang lại khả năng sống những thiện hảo của gia đình

Gia đình là bến cảng chắc chắn cho các tình cảm sâu xa nhất

Sau cùng, Phúc trình chung kết nhấn mạnh vẻ đẹp của gia đình: Giáo Hội tại gia dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, tế bào cơ bản của xã hội mà Giáo Hội góp phần làm tăng trưởng, là bến cảng chắc chắn cho những tâm tình sâu xa nhất, là điểm duy nhất liên kết, trong một thời đại bị phân hóa, là thành phần của sinh thái học con người, gia đình cần được bảo vệ, nâng đỡ và khích lệ, kể cả từ phía các chính quyền

Thỉnh cầu ĐTC ban hành một văn kiện về gia đình

 Các nghị phụ đệ trình phúc trình lên ĐTC để ngài cứu xét xem có nên tiếp tục hành trình với một văn kiện của ngài, dựa trên Thượng HĐGM này, để đào sâu thêm đề tài gia đình theo hướng đi mà ngài đã đề ra. Chúng ta tiếp tục tiến bước”

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Mỗi người đều có một Thiên Thần Bản Mệnh, hãy ngoan ngoãn vâng nghe các ngài

Mỗi người đều có một Thiên Thần Bản Mệnh, hãy ngoan ngoãn vâng nghe các ngài

ĐTC giảng tại nhà nguyện Martha

Trong thánh lễ các Thiên Thần Bản Mệnh vào sáng ngày 02-10 tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha nói: Thiên Chúa ban cho mỗi người một vị “đồng hành”, một Thiên Thần Bản Mệnh để khuyên nhủ, bảo vệ và nâng đỡ. Bởi thế, chúng ta nên lắng nghe các ngài với một thái độ ngoan ngoãn. Đức Thánh Cha cũng nói thêm, bằng chứng về sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh được tìm thấy ngay trong những trang đầu tiên của Kinh Thánh. Khi Thiên Chúa đuổi Adam ra khỏi vườn địa đàng, Ngài không bỏ mặc ông tự bươn chải một mình, nhưng sai các thiên thần luôn đồng hành và trợ giúp ông.

Sứ giả của Thiên Chúa ở bên cạnh chúng ta

Với những lời nguyện và thánh vịnh, Đức Thánh Cha đã cho thấy rằng các Thiên Thần Bản Mệnh luôn hiện diện trong từng biến cố giữa Thiên Chúa và con người: “Này ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi ta đã dọn sẵn” (Xh 23, 20). Như vậy, luôn có sự hiện diện của một đấng thiêng liêng mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, không trừ một ai. Thế nên, mỗi người trong chúng ta đều được ban tặng một Thiên Thần Bản Mệnh, đấng luôn đồng hành và ở với chúng ta. Ngài là thiên sứ của Đức Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đã nhắc bảo chúng ta rằng: hãy kính trọng sự hiện diện của các thiên thần. Khi chúng ta làm một điều xấu, chúng ta nghĩ rằng chỉ mình chúng ta biết. Nhưng thật ra các Thiên Thần Bản Mệnh cũng có mặt ở đó. Bởi thế, hãy lắng nghe các ngài, vì các ngài đang cho chúng ta những lời khuyên bổ ích. Khi chúng ta nhận thấy sự thúc đẩy: “Hãy làm điều này”, hay “Làm điều kia thì tốt hơn”, hay “Không được làm điều đó”; chúng ta hãy lắng nghe. Đừng chống lại các ngài.

Hãy tôn trọng và lắng nghe các ngài

Thiên Thần Bản Mệnh luôn bảo vệ chúng ta khỏi những điều xấu. Đôi khi chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể che dấu rất nhiều điều xấu xa. Nhưng những điều ấy cuối cùng cũng bị đưa ra ánh sáng. Khi chúng ra gặp cám dỗ, các Thiên Thần Bản Mệnh ở bên cạnh chúng ta giống như một người bạn. Các ngài khuyên nhủ chúng ta, giúp chúng ta nhận ra và chống lại cám dỗ. Các ngài là những người bạn mà chúng ta không nhìn thấy nhưng vẫn có thể nghe thấy được. Một ngày nào đó, những người bạn ấy sẽ ở cùng với chúng ta trên Nước Trời, trong niềm hoan lạc vĩnh cửu.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm, đối với các Thiên Thần Bản Mệnh, chúng ta chỉ cần một điều này thôi, đó là kính trọng và lắng nghe. Thái độ kính trọng và lắng nghe này được gọi là sự ngoan ngoãn. Là một Kitô hữu, chúng ta phải ngoan ngoãn và mở lòng ra với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhưng sự ngoan ngoãn này đã khởi đi ngay khi chúng ta kính trọng và vâng nghe các Thiên Thần Bản Mệnh rồi.

Hãy ngoan ngoãn với các thiên thần là những đấng đang hướng dẫn chúng ta

Để có thể ngoan ngoãn, chúng ta cần phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ. Chúa Giêsu cũng từng nói trẻ em là nhưng người lớn nhất trong Nước Trời. Các Thiên Thần Bản Mệnh là những người bạn đồng hành, các ngài dạy chúng ta trở nên nhỏ bé khiêm nhường và chúng ta hãy lắng nghe các ngài như một trẻ thơ.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi: ‘Hôm nay chúng ta hãy tha thiết nài xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn được trở nên ngoan ngoãn, biết lắng nghe tiếng của những “người bạn đồng hành”. Các vị ấy là sứ giả của Thiên Chúa, luôn ở bên cạnh chúng ta và hằng giúp đỡ che chở chúng ta. Trong thánh lễ này, chúng ta cũng hãy cùng nhau tán tụng Thiên Chúa vì Ngài tốt lành dường bao. Mặc dù sau khi phạm tội và đánh mất đi tình bạn hữu, Ngài đã không để con người phải cô đơn một mình. Nói khác đi, Ngài đã không bao giờ bỏ rơi con người’ (SD 02-10-2015).

Anh Phương – Vatican Radio

Gia đình là câu trả lời cho các thách đố của thế giới ngày nay

Gia đình là câu trả lời cho các thách đố của thế giới ngày nay

ĐTC thăm hỏi đôi tân hôn

Gia đình là câu trả lời cho các thách đố lớn của thế giới

Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ.

Kính thưa quý vị ĐTC đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến hơn 40.000 tín hữu và du khánh hành hương năm châu sáng thứ tư hôm qua. Sau khi chào tín hữu ĐTC cho biết cùng tham dự buổi tiếp kiến trên màn truyền hình có nhiều anh chị em tàn tật và già yếu trong đại thính đường Phaolô VI. Vì thế ngài mời mọi người chào nhau bằng một tràng pháo tay.

Như quý vị đã biết, ĐTC vửa công du mục vụ Cuba và Hoà Kỳ về, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu một số cảm tưởng và kinh nghiệm của chuyến viếng thăm này.

ĐTC đã cám ơn Chủ tịch Raul Castro, tổng thống Barack Obama, ông Ban Ki Moon Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, nhân dân hai nước, cách riêng các Giám Mục và các cộng sự viên đã làm việc vì tình yêu thương đối với Giáo Hội linh hoạt các vị, và mọi người đã dành cho ngài một sự tiếp đón rất nồng hậu. ĐTC nói ngài đã tự giới thiệu như là “thừa sai của Lòng Thương Xót” tại Cuba,  là một vùng đất giầu vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa và đức tin. Lòng xót thương của Thiên Chúa lớn lao hơn mọi vết thương, mọi xung khắc, mọi ý thức hệ. Và với cái nhìn của lòng thương xót tôi đã có thể ôm vào lòng toàn dân Cuba, tại quê hương cũng như bên ngoài, vượt qua mọi chia rẽ. Biểu tượng của sự hiệp nhất này của tâm hồn cuba là Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng, cách đây 100 năm đã được công bố là Bổn Mạng của Cuba. Tôi đã đến đền thánh  Mẹ của niềm hy vọng, Đấng hướng dẫn trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải. ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

Tôi đã có thể chia sẻ với nhân dân Cuba niềm hy vọng việc thành toàn lời tiên tri của thánh Gioan Phaolô II: Ước chi Cuba rộng mở cho thế giới, và thế giới rộng mở cho Cuba, Không còn đóng kín nữa, không còn khai thác nghèo túng nữa, nhưng tự do trong phẩm giá. Đây là con đường làm rung động con tim của biết bao nhiêu người trẻ cuba: không phải là một con đường của trốn tránh, của kiếm lời dễ dàng, nhưng là con đường của tinh thần trách nhiệm, phục vụ tha nhân, săn sóc những ai giòn mỏng. Một con đường rút tiả ra sức mạnh từ các gốc rễ kitô của dân tộc ấy, đã đau khổ rất nhiều. Một con đường trong đó tôi đã khích lệ một cách đặc biệt các linh mục và tất cả những người sống đời thánh hiến, các sinh viên và các gia đình. Xin Chúa Thánh Thần, qua lời bầu cử của Mẹ Maria Rất Thánh, làm cho các hạt giống mà chúng ta đã gieo vãi lớn lên.

Từ Cuba sang Hoa Kỳ: đây đã là một chuyển tiếp biểu tượng, một cây cầu đang được xây, tạ ơn Chúa. Thiên Chúa luôn luôn xây các cây

cầu nối kết; chính chúng ta là những người xây các bức tường ngăn cách.

Tại Hoa Kỳ tôi đã có ba chặng viếng thăm: Washington, New York và Philadelphia. Tại Washington tôi đã gặp gỡ các vị lãnh đạo chính trị, dân thường, các Giám Mục, linh mục, người sống đời thánh hiến, và những người nghèo và bị gạt bỏ ngoài lề nhất. Tôi đã nhắc nhớ rằng kho tàng lớn nhất của đất nước và của nhân dân Hoa Kỳ là gia tài tinh thần và luân lý đạo đức. Và như thế tôi đã muốn khích lệ tiếp tục xây dựng xã hội trong sự trung thành với nguyên tắc nền tảng, nghĩa là tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng và có các quyền bất khả nhượng, như quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc. Các giá trị này được mọi người chia sẻ, tìm thấy trong Phúc Âm việc thành toàn tràn đầy của chúng, như được minh nhiên bởi việc phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra, một tu sĩ Phanxicô, vị truyền giáo lớn của vùng California. Thánh Junipero cho thấy con đường  của niềm vui: ra đi và chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô với những người khác. Đó là con đường của kitô hữu, nhưng cũng là con đường của mọi người đã biết tới tình yêu: không giữ nó cho chính mình nhưng chia sẻ nó với những người khác. Trên nền tảng tôn giáo và luân lý đạo đức này Hoa Kỳ đã sinh ra và lớn lên, và trên nền tảng này họ có thể tiếp tục là vùng đất của tự do và tiếp đón,  và cộng tác để xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn.

Tiếp tục bài  huấn dụ ĐTC nói: Tại New York tôi đã có thể viếng thăm Trụ sở của Liên Hiệp Quốc  và chào các nhân viên  làm việc tại đây. Tôi đã có các cuộc thảo luận với ông Tổng thư ký và các vị chủ tịch của các Hội đồng khoáng đại cuối cùng cũng như của Hội Đồng Bảo An. Khi nói chuyện với  các vị đại diện các Quốc gia, theo gót các vị Tiền Nhiệm, tôi đã canh tân lời khích lệ của Giáo Hội Công Giáo đối với Tổ chức này và vai trò của nó trong việc thăng tiến sự phát triển và hòa bình, bằng cách đặc biệt nhắc lại sự cần  thiết cùng nhau dấn thân cụ thể săn sóc thụ tạo. Tôi cũng lập lại lời kêu gọi chặn đứng và phòng ngừa các bạo lực chống lại các nhóm chủng tộc và tôn giáo thiểu số cũng như chống lại các thường dân.

Chúng tôi đã cầu nguyện cho hòa bình và tinh huynh đệ gần Đài tưởng niệm Ground Zero, cùng với các đại diện các tôn giáo, thân nhân những người đã chết, biết bao người đã ngã gục và nhân dân New York, giầu sự khác biệt văn hóa. Tôi cũng đã cử hành thánh lễ cho hòa bình và công lý tại Madison Square Garden.

Tại Washington cũng như tại New York tôi đã có thể gặp gỡ vài thực tại bác ái giáo dục, biểu tượng cho việc phục vụ khổng lồ  mà các cộng đoàn công giáo, các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân cống hiến trong các lãnh vực này.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Tột đỉnh chuyến công du đã là cuộc găp gỡ quốc tế các gia đình tại Philadelphia, nơi chân trời đã rộng mở cho toàn thế giới, qua “lăng kính” của gia đình. ĐTC tái định nghĩa gia đình như sau:

Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ. Gia đình là câu trả lời, vì nó là tế bào của một xã hội quân bình chiều kích cá nhân và chiều kích cộng đoàn, và đồng thời nó có thể là mô thức cho việc điều hành các của cải và

tài nguyên của thụ tạo một cách có thể chịu đựng nổi. Gia đình là chủ thể tác nhân của một môi sinh toàn vẹn, bởi vì nó là chủ thể xã hội đầu tiên, chứa đựng bên trong hai nguyên lý nền tảng của nền văn minh nhân loại trên trái đất: nguyên lý của sự hiệp thông và nguyên lý của sự phong phú. Nền nhân bản kinh thánh giới thiệu với chúng ta hình ảnh này: cặp vợ chồng con người hiệp nhất và phong phú, được Thiên Chúa đặt trong ngôi vườn của thế giới, để vun trồng và giữ gìn nó.

Tôi muốn gửi lời chào huynh đệ và cám ơn nồng nhiệt tới ĐC Chaput, TGM Philadelphia vì sự dấn thân, lòng đạo đức, sự hăng say và tình yêu lớn lao của ngài đối với gia đình trong việc tổ chức biến cố này. Nhìn cho kỹ thì không phải là tình cờ nhưng là quan phòng sứ điệp và hơn nữa chứng tá của Cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình diễn ra trong lúc này từ Hoa Kỳ, nghĩa là từ đất nước trong thế kỷ qua đã đạt tới sự phát triển tột bực về kinh tế và kỹ thuật mà không chối bỏ các gốc rễ tôn giáo của mình. Giờ đây các gốc rễ này đòi được tái khởi hành từ gia đình dể suy tư trở lại và thay đổi mô thức phát triển, cho thiện ích của toàn gia đình nhân loại.

ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau, đặc biệt phái đoàn hành hương quốc gia Guinea do ĐC Coulibaly, TGM Conakry hướng dẫn, cũng như các đoàn hành hương nước Côte d’ Ivoire. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ bắt đầu trong vài ngày nữa. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước như Kenya, Nigeria,  Nam Phi,  Ân Độ, Sri Lanka, Nhật Bản, Philippines, cũng như các đoàn hành hương các nước Bắc Mỹ và châu Âu và từ châu Mỹ Latinh như các nhóm Brasil; hay từ vùng Trung Đông như Libăng và Thánh Địa. Ngài xin Chúa che chở mọi gia đình khỏi rơi vào cám dỗ lơ là hay chối bỏ ơn gọi của mình và xin Chúa che chở họ khỏi Kẻ Dữ.

ĐTC cũng chào một nhóm nữ tu và Nữ tu Tổng phụ trách dòng Nữ tử Thánh Tâm Chúa Giêsu, về Roma tạ ơn vì lễ phong chân phước cho chị Klara Ludwika Szezesna, đồng sáng lập dòng. Nữ chân phước đã có cuộc sống tận hiến cho Chúa, khiêm tốn phục vụ tha nhân, sống theo tinh thần Tin Mừng, giúp đỡ người nghèo và lạc hướng, Khẩu hiệu sống của chân phước là “Tât cả cho Trái Tim Chúa Giêsu”. Xin chị bầu cử cho chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các tín hữu sùng mộ thánh Rita thành Cascia, do ĐC Renato Boccoardo TGM Spoleto-Norcia hưóng đẫn. Đoàn đã đem theo một bức tượng thánh nữ rất lớn để ĐTC làm phép. ĐTC nói khi làm phép bức tượng thánh nữ, tôi mời gọi mọi người trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, đọc lại kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng ngoại thường của thánh nữ như dấu chỉ quyền năng lòng thương xót của Thiên Chúa.

Ngài cũng chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô, trong đó có một số linh mục Việt Nam sính viên mới của trường.

Chào người trẻ, rất đông người đau yếu theo  dõi buổi tiếp kiến trên màn truyền hình trong đại thính đường Phaolô VI cũng như các đôi tân hôn, ĐTC nói hôm nay chúng ta kính nhớ thánh Gierolamo. Ước chi lòng đam mê Thánh Kinh của ngài giúp giới trẻ say mê cuốn Sách Sự Sống, cuộc sống khổ hạnh của thánh nhân khiến cho các khổ đau của các người ốm yếu tràn đầy ý nghĩa, và sức mạnh tinh thần của ngài giúp củng cố đức tin của các cặp vợ chồng mới cưới.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Phần đầu bài phong vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế

Phần đầu bài phong vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tế

ĐTC nói chuyện với các nhà báo trên phi cơ lúc trở về Rome từ Philadelphia ngày 27-09-2015

Nội dung phần thứ nhất bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay trở về Roma (SD 28-9-2015)

Cũng như trong mọi chuyến công du khác, trên chuyến bay từ Philadelphia về Roma chiều ngày 27 tháng 9 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một bài phỏng vấn dài về nhiều vấn đề khác nhau liên quan tới chuyến viếng thăm mục vụ cũng như tình hình thế giới và các vấn đề của Giáo Hội.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị phần đầu bài phỏng vấn này. Cha Federico Lombardi Giám đốc Phòng Báo Chí Toà Thánh, đã ngỏ lời chào ĐTC như sau: “Thưa ĐTC, xin chào mừng ĐTC đến giữa chúng con và dành thời giờ cho chúng con sau chuyến viếng thăm rất mệt nhọc đòi hỏi nhiều dấn thân. Chúng con xin bắt đầu ngay với các câu hỏi. Người đầu tiên là một chị ở đây đã viết một bài về ĐTC trên báo Times nên chị đã được chuẩn bị rất kỹ về chuyến công du của ĐTC. Chị sẽ hỏi bằng tiếng Anh và anh Matteo sẽ dịch ra tiếng Ý cho ĐTC. “

ĐTC chào các nhà báo và nói: “Xin cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Anh chị em phải chạy từ chỗ này tới chỗ nọ. Còn tôi thì ngồi ở trong xe… Xin cám ơn  anh chị em nhiều lắm.

Xin cám ơn ĐTC rất nhiều., Con là Elisabetta Dias của báo Time Magazine, Chúng con rất tò mò muốn biết: đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của ĐTC tại Hoa Kỳ. Cái gì tại Hoa Kỳ đã khiến cho ĐTC ngạc nhiên nhất, và có cái gì khác với các chờ mong của ĐTC hay không?

Đáp: Vâng, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi: tôi chưa bao giờ đến Hoa Kỳ. Điều khiến tôi ngạc nhiên đó là sự nồng ấm của dân chúng, họ thật là dễ thương: đây là một điều đẹp và cũng khác nữa. Tại Washington có một sự tiếp đón nồng nhiệt nhưng hơi hình thức một chút; tại New York thì một chút qúa mức, và tại Philadelphia thì rất rõ ràng. Ba cách thức khác nhau, nhưng cùng một sự tiếp đón. Tôi rất bị đánh động bởi lòng tốt, sự tiếp đón, và trong các lễ nghi tôn giáo bởi lòng đạo đức và sùng đạo. Người ta thấy là dân chúng cầu nguyện, và điều này đã đánh động tôi rất nhiều, nhiều lắm. Thật là đẹp!

ĐTC có nhận thấy một thách đố từ phía Hoà Kỳ mà ĐTC đã không chờ đợi không? Có vài khiêu khích nào không?

Đáp: Không. Cám ơn Chúa, không. Không. Không. Mọi sự đểu tốt đẹp. Không có khiêu khích nào. Mọi người đều rất có giáo dục, không có lời nguyền rủa nào, không có điều gì xấu xa. Không, Không. Nhưng chúng ta phải tiếp tục làm việc với dân tộc có đức tin này, như họ đã làm việc cho tới nay, đúng không? Bằng cách đồng hành với dân tộc trong tươi vui và trong những lúc khó khăn, khi không có việc làm, khi bị ốm đau… Thách đố của Giáo Hội – bây giờ thì tôi hiểu đúng – thách đố của Giáo Hội ngày nay là sống như Giáo Hội vẫn luôn luôn sống: gần gũi dân chúng, gần gũi nhân dân Hoa Kỳ. Chứ không phải một Giáo Hội cách biệt dân chúng. Không. Gần gũi, gần gũi. Và đây là một thách đố mà Giáo Hội Hoa Kỳ đã hiểu rõ, đã hiểu rõ và muốn làm.

** Cha Lombardi giới thiệu nhà báo thứ hai là anh David O’Reilly của báo “Philadelphia Inquirer” là một trong các nhật báo lớn của Philadelphia. Anh hỏi

– Thưa ĐTC, Philadelphia như ĐTC biết – đã trải qua một giai đoạn xấu với các vụ lạm dụng tính dục: nó còn là một vết thương mở. Con biết có nhiều người tại Philadelphia ngạc nhiên vì trong bài nói chuyện với các Giám Mục tại Washington ĐTC đã cống hiến cho các vị sự an ủi và củng cố. Con tin rằng tại Philadelphia người ta muốn hỏi: “Tại sao ĐTC lại đã cảm thấy cần phải củng cố và an ủi các Giám Mục như vậy?

 Đáp: Tại Washington tôi đã nói chuyện với tất cả các Giám Mục Hoa Kỳ. Đã có tất cả các Giám Mục toàn nước. Tôi đã cảm thấy cần bầy tỏ sự cảm thương, bởi vì đã xảy ra một điều hết sức xấu xa, và biết bao Giám Mục đã đau khổ, bởi vì các vị đã không biết điều này, và khi chuyện bùng nổ ra, các vị đã rất là đau khổ: là các người của Giáo Hội, của cầu nguyện và chủ chăn đích thực.. Và tôi đã nói bằng cách trích sách Khải Huyền rằng tôi biết các vị “đang đến từ một nỗi khổ tâm lớn lao”. Nhưng không phải chỉ là nỗi khổ đau tình cảm: đó là điều hôm nay tôi đã nói với các người đã bị lạm dụng. Nó đã là .. tôi không nói là “một việc chối đạo”, nhưng hầu như là một việc phạm thánh! Khi… nhưng chúng ta biết là các lạm dụng tính dục xảy ra khắp nơi: trong môi trường gia đình, trong môi trường hàng xóm, trong các trường học, trong các nơi tập thể thao thể dục, khắp nơi… Nhưng khi một linh mục phạm một lạm dụng như thế, thì là điều rất nặng, bởi vì ơn gọi linh mục là làm cho đứa bé trai bé gái đó lớn lên, hướng về Thiên  Chúa, hướng tới sự trưởng thành tình cảm, hướng tới sự thiện. Thay vì làm điều đó, thì vị linh mục lại đè bẹp nó, lại làm điều dữ. Chính vì vậy mà nó như là một sự phạm thánh. Và vị linh mục đó đã phản bội ơn gọi của mình, phản bội tiếng gọi của Chúa. Vì thế Giáo Hội mạnh tay trong lúc này: không được bao che, cả những người bao che cũng có lỗi trong các chuyện này. Cả vài Giám Mục đã che dấu điều này cũng có lỗi! Đây là một điều vô cùng xấu xa. Và các lời an ủi không phải để nói rằng: “Thôi, cư yên trí, không là gì đâu!”: không, không, không! Đã là điều đó, nhưng thật là một điều xấu xa biết bao nhiêu, và tôi tưởng tượng được  anh em đã khóc biết chừng nào”: các lời nói của tôi đã ở trong nghĩa đó. Và hôm nay tôi đã nói rất mạnh.

** Câu hỏi tiếp theo là của chị Maria Antonietta Collins

– Thưa ĐTC, ĐTC đã nói tới sự tha thứ, rằng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta và chúng ta thường là những người xin tha thứ. Con muốn hỏi ĐTC khi trông thấy ĐTC ở trong đại chủng viện, có rất nhiều linh mục đã phạm tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và đã không xin lỗi các nạn nhân của mình. ĐTC có tha thứ cho các vị ấy không? Và ĐTC hiểu, từ phiá bên kia, các nạn nhân và gia đình họ không tha thứ được hay không muốn tha thứ thì sao?

Đáp: Nếu một người đã hành động xấu, ý thức được điều mình đã làm và không xin lỗi, thì tôi xin Thiên Chúa giữ người đó trong sổ. Tôi tha thứ, nhưng người đó không nhận được sự tha thứ, họ bị đóng kín với ơn tha thứ rồi. Trao ban tha thứ là một chuyện, nhưng nhận được ơn tha thứ lại là chuyện khác. Và nếu vị linh mục đó đóng kín với ơn tha thứ, thì không nhận được sự tha thứ, bởi vì đã dùng khóa đóng cửa từ bên trong, và điều còn lại chỉ là cầu nguyện để Chúa mở cánh cửa đó ra. Cần phải sẵn sàng tha thứ, nhưng không phải tất cả mọi người đều nhận được nó, biết nhận nó, hay sẵn sàng nhận nó. Thật là nặng nề điều tôi đang nói.  Và điều này giải thích tại sao có người kết thúc cuộc sống mình một cách nặng nề, xấu xa, không nhận được một sự vuốt ve của Thiên  Chúa. Câu hỏi thứ hai đã là?

Đó là ĐTC có hiểu các nạn nhân và gia đình họ không thể tha thứ hay không muốn tha thứ cho tội lạm dụng đó hay không?

Đáp: Có, tôi hiểu họ, tôi cầu nguyện cho họ, và tôi không xét đoán họ. Tôi không xét đoán họ, tôi cầu nguyện cho họ. Có một lần trong các buổi họp này tôi đã gặp nhiều người khác nhau và có một bà đã hỏi tôi: “Khi mẹ chồng con, không đó đã bà…,  khi mẹ con biết là họ đã lạm dụng tính dục con, bà đã nguyền rủa Thiên Chúa, bà đã mất đức tin và đã chết như người vô thần”. Tôi hiểu người đàn bà ấy. Tôi hiểu bà ta. Và Thiên  Chúa còn tốt hơn tôi hiểu bà ấy. Tôi chắc chắn như vậy. Thiên  Chúa đã chấp nhận bà ấy. Bời vì cái đã bị rờ tới, cái đã bị tàn phá đã là chính thịt xác của bà, thịt xác của con gái bà. Tôi hiểu bà ấy. Tôi không xét đoán người nào đó không thể tha thứ. Tôi cầu nguyện và xin Thiên  Chúa, bởi vì Thiên Chúa là một người vô địch trong việc tìm một con đường hưóng tới giải pháp – tôi xin Ngài sửa nó. Xin lỗi tôi đang nói tiếng Tây Ban Nha…

Anh Andres Beltramo của hãng tin Notimex hỏi:

– Thưa ĐTC, tất cả chúng con đã nghe ĐTC nói nhiều về tiến trình hoà bình tại Colombia, giữa lực lượng FARC và chính quyền. Giờ đây đã có một thoả hiệp lịch sử. ĐTC có cảm thấy mình có một chút phần trong thỏa hiệp này không? Và ĐTC đã nói là sẽ đi Colombia, khi có được một thoả hiệp: bây giờ có nhiều người dân Colombia đang chờ đợi ĐTC… Và con có một câu hỏi nhỏ nữa: ĐTC cảm thấy gì sau một chuyến viếng thăm dầy đặc như vậy và giờ đây máy bay ra đi?

Đáp: Xin trả lời câu hỏi thứ nhất: khi tôi nhận được tin hồi tháng 3 là thỏa hiệp sẽ được ký kết, tôi đã thưa với Chúa: “Chúa ơi, xin cho chúng con tới tháng 3, và cho họ tới với ý hướng tốt đẹp này”, bởi vì còn thiếu các điều nhỏ nhặt, nhưng mà có ý chí. Từ cả hai phía. Có ý chí. Kể cả từ phía nhóm nhỏ có ý chí: cả ba lực lượng đều đồng ý. Chúng ta phải tới tháng ba, tới thoả hiệp vĩnh viễn. Đó đã là đích điểm của công lý quốc tế – như anh biết – Tôi đã vô cùng hài lòng. Và tôi đã cảm thấy mình là thành phần, trong nghĩa tôi đã luôn luôn muốn điều này, và tôi đã nói chuyện với tổng thống Santos về vấn đề này, và Tòa Thánh – chứ không phải chỉ có mình tôi – Toà Thánh rất cởi mở và trợ giúp như Toà Thánh có thể.

Câu hỏi thứ hai, nhưng điều này hơi cá nhân một chút, nhưng tôi phải thành thật. Khi máy bay rời phi trường sau chuyến viếng thăm của tôi, nhiều cái nhìn của biết bao người đến với tôi và tôi muốn cầu nguyện cho họ và thưa với Chúa: Con đã đến đây để làm một cái gì đó, đề làm điều lành. Có lẽ con đã làm điều dữ, xin tha lỗi cho con. Nhưng xin Chúa giữ gìn tất cả dân chúng đã nhìn con, dã nghĩ những điều con đã nói, đã nghe cả những lời chỉ trích con, tất cả mọi người… Tôi cảm nhận được điều đó . Tôi không biết. Nó đến như vậy. Nhưng xin lỗi nó hơi cá nhân một chút. Điều này không thể nói trên báo…

** Tiếp đến là anh Thomas Jansen của hãng tin công giáo Đức

– Thưa ĐTC, con muốn hỏi một điều liên quan tới cuộc khủng hoảng di cư vào Âu châu: nhiều nước đang xây dựng các hàng rào ngăn cách mới với kẽm gai. ĐTC nói gì về tiến triển này?

Đáp: Anh đã dùng từ “cuộc khủng hoảng”. Nó trở thành một tình trạng khủng hoảng sau một tiến trình dài. Điều này đã bùng nổ từ nhiều năm nay rồi, bởi vì các chiến cuộc khiến cho dân chúng phải ra đi, phải trốn chạy, là các cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm trời. Đói: cái đói đã là cái đói từ nhiều năm rồi… Nhưng khi tôi nghĩ tới Phi Châu – điều này hơi đơn sơ quá, nhưng tôi xin nói như thí dụ – tôi nghĩ Phi châu là lục địa bị khai thác bóc lột. Và giờ đây thay vì khai thác một lục địa hay một quốc gia hoặc một vùng đất, thì đầu tư để người dân có công ăn việc làm hầu tránh được cuộc khủng hoảng này. Đúng thế, có một cuộc khủng hoảng người tỵ nạn, như tôi đã nói tại Quốc Hội Mỹ, chưa từng thấy kể từ Đệ Nhị Thế Chiến tới nay. Nó là cuộc khủng hoảng lớn nhất. Liên quan tới các hàng rào, anh biết các bức tường kết thúc như thế nào. Mọi bức tường, mọi bức tường đều sụp đổ, hôm nay, ngày mai, trong 100 năm nữa. Nhưng chúng sẽ sụp đổ. Đó không phải là một giải pháp. Bức tường không phải là một giải pháp. Trong lúc này đây Âu châu gặp khó khăn: đúng thật như thế. Chúng ta phải thông minh, bởi vì có cả làn sóng di cư tràn tới và không dễ tìm ta các giái pháp. Nhưng với sự đối thoại giữa các quốc gia, cần phải tỉm ra giải pháp. Các bức tường không bao giờ là các giải pháp. Trái lại, các cây cầu thì luôn luôn là giải pháp. Luôn luôn. Tôi không biết, điều mà tôi nghĩ về các bức tường, các hàng rào … chúng kéo dài ít lâu, không lâu, nhưng chúng không phải là một giải pháp. Vấn đề còn đó, còn đó với nhiều thù hận hơn. Đó là điều tôi nghĩ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

Mother Teresa Calcuta

Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta (Agnes Gonxhe Bojaxhiu) chào đời ngày 26-8-1910 tại Skopje thuộc Cộng Hòa Macedonia trong một gia đình trung lưu người Albania đến từ Kosovo. Thời xuân trẻ, mẹ gia nhập dòng Đức Trinh Nữ MARIA cũng được gọi là dòng Các Nữ Tu Loreto bên Ái-nhĩ-lan với tên dòng là Mary Teresa. Mẹ được gởi đi truyền giáo bên Ấn Độ và đặt chân đến Calcutta ngày 6-1-1929. Tại đây mẹ vừa dạy học vừa làm hiệu trưởng một trường học. Trong khung cảnh đói khổ của người dân Ấn, năm 1946, mẹ dấn thân làm việc tông đồ giữa người nghèo tại Calcutta và năm 1948 mẹ thành lập hội dòng Nữ Thừa Sai Bác Ái. 15 năm sau, ngành nam của hội dòng chào đời với tên Tu Huynh Thừa Sai Bác Ái. Năm 1979 mẹ nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình và qua đời ngày 5-9-1997 tại Calcutta. Mẹ được Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

 Sau đây xin giới thiệu chứng từ của Đức Hồng Y Angelo Comastri, Quản Đốc đền thờ Thánh Phêrô, về Chân Phước mẹ Têrêxa Calcutta.

 Từ lúc còn trẻ, tôi có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêxa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

 – Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

 – Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Mẹ Têrêxa liền nắm chặt hai bàn tay tôi rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

 – Con à, nếu không có THIÊN CHÚA hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà THIÊN CHÚA đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!

 Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó. Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa .. Năm 1979, mẹ Têrêxa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay THIÊN CHÚA. Mẹ Têrêxa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi. Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn. Biết rõ thế nên không ai nỡ trách sao mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!

 Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Têrêxa Calcutta dừng lại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các Nữ Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêxa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:

 – Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?

 Mẹ Têrêxa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

 – Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu THIÊN CHÚA. Thế thôi!!! Anh cho là quá ít sao???

 Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng .. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêxa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

 – Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?

 – Dạ rồi! chàng ký giả đáp.

 – Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con cái chưa?

 – Thưa mẹ, ba đứa!

 – Tốt lắm! Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!

 Năm 1988 mẹ Têrêxa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma. Năm ấy tôi là Cha Sở của họ đạo.

 Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ. Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ MARIA. Bầu trời trong xanh. Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười. Mẹ Têrêxa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:

 – Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp. Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp!

 Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau. Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Têrêxa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Têrêxa nói:

 – Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!

 Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

 – Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!

 Nhưng mẹ Têrêxa quyết liệt trả lời:

 – Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!

 Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:

 – Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!

 Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Têrêxa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa.

 Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái. Mẹ giải thích:

 – Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu. Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU! Những con tim thật trong sạch!

 Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Têrêxa đến đảo Isola d'Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện. Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo .. Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:

 – Thưa Cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con. Con có cảm tưởng chính THIÊN CHÚA đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này!

 Quay sang mẹ Têrêxa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói. Mẹ Têrêxa nhẹ nhàng đáp:

 – Xin Cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, THIÊN CHÚA vẫn nhìn ông. Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài! THIÊN CHÚA lÀ TÌNH YÊU!

 Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Têrêxa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Têrêxa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 … Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán cùng các môn đệ rằng: ”Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: ”Hãy đến, hỡi những kẻ CHA Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn, Ta khát, các con đã cho uống, Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước, Ta mình trần, các con đã cho mặc, Ta đau yếu, các con đã viếng thăm. Ta bị tù đày, các con đã đến với Ta”. Khi ấy, người lành đáp lại rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng thăm Chúa đâu?” Vua đáp lại: ”Quả thật, Ta bảo các con: những gì các con đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Matthêu 25,31-40).

 (”Tertium Millennium”, Agenzia d'Informazione, n.3, Settembre/1997, trang 3-4).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các tín hữu Kitô hiệp nhất

Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các tín hữu Kitô hiệp nhất

ĐTC cầu nguyện cho các tín hữu hiệp nhất

VATICAN. ĐTC Phanxicô cầu xin Chúa ban cho tất cả các tín hữu Kitô thành tâm tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn và cộng tác phục vụ nhân loại.

Lập trường của ĐTC được bày tỏ trong điện văn của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhân danh ngài gửi đến Công nghị của Giáo Hội tin lành Valdese-Methodiste Italia, nhóm họp tại Tore Pellice thuộc thành phố Torino từ 23 đến 28-8-2015.

ĐHY Parolin cho biết ”ĐTC nồng nhiệt chào mừng các tham dự viên Công nghị và, như một dấu chỉ sự gần gũi tinh thần ngài sốt sắng cầu xin Chúa ban cho mọi Kitô hữu thành tâm tiến bước tiến về sự hiệp thông trọn vẹn, để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngừơi, cộng tác phục vụ nhân loại, đặc biệt là bảo vệ phẩm giá con người, thăng tiến công lý và hòa bình, và cùng nhau mang lại những câu trả lời chung đang làm cho dân chúng đau khổ, nhất là những ngừơi nghèo và yếu thế nhất”.

Ngày 21-6 năm nay, trong khuôn khổ chuyến viếng thăm tại Torino, bắc Italia, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm Đền thờ Tin Lành Valdese cũng tại thành phố này. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một vị Giáo Hoàng đến thăm và gặp gỡ cộng đoàn Tin Lành bé nhỏ này, với 30 ngàn tín hữu toàn quốc, hợp chung với Giáo Hội Tin Lành Methodist. (SD 24-8-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tìm đến với Chúa Giêsu

Tìm đến với Chúa Giêsu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm 1942, đưa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: ‘Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều có thể cho được’. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các phép lạ”.

Anh chị em thân mến,

Những dòng nhật ký trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu. Họ đến do nhiều động lực khác nhau thúc đẩy: vì tò mò, hiếu kỳ, vì mốn được xem phép lạ, hoặc để được phép lạ, nếu là những bệnh nhân. Nhưng chắc chắn không ít người đến với Chúa Giêsu vì muốn nghe Ngài giảng dạy, vì đói khát chân lý Tin Mừng. Và Chúa Giêsu muốn đáp ứng trước tiên nhu cầu này của họ, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Nhiều lần trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một chương trình, bỏ một dự tính, để dừng lại bên một đám tang, bên một bệnh nhân, bên một bờ giếng… Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thời giờ thích thú nghe các Tông Đồ báo cáo kết quả chuyến đi truyền giáo. Ngài có thể dẫn các Tông Đồ đi đến một nơi riêng không bị ai quấy rầy, để nghỉ ngơi. Nhưng Ngài đã huỷ bỏ cuộc nghỉ để trước hết đáp ứng cơn đói khát của dân chúng. “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”.

Thật vậy, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều. Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thuỷ múa máy cây đũa thần của mình. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loé mắt thiên hạ. Phép lạ dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ nhập thể làm người và sống thân phận con người.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Đây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa cũng biết thế nào là đau khổ, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.

Chiêm ngắm một Thiên Chuá như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Cộng Đồng Vatican II trong Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” đã nói: “Chỉ trong ánh sáng của màu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ”. Con người bởi đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? Chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn biết phải sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.

Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống của con người. Con người sống không chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí mà thôi. Trên thế giới có lẽ ít người tự tử vì nghèo đói hơn là vì không tìm ra ý nghĩa cuộc đời: Tại sao mình phải sống? Chết rồi sẽ ra sao?… Nói cách khác, cái túng thiếu, quẫn bách, nghèo đói, chưa phải là động lực cuối cùng xô đẩy người ta liều mạng sống cho bằng vì người ta cảm thấy không tìm ra giá trị nào cho cuộc đời của mình: cuộc đời phi lý, vô nghĩa, không đáng sống! Chúa Kitô giảng dạy cho chúng ta biết rõ đích điểm của cuộc đời mình và biết đường đi đến đích. Con người không được Lời Chúa hưỡng dẫn sẽ giống như đàn vật bơ vơ lạc lõng, không biết đời mình sẽ đi về đâu? Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo Hội đã nhận thấy điều đó, đặc biệt trong thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường, mất hướng. Giáo Hội phải rao giảng Lời Chúa, đem chân lý đến cho loài người, như Chúa Giêsu giảng dạy cho đám đông dân chúng đi theo Ngài: “Ngài đã giảng dạy cho họ nhiều điều”.

Thưa anh chị em, ngày nay, đứng trước hàng tỷ, hàng triệu con người sống nhung nhúc ở những lục địa Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu hoặc trước hoàn cảnh của các Kitô hữu không có chủ chăn, lời Chúa đã thốt ra cách đây gần 2000 năm vẫn là vấn đề thời sự: “Ta chạnh lòng xót thương đám đông dân chúng, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”. Vì thế, Giáo Hội hôm nay nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng, đều có sứ mạng đem Lời Chúa và giúp người khác thực thi Lời Chúa, đó là cách Giáo Hội đóng góp cho con người, cho công cuộc xây dựng thế giới loài người. Lời Chúa không thể nào dung tha những gian dối, bất công, hận thù, chia rẽ, ích kỷ. Lời Chúa đòi người ta phải sống cho sự thật, phải tranh đấu cho công bình, phải mở rộng vòng tay đón nhân anh em, làm cho mọi người được sống hạnh phúc.

Là Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn chăm sóc chúng ta. Ngài tập họp chúng ta xung quanh Ngài để nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bằng Bánh ban sự sống. Hãy tìm đến với Ngài để lãnh nhận nguồn sinh lực mới. Tìm đến với Ngài, chúng ta sẽ tìm gặp anh em cùng với Ngài: không thể tránh né anh em để chỉ tìm một mình Ngài. Tập họp chung quanh Ngài, chúng ta cùng cộng tác với Ngài để chiến đấu với tội ác, ích kỷ, bất công, hận thù, để cho Tin Mừng cứu độ giải thoát loài người.

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Pope answer on the plane when come back to Rome

Chiều Chúa Nhật 12-7 vừa qua trên chuyến bay từ Paraquay về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài, liên quan tới chuyến viếng thăm tại ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay, cũng như liên quan tới một vài vấn đề thời sự như cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cuộc đối thoại giữa Cuba và Hoa Kỳ, tình hình Colombia và Venenezuela vv…

Say đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn. Bốn câu đầu ĐTC đã trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, các câu sau bằng tiếng Ý.

Nhà báo Anibal Velazquez của nhật báo ABC Color Paraguay hỏi: thưa ĐTC, dân chúng vui mừng vì ĐTC đã nâng đền thánh Caacupé lên hàng Vương cung thánh đường, nhưng họ tự hỏi Paraguay có tội gì mà chưa có Hồng Y?

Đáp: Không có Hồng Y không phải là một tội. Đa số các nước trên thế giới không có Hồng Y. Quốc tịch của các HY là thiểu số. Đúng thật là cho tới nay Paraguay chưa có HY nào. Tôi không biết lý do. Đôi khi để chọn các HY người ta cân nhắc, đọc và nghiên cứu các hồ sơ của từng vị, xem xét con người, nhất là đặc sủng của HY sẽ được chọn để cố vấn cho ĐGH và trợ giúp Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ. HY tuy thuộc về một Giáo Hội địa phương nhưng được gia nhập vào Giáo Hội Roma và có một cái nhìn đại đồng. Điều này không có nghĩa là tại Paraguay không có các Giám Mục có quan điểm vũ hoàn. Nhưng lý do vì không thể chỉ định qúa 120 HY có quyền bầu Giáo Hoàng. Uruguay đã có hai vị. Một vài nước Trung Mỹ cũng đã có HY, nhưng tất cả tuỳ thuộc các hoàn cảnh, con người và đặc sủng. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là các Giám Mục Paraguay không có giá trị gì. Paraguay có các Giám Mục thiên tài. Tôi nhớ là có hai Giám Mục Bogarin đã làm nên lịch sử Paraguay. Nếu nhìn vào Giáo Hội Paraguay thì Paraguay đáng có hai HY, nhưng nó không liên quan gì tới công nghiệp. Paraguay là một Giáo Hội sống động, tươi vui, một Giáo Hội chiến đấu và có một lịch sử vinh quang.

Hai chị Priscilla Quiroga của đài truyền hình Kênh A và chị Cecillia Dorado Nava của nhật báo El Deber Bolivia thì hỏi: xin ĐTC cho biết ý kiến liên quan tới ước muốn  của Bolovia trong cuộc thương thuyết với Chile để có lối ra Thái Bình Dương. Trong trường hợp hai nước xin Tòa Thánh làm trung gian ĐTC có nhận không?

Đáp: Làm trung gian là một việc rất tế nhị và như là bước cuối cùng. Cũng như trong trường hợp giữa Argentina và Chile để tránh một cuộc chiến. Tình hình đã rất là căng thẳng nên Tòa Thánh đã dấn thân, vì thế Thánh Gioan Phaolô II đã luôn chú ý, ngoài ra có thiện chí của cả hai nước muốn thương thuyết. Có điều lạ, ít nhất là bên Argentina có một nhóm không muốn sự trung gian này, và khi tổng thống Alfonsin tổ chức trưng cầu dân ý có muốn chấp nhận đề nghị trung gian không, thì đương nhiên đa số dân nói là có, nhưng có một nhóm không muốn. Luôn luôn khi có vấn đề trung gian, thì khó có chuyện toàn dân đều đồng ý. Nhưng việc làm trung gian là bước cuối cùng, vì luôn luôn có các gương mặt ngoại giao và các người tạo thuận tiện khác trợ giúp giàn xếp vấn đề.

Trong lúc này thì tôi cho rằng phải rất tôn trọng để cho Bolivia đưa vấn đề ra một toà án quôc tế. Vì vậy, nếu tôi bình luận trong lúc này – tôi là thủ lãnh của một quốc gia – nó sẽ có thể bị giải thích như là xen mình vào hay gây áp lực hoặc gì khác. Tôi cho rằng cần tôn trọng quyết định của nhân dân Bolivia. Và cũng cần xem trước đây đã có các yêu cầu đối thoại hay chưa. Tôi không rõ. Điều tôi biết đó là vào thời tổng thống Lagos của Chile, tôi không nhớ rõ thời gian chính xác, người ta đã tìm một giải pháp. Đây là bình luận mà ĐHY Errazuris nói với tôi. Do đó, tôi không muốn nói gì về điều này cả.

Điểm thứ ba mà tôi muốn thừa nhận rõ ràng. Đó là trong nhà thờ chính tòa Bolivia tôi đã đề cập đến một vấn đề rất tế nhị, khi chú ý tới tình hình cậy nhờ toà án quốc tế. Tôi nhớ rõ mình đã nói: “Là anh em thì cần đối thoại, các dân tộc mỹ latinh cần đối thoại để tạo dựng quốc gia lớn, đối thoại cần thiết” Tới đó tôi thinh lặng rồi nói “Tôi nghĩ tới biển”, và tiếp tục nói: “đối thoại và đối thoại”. Tôi tin rằng sự can thiệp của tôi nhắc tới vấn đề này, nhưng tôn trọng tình hình hiện nay. Vì trong một tòa án quốc tế thì không thể nói tới việc làm trung gian, cũng như tạo thuận tiện, mà chỉ hy vọng thôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, như thế ước vọng của nhân dân Bolivia có chính đáng không?

Đáp: Luôn luôn có một nền tảng công lý, khi có việc thay đổi ranh giới, và nhất là sau một cuộc chiến. Cần phải liên tục xem xét lại. Tôi sẽ nói rằng việc đề nghị một chuyện thuộc loại này, ước vọng này không phải là không chính đáng. Tôi nhớ là hồi năm 1961, khi đang học triết học năm thứ nhất, chúng tôi nhận được một tài liệu về Bolivia do một cha từ Bolivia đem sang, tôi tin nó có đề tựa là “Mười ngôi sao”. Cha hỏi: “Bolivia có mấy vùng?” Chúng tôi trả lời là có 9 vùng. Cha trả lời “có 10 vùng”, rồi giới thiệu từng vùng một ,và sau cùng là vùng thứ 10 cha nhìn biển và không nói lời nào cả. Tôi rất xúc động. Đó là hồi năm 1961. Nếu người ta thấy là có một khát vọng, thì rõ ràng rồi, sau một trận chiến loại này dấy lên các mất mát, thì tôi tin điều quan trọng nhất là đối thoại, là thương thuyết lành mạnh. Giờ đây trong lúc này việc đối thoại có được là chạy tới tòa án La Haye.

Ông Fredy Paredes, thuộc nhật báo Teleamazonas Ecuador hỏi: Thưa ĐTC, trước chuyến viếng thăm của ĐTC nưóc Ecuador náo loạn, sau khi ĐTC rời nước này, những người chống đối chính quyền lại xuống đường biểu tình. Xem ra sự hiện diện của ĐTC tại Ecuador bị sử dụng cho mục đích chính trị đặc biệt câu ĐTC nói: “Nhân dân Ecuador đã đứng lên với phẩm giá”. Con xin hỏi ĐTC theo thứ tự nếu được: “Câu này trả lời cho cái gì? ĐTC có thiệm cảm với dự án chính trị của tổng thống Correa không? ĐTC có tin rằng các lời nhắn nhủ chung mà ĐTC đã đưa ra trong chuyến viếng thăm tại Ecuador nhằm khích lệ sự tăng trưởng, đối thoại, xây dựng dân chủ và không tiếp tục đường lối chính trị gạt bỏ như ĐTC nói, có được thực thi tại Ecuador hay không?

Đáp: Đương nhiên là có các vấn đề chính trị và các cuộc biểu tình. Điều này thì người ta biết rồi. Tôi không biết các khó khăn của nền chính trị tại Ecuador, nên việc đưa ra một ý kiến từ phía tôi sẽ là điều vô nghĩa. Thế rồi người ta nói với tôi,  như một dấu ngoặc trong chuyến viếng thăm của tôi, là tôn trọng chuyến viếng thăm của ĐGH, đó là diều tôi xin cám ơn và trân trọng. Giờ đây các sự vật biến chuyển, và đương nhiên là các vấn đề và các thảo luận chính trị tiếp diễn. Liên quan tới câu nói mà anh đề cập đến, tôi có ý ám chỉ ý thức lớn hơn mà người dân Ecuador có đối với giá trị của họ. Một trận chiến biên giới với Peru không làm được nhiều. Có các lịch sử chiến tranh. Rồi có một ý thức lớn hơn đối với sự khác biệt và phong phú chủng tộc của Ecuador. Và diều này trao ban phẩm giá. Ecuador không phải là một nước bị gạt bỏ. Nó quy chiếu toàn dân và tất cả phẩm giá của dân tộc này, sau cuộc chiến biên giới, họ đã đứng lên với phẩm giá, và đã có ý thức hơn về phẩm giá và sự phong phú của sự hiệp nhất trong khác biệt của mình. Không thể gán cho một tình hình cụ thể, bởi vì cũng chính câu này – người ta bình luận, nhưng tôi không thấy như thế – bị lèo lái để giải thích cả hai tình trạng: chính quyền đã đứng lên tại Ecuador hay những người chống chính quyền đã dứng lên. Một câu nói có thể bị lèo lái, và vì thế tôi tin là cần rất thận trọng. Tôi xin cám ơn câu hỏi cuả anh, bởi vì đó là một kiểu cẩn thận. Và anh đang nêu gương cẩn thận đấy.

Nếu anh chị em cho phép. Việc giải thích một văn bản thật rất quan trọng trong công việc của anh chị em. Không  thể giải thích nó chỉ với một câu. Có những câu là chià khóa  của việc giải thích, và có những câu không là chìa khóa nhưng là những câu qua đi, hay linh động. Vì vậy, cần xem xét hết bối cảnh, tình hình và lịch sử. Nhìn lịch sử của lúc này, hay chúng ta đang nói tới qúa khứ, giải thích một sự kiện quá khứ với kiểu giải thích của thời đó. Chẳng hạn như các cuộc chiến của thập tự quân cần phải giải thích chúng với kiểu giải thích của thời bấy giờ. Điều nòng cốt là giải thích một diễn văn, hay bất cứ bản văn nào, với một loại giải thích toàn vẹn, chứ không cô lập.

Chị Stefania Falasca của nhật báo Avvenire của Italia hỏi: Thưa ĐTC, trong bài nói chuyện với các Phong trào bình dân tại Bolivia ĐTC  đã đề cập tới phong trào tân thực dân và việc tôn thờ thần tiền khống chế nền kinh tế và áp đặt các chính sách thắt lưng buộc bụng luôn luôn thiệt thòi cho dân nghèo. Từ nhiều tuần nay bên Âu châu chúng ta có trường hợp của Hy Lạp và số phận của nước này có nguy cơ ra khỏi khối Euro. ĐTC nghĩ gì về những điều đang xảy ra tại Hy Lạp và cũng liên quan tới Âu châu?

Đáp: Trước hết bởi vì sự can thiệp này cuả tôi trong đại hội của các Phong trào bình dân là lần can thiệp thứ hai. Lần thứ nhất là tại Vaticăng trong phong họp cũ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, hồi đó có 120 tham dự viên. Cuộc hội này đã do Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình tổ chức. Tôi gần gũi với nó, bởi vì nó là một hiện tượng trên toàn thế giới. Kể cả bên Đông phương, bên Philippines, Ấn Độ, Thái Lan. Chúng là các phong trào được tổ chức giữa chúng, không phải chỉ để phản đối mà để tiến tới và có thể sống. Và chúng là các phong trào có sức mạnh, và các anh chị em này đông biết bao. Họ không cảm thấy được đại diên bởi các nghiệp đoàn, vì họ nói rằng các nghiệp đoàn ngày nay là một nghiệp hội, không tranh đấu nữa – tôi đang đơn giản hóa một chút – nhưng ý tưởng của biết bao nhiêu người của các anh chị em này đó là các nghiệp đoàn không tranh đấu cho các quyền lợi của người nghèo. Và Giáo Hội không thể thờ ơ. Giáo Hội có một Giáo lý xã hội  và đối thoại với phong trào này và đối thoại tốt. Anh chị em đã thấy lòng hăng hái cảm nhận được rằng Giáo Hội không xa cách chúng ta, Giáo Hội có một giáo lý giúp chúng ta tranh đấu cho điều này. Đó là một cuộc đối thoại. Không phải Giáo Hội lựa chọn con đường vô chính phủ. Không. Họ không vô chính phủ. Họ là những người làm việc, tìm làm biết bao công việc, kể cả với  những gì bị vứt bỏ, những gì thừa thãi. Họ  thực sụ là các công nhân. Đó là tầm quan trọng của sự kiện này.

Liên quan tới Hy Lạp và hệ thống quốc tế: tôi rất dị ứng với kinh tế, bởi vì cha tôi đã là một kế toán viên và khi không làm xong việc ở sở, thì người đem về nhà làm, cả ngày thứ bẩy và Chúa Nhật, với các sách thời đó, viết theo kiểu chữ gô tích, và người làm việc… và tôi trông thấy cha tôi như vậy, và tôi dị ứng. Tôi không hiều rõ sự việc  ra sao, nhưng chắc chắn sẽ đơn sơ khi nói rằng lỗi chỉ là tại phần này. Các chính quyền Hy Lạp đã đưa tình trạng nợ nần quốc tế tới diểm này cũng có phần trách nhiệm của họ. Với chính quyền mới người ta đã đi tới một việc duyệt xét hơi đúng. Tôi cầu mong và đây là điều duy nhất tôi có thể nói với chị, vì tôi không biết  rõ… tôi cầu mong họ tìm ra một con đường dể giải quyết vấn đề Hy Lạp, và cả một con đường để giám sát không để xảy ra vấn đề này trong các nước khác; và ước gì điều này giúp chúng ta tiến tới, bởi vì con đường vay mượn và nợ nần sau cùng không bao giờ tận. Người ta đã nói với tôi cách đây một năm rằng Liên Hiệp Quốc có một chương trình (nếu ai trong anh chị em biết thì xin giải thích ), một chương trình theo đó một quốc gia có thể tuyên bố mình vỡ nợ, không phải là tình trạng default, nhưng một chương trình tôi đã nghe và không biết nó đã đi tới đâu rồi, và có thật hay không. Tôi nói thể để minh giải thôi, nếu một hãng xưởng có thể tuyên bố mình vợ nợ, thì tại sao một nước lại không thể làm như thế, và đi tới sự trợ giúp của các nước khác? Đó đã là các nền tảng của dự án, nhưng tôi không thể nói thêm gì khác.

Liên quan tới các tân thực dân: đương nhiên là chúng liên quan tới mọi giá trị rồi. Thực dân của chủ thuyết tiêu htụ. Chiếc áo của huynh hướng tiêu thụ đã là một tiến bộ của thực dân. Vì nó đưa tới cho bạn một thói quen không phải là của bạn, và nó cũng khiến cho bạn mất thăng bằng. Chủ thuyết tiêu thụ cũng khiến cho nền kinh tế bên trong một nước mất thăng bằng, cả công lý xã hội và sức khoẻ thể lý và tâm thần cũng mất thăng bằng. Đó là một thí dụ thôi.

Chị Anna Matranga, phóng viên của đài trruyền hình CBS hỏi: Thưa ĐTC một trong các sứ điệp mạnh mẽ nhất của chuyến công du này đó là hệ thống kinh tế toàn cầu thường áp đặt tâm thức của lợi nhuận bằng mọi giá, gây thiệt hai cho dân nghèo. Điều này bị dân Mỹ coi như là lời chỉ trích trực tiếp hệ thống kinh tế và kiểu sống của họ. ĐTC trả lời thế nào cho nhận thức này? Và đâu là lượng định của ĐTC đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên  thế giới?

Đáp: Điều tôi đã nói, câu nói ấy không mới mẻ. Tôi đã nói trong Thông điệp Niềm Vui Phúc Âm: “nền kinh tế này giết chết”. Tôi nhớ rõ câu này. Có một bối cảnh. Và tôi cũng nói trong Thông điệp “Laudato si’ “, việc chỉ trích không phải là một điều mới lạ, người ta biết đó. Tôi đã nghe rằng bên Hoa Kỳ đã có vài lời chỉ trích. Tôi đã nghe, nhưng tôi chưa đọc và nghiên cứu để rồi đối thoại. Chị sẽ hỏi  tôi nghĩ gì, nhưng nếu tôi chưa đối thoại với những người đã chỉ trích, thì tôi không có quyền đưa ra một tư tưởng, cô lập khỏi cuộc đối thoại.

Hỏi: Thưa ĐTC giờ đây ĐTC sẽ sang Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ mình sẽ được tiếp đón như thế nào không, ĐTC có ý tưởng nào về quốc gia này không?

Đáp: Không, bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu, bởi vì cho tới nay tôi đã nghiên cứu ba nước rất xinh đẹp mới viếng thăm này, chúng là một sự phong phú và là một vẻ đẹp. Bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu nước Cuba, vì tôi sẽ viếng thăm trong hai ngày rưỡi, rồi Hoa Kỳ, ba thành phố miền Đông – vì tôi không thể đi đến miền Tây – là Whasington, New York và Philadelphia, tôi phải bắt đầu nghiên cứu các chỉ trích này rồi đối thoại một chút.

Chị Aura Vistas Miguel hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã cảm thấy gì khi trông thấy cây thánh giá hình búa liềm và Chúa Kitô trên đó, do tổng thống Morales dâng tặng? Và cây Thánh Giá ấy đâu rồi?

Đáp: Thật là lạ, tôi không biết điều này và tôi cũng không biết là cha Espinal đã là một nhà điêu khắc và cũng là thi sĩ. Tôi mới chỉ biết trong các ngày này thôi. Tôi đã thấy cây thánh giá, và đối với tôi nó đã là một ngạc nhiên. Điều thứ hai, có thể coi nó như loại nghệ thuật phản đối. Chẳng hạn tại Buenos Aires, cách đây vài năm, đã có một cuộc triển lãm của một điêu khắc gia rất giỏi, có óc sáng tạo, người Argentina. Bây giờ ông ta chết rồi. Nó đã là nghệ thuật phản kháng, và tôi nhớ có một tác phẩm là “Chúa Kitô bị đóng đanh trên một máy bay bỏ bom đang lao đầu xuống”. Đó đã là một chỉ trích chống lại Kitô giáo liên minh với chế độ tư bản là máy bay bỏ bom. Như thế, điểm thứ nhất tôi đã không biết, điểm thứ hai tôi định tính nó như là nghệ thuật phản kháng, trong một vài trường hợp có thể gây xúc phạm. Thứ ba, trong trường hợp cụ thể ở đây Cha Espinal thuộc loại này. Điều này thì tôi biết, vì hồi đó tôi là phân khoa trưởng phân khoa thần học, và người ta đã nói nhiều tới chuyện này, tới các khuynh hướng khác nhau và ai là các người đại diện. Trong cùng năm ấy Cha Bề Trên tổng quyền dòng Tên Arrupe đã viết một bức thư cho toàn dòng liên quan tới việc phân tích  thực tại thần học theo khuynh hướng mác xít, và khẳng định rằng làm như thế là không được. Chúng là các điều khác nhau, làm như thế là không được và không đúng đắn. Và bốn năm sau, năm 1984 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tập sách nhỏ đầu tiên chỉ trích điều này, đó là tuyên bố đầu tiên về nền thần học giải phóng. Rồi đến tập thứ hai mở ra các viễn tượng có tính chất kitô hơn. Tôi đang đơn giản hoá một chút có phải thế không ạ? Chúng ta hãy giải thích thời đó Espinal đã là một người hứng khởi đối với phân tích này của thực tại mác xít, cũng như của thực tại thần học, bằng cách dùng chủ thuyết mác xít. Tác phẩm này phát xuất từ đó. Cả các bài thơ của cha Espinal cũng thuộc loại phản kháng này, nhưng đó đã là cuộc sống, tư tưởng của cha, cha đã là một người đặc biệt, với biết bao nhiêu tài năng thiên phú, và cha tranh đấu trong ý hướng ngay lành. Tôi đã phải giải thích như thế và nói với anh chị em để đừng có các ý kiến sai lầm. Cây thánh giá ấy giờ đây tôi mang theo với tôi, đi với tôi. Có lẽ chị đã nghe biết là tổng thống Morales đã muốn trao tặng tôi hai huân chương, huân chương quan trọng nhất nước Bolivia và huân chương kia thuộc Hội  cha Espinal, một hội mới. Tôi  đã không bao giờ nhận một huân chương, nó không thích hợp với tôi. Nhưng tổng thống đã làm điều này với tất cả thiện chí với ưóc mong khiến cho tôi hài lòng. Và tôi nghĩ rằng chúng đến từ nhân dân Bolivia. Tôi đã cầu nguyện trên  các huân chương ấy, và tôi đã nghĩ, nếu tôi đem về Vaticăng, thì chúng sẽ nằm trong một viện bảo tàng, và sẽ không có ai trông thấy. Do đó tôi đã nghĩ để chúng lại cho Đức Bà Copacabana, là Mẹ của dân nước Bolivia. Chúng sẽ được đem đến đền thánh Đức Mẹ Copacabana, tôi đã giao hai huân chương ấy rồi. Trái lại Chúa Kitô thì tôi đem theo với tôi.

Chị Anaiis Feuga hỏi: Thưa ĐTC, trong thánh lễ tại Guayaquil ĐTC đã nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục phải làm chín mùi một sự phân định để tìm ra các giải pháp cụ thể cho các khó khăn của gia đình. Rồi ĐTC đã xin tín hữu cầu nguyện cho những gì đối với chúng ta xem ra là ô uế, gây gương mù gương xấu, hay khiến cho chúng ta sợ hãi, để Thiên Chúa có thể biến đổi thành phép lạ. Xin ĐTC xác định đâu là các tình trạng ô uế hay gây hoảng sợ hoăc gây gương mù gưong xấu mà ĐTC muốn ám chỉ.?

Đáp: Ở đây nữa tôi cũng sẽ giải thích bối cảnh văn bản. Tôi đã nói tới phép lạ rượu ngon, và tôi nói rằng các vại nước đầy, nhưng là để cho việc thanh tẩy. Mỗi người vào dự lễ cưới đều thanh tẩy và để các dơ nhớp tinh thần của mình ở ngoài. Đó là lễ nghi thanh tẩy trưóc khi vào một nhà nào hay vào đền thờ. Một lễ nghi mà bây giờ chúng  ta có trong nước thánh: nó là phần còn lại của lễ nghi do thái xưa kia. Tôi đã nói rằng chính Chúa Giêsu đã làm ra rượu ngon nhất với nước để rửa các nhơ nhớp, rửa cái tồi tệ nhất. Nói chung chung, tôi đã nghĩ tới việc chú giải này: gia đình bị khủng hoảng – chúng ta tất cả đều biết – chỉ cần đọc tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình mà anh chị em biết đó, vì nó đã được trình bầy trong đó rồi. Chúng tôi đã ám chỉ tất cả những điều ấy: ước chi Chúa thanh tẩy chúng ta khỏi cuộc khủng hoảng này, khỏi biết bao nhiêu điều được miêu tả trong Tài liệu làm việc. Nó là một điều chung chung, chứ tôi đã không nghĩ đến một điểm đặc biệt nào. Xin Chúa khiến cho chúng ta trở nên tốt lành hơn, cho gia đình của chúng ta trưởng thành và tốt lành hơn. Gia đình đang gặp khủng hoảng, xin Chúa thanh tẩy chúng ta và chúng ta tiến tới. Nhưng các điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này thì ở trong Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà anh chị em có.

Anh Javier Martinez Brocal của hãng thông tin  Romereports hỏi: Thưa ĐTC, xin cám ơn ĐTC vì cuộc đối thoại giúp cá nhân chúng con cũng như công việc của chúng con. Con hỏi thay mặt tất cả các nhà báo nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta đã thấy việc trung gian giữa Cuba và Hoa Kỳ xuôi chảy. ĐTC có nghĩ là có thể làm điều gì đó giống như thế trong các tình hình tế nhị khác của Châu Mỹ Latinh hay không, con nghĩ tời Venezuela và cả Colombia nữa? Rồi con có một tò mò: con nghĩ tới cha con ít hơn ĐTC vài tuổi, nhưng chỉ có phân nửa năng lực của ĐTC thôi. Chúng con đã trông thấy năng lực ấy của ĐTC trong chuyến viếng thăm này, và từ hai năm rưỡi nay. ĐTC có bí quyết nào vậy?

Đáp: Đâu là loại “ma tuý” ĐTC dùng, anh ấy muốn hỏi vậy ấy mà.  Đó đã là câu hỏi.

Tiến trình giữa Cuba và Hoa Kỳ đã không có sự trung gian nào. Nó đã không có tính cách trung gian. Đã có ước muốn từ hai phía. Và tôi xin nói thật, điều này đã xảy ra hồi tháng giêng năm ngoái và ba tháng trôi qua trong đó tôi đã chỉ cầu nguyện cho việc này thôi, tôi đã không quyết định gì: mà có thể làm gì cho hai nước này sau 50 năm họ ở trong tình trạng như thế? Nhưng Chúa đã làm cho tôi nghĩ tới một Hồng Y. Ngài đã qua đó, đã nói chuyện, rồi tôi cũng đâu có biết gì đâu, rồi một hôm ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, cũng hiện diện ở đây, đến nói vơi tôi: Ngày mai chúng con có cuộc họp với hai phái đoàn… “Mà làm sao?” “Vâng họ nói chuyện với nhau giữa hai nhóm và họ đang làm điều đó”. Nó đã chạy một mình, đã không có việc làm trung gian. Đó đã là thiện chí của hai nước: công lao là của họ, chính họ đã làm điều này. Chúng tôi hầu như đã không làm gì cả, chỉ làm các điều bé nhỏ thôi, và giữa tháng 12 thì tin được loan ra. Câu chuyện là như thế, thực sự không có gì khác nữa. Điểu tôi lo lắng là trong lúc này đây tiến trình hòa bình đừng ngưng lại, và trong nghĩa này chúng tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ, trong biết bao cách thế. Nhưng sẽ là điều xấu, nếu câu chuyện không tiến tới. Bên Venezuela HĐGM làm việc để đem lại một chút hòa bình, nhưng ở đây cũng thế đã không có việc làm trung gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ đó đã là do Chúa và hai việc tình cờ, rồi nó tiến tới một mình. Đối với Colombia tôi cầu mong và cầu nguyện,  và chúng ta phải cầu nguyện để tiến trình này đừng dừng lại. Nó là một tiến trình đã kéo dài hơn 50 năm nay rồi, và đã có biết bao nhiêu người chết! Tôi nghe nói là có hàng triệu. Liên quan tới Venzuela tôi không có gì để nói.

Ah còn chuyện “ma tuý”. Nhưng mà chỉ có trà mate giúp tôi thôi, tôi đã không nếm coca. Điều này rõ rồi chứ?

Anh Ludwig Ring-Eifel thuộc hãng thông tấn KNA của Đức hỏi: Thưa ĐTC, trong chuyến công du này chúng con đã nghe biết bao nhiêu sứ điệp mạnh mẽ cho người nghèo, cả các sứ điệp mạnh mẽ và đôi khi nghêm khắc nữa đối với người giầu và kẻ quyền th. Nhưng có một điều mà chúng con đã nghe nói tới rất ít đó là các sứ điệp cho giới trung lưu, nghĩa là những người làm việc, trả thuế, dân thường. Con muốn hỏi tại sao trong huấn quyền của ĐTC lại có ít sứ điệp cho lớp trung lưu như vậy? Và nếu có thì đó là sứ điệp nào?

Đáp: Xin cám ơn anh rất nhiều, đó là một sửa sai rất đẹp. Xin cám ơn. Anh có lý, đó là một sai lầm từ phía tôi. Tôi phải nghĩ tới điều này. Tôi sẽ đưa ra vài bình luận, nhưng không phải để biện minh cho tôi. Anh có lý, tôi phải suy nghĩ một chút. Thế giới này có nhiều cực. Lớp trung lưu trở thành bé nhỏ hơn. Có sự  toàn cầu hóa lớn giữa người giầu và người nghèo. Đây là điều có thật, và có lẽ điều này khiến cho tôi đã không chú ý tới giới trung lưu. Tôi nói về thế giới, vài nước thì không, chúng  chạy rất tốt, nhưng trên thế giới nói chung người ta trông thấy việc tạo thành hai cực này và con số người nghèo rất lớn. Thế rồi tại sao tôi nói tới người nghèo? Bởi vì nó là trọng tâm của Tin Mừng, và tôi luôn luôn nói từ Tin Mừng về sự nghèo khó, tự nó có tính cách xã hội học. Tôi cũng có vài lời nói về lớp trung lưu, nhưng chỉ lướt qua. Nhưng người dân đơn sơ, ngưòi dân thường, lớp công nhân, giai tầng ấy có giá trị lớn. Nhưng tôi tin rằng anh đã nói tới một điều mà tôi phải làm, tôi phải đào sâu hơn giáo huấn về điểm này, Tôi xin cám ơn anh về sự trợ giúp.

Chị Vania De Luca thuộc chương trình truyền hình Rainews 24 giờ hỏi: Thưa ĐTC, trong các ngày này DTC đã nhấn mạnh trên sự cần thiết của các lộ trình hội nhập, bao gồm xã hội, chống lại tâm thức gạt bỏ. ĐTC đã ủng hộ cả các dự án đi theo hướng này của việc sống hạnh phúc. Cả khi ĐTC đã cho biết phải nghĩ tới chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ tới việc đề cập tới các vấn đề này tại Liên Hiệp Quốc, tại Tòa Bạch Ốc hay không? ĐTC có nghĩ tới chuyến công du này khi nói  tới các vấn đề này hay không?

Đáp: Không, tôi đã chỉ nghĩ đến chuyến viếng thăm cụ thể này và tới thế giới nói chung. Nhưng nợ nần của các nước trên thế giới trong lúc này thật kinh khủng, Tất cả mọi nước đều nợ, và có một vài nước đã mua nợ của các nước lớn. Đây là một vấn đề quốc tế. Nhưng với điều này tôi đã không đặc biệt nghĩ tới chuyến đi Hoa Kỳ.

Anh Courtney Wals của đài Fox News hỏi: Thưa ĐTC, chúng ta đã nói một chút về Cuba, nơi ĐTC sẽ viếng thăm vào tháng 9 tới đây trước khi đi Hoa Kỳ, cũng như nói tới vai trò của Vaticăng trong việc làm cho hai nước xích lại gần nhau. Bây giờ Cuba sẽ có một vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, theo ĐTC chính quyền La Habana có phải cải tiến danh tiếng của mình liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người kể cả quyền tự do tôn giáo không? Và ĐTC có tin rằng Cuba có nguy  cơ mất đi điều gì trong liên hệ mới này với quốc gia mạnh nhất thế giới hay không?

Đáp: Các quyền con người là để cho tất cà mọi người và người ta tôn trọng các quyền con người chỉ trong một hai nước mà thôi. Tôi sẽ nói rằng trong biết bao nhiêu nước, trong biết bao nhiêu miền trên thế giới này người ta không tôn trọng các quyền con người.

Cuba mất cái gì và Hoa Kỳ mất cái gì? Điều mà cả hai nước đều có được đó là hòa bình. Đây là điều chắc chắn. Sự gặp gỡ, tình bạn, sự cộng tác: đó là điều chiếm được. Nhưng hai nước mất cái gì thì tôi chưa nghĩ ra được; sẽ là những điều cụ thể, nhưng luôn luôn trong một cuộc thương thuyết nguời ta  được và mất. Trở lại với các quyền con người và tự do tôn giáo, anh chị em hãy nghĩ trên thế giới có các nưóc, kể cả vài nước âu châu, vì các lý do khác nhau người ta không để cho bạn làm một dấu chỉ tôn giáo nữa. Và trong các đại lục khác cũng thế, đúng không? Điều này đúng, Tự do tôn giáo không được tôn trọng trên toàn thế giới, trong biết bao nhiêu nước xảy ra như thế.

Anh Benedicte Lutaud hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC như là vị lãnh đạo quốc tế mới của các chính sách thay thế , con muốn biết tại sao ĐTC lại chú ý tới các Phong trào bình dân, và ít chú ý tới thế giới kinh doanh như vậy, và ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay ra cho các phong trào bình dân rất đời hay không?

Đáp: Thế giới của các Phong trào bình dân là một thực tại; nó là một thực tại rất to lớn trên toàn thế giới. Vậy tôi đã làm gì? Điều tôi đã làm là trao ban giáo lý xã hội của Giáo Hội cho nó, đó cũng là điều tôi làm đối với giới kinh doanh. Có một giáo lý xã hội của Giáo Hội. Nếu anh đọc điều tôi đã nói với các Phong trào bình dân, là một diễn văn khá dài, nó là một tóm lược giáo lý của Giáo Hội. Tất cả những gì tôi đã nói là giáo lý xã hội của Giáo Hội, và khi tôi phải nói với thế giới kinh doanh tôi cũng nói cùng điều đó, nghĩa là Giáo lý xã hội của Giáo Hội nói gì với thế giới kinh doanh. Thí dụ trong Thông điệp “Laudato si’” có một đoạn về công ích và cả nợ nần xã hội của tư sản đi theo chiều hướng này đó là áp dụng giáo lý xã hội của Giáo Hội.

Hỏi: ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay này không?

Đáp: Ở đây chính tôi theo Giáo Hội, bởi vì tôi chỉ đơn sơ rao giảng Giáo Lý xã hội của Giáo Hội cho Phong trào này. Đó không phải là một bàn tay giang ra cho một kẻ thù, nó không phải là một sự kiện chính trị, không. Nó là một sự kiện dậy giáo lý. Tôi muốn rằng điều này rõ ràng.

Chị Cristina Cabrejas hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có sợ hãi rằng các diễn văn của ĐTC bị lèo lái bởi các chính quyền, các nhóm quyền lực, các phong trào không?

Đáp: Tôi lập lại một chút những gì đã nói từ đầu. Mỗi một lời nói, mỗi một câu của một diễn văn có thể bị lèo lái. Đó là điều nhà báo Ecuador đã hỏi tôi. Cùng một câu ấy nhưng có vài nguời nói là phò chính quyền, và người khác thì nói là chống chính quyền. Đôi khi có các tin tức chỉ lấy một câu và bên ngoài bối cảnh. Vâng, tôi không sợ, tôi chỉ nói một cách đơn sơ nhưng anh chị em hãy nhìn bối cảnh. Nếu tôi sai, thì với một chút xấu hổ tôi xin lỗi thôi và tiếp tục.

Hỏi: Thưa ĐTC, xin cho phép con hỏi đùa một chút. ĐTC nghĩ gì về tất cả các hình tự chụp giữa thánh lễ mà giới trẻ, trẻ em và các bạn bè họ làm?

Đáp: Tôi nghĩ gì ấy à? Đó là một nền văn hóa khác. Tôi cảm thấy mình là ông cố nội. Hôm nay khi từ giã, một anh cảnh sát to lớn, có lẽ khoảng 40 tuổi, đã nói với tôi: con xin chụp một bức hình vói ĐTC. Tôi đã nói với anh: mà anh là một thiếu niên. Vâng, đó là một nền văn hóa khác, nhưng tôi tôn trọng nó.

Anh Andrea Tornielli hỏi: Thưa ĐTC, đúc kết lại, ĐTC đã muốn để lại cho Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh sứ điệp nào trong những ngày này? Và Giáo Hội Mỹ Latinh có vai trò nào, kể cả như dấu chỉ trong thế giới?

Đáp: Giáo Hội Mỹ Latinh có một sự phong phú lớn: đó là một Giáo Hội trẻ và điều này quan trọng. Một Giáo Hội trẻ với một sự tươi mát, cả với một vài không hình thức. Nó cũng có một nền thần học, một nghiên cứu phong phú. Tôi đã muốn trao ban tâm hồn cho Giáo Hội trẻ này và tôi tin rằng Giáo Hội trẻ này có thể cho chúng ta biết bao nhiêu điều hay đẹp. Trong cả ba quốc gia dọc đường có các người cha các bà mẹ với trẻ em; họ cho thấy các em. Chưa bao giờ tôi đã lại trông thấy nhiều trẻ em như vậy, biết bao nhiêu trẻ em. Đó là một dân, và Giáo Hội cũng như vậy, đó là một bài học cho chúng ta, cho Âu châu, nơi số sinh giảm sút gây hoảng sợ một chút, và cả việc cũng ít có các đường lối chính trị trợ giúp các gia đình đông con. Tôi nghĩ tới nước Pháp có một đường lối chính trị đẹp trợ giúp các gia đình đông con nên đã đạt hơn 2% số sinh, trong khi các nước khác thì có số sinh gần zero, cả khi không phải mọi nước đều như thế. Tôi tin rằng bên Albania có 45%, nhưng bên Paraguay có tói hơn 70% dân số từ 40 tuổi trở xuống. Sự phong phú của dân tộc và Giáo Hội này đó là một Giáo Hội sống động. Đó là một sự phong phú, một Giáo Hội của sự sống. Điều này quan trọng. Tôi tin rằng chúng ta phải học hỏi từ điều này và sửa chữa lại, bởi nếu không, nếu không có con cái… Đó là điều mà tôi đã nói biết bao lần về sự gạt bỏ! Người ta gạt bỏ trẻ em, người ta gạt bỏ người già, và với sự kiện thiếu công ăn việc làm người ta gạt bỏ người trẻ. Vì thế các dân tộc mới, các dân tộc trẻ trao ban cho chúng ta nhiều sức mạnh hơn. Đối với Giáo Hội tôi sẽ nói rằng một Giáo Hội trẻ – với biết bao nhiêu vấn đề, bởi vì có các vấn đề – tôi tin rằng đó là sứ điệp mà tôi tìm thấy: đừng sợ hãi cho tuổi trẻ này và cho sự tươi mát này của Giáo Hội.  Có thể đó là một Giáo Hội hơi vô kỷ luật một chút, nhưng với thời gian sẽ kỹ luật và trao ban cho chúng ta biết bao điều tốt đẹp.

(SD 13-7-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio