Bài phát biểu của ĐHY Leonardo Sandri về quyền tự do tôn giáo

Bài phát biểu của ĐHY Leonardo Sandri về quyền tự do tôn giáo

Chiều ngày 30 tháng giêng vừa qua cuộc hội thảo về đề tài “Tự do tôn giáo” đã được toà đại sứ Anh quốc cạnh Toà Thánh tổ chức tại Đại học giáo hoàng Gregoriano ở Roma nhân chuyến viếng thăm của ông Ahmad Wimbledon, Bộ trưởng ngoại vụ Anh và của khối Thịnh Vượng Chung đặc trách  chống khủng bố và khuynh hướng bạo lực quá khích. Tham dự buổi diễn thuyết đã có ĐTGM Artur Roche, Thư ký Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, ĐTGM Silvano Tomasi, vài thành viên ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh, vài nhân viên thuộc các cơ quan trung ương của Toà Thánh, các giáo sư và sinh viện đại học Gregoriana.

ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã thuyết trình mở đầu cuộc hội thảo. Sau đây là nội dung bài nói chuyện này của ĐHY.

Sau khi chào mọi người hiện diện ĐHY cho biết những gợi ý ngài nói lên ở đây phát xuất từ kinh nghiệm riêng của ngài, cũng như từ các khẳng định của Giáo Hội công giáo liên quan tới vấn đề tự do tôn giáo, đặc biệt là kinh nghiệm ĐHY đã có trong những năm là Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, cũng như tại Trung Đông và Ấn Độ. Các Kitô hữu những vùng này  được mời gọi sống mỗi ngày trong các bối cảnh, trong đó một đàng là sự chung sống và cộng tác giữa những người và những gia đình khác tôn giáo, nhưng đôi khi cũng phải gánh chịu các khổ đau lớn lao khi vài quyền nền tảng của bản vị con ngưòi – đặc biệt là quyền tự do tôn giáo –  bị vi phạm hay ít nhất đã không được bảo đảm đầy đủ. Chính ĐHY đã sống kinh nghiệm được đón tiếp nồng hậu trong các nơi thờ tự không kitô, chẳng hạn như trong đền thờ hồi giáo tại Kirkuk bên Iraq, hay trong đền thờ Astana bên Kazakstan, cũng như tại nhiều đền thờ hồi giáo khác khi tháp tùng các Giáo Hoàng trong các chuyến công du, thí dụ như tại Thổ Nhĩ Kỳ và bên Siria. Tuy nhiên, ĐHY cho biết ngài cũng đã tiếp nhận các âu lo đối với vài kinh nghiệm khổ đau và các vết thương liên quan tới tự do tôn giáo. Chính vì thế ĐHY cám ơn tất cả những ai trên bình diện quốc gia và quốc tế góp phần bảo vệ quyền tự do tôn giáo.

Trong ngàn năm mới ĐHY đã sống kinh nghiệm là Sứ Thần Toà Thánh tại Mêhicô, trước khi đuợc gọi về Roma như là Phụ tá quốc vụ khanh Toà Thánh. Hơn một năm trước đó chân phước Jose Sanchez del Rio, một thiếu niên tử đạo khi lên 15 tuổi đã đuợc tôn phong hiển thánh. Thánh nhân đã chết trong cuộc bách hại tàn bạo nhằm tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, là quyền cản bản của con người. Trong cuộc bách hại đó tại Mêhicô các linh mục bị bó buộc phải trốn tránh và sống trong tình trạng hầm trú, bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 1926, khi chức thừa tác linh mục bị cấm và việc thực hành phung tự bị nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt. Thiếu niên Jose tự ý xin chịu tử đạo, khi cầu nguyện bên cạnh mộ của trạng sư Anacleto Gonzalez Flores, bị giết bởi những nguời thù ghét đức tin, hiện cũng đã được phong chân phước.

** Ai đã xem cuốn phim tựa đề “Cristiada” đã có thể gặp gỡ chứng tá của thiếu niên tôn sùng Chúa Kitô Vua và Đức Trinh Nữ Guadalupe sống tại Michoacán. Đôi khi các chuyện này đã xảy ra cách đây gần một thế kỷ, đối với chúng ta xem ra là các bức tranh của thời kỳ đó, chắc chắn là đáng khâm phục, nhưng không liên lụy gì tới chúng ta. Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt của một thiếu niên trạc tuổi với thánh Jose Sanchez del Rio tại Baghdad hồi tháng 5 năm 2015. Khi đó tôi vừa kết thúc chuyến viếng thăm  và dùng bữa trưa với một nhóm người tỵ nạn gần nhà thờ chính toà Latinh của thành phố. Thiếu niên Joussef kéo tôi riêng ra và kể cho tôi nghe cuộc đời của anh: cha anh bỏ rơi mẹ anh và bà bị bó buộc phải lấy một người đàn ông hồi. Youssef chào đời, được rửa tội và lớn lên như kitô hữu, vì chưa tới 18 tuổi, nhưng kết quả là trong danh sách khai sinh lại bị coi như là người hồi giáo. Bình thường thì mọi sai lầm danh sách đều có thể sửa đổi, nhưng đây lại không phải là trường hợp của Youssef, bởi vì tại nước Iraq tân tiến sau hai trận chiến của vùng Vịnh, đối với một người trẻ hay người lớn đã không có khả thể thay đổi tôn giáo: các cuộc thảo luận đã được tiến hành từ hai năm nay nhưng rất tiếc chúng cho thấy một khung cảnh đáng quan ngại.

Trong môi trường tây phương của chúng ta thì chắc chắn sẽ có nhiều người đề nghị với Youssef rằng điều quan trọng là sống đức tin kitô của mình một cách cá nhân, còn chuyện  trong sổ sách ghi đạo gì không phải là điều quan trọng. Hơn nữa còn có người cho rằng sự kiện ghi đanh không phải là kitô hữu ít gây trở ngại cho công ăn việc làm, cả đối với các văn phòng xã hội nữa. Nhưng đối với Youssef đây không phải là vấn đề nhãn hiệu hay một tên gọi, mà liên quan tới ý nghĩa của một sự tuỳ thuộc: tôi là kitô hữu, và tôi tranh đấu để căn tính này của tôi được thừa nhận, và tôi xin được trợ giúp để có thể làm được điều đó. Cuộc chiến đấu giúp khẳng định quyền tự do tôn giáo chưa chiến thắng.

Chính các vị tử đạo của quyền tự do tôn giáo, hôm qua và hôm nay, mời gọi chúng ta sống các thách đố này, không phải với một tinh thần đòi bồi thường hay hầu như chúng ta là phần của một tổ chức truyên truyền chính trị, nhưng với thái độ của các tín hữu. Ai đã thấy và trông thấy đặt vấn đề về quyền căn bản này của con người, làm chứng cho chúng ta về việc gắn bó với Chúa một cách sâu xa và nhập thể, giải thoát từ trái tim của mình một khả năng nói chuyện thân tình với Thiên Chúa. Khả năng gắn bó thân tình này với Chúa trợ giúp đức tin bên Tây  Phương của chúng ta, một đức tin nhiều khi đã quá  ngủ thiếp đi.

** Thật tốt cho tất cả chúng ta, khi nhớ rằng đối với Giáo Hội công giáo việc khẳng định quyền tự do tôn giáo đã đòi hỏi một lộ trình ý thức từ từ, trải qua các biến cố đổi thay. Chúng ta hãy nghĩ tới các lời mà Đức Gioan Phaolô II đã nói trong Ngày tha thứ của Năm Thánh 2000, 12 tháng 3: “Lậy Chúa, là Thiên Chúa của tất cả mọi người, trong vài thời đại của lịch sử các kitô hữu đã nhượng bộ các phương thế bất khoan nhượng và đã không theo giới răn lớn lao của tình yêu, bằng cách làm vẩn đục gương mặt của Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa. Xin thương xót các con cái tội lỗi của Chúa và đón nhận cương quyết của chúng con tìm kiếm và thăng tiến chân lý  trong sự dịu hiền của lòng bác ái, vì biết rằng chân lý chỉ chiến thắng  nhờ sự thật”. Phần cuối cùng của lời nguyện này bắt nguồn từ đoạn đầu tiên của Tuyên ngôn công đồng về “Phẩm giá con người” liên quan tới tự do tôn giáo. Trực giác này thật tốt cho chúng ta: nhớ tới Sự Thật Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, nhưng nhớ rằng Sức mạnh của của nó không do chúng ta trao ban, nhưng do Ngài là Chúa của lịch sử, và chúng ta càng để cho con tim và hành động của mình phù hợp với Ngài, thì chúng ta lại càng vén mở cho thấy mình là muối đất và ánh sáng thế gian.  Nếu trong quá khứ – theo tâm thức phổ biến thời đó – cả chúng ta nữa cũng đã nghĩ rằng Tin Mừng được cứu vãn, bởi vì hệ thống xã hội áp đặt nó như là có giá trị nhất, và để bênh vực hệ thống hơn là bênh vực Tin Mừng mà vài người đã rơi vào các thái độ  ít mang tinh thần Tin Mừng, thì lập trường của chúng ta ngày nay đối với các anh chị em khác trong gia đình nhân loại không phải là lên án, nhưng là trường kỳ mời gọi tái lên đường mỗi ngày. Chỉ có người lữ hành hướng tới Sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa trong lịch sử mới có thể tiến tới chỗ khẳng định, như truyên ngôn về Tự do tôn giáo đã làm, khi tuyên bố rằng: “Con người có quyền tự do tôn giáo. Nội dung của quyền tự do này là con người không bị chi phối bởi sự cưỡng bách từ phiá các cá nhân, đoàn thể xã hội, hay bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Như thế, trong lãnh vực tôn giáo không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm mình, cũng không bị ngăn cấm hành động nào theo lương tâm, cho dù đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng. Ngoài ra, tài liệu còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên chính phẩm giá con người, như được lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết. Quyền tự do tôn giáo này  của con người phải được thừa nhận và coi như quyền dân sự trong trật tự pháp lý của xã hội” (s. 2)

Con đường ý thức đã đưa Giáo Hội tới khẳng định này trong Công Đồng Chung Vaticăng II, và đã được tiếp tục trong các thập niên sau đó cho tới ngày nay, đến độ đã có nhiều can thiêp liên quan tới đề tài tự do tôn giáo từ phiá Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, cũng như từ các vị đại diện của các Giáo Hoàng là các Quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc tại New York và tại Genève, cũng như cạnh Liên Hiệp Âu châu và Quốc Hội Âu châu ở Strasbourg và Bruxelles. Trong số các vị đó tôi xin trích dẫn bài tham luận mà ĐTGM Paul Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh, đã đọc tại Milano ngày 30 tháng 3 năm ngoái.

** Các diễn văn này không chỉ nhắm bênh vực quyền tự do tôn giáo của biết bao kitô hữu bị bách hại hay sách nhiễu, nhưng còn tìm thăng tiến việc khẳng định quyền tự do này cho tất cả mọi người. Đó là một điểm gia tăng phẩm chất một cuộc đấu tranh của nhân loại và cho nhân loại, đâm rễ sâu trong Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

Cũng thế, các kitô hữu Trung Đông ước muốn ở lại đó như các công dân có tước hiệu tràn đầy, để có thể góp phần riêng vào việc xây dựng thiện ích chung của xã hội, trong đó họ đã hiện diện hằng bao thế kỷ, và như thế họ yêu cầu thế giới thừa nhận quyền tự do tôn giáo và bảo vệ phẩm giá con người của họ. Bên Tây Phương chúng ta nghĩ về điều này, nếu được áp dụng cho việc tôn trọng quyền phản đối của lương tâm trước vài thực thi sinh học y khoa đi ngược lại các xác tín sâu thẳm nhất. Các lời ĐTC Phanxicô nói trong chuyến công du Hoa Kỳ và viếng thăm Philadelphia ám chỉ sự đa phương của các bối cảnh áp dụng nguyên tắc này: “Trong một thế giới trong đó có nhiều hình thức chuyên chế tân tiến khác nhau tìm huỷ bỏ tự do tôn giáo, hay tìm giản lược nó vào một thứ hạ văn hoá không có quyền diễn tả trong lãnh vực công cộng, hay còn tìm sử dụng tôn giáo như là cớ cho thù hận và tàn bạo, các tín hữu của các tôn giáo khác nhau có bổn phận hiệp nhất tiếng nói của họ để kêu gọi hoà bình, khoan nhượng và tôn trọng phẩm giá và các quyền của người khác”.

Chính vì tất cả những điều đó, Đông Phương cũng như Tây Phương chúng ta vẫn còn và luôn ngày càng cần có các chứng nhân đáng tin cậy của lộ trình này. Để kết thúc suy tư này tôi thích nhắc lại gương mặt của linh mục Andrea Santoro, thuộc giáo phận Roma bị sát hại bên Thổ Nhĩ Kỳ cách đây 12 năm. Cha là người đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô, đến độ đổ máu mình ra với Tên Chúa trên đôi môi, đồng thời là người thăng tiến sự gặp gỡ, đối thoại và tôn trọng, trong một bối cảnh của tự do tôn giáo, trong đó cha đã có khả năng yêu thương dân nước Thổ Nhĩ Kỳ cho tới tận cùng. Hồi năm 2002 cha đã viết như sau: “Cần có người tin một cách sâu xa vào đối thoại, hiệp nhất và hiệp thông, và chấp nhận sức nặng và sự mệt nhọc với thân xác và linh hồn. Cần tìm ra các con đường để nói chuyện với nhau, và hiểu biết nhau. Cám dỗ của mệt mỏi, tự cô lập và khép kín trong chính mình rất là mạnh mẽ. Bên Âu châu cần có người sẵn sàng hiểu thế giới này khác biệt với thế giới của chúng ta, các dân tộc rộng lớn và khác nhau này làm thành vùng Trung Đông, thực tại hồi giáo, do thái và kitô này sống cận kề nhau và ngày càng ở bên cạnh các quốc gia âu châu khác. Cần sẵn sàng yêu thương, cầu nguyện và bước vào trong con tim khổ đau của Thiên Chúa, là Đấng đang rên siết cho các con cái chia rẽ của Ngài. Sau cùng đối với các kitô hữu chúng ta cần nhìn lên Chúa Kitô và bước theo Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai không ở trong Ta, thì bị ném ra ngoài như cành nho và khô héo”. Mọi sự đều qua đi: chỉ có sự thánh thiện qua các thế kỷ soi sáng thế giới. Chỉ có tình yêu tồn tại. Nói cho cùng một cách đơn sơ đây là việc bắt đầu trở thành kitô hữu”.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha kêu gọi chống bạo lực nhân danh tôn giáo

Đức Thánh Cha kêu gọi chống bạo lực nhân danh tôn giáo

VATICAN. ĐTC kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị, tôn giáo, giáo dục và truyền thông, liên kết với nhau để chống lại nạn bạo lực nhân danh tôn giáo.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 2-2-2018 dành cho 50 nhà chính trị và các vị lãnh đạo các tôn giáo tham dự hội nghị về đề tài này.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC khẳng định rằng ”Tuy chúng ta cần Đấng Tuyệt Đối, nhưng chúng ta cần phải loại bỏ bất kỳ sự tuyệt đối hóa nào biện minh cho các hình thức bạo lực. Thực vậy, bạo lực là sự phủ nhận mọi tôn giáo chân chính. Chúng ta phải tố giác những vi phạm chống lại phẩm giá con người và các nhân quyền, vạch trần những mưu toan biện minh cho mọi hình thức oán thù nhân danh tôn giáo và lên án chúng như một chế tạo giả dối mang tính thần tượng về Thiên Chúa”.

ĐTC cảnh giác rằng ”người có tôn giáo biết rõ một trong những tội phạm thượng lớn nhất là lấy Thiên Chúa là người bảo đảm cho các tội lỗi và tội ác của mình, kêu gọi Chúa để biện minh cho tội giết người, tàn sát tập thể, biến con người thành nô lệ, bóc lột con người dưới mọi hình thức, đàn áp và bách hại các cá nhân và toàn thể các dân tộc”.

Người có tôn giáo biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và không ai có thể nại danh Chúa để thực hiện sự ác. Mỗi vị lãnh đạo tôn giáo được kêu gọi vạch mặt bất kỳ toan tính nào nhắm lèo lái Thiên Chúa vào những mục tiêu không có liên quan gì đến Ngài và vinh quang của Ngài. Cần chứng tỏ không biết mệt mỏi rằng mỗi sự sống con người tự nó đều có tính chất thánh thiêng, đáng được tôn trọng, cảm thông, liên đới, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa và khuynh hướng ý thức hệ hay chính trị”.

Cũng trong diễn văn, ĐTC cũng khẳng định rằng “Việc thuộc về một tôn giáo không mang thêm phẩm giá hoặc quyền bổ túc cho người theo tôn giáo ấy, cũng như việc không thuộc về một tôn giáo không tước đoạt hoặc giảm bớt phẩm giá và các quyền của họ.”

”Vì thế các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các giáo chức, và các nhân viên giáo dục, đào tạo, thông tin, cần dấn thân chung với nhau để cảnh giác bất kỳ người nào bị cám dỗ vì những hình thức đồi bại của tôn giáo bị biến thái, không liên quan gì với chứng tá của một tôn giáo xứng với tên của mình.

”Điều này sẽ giúp những ngừơi thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa, được gặp gỡ Ngài thực sự và gặp Đấng giải thoát khỏi mọi sợ hãi, oán thù, bạo lực, Đấng muốn dùng óc sáng tạo và nghị lực của mỗi người để phổ biến kế hoạch yêu thương và hòa bình của ngài dành cho mỗi người” (Rei 2-2-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

Đại diện Tòa Thánh kêu gọi Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo

Đại diện Tòa Thánh kêu gọi Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo

Vị đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam vừa kêu gọi chính quyền Việt Nam hãy tôn trọng quyền tự do tôn giáo trước đám đông khách hành hương tại La Vang.

Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam, đã chủ tế Thánh lễ khai mạc Đại hội Thánh Mẫu toàn quốc lần thứ 31 tại Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang ở tỉnh Quảng Trị.

Trong bài giảng của mình, Đức Tổng giám mục Girelli nói về tình hình tự do tôn giáo ở quốc gia này.

“Trong một số tỉnh Việt Nam, các nhà chức trách đang quan ngại và trách cứ những người Công giáo và các sinh hoạt của người Công giáo”, ngài nói trong Thánh lễ có Đức Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh của Tổng giáo phận Huế, chủ tịch Hội đồng giám mục Việt Nam, Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn của Tổng giáo phận Hà Nội, 13 giám mục khác và 200 linh mục cùng đồng tế.

Đức cha Girelli khuyên khách hành hương nên noi theo lẽ khôn ngoan của Thánh Phêrô là “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” và câu nói của Chúa Giêsu “Của Cesar trả về Cesar, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.

“Tôi muốn ngỏ lời với các Cesar Việt Nam: Hãy trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” – ngài nói và cộng đoàn đáp lại bằng những tràng pháo ta vang dội.

Đức Tổng giám mục Girelli nói rằng nhiều người trên thế giới ước mong rằng quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam phải được tôn trọng hơn, phải được thực thi đầy đủ hơn, và Hội Thánh Công giáo phải được nhìn nhận như một nguồn thiện ích hơn là một vấn nạn cho đất nước.

Ngài mời gọi cộng đoàn hãy dành thời gian để cầu nguyện trong những ngày diễn ra đại hội để họ có thể cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của họ.

“Chỉ khi dõi bước theo Chúa Giêsu và ở lại trong Người, chúng ta mới thực sự hạnh phúc” – ngài nói.

Đức Tổng giám mục Girelli trú ở Singapore thường có các chuyến thăm mục vụ đến các giáo phận ở Việt Nam, mỗi chuyến chỉ kéo dài một tháng. Tất cả các hoạt động của ngài phải được chính phủ Việt Nam thông qua.

Hồi tháng Hai, nhà chức trách đã không cho ngài đến tham dự Thánh lễ Tạ ơn ở tỉnh Hà Tĩnh mừng Chân phước John Baptist Malo (1899-1954), một thừa sai thuộc Hội truyền giáo hải ngoại Paris.

Ước tính có khoảng 100,000 khách hành hương kể cả những người thuộc các tôn giáo khác đến từ khắp cả nước và hải ngoại đã tham dự đại hội ba ngày mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời ngày 15-8.

Trong những ngày đại hội, khách hành hương tham dự các thánh lễ, xưng tội, lần chuỗi, cầu nguyện Lòng Thương xót Chúa và diễn nguyện.

Đại hội Thánh mẫu lần đầu được tổ chức tại thánh địa này năm 1901.

Sau khi chính quyền trả lại 13 hecta đất quanh thánh địa năm 2008, Giáo hội đang xây dựng các công trình mới trong đó có một vương cung thánh đường có sức chứa 5,000 chỗ ngồi.

Đức Mẹ được tin là đã hiện ra tại La Vang năm 1798 để an ủi những người Công giáo bị bách hại. Năm 1961, các giám mục Việt Nam đã tuyên bố thánh địa là trung tâm hành hương toàn quốc.

UCANEWS

Tình hình tự do tôn giáo VN trong phúc trình mới của Mỹ

Tình hình tự do tôn giáo VN trong phúc trình mới của Mỹ

Ngoại Trưởng Rex Tillerson, trong một cuộc họp báo – Hình courtesy AFP

Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới, do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thực hiện, phần đề cập đến Việt Nam nói rằng Hà Nội tiếp tục dành quyền kiểm soát, răn đe, trừng phạt, thậm chí triệt hạ những tổ chức tôn giáo không được sự chấp thuận của nhà nước.

Phúc trình về tự do tôn giáo thế giới 2016 được đương kiêm ngoại trưởng Rex Tillerson công bố sáng thứ Ba ngày 15 tháng Tám năm 2017 ở Wahington DC.

Phúc trình về tự do tôn giáo thế giới phần nói về Việt Nam nhấn mạnh rằng hiến pháp Việt Nam qui định tự do  tín ngưỡng và tự do thờ phương theo đức tin là quyền mà người dân được hưởng. Thế nhưng luật hiện hành với những điều khoản mơ hồ lại  cho Nhà Nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc.

Phần mở đầu phúc trình về Việt Nam cũng cho thấy Việt Nam vẫn là một quốc gia mà tôn giáo nằm dưới sự chi phối của chính phủ, phải được chính phủ công nhận tư cách pháp nhân và pháp lý thì mới được sinh hoạt.

Tháng Mười Một năm 2016, phúc trình dẫn chứng, quốc hội Việt Nam thông qua Bộ Luật Tôn Giáo, sẽ có hiệu lực áp dụng tháng Giêng 2018, với nhiều điều khoản không thay đổi liên quan đến điều kiện ghi danh của các tổ chức tôn giáo, thời gian chờ được cứu xét,  những hình thức xử phạt hành chính đối với  cá nhân hay tổ chức nào vi phạm luật tôn giáo của chính phủ, làm phương hại trật tự công công cũng như  phá hoại tình đoàn kết dân tộc.

Báo cáo của Bộ Ngoại  Giao Hoa Kỳ, đặc biệt phần nói về Việt Nam, nêu những vụ việc xảy ra cho các nhà truyền đạo và các tín hữu ở Việt Nam những năm qua, từ tỉnh thành đến thôn quê, từ các tôn giáo lớn như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo cho đến các tổ chức nhỏ như  các nhóm Tin Lành ở vùng sâu vùng xa, đang là đối tượng bị nhà cầm quyền sách nhiễu, cấm đoán.

Những chi tiết điển hình như trường hợp những nhà truyền giáo người H’mong, người Dao, người Thái ở miền Bắc, hoặc ở Tây Nguyên miền Trung như các tín đồ Tin Lành người Ê Đe, Ja Rai, Sedang, M’nong, đã và đang bị nhà cầm quyền đe dọa, buộc phải chối bỏ đức tin của mình.

Hai trường hợp được nêu bật trong phúc trình là mục sư Ksor Xiem thuộc Giáo phái Tin Lành Dega bị cấm ở Việt Nam. Theo tổ chức Bảo Vệ Nhân Quyền Cho Người Miền Núi ở Hoa Kỳ, ông Ksor Xiem chết vì bị tra tấn trong tù hồi tháng Mười Hai năm 2015. Người thứ hai, mục sư Nguyễn Công Chính, bị kêu án 11 năm tù vì tôi tuyên truyền và âm mưu lật đổ chính phủ, gia đình vợ con ông ở bên ngoài thường xuyên bị hành hung bị khủng bố.

Sau 6 năm bị cầm tù, mục sư Nguyễn Công Chính cùng gia đình được đưa từ Việt Nam sang Mỹ tháng Bảy vừa qua. Đầu thang Tám, mục sư Nguyễn Công Chính đã có cuộc họp báo để trình bày về trường hợp bị bách hại của  ông và của các đạo giáo trong nước.

Phúc trình về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ năm 2016  không quên nhắc đến những tôn giáo nhỏ khác với nét  văn hóa truyền thống và đặc trưng của người Việt, ít nhiều cũng gặp khó khăn và bị giới hạn như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tư An Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính Giáo vân vân…

Bên cạnh đó, những đạo du nhập từ bên ngoài cũng được nhắc tới là Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo Ba Ni, đạo Mormons hay còn gọi là  Mặc Môn.

Với tổng dân số hơn 95 triệu tính đến lúc này, một phần hai trong đó  là Phật Giáo, kế đến là Thiên Chúa Giáo, rồi Cao Đài, Hòa Hảo và những tổ chức tôn giáo khác, Việt Nam vẫn là một đất nước mà người dân không được toàn quyền sống trọn vẹn theo đức tin cũng như không được biểu hiện giá trị của lòng tin đó. Phúc trình của Bộ Ngoại Giao Mỹ còn ghi rõ Việt Nam sử dụng Luật Tôn Giáo để gây trở ngại cho cuộc sống cũng như sinh hoạt thờ phượng của những cộng đồng dân tộc thiểu số ở các vùng sâu vùng xa trong nước. .

Sau cùng, phúc trình nói rằng Hoa Kỳ luôn khuyến khính cũng như thúc đẩy Việt Nam cải thiện cũng như thăng tiến tình hình tự do tôn giáo của mình. Tự do tôn giáo và tín ngưỡng là quyền phố quát làm nên giá trị của nước Mỹ, vì thế Hoa Kỳ luôn mong muốn làm việc chặc chẻ với Việt Nam, thúc đẩy Hà Nội tôn trọng cũng như phát triển quyền tự do tôn giáo cho người dân của mình.

Thanh Trúc RFA

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

Toà Thánh và Giáo Hội luôn bảo vệ nhân quyền và tự do tôn giáo

ROVERETO: Toà Thánh và Giáo Hội sẽ luôn luôn dấn thân bênh vực và thăng tiến các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo, sự thánh thiêng của sự sống và gia đình xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Đức Ông Paolo Rudelli, quan sát viên thường trực của Toà Thánh cạnh Hội Đồng Âu châu Strasbourg, đã khẳng định như trên trong bài tham luận về đề tài “Việc thăng tiến các quyền con người  trong hoạt dộng quốc tế của Toà Thánh”, trong khuôn khổ các buổi diễn thuyết tại Rovereto, tỉnh Trento chiều 28 tháng 7 vừa qua. Buổi diễn thuyết do Hiệp hội “Campana dei Caduti Maria dolens “Chuông tử sĩ Đức Maria khổ đau”, tổ chức. Đây là hiệp hội cổ võ giáo dục các thế hệ trẻ yêu chuộng hoà bình và tôn trọng nhân quyền qua các hoạt động văn hoá và ngoại giao.

Quả chuông tưởng niệm các binh sĩ tử trận trong Đệ Nhất Thế Chiến, cũng như mọi người đã chết vì bất cứ lý do gì. Quả chuông được đúc bằng đồng lấy từ các khẩu súng đại bác của 19 quốc gia tham dự đệ nhất thế chiến. Nó được đúc năm 1924 và đưa về đặt tại Rovereto năm 1925.  Sau đó nó được đúc lại ba lần nữa: lần cuối cùng năm 1964 và đã được ĐGH Phaolo VI làm phép ngày 31 tháng 10 năm 1965 tại quảng trường thánh Phêrô rồi được đưa về đặt trên đồi Miravalle. Quả chuông nặng 22 tấn 639 ký cao 3 thuớc 36, đường kính 3 mét 21 và có nốt Si Bemol. Đây là quả chuông lớn hàng thứ tư trên thế giới sau quả chuông của công viên Gotemba bên Nhật Bản nặng 36 tấn, quả chuông Millenium Newport bên Hoa Kỳ nặng 33 tấn, và quả chuông Petersglocke của nhà thờ chính toà Koeln bên Đức nặng 24 tấn.

Trong bài thuyết trình  Đức Ông Rudelli đã tóm tắt các hoạt động nổi bật của Toà Thánh và các Giáo Hoàng trong hai thế kỷ XIX-XX, đặc biệt các nỗ lực của các Giáo Hoàng trong việc bảo vệ các quyền con người đặc biệt là quyền tự do tôn giáo. Vị đại diện Toà Thánh đã nhấn mạnh phần đóng góp của các Giáo Hoàng từ Leo XIII đến Gioan XXIII và của Công Đồng Chung Vaticăng II. Cách riêng các đóng góp của Đức Phaolô VI, Gioan Phaolô II, Biển Đức XVI và Đức Phanxicô qua các giáo huấn, các thông điệp, sứ điệp và các diễn văn của các vị truớc các tổ chức quốc tế. Dữ kiện mạc khải con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên  Chúa là điểm khởi hành và là nền tảng của phẩm giá và các quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Toà Thánh và Giáo Hội luôn luôn mạnh mẽ giảng dậy, bảo vệ và bênh vực (REI 28-7-2017)

Linh Tiến Khải

 

Các Giám mục Hoa kỳ kêu gọi Tổng thống Trump bảo vệ tự do tôn giáo

Các Giám mục Hoa kỳ kêu gọi Tổng thống Trump bảo vệ tự do tôn giáo

Washington – Ngày 16/02, các vị lãnh đạo Công giáo tại Hoa kỳ đã đưa ra một tuyên ngôn, trong đó các vị hy vọng về việc Tổng thống Trump đang xem xét đưa ra sắc lệnh bảo vệ tự do tôn giáo. Các ngài nói là họ sẽ biết ơn nếu Tổng thống thực hiện lời hứa là chính quyền của ông sẽ “làm mọi việc trong quyền hạn của mình để bảo vệ tự do tôn giáo.”

Tuyên ngôn được đưa ra bởi Đức Hồng Y Timothy M. Dolan của New York – chủ tịch Ủy ban các hoạt động phò sự sống, Đức Tổng Timothy M. Dolan của Philadelphia –  chủ tịch Ủy ban Giáo dân, Hôn nhân, Đời sống gia đình và Giới trẻ, Đức Tổng William E. Lori của Baltimore – chủ tịch Ủy ban Tự do Tôn giáo, Đức cha Frank J. Dewane của Venice bang Florida – chủ tịch Ủy ban Công lý và phát triển con người.

Tuyên ngôn có đoạn viết: “Như là các Kitô hữu, mục đích của chúng tôi là sống và phục vụ những người khác như Chúa dạy. Tổng thống Trump có thể bảo đảm rằng chúng tôi không bị áp lực từ công chúng.”

Các Giám mục nhận định rằng sắc lệnh sẽ thực hiện việc bảo vệ tự do tôn giáo mạnh mẽ trên toàn chính quyền liên bang, trong nhiều lãnh vực đã bị suy yếu bởi chính quyền trước đó, chẳng hạn như bảo hiểm sức khỏe, nhận con nuôi, miễn thuế, và các tài trợ và hợp đồng của chính phủ. Sắc lệnh cũng phục hồi lại mối liên hệ thật sự của chính quyền liên bang với bản tu chính lần thứ nhất, với các luật bảo vệ lương tâm và tự do tôn giáo sẽ cho phép chúng ta tiếp tục phục vụ những người Mỹ khốn cùng nhất.

Các Giám mục kêu gọi Tổng thống Trump giữ lời hứa và chấm dứt các đạo luật của chính quyền liên bang, cưỡng bức các tín đồ làm những chọn lựa không thể. Các ngài nói: “Chúng tôi cũng như những người chúng tôi chăm sóc và phục vụ sẽ biết ơn nếu Tổng thống tiếp tục bước đi tích cực này, cho phép mọi công dân Mỹ có thể thực hành đức tin của họ mà không bị phạt nặng nề bởi chính quyền liên bang.”

Tuyên ngôn cũng nói rằng việc sửa chữa cấp thời đối với các mối đe dọa chống lại tự do tôn giáo là cần thiết và không có nó, sự tự do phục vụ người khác của Giáo hội sẽ vẫn gặp nguy hiểm và xung đột giữa cộng đồng đức tin và chính quyền liên bang sẽ tiếp tục.

Hôm cuối tháng 1 vừa qua, một bản nháp của sắc lệnh với tên gọi “Thành lập kế hoạch toàn chính phủ để tôn trọng tự do tôn giáo” bị rò rỉ ra ngoài. Các Giám mục Công giáo đã gửi một lá thư cho các tín hữu Công giáo trên mạng internet để gửi đến Tổng thống, yêu cầu ông ký sắc lệnh bảo vệ tự do tôn giáo, sau khi bản nháp bị rò rỉ ra ngoài. (CNS 17/02/2016)

Hồng Thủy

 

Đức Hồng Y Bo: Chỉ có Mẹ Maria hợp nhất các sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ

Đức Hồng Y Bo: Chỉ có Mẹ Maria hợp nhất các sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ

Yangon – Tại Myanmar đang bị khuấy động bởi các cuộc xung đột sắc tộc và tôn giáo đẫm máu, Đức Mẹ là đấng duy nhất hiệp nhất con người của mọi sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ. Đó là lời khẳng định của Đức Hồng Y Bo, Tổng Giám mục Yangon, với 100 ngàn khách hành hương thuộc các tôn giáo khác nhau, trong cuộc hành hương hàng năm tại đền thánh Đức Maria ở Nyaunglebin, miền Bago, Myanmar.

Đối với Đức Hồng Y, sự liên kết – đặc tính của cuộc hành hương kính Đức Mẹ – là “một sự kiện hiếm hoi” và hòa bình mà “anh chị em đang cảm nghiệm” không phải là một yếu tố chung cho cả nước Myanmar. Đức Hồng y nhấn mạnh đến các cuộc xung đột làm cho hơn 200 ngàn người trở thành tị nạn tại chính đất nước mình. Ngài nói: “Không phải chính phủ hay Liên hiệp quốc có thể là nguồn hiệp nhất như Mẹ Maria làm hôm nay cho tất cả chúng ta.”

Đức Hồng Y mời gọi cầu nguyện cách đặc biệt với Mẹ Maria, là Nữ vương hòa bình, để xin Mẹ ban bình an cho quốc gia. Ngài nhắc đến các nước láng giềng như Việt nam, Campuchia đang sống hòa bình, trong khi Myanmar, một nước giàu tài nguyên, từ 60 năm sống trong chiến tranh kéo dài, không phải chiến tranh với ngoại bang nhưng giữa anh em với nhau.

Phản ứng lại bầu khí chiến tranh, Giáo hội Công giáo ở Myanmar đã tuyên bố năm 2017 là “Năm hòa bình” và Đức Hồng Ymời gọi các tín hữu bỏ qua những lo âu sợ hãi, đe dọa không chỉ sự yên hàn của gia đình mà cả xã hội. Ngài nói: “Chúng ta cầu nguyện để Nữ vương hòa bình có thể xóa đi lo âu khỏi tâm trí của các lực lượng quân đội, của chính quyền và các nhóm sắc tộc.”

Cuối cùng Đức Hồng Y liệt kê 6 “chiếc bình” của Myanmar, những chiếc bình có thể chữa lành các vết thương của quốc gia và trả lại bình an và sự sống chung: đó là bình tinh thần, bình công lý, bình dân chủ, bình phát triển, bình hòa giải – nền tảng của việc tái thiết đất nước và bình gia đình – liên kết trong tình yêu theo gương mẫu của Thánh gia. Ngài kết luận: “Hòa bình là con đường duy nhất và hòa bình đến bởi công lý là đều có thể hôm nay. Hãy gõ cánh cửa thiên đàng. Hãy để cho Nữ vương hòa bình, Mẹ của chúng ta, cầu khẩn Chúa Giêsu Con Mẹ, để cho khoảng trống của hy vọng có thể được lấp đầy với rượu của hòa bình.” (Asia News 14/02/2017)

Hồng Thủy

Sự phủ quyết của chính quyền bangVirginia đe dọa luật tự do tôn giáo

Sự phủ quyết của chính quyền bangVirginia đe dọa luật tự do tôn giáo

Richmond – Việc phủ quyết dự luật tự do tôn giáo có nghĩa là những nhóm, dựa trên đức tin, ủng hộ hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, sẽ không có sự bảo vệ cần thiết.

Ngày 30 tháng 3 vừa qua, các Hội đồng Công giáo bang Virginia đã bày tỏ sự thất vọng bởi quyết định của chính quyền bang Virginia. Hội đồng nói: “Sự phủ quyết này đe dọa phá hủy truyền thống lâu đời từ thời Thomas Jefferson, là ủng hộ tự do tôn giáo của các cộng đoàn đức tin.”

Dự luật tự do tôn giáo trên cấm bang Virginia xử phạt các nhóm tôn giáo hành xử theo niềm tin chân thành rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Dự luật này đã được thông qua bởi Hạ viện với số phiếu 59 -38 và Thượng viện với số phiếu 21-19. Dự luật này bảo đảm các chức sắc và tổ chức tôn giáo không bị xử phạt bởi chính quyền. Dự luật cũng bảo vệ các cá nhân và tổ chức khỏi trách nhiệm dân sự.

Thống đốc Terry McAuliffe, thuộc đảng Dân chủ, đã phủ quyết đạo luật trên chương trình phát thanh trực tiếp, tuyên bố rằng việc ký đạo luật “sẽ làm cho Virginia không chào đón các cặp hôn nhân đồng tính trong khi tạo nên một cảm giác sợ hãi và bắt bớ giữa các cộng đoàn tôn giáo của chúng tôi”. Ông cũng trưng ra sự phản đối của các lãnh đạo công ty, cho là điều này xấu cho các doanh nghiệp. Nhưng hội đồng Công giáo nói là đạo luật không áp dụng cho các doanh nghiệp, nhưng chỉ khẳng định quyền của các tổ chức tôn giáo được theo niềm tin tôn giáo của họ. Hội đồng Công giáo cũng cáo buộc phủ quyết của thống đốc Terry McAuliffe gạt ra ngoài lề các tín hữu, những người tin vào chân lý vượt thời gian của hôn nhân. Tuyên bố của hội đồng là “luật pháp nên bảo đảm việc tiếp cận công bằng các nguồn lực quốc gia cho các chức sắc và các tổ chức tôn giáo, bao gồm các tổ chức từ thiện và trường học. Hôn nhân là định chế đầu tiên, được viết bằng luật tự nhiên và tồn tại trước bất kỳ chính quyền hay tôn giáo nào,  và là giữa một người nam và người nữ. Nhìn nhận và tôn vinh định chế này không phải là kỳ thị, nhưng dùng đức tin của con người chống lại họ thì chắc chắn là kỳ thị.”

Nghị sĩ Charles W. Carrico ủng hộ đạo luật, ông cho là sẽ có những vụ kiện chống lại các Giáo hội. Ông nói: “Tôi nghĩ là hiện giờ khắp nước đang có một khuynh hướng thúc đẩy niềm tin đồng tính, và tôi nghĩ anh chị em thấy khuynh hướng đó đang xảy ra trên quy mô rộng lớn.” Theo Associated Press, cơ quan lập pháp Virginia có thể hủy bỏ quyền phủ quyết, nhưng điều này khó có thể xảy ra.

Các đạo luật về tự do tôn giáo khác cũng gặp những sự chống đối đáng kể trong những năm gần đây. Thống đốc đảng Cộng hòa Nathan Deal đã phủ quyết một dự luật bảo vệ tự do tôn giáo được đề xuất. Ở vài bang và ở thủ đô Washington, những luật mới và các quyết định tài trợ đã đóng lại đối với các cơ quan nhận con nuôi của Công giáo với lý do là Công giáo không cho các cặp đồng tính nhận các trẻ em. Vài trường học Công giáo cũng trở thành mục tiêu của các vụ kiện từ các nhân viên bị sa thải vì vi phạm các chuẩn mực đạo đức về luân lý tình dục.

Các quỹ tài trợ giàu có như Ford Foundation, Arcus Foundation và quỹ Evelyn và Walter Haas Jr. đã đổ hàng triệu USD vào các nhóm pháp luật, các dự án trường học về luật và các nhóm hoạt động để chống lại sự bảo vệ tự do tôn giáo. (Catholic News Agency 04/04/2016)

Hồng Thủy OP

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

LA HABANA. Trong Tuyên ngôn chung, ĐTC và Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga kêu gọi chấm dứt bách hại Kitô đồng thời hứa dấn thân cộng tác với nhau.

Tuyên ngôn được hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga ký và công bố dài 5 trang và gồm 30 đoạn, nhấn mạnh đến những điểm chung của hai Giáo Hội, rồi đề cập đến tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi, nơi mà nhiều gia đình, làng mạc và thành thị của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị hoàn toàn tiêu hủy. Các vị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế cấp thiết hành động để ngăn ngừa, đừng để những cuộc trục xuất các tín hữu xảy ra nữa, chấm dứt bạo lực và khủng bố, đảm bảo cho cứu trợ nhân đạo đầy đủ được đưa tới cho các nạn nhân. Hai vị gọi những tín hữu Kitô bị giết là những vị tử đạo thời nay”, giúp hiệp nhất các Giáo Hội với nhau qua sự chia sẻ đau khổ. Ngoài ra cần cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không còn tôn trọng các căn tính tôn giáo nữa. Tuyên ngôn cũng nói về tình trạng nghèo đói cùng cực, hàng triệu người di dân đang gõ cửa các nước giàu có.

Về vấn đề luân lý, tuyên ngôn nói đến những vấn đề như phá thai, làm cho chết êm dịu, những kỹ thuật mới về việc sinh sản, và những đe dọa chống lại lập trường của các Giáo Hội về hôn nhân.

Chi tiết Tuyên Ngôn

Đi vào chi tiết hơn, Tuyên ngôn chung mở đầu với câu trích từ thư thứ 2 của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu thành Corinto: ”Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).

 ”Bởi ý Chúa Cha Đấng là nguồn mạch mọi hồng ân, nhân danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, Đấng An Ủi, chúng tôi, Giáo Hoàng Phanxicô và Kirill, Thượng Phụ Mascơva và toàn nước Nga, đã gặp nhau hôm nay tại La Habana. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa, được tôn vinh trong Ba Ngôi, vì cuộc gặp gỡ này, cuộc gặp gỡ đầu tiên trong lịch sử. Chúng tôi vui mừng gặp gỡ nhau như anh em trong đức tin Kitô để ”nói bằng tiếng nói sinh động” (2 Ga 12), lòng với lòng, và thảo luận về những quan hệ hỗ tương giữa hai Giáo Hội, về những vấn đề thiết yếu của đức tin chúng ta và những viễn tượng phát triển nền văn minh của nhân loại.”

Đau buồn vì mất hiệp nhất

Hai vị Giáo Chủ lên án ”sự đánh mất tình hiệp nhất, hậu quả của sự yếu đuối con người và tội lỗi”, với ý thức về sự ”tồn đọng của nhiều chướng ngại”, đồng thời cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này ”có thể góp phần vào việc tái lập sự hiệp nhất” như Thiên Chúa mong muốn. Mục đích là để cùng nhau ”đáp ứng những thách đố thời nay. Tín hữu Công Giáo và Chính Thống phải học cách làm chứng tá hòa hợp cho chân lý trong những lãnh vực có thể và cần phải thực hiện”.

Lên án bách hại Kitô

 Về cuộc bách hại các tín hữu Kitô và chiến tranh ở Siria, Irak, Tuyên ngôn khẳng định rằng: ”Cái nhìn của chúng tôi trước tiên hướng về những miền trên thế giới, nơi mà các tín hữu Kitô đang bị bách hại”, chứng nhân về sự hiệp nhất trong đau khổ và tử đạo. ”Tại nhiều nước ở Trung Đông và Bắc Phi, các anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị tiêu diệt cả gia đình, làng mạc và thành phố. Thánh đường của họ bị tàn phá và cướp bóc dã man, các đồ vật thánh bị xúc phạm, các đền đài bị phá hủy. Tại Siria, Irak và tại các nước khác ở Trung Đông, chúng tôi đau lòng nhận thấy sự xuất cư ồ ạt của các tín hữu Kitô và của các cộng đoàn tôn giáo khác. Chúng tôi xin Cộng đồng quốc tế hãy cấp thiết hành động để phòng ngừa, không để xảy ra thêm những cuộc trục xuất các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, và chấm dứt nạn bạo lực và khủng bố, đồng thời đảm bảo một cuộc cứu trợ nhân đạo ở bình diện rộng lớn cho dân chúng đang chịu đau thương và cho bao nhiêu người tị nạn ở các nước láng giềng. Hai vị cũng kêu gọi giải thoát những người bị bắt cóc.

 Đối thoại liên tôn

 Về vấn đề đối thoại liên tôn, Tuyên ngôn của hai vị Giáo Chủ viết: ”Trong thời đại âu lo này, đối thoại liên tôn là điều không thể thiếu được, và các vị lãnh đạo tôn giáo có trách nhiệm đặc biệt trong việc giáo dục các tín đồ của mình hãy tôn trọng các tín ngưỡng khác: ”Thật là điều tuyệt đối không thể chấp nhận được những toan tính biện minh cho những hành động gian ác với những khẩu hiệu tôn giáo. Không tội ác nào có thể phạm nhân danh Thiên Chúa”.

Tự do tôn giáo

Về tự do tôn giáo ngày càng bị đe dọa, Đức Phanxicô và Đức Kirill bày tỏ lo âu vì tình trạng tại nhiều quốc gia trong đó các tín hữu Kitô ngày càng bị giới hạn tự do tôn giáo, quyền được làm chứng về các xác tín của mình và không được sống phù hợp với các xác tín ấy. ”Sự biến đổi của một số nước thành những xã hội tục hóa, xa lạ với mọi tham chiếu về Thiên Chúa và chân lý của Ngài, tạo nên một đe dọa trầm trọng cho tự do tôn giáo. Đối với chúng tôi, sự giới hại các quyền của Kitô hữu là một nguồn mạch lo âu, thậm chí họ còn bị kỳ thị khi một số lực lượng chính trị, do ý thức hệ duy thế tục hướng dẫn, nhiều khi rất cực đoan, tìm cách gạt các Kitô hữu ra ngoài lề đời sống công cộng”. Trước tình cảnh đó, hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga kêu gọi hãy cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không tôn trọng các căn tính tôn giáo, vì các vị xác tín rằng Âu Châu phải trung thành với các căn cội Kitô của mình”.

Liên đới với người nghèo và di dân

 Đề cập tới sự liên đới với người nghèo và những người di dân, Tuyên ngôn kêu gọi đừng dửng dưng lãnh đạm trước số phận của hàng triệu người di dân và tị nạn đang gõ cửa các nước giàu có. Sự tiêu thụ vô độ, như người ta thấy ở một số nước phát triển cao, đang dần dần làm cạn tài nguyên của trái đất chúng ta. Sự chênh lệch gia tăng trong việc phân phối các tài nguyên trái đất gia tăng cảm thức về sự bất công đối với các hệ thống quan hệ quốc tế. Các Giáo Hội Kitô được kêu gọi bênh vực những đòi hỏi của công lý, tôn trọng các truyền thống của các dân tộc và một tình liên đới đích thực với tất cả những người đang chịu đau khổ.

Gia đình, sự sống và trợ tử

Về gia đình, sự sống và việc làm cho chết êm dịu, hai vị Giáo Chủ bày tỏ lo âu vì cuộc khủng hoảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. ”Chúng tôi lấy làm tiếc vì một số hình thức sống chung nay đang được đặt ngang hàng với sự kết hiệp của hôn nhân, trong khi ý niệm về việc làm cha làm mẹ .. bị loại ra ngoài ý thức công cộng”. Chúng tôi xin tất cả mọi người hãy tôn trọng quyền sống bất khả nhượng. Hàng triệu trẻ em bị tước đoạt mất quyền được sinh ra trên thế giới. Tiếng kêu của máu các hài nhi không được sinh ra đang kêu thấu tới Thiên Chúa” (Xc St 4,10). Hai vị Giáo Chủ cũng lo âu vì sự lan tràn nạn làm cho chết êm dịu và các kỹ thuật sinh sản nhờ y khoa. Các vị kêu gọi những người trẻ Kitô đàng sợ đi ngược dòng khi bảo vệ chân lý của Thiên Chúa”.

Chống chiêu dụ tín đồ

Tiếp tục tuyên ngôn chung ký kết tại La Habana, ĐTC Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill chống lại chủ trương chiêu dụ tín đồ và kiến tạo sự hiệp nhất Kitô bằng cách đưa các tín hữu Chính Thống hiệp nhất với Tòa Thánh. Hai vị cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này có thể góp phần vào sự hòa giải, tại những vẫn còn sự căng thẳng giữa các tín hữu Công Giáo nghi lễ Đông phương và Chính Thống. Loại trừ mọi hình thức chiêu dụ tín đồ. ”Ngày nay điều rõ ràng là: phương pháp đưa các tín hữu Chính Thống về hiệp nhất với Tòa Thánh, hiểu như một sự kết hiệp một cộng đoàn này vào một cộng đoàn khác, tách rời khỏi Giáo Hội của họ, không phải là phương pháp giúp tái lập sự hiệp nhất. Nhưng các cộng đoàn Giáo Hội đã xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử như thế có quyền hiện hữu và làm tất cả những gì cần thiết để thoả mãn những đòi hỏi tinh thần của các tín hữu thuộc quyền, đồng thời tìm cách sống an bình với những người láng giềng. Các tín hữu Chính Thống và Công Giáo nghi lễ đông phương cần hòa giải với nhau và tìm ra những hình thức sống chúng hai bên có thể chấp nhận.

Ucraina

Về nền hòa bình ở Cộng hòa Ucraina, Tuyên ngôn kêu gọi chấm dứt bạo lực tại nước này, đã gây ra nhiều nạn nhân, xô đẩy xã hội vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và nhân đạo. Hai vị lãnh đạo cũng cầu mong rằng ”sự ly giáo giữa các tín hữu Chính Thống ở Ucraina có thể được vượt thắng dựa trên căn bản giáo luật Chính Thống hiện hành.. Tất cả các tín hữu Chính Thống ở Ucraina được sống trong an bình và hòa hợp, và các cộng đồng tôn giáo tại nước này, góp phần vào điều này, làm sao để cho người ta ngày càng thấy rõ tình huynh đệ Kitô của chúng ta.

 Hai vị lãnh đạo kết luận rằng ”Chúng ta không phải là những người cạnh tranh với nhau nhưng là anh em, và ý niệm này phải hướng dẫn tất cả các hoạt động của chúng ta đối với nhau và đối với thế giới bên ngoài. Chúng tôi nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo và Chính Thống ở mọi nước hãy học cách sống chung với nhau trong an bình và yêu thương”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Bảo vệ quyền tự do tôn giáo của các dân tộc vùng Trung Đông

Bảo vệ quyền tự do tôn giáo của các dân tộc vùng Trung Đông

Archbishop-Paul-Gallagher

PARIS: ĐTGM Paul Richard Gallagher, ngoại trưởng Toà Thánh, kêu gọi cồng đồng quốc tế bảo vệ quyền tự do tôn giáo của các dân tộc vùng Trung Đông, trợ giúp người tỵ nạn, giúp họ hồi hương, nghiêm chỉnh đương đầu với hiện tượng khủng bố và đối thoại liên tôn.

ĐTGM Gallagher đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài phát biểu tại hội nghị  ở Paris về “Các nạn nhân của bạo lực chủng tộc và tôn giáo trong vùng Trung Đông” hôm mùng 8 tháng 9 vừa qua. Hội nghị do ông Laurent Fabius, ngoại trưởng Pháp và ông Nasser Judeh, ngoại trưởng Giordania tổ chức. Nhắc lại thảm cảnh hàng chục ngàn kitô hữu và tín đồ các tôn giáo hay chủng tộc thiểu số phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy trốn và tìm nơi ẩn trú tại nơi khác trong các điều kiện tạm bợ với biết bao khổ đau thể lý và tinh thần, ĐC Gallagher nói đây là vấn đề liên quan tới các nguyên tắc nền tảng như: giá trị của sự sống, nhân phẩm, tự do tôn giáo và việc chung sống hòa bình giữa các con người và các dân tộc. Hiện tượng khủng bố bách hại này vẫn tiếp diễn với các vi phạm quyền con người và quyền nhân đạo quốc tế từ phía nhà nước Hồi cũng như các lực lượng tham chiến.

Vị đại diện Tòa Thánh đã đưa ra ba đề nghị giúp cải tiến tình hình thê thảm hiện nay. Thứ nhất, gây ý thức cho cộng đồng quốc tế để đương đầu với tình trạng cứu trợ nhân đạo khẩn cấp và bảo đảm các điều kiện an ninh tối thiểu cho các nhóm thiểu số và các cộng đoàn kitô. Cần cung cấp thực phẩm, nước uống, nhà ở và giáo dục cho người trẻ, công ăn việc làm và săn sóc sức khỏe cho các người di cư tỵ nạn trong toàn vùng Trung Đông. Trong số các thách đố phải đương đầu trước hết có việc tôn trọng các quyền con người, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm. Cần nhấn mạnh rằng quyền tự do tôn giáo cũng bao gồm quyền tự do theo tôn giáo mình muốn. Nó cũng bao gồm việc bào đảm cho tín hữu của mọi tôn giáo quyền tự do sống và tuyên xưng niềm tin của mình. Chính vì thế các quốc gia trong vùng Trung Đông cùng với cộng đồng quốc tế phải bảo vệ các quyền căn bản của kitô hữu và tín hữu các tôn giáo thiểu số khác.

Thứ hai, bảo đảm quyền của người tỵ nạn trở về quê hương và sống trong phẩm giá và an ninh. Phải biết rằng các kitô hữu và tín hữu các tôn giáo hay chủng tộc thiểu số khác không chỉ muốn được nhân nhượng, mà được coi như là các công dân có mọi quyền lợi và nghĩa vụ. Cần phải có các dụng cụ pháp luật thích hợp bảo đảm cho thực tại này.

Thứ ba, đương đầu với hiện tượng khủng bố phá hoại và tạo thuận tiện cho cuộc đối thoại liên tôn. Cần phải tìm ra các cơ cấu để khích lệ tất cả, đặc biệt bao gồm các quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo, đối phó với nạn khủng bố một cách nghiêm chỉnh, và đặc biệt chú ý tới việc giáo dục trong các trường học. Để đạt điều này cần chú ý đên việc giảng dậy trong các trường học, sử dụng hệ thống thông tin liên mạng và qua nội dung các bài thuyết giáo của các vị lãnh đạo tôn giáo, làm sao để loại bỏ các thái độ qúa khích triệt để, nhưng trái lại thăng tiến đối thoại liên tôn và hòa giải. Ngoài ra, thế giới tây phương cũng nên cẩn thận trong việc dùng các kiểu nói và biểu lộ thế nào để tránh xúc phạm và khiêu khích các tâm tình của vài tôn giáo.
Đối thoại liên tôn là liều thuốc chống lại khuynh hướng tôn giáo qúa khích khiến cho các tôn giáo phải đau buồn. Các vị lãnh đạo các tôn giáo Do thái, Kitô, Hồi giáo có thể và phải năm giữ vai trò nền tảng là tạo thuận tiện cho việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa giáo dục sự hiểu biết nhau. Ngoài ra cũng cần tố cáo rõ ràng việc sử dụng tôn giáo để biện minh cho bạo lực. Bên cạnh đó cần thăng tiến việc tách rời tích cực và tôn trọng giữa tôn giáo và Nhà nước, phân biệt hai lãnh vực làm sao để mỗi bên tự trị và độc lập, mà không ngăn cản sự cộng tác cần thiết giữa hai bên, cùng hiện hữu nhưng không chống lại nhau nhờ sự đối thoại giữa các giới chức tôn giáo và chính trị trong việc tôn trọng các thẩm quyền của nhau (SD 8-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Trung thành theo Chúa

Trung thành theo Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?

Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!

Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.

Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.

Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.

Thưa anh chị em,

Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.

Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.

Anh chị em thân mến,

Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.

Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).

Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.

Đức Thánh Cha chống luật Âu Châu hạn chế tự do tôn giáo

Đức Thánh Cha chống luật Âu Châu hạn chế tự do tôn giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội Kitô tại Âu Châu nói một tiếng nói duy nhất trước những thách đố ngày nay, đặc biệt chống các luật hạn chế tự do tôn giáo.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7-5-2015, dành cho Ủy ban Liên HĐGM Âu Châu và Hội đồng các Giáo Hội Kitô Âu Châu, đang nhóm khóa họp thường niên tại Roma từ ngày 6 đến 8-5-2015 này về đề tài ”Tự do và các quyền tự do”.

Ủy ban gồm 7 thành viên đại diện của 34 HĐGM Công Giáo ở Âu Châu (CCEE) và 7 thành viên khác đại diện cho 125 Giáo Hội Kitô không Công Giáo thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Âu Châu (CEC).

Liên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận có tiến bộ trong tiến trình đại kết Kitô nhưng vẫn còn có nhiều chia rẽ, gây gương mù và cản trở chính nghĩa loan báo Tin Mừng. Ngài khuyến khích các nỗ lực và hoạt động chung và nói rằng:

”Ngày nay các Giáo Hội và các Cộng đồng Giáo Hội ở Âu Châu đang phải đương đầu với những thách đố mới mẻ và quan trọng, và chỉ có những câu trả lời hữu hiệu nếu chúng ta nói cùng một tiếng nói. Ví dụ tôi nghĩ đến thách đố được đề ra do những đạo luật nhân dành nguyên tắc bao dung được giải thích sai trái, rốt cuộc những luật lệ ấy cấm cản các công dân không được tự do biểu lộ và thực hành một cách ôn hòa và hợp pháp các xác tín tôn giáo của họ.

”Ngoài ra, đứng trước thái độ của Âu Châu trong việc đương cầu với cuộc di cư nhiều khi bi thảm của hàng ngàn người trốn chạy chiến tranh, bách hại và lầm than, các Giáo Hội và cộng đồng Giáo Hội ở Âu Châu có nghĩa vụ cộng tác với nhau để thăng tiến tìn liên đới và sự đón tiếp. Các tín hữu Kitô tại Âu Châu được kêu gọi cầu nguyện và hoạt động tích cực để mang lại đối thoại và an bình trong các cuộc xung đột hiện nay” (SD 7-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Công nghị phong 20 Hồng Y và xác định lễ phong 4 hiển thánh

Công nghị phong 20 Hồng Y và xác định lễ phong 4 hiển thánh

VATICAN. Sáng ngày 14-2-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự công nghị tấn phong 20 Hồng Y mới, trong đó có ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, đồng thời xác định sẽ tôn phong 4 thánh nữ vào ngày 17-5-2015.

Đây là công nghị lần thứ 2 ĐTC Phanxicô chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô để tấn phong Hồng y Lần đầu tiên ngày 22-2 năm 2014 để phong 19 Hồng Y và lần này 20 vị thuộc 18 quốc tịch.

Mass to 20 new cardinals

Giống như năm ngoái, hiện diện tại buổi lễ cũng có Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, đáp lời mời của ĐTC Phanxicô. Ngài ngồi cạnh các Hồng Y đẳng Giám Mục và Thượng Phụ. Tiếp đến có 145 Hồng y, khoảng 100 giám mục và 8 ngàn tín hữu, trong đó có thân nhân, bạn hữu và giáo hữu của các tiến chức Hồng Y. Đặc biệt đến từ Việt Nam có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc của Giáo phận Sàigòn, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Đức Cha Vũ Huy Chương GM giáo phận Đàlạt, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, GM Cao Bằng Lạng Sơn, Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, GM Vinh. Ngoài ra có các cha quản hạt giáo phận Hà Nội, thân nhân, cộng tác viên và giáo hữu của Đức Tân Hồng Y Việt Nam, tổng cộng khoảng 60 người, không kể đông đảo LM, tu sĩ và chủng sinh Việt Nam ở Roma.

Có một tiến chức Hồng Y xin kiếu không đến dự công nghị được vì tuổi cao sức yếu, đó là ĐHY José de Jesus Pimiento Rodriguez, 96 tuổi, nên đã xin nhận Mũ Đỏ tại gia.

19 tiến chức Hồng y ngồi hai bên bàn thờ chính, trong khi các Hồng y và các GM ngồi phía trước bàn thờ. Trong số các tân Hồng Y có 15 vị dưới 80 tuổi và đến từ 14 quốc gia, gồm 5 vị người Âu, 3 vị Á châu, 3 vị Mỹ la tinh, 2 từ Phi châu và 2 vị từ Úc châu. 2 tiến chức Hồng Y Phi châu đến từ Etiopia và Capo Verde, hai vị người Úc đến từ New Zealand và quần đảo Tonga, 3 vị Á châu là người Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, 3 vị Mỹ châu la tinh đến từ Mêhicô, Urugay và Panamá.

ĐTC đội mũ cho các tân Hồng Y

Ngoài ra, trong số các tân Hồng Y có 4 vị thuộc các dòng tu, gồm 2 vị Don Bosco, 1 vị dòng thánh Vinh Sơn Phaolô và một vị dòng thánh Augustino nhặt phép. Toàn Hồng y đoàn có 13 HY cử tri thuộc các dòng tu, trong đó đông nhất là 4 vị thuộc dòng Don Bosco.

Vị Hồng y duy nhất được ĐTC bổ nhiệm cho giáo triều Roma lần này là ĐHY Dominique Mamberti, sinh tại Maroc cách đây 63 năm, nhưng nguyên quán tại đảo Corse bên Pháp. Năm 2006 sau 4 năm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Sudan, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm ngoại trưởng Tòa Thánh. Hồi tháng 11-2014 ĐTC Phanxicô chọn ngài làm Chủ tịch Tối cao Pháp Viện của Tòa Thánh.

Riêng Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ngài đứng thứ 6 trong danh sách các vị được tấn phong lần này. Năm nay ngài 77 tuổi (1-4-1938), thụ phong linh mục ngày 21-12-1967 thuộc lớp đầu tiên của Giáo Hoàng Chủng viện thánh Piô 10 Đà Lạt và 24 năm sau, được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991, và trở thành GM chính tòa 3 năm sau đó (23-3-1994). Cách đây 5 năm (22-4-2010) ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội, và chỉ 11 ngày sau đó, 13-5-2010, ngài trở thành TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

New Carninal included Nguyễn văn Nhơn             Tân Hồng Y Nguyễn văn Nhơn bắt tay chào mừng các vị Hồng Y khác

Cũng như hầu hết các Hồng Y khác trong đợt ngày, Đức TGM Nguyễn Văn Nhơn không hề được Tòa Thánh báo trước việc chọn ngài làm Hồng Y, và ngài chỉ được Đức TGM Girelli, Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam, chính thức báo tin việc bổ nhiệm này 1 giờ sau khi ĐTC công bố danh tánh các tiến chức Hồng Y trong buổi đọc kinh Tuyền Tin trưa chúa nhật 4-1 vừa qua tại Vatican.

Lễ phong Hồng Y được cử hành dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa. Khi tiến lên bàn thờ chính, ĐTC đã đến chào Đức nguyên Giáo Hoàng rồi tiến tới trước Mộ Thánh Phêrô cúi mình, thinh lặng cầu nguyện.

Sau lời chào phụng vụ của ĐTC, ĐHY Dominique Mamberti, vị đứng đầu danh sách các tiến chức đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC, đồng thời cũng chào thăm vị Tiền Nhiệm của ngài đang hiện diện.

Tiếp đến, sau lời nguyện của ĐTC, cộng đoàn đã nghe đọc đoạn thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Corinto, đoạn thứ 12 và 13 (12,31-13,13), đề cao vai trò của đức bác ái: dù thông thạo mọi sự, dù làm những công trình to lớn hay bao công việc khác, nếu không có bác ái thì cũng vô ích…

Trong bài huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn bài Thánh Thư vừa đọc và đề cao tầm quan trọng của đức bác ái trong đời sống các vị được giao phó trọng trách trong Giáo Hội.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh em Hồng Y thân mến,
Tước Hồng Y chắc chắn là một địa vị nhưng không phải là địa vị vinh dự. Nguyên danh từ Cardinale đã cho thấy điều đó, từ này gợi lại từ ”cardine”, bản lề; vì thế đây không phải là một cái gì phụ thuộc, trang trí, làm cho người ta nghĩ đến một huy chương danh dự, nhưng là một bản lề, một điểm tựa và sự chuyển động thiết yếu đối với đời sống của cộng đoàn. Anh em là ”những bản lề” và được tháp nhập vào Giáo phận Roma, là giáo phận chủ trì cộng đoàn hiệp thông bác ái hoàn vũ” (LG 13, Xc Ignatio Ant., Ad Rom. Prologo).

Trong Giáo Hội mỗi chức vị chủ tịch đều xuất phát từ đức bác ái, phải được thực thi trong tình bác ái và có mục đích là bác ái. Cả trong lãnh vực này, Giáo Hội ở Roma thi hành một vai trò gương mẫu: về cách thức chủ trì trong tình bác ái, để mỗi Giáo Hội địa phương được kêu gọi chủ trì trong tình bác ái nơi khuôn khổ của mình.
Vì thế, tôi nghĩ rằng ”bài ca đức ái” trong thư thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi các tín hữu thành Corinto là lời hướng dẫn buổi cử hành này và sứ vụ của anh em, đặc biệt đối với những người trong anh em hôm nay gia nhập Hồng y đoàn. Và để cho chúng ta được hướng dẫn như thế thật là tốt, bắt đầu từ tôi và anh em cùng tôi. Chúng ta được hướng dẫn bằng những lời linh hứng của thánh Phaolô Tông Đồ, đặc biệt khi thánh nhân liệt kê những đặc tính của đức bác ái. Ước gì Mẹ Maria giúp chúng ta trong sự lắng nghe này. Mẹ đã trao tặng cho thế giới Đấng là ”Con đường tuyệt hảo nhất” (Xc 1 Cr 12,31) là Chúa Giêsu, là Đức Bác Ái nhập thể; ước gì Mẹ giúp chúng ta đón nhận Lời này và luôn tiến bước trên Con đường là Chúa Giêsu. Xin Mẹ giúp chúng ta với thái độ khiêm tốn và dịu dàng của Mẹ, vì đức bác ái, hồng ân của Thiên Chúa, tăng trưởng tại nơi nào có khiêm tốn và dịu dàng.

Nhất là thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đức bác ái thì ”đi đảm” và ”từ nhân”. Hễ trách nhiệm càng rộng lớn trong việc phục vụ Giáo Hội, thì con tim càng phải mở rộng, nở lớn theo mức độ của con tim Chúa Kitô. Đại đảm, theo một nghĩa nào đó, cũng đồng nghĩa với đặc tính công giáo: nghĩa là biết yêu thương vô biên, nhưng đồng thời trung thành với những hoàn cảnh đặc thù và với những cử chỉ cụ thể. Yêu thương những gì là cao cả nhưng không lơ là những gì là bé nhỏ; yêu những điều bé nhỏ trong chân trời của những điều lớn, bởi lẽ ”không nản chí vì những công trình vĩ đi, nhưng dấn thân vào những việc bé nhỏ nhất, đó thc là điều thần linh” (Non coerceri a maximo, contineri tamen a minimo divinum est). Biết yêu thương bằng những cử chỉ từ nhân. Từ nhân là ý hướng cương quyết và bền bỉ, luôn luôn muốn điều thiện và cho tất cả mọi người, kể cả những người không thích chúng ta.
Rồi Thánh Tông Đồ nói rằng, đức bác ái ”không ghen tương, không háo danh, không tự kiêu tự đại”. Đây thực là một phép lạ của đức bác ái, vì con người chúng ta, tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi trong cuộc sống, chúng ta có xu hướng ghen tương và kiêu ngạo do bản tính của chúng ta đã bị thương tổn vì tội lỗi. Và cả những địa vị trong Giáo Hội cũng không được miễn nhiễm khỏi cám dỗ này. Nhưng chính vì thế, anh em thân mến, sức mạnh thần linh của đức bác ái có thể càng nổi bật trong chúng ta, sức mạnh biến đổi con tim, đến độ không còn là bạn sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong bạn. Và Chúa Giêsu là tất cả tình yêu.

Ngoài ra, đức bác ái ”không thiếu sự tôn trọng, không tìm tư lợi”. Hai đặc điểm này cho thấy ai sống trong đức bác ái thì không qui hướng vào mình. Ai tự qui hướng vào mình thì chắc chắn là điều tôn trọng và thường họ không nhận thấy điều đó, vì ”tôn trọng” chính là khả năng để ý đến người khác, đến phẩm giá, hoàn cảnh và những nhu cầu của họ. Ai tự tập trung vào mình thì chắc chắn sẽ tìm tư lợi, và dường như họ thấy đó là điều bình thường, hầu như là điều bắt buộc. ”Lợi lộc” ấy cũng có thể được bọc bằng những bộ áo cao thượng, nhưng bên dưới đó vẫn luôn luôn là tư lợi. Trái lại đức bác ái làm cho bạn không tự tập trung vào mình và đặt bạn ở nơi trung tâm đích thực là một mình Chúa Kitô. Và như thế, bạn có thể là một người tôn trọng và quan tâm đến thiện ích của tha nhân.

Thánh Phaolô nói: ”Đức bác ái không thịnh nộ, không đ ý đến điều ác phải chịu”. Đối với người mục tử sống tiếp xúc với dân chúng, không thiếu những dịp để nổi giận. Và chúng ta càng có nguy cơ nổi giận trong những quan hệ với các anh em của mình, vì trong thực tế chúng ta ít có lý do để chữa mình. Cả trong trường hợp này, đức bác ái, và chỉ có đức bác ái mới giải thoát chúng ta. Giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ phản ứng theo sự thúc đẩy của bản năng, nói và làm những điều sai lầm, và nhất là đức bác ái giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ tử vong của sự giận dữ bị dồn nén, ”bị âm ỉ” bên trong, khiến bạn để ý đến những điều ác mà bạn phải chịu. Không, điều này không thể chấp nhận được nơi con người của Giáo Hội. Người ta có thể tha thứ sự nổi giận nhất thời rồi nguội đi ngay, nhưng đối với sự oán hận thì không. Xin Chúa giúp chúng ta tránh thoát và giải phóng chúng ta khỏi những điều ấy.

Thánh Phaolô nói thêm rằng đức bác ái ”không vui mừng vì điều bất công nhưng vui mừng vì chân lý”. Ai được kêu gọi thi hành công tác phục vụ là cai quản trong Giáo Hội thì phải có một ý thức mạnh mẽ về công lý, đến độ thấy rằng không thể chấp nhận bất kỳ điều bất công nào, cả điều bất công có lợi cho bản thân hoặc cho Giáo Hội. Và đồng thời, ”vui mừng vì chân lý”: thật là một thành ngữ đẹp dường nào! Người của Thiên Chúa là người được chân lý thu hút và tìm thấy chân lý trọn vẹn trong Lời và trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô. Chúa là nguồn mạch niềm vui vô tận cho chúng ta. Ước gì Dân Chúa luôn có thể tìm thấy nơi chúng ta sự quyết liệt tố giác bất công và vui mừng phục vụ chân lý.

Sau cùng, đức bác ái ”tha thứ tất cả, tin tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Ở đây trong 4 lời này có chứa đựng một chương trình đời sống thiêng liêng và mục vụ. Tình yêu được Chúa Thánh Linh đổ vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống và trở thành thế này: thành người có khả năng luôn luôn tha thứ; luôn luôn tin tưởng, vì đầy tràn niềm tin nơi Thiên Chúa; có khả năng luôn luôn mang lại hy vọng vì tràn đầy hy vọng nơi Thiên Chúa; trở thành những người biết kiên nhẫn chịu đựng mọi tình trạng, mọi người anh chị em, trong niềm kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương chịu đựng gánh nặng của tất cả tội lỗi chúng ta”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em thân mến, tất cả những điều ấy không đến từ chúng ta, nhưng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương và Ngài thi hành mọi điều ấy, nếu chúng ta ngoan ngoãn đối với tác động của Thánh Linh của Ngài. Vì vậy chúng ta phải trở thành ”người được tháp nhập và ngoan ngoãn”. Hễ chúng ta càng được tháp nhập vào Giáo Hội ở Roma, thì chúng ta càng phải trở nên ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để đức bác ái có thể mang lại hình thái và ý nghĩa cho tất cả những gì chúng ta sống và làm. Được nhập tịch vào Giáo Hội chủ trì trong đức bác ái, ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh là Đấng đổ tràn tâm hồn chúng ta tình yêu của Thiên Chúa (Xc Rm 5,5). Amen

Nghi thức phong Hồng Y

Sau bài huấn dụ, ĐTC bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng y mới. Ngài nói:

”Anh chị em rất thân mến, chúng tôi sắp thi hành một hành vi trọng đại và vui mừng trong thánh vụ của chúng tôi. Hành vi này có liên hệ trước tiên tới Giáo Hội tại Roma, nhưng cũng liên quan tới toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi sắp gọi một số người anh em gia nhập Hồng Y đoàn, để các vị được hiệp nhất với Tòa thánh Phêrô bằng một mối dây bền chặt hơn, trở nên thành phần của hàng giáo sĩ Roma, và cộng tác mật thiết hơn với sứ vụ tông đồ của chúng tôi.”

”Mang mặc phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc âm của ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất. Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Hội Thánh Roma.”

Đến đây, ĐTC lần lượt xướng tên 20 hồng y mới, cộng đoàn nhiệt liệt vỗ tay chào mừng khi tên mỗi vị được nhắc đến. ĐTC ấn định 3 vị tân Hồng y thuộc đẳng phó tế, 17 vị còn lại là các Hồng y thuộc đẳng Linh Mục, hầu hết là những vị đang coi sóc các giáo phận ở các nơi.

Nhà thờ hiệu tòa được ĐTC chỉ định cho ĐHY Phêrô Nguyễn Văn Nhơn là nhà thờ giáo xứ thánh Tômaso Tông Đồ ở khu ngoại ô phía Đông Nam Roma cách trung tâm chừng 30 cây số. Giáo xứ này được thành lập cách đây 51 năm, thánh đường mới của giáo xứ được khánh thành cách đây 2 năm và hồi năm ngoái đã được ĐTC Phanxicô viếng thăm. Trong những năm gần đây dân số giáo xứ gia tăng mạnh gồm hơn 6 ngàn gia đình với trên 20 ngàn dân. Phần lớn dân cư tại đây thuộc giai cấp trung lưu và thượng trung lưu.

Tiếp tục nghi thức, theo lời mời gọi của ĐTC, các tiến chức Hồng Y tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn luôn tuân phục Tòa Thánh và Thánh Phêrô nơi bản thân ĐTC Phanxicô và các đấng kế vị ngài được bầu lên hợp pháp; luôn bảo tồn bằng lời nói và hành động tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo; không bao giờ tiết lộ cho người nào những gì đã được ủy thác để gìn giữ, mà sự tiết lộ điều ấy có thể gây hại hoặc làm ô danh Hội Thánh; hết sức chuyên cần và trung tín thi hành các công tác được kêu gọi thi hành trong việc phục vụ Giáo Hội, theo các quy tắc luật định.

Kế đến, từng Hồng Y lần lượt tiến lên quì trước mặt ĐTC để ngài đội mũ đỏ Hồng Y, với lời nhắn nhủ:

”Để ngợi khen Thiên Chúa Toàn Năng và mang lại vinh dự cho Tòa Thánh, ĐHY hãy nhận mũ đỏ này như dấu chỉ phẩm vị Hồng Y, có nghĩa là ĐHY phải sẵn sàng cư xử can đảm, cho đến độ đổ máu đào, để làm tăng trưởng Đức Tin Kitô giáo, cho hòa bình và yên hàn của Dân Chúa, cho tự do và sự mở rộng Giáo Hội Roma Thánh”.
Và khi trao nhẫn, ngài nói:

”Đức Hồng Y hãy nhận chiếc nhẫn từ tay của Phêrô, và Đức Hồng Y hãy biết rằng nhờ yêu mến vị Thủ lãnh các thánh tông đồ mà lòng yêu mến Giáo hội của ĐHY được kiện cường”.

Sau cùng ĐTC trao sắc chỉ về việc phong Hồng Y cũng như việc chỉ định tước hiệu thánh đường của tân chức.
Sau khi lãnh mũ và sắc phong các Tân Hồng Y trao đổi cử chỉ bình an với ĐTC các vị đến chào các Hồng Y cũ rồi lên ngồi trên 19 chiếc ghế dành cho các vị phía tay trái của ĐTC, đối diện với hàng ghế của các Hồng Y cũ.
Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC xin cho các tôi tớ Chúa là các tân Hồng Y khi kiên trì xây dựng Giáo Hội, chiếu tỏa rạng ngời với đức tin toàn vẹn và tâm trí tinh tuyền.

Công nghị phong thánh

Phần thứ 2 của Công nghị là việc phong hiển thánh cho 3 nữ chân phước: 1 vị người Pháp và 2 vị người Palestine:
Mở đầu, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh Giáo Hội cùng với các Hồng Y và GM tụ họp nơi đây xin ĐTC ghi tên 3 vị chân phước vào sổ bộ các thánh trong tương lai gần đây, đó là Jeanne Emilie de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh Baouardy và Maria Alfonsa Danil Ghattas.

Rồi ĐHY tóm lược tiểu sử của 3 vị nữ chân phước:

– Đứng đầu là chân phước Jeanne Emilie de Villeneuve, sáng lập dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thành phố Castres, miền nam Pháp, sinh năm 1811 và qua đời năm 1854 lúc 43 tuổi đời. Năm 1836, khi được 25 tuổi, chị thành lập một cộng đoàn nữ tu với danh hiệu ”Các nữ tu xanh ở Castres”: giữa thời cách mạng công nghệ, chị và hai người bạn đồng chí hướng chăm sóc các phụ nữ nghèo khổ, các nữ công nhân, bệnh nhân và phụ nữ mại dâm, trong một căn nhà ở Castres. Dòng này hiện có hơn 600 nữ tu thuộc 120 cộng đoàn, hoạt động trong lãnh vực giáo dục, y tế, và xã hội tại nhiều nước Phi châu, Âu Châu, Mỹ la tinh và Á châu Thái Bình Dương.
– Thứ hai là chân phước Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh, tục danh là Maria Baouardy, nữ đan sĩ dòng Cát Minh nhặt phép, người Palestine. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, khi lên 13 tuổi Maria bị chú ruột ép cho một người họ hàng theo phong tục thời ấy, nhưng Maria quyết liệt từ khước vì muốn dâng mình cho Chúa. Chị là một nhà thần bí, với nhiều thị kiến. Chị qua đời năm 1878 tại Đan viện ở Bethlehem lúc 32 tuổi.

– Sau cùng là chân phước Maria Alphonsa Danil Ghattas, người Palestine, sinh tại Jerusalem năm 1843 và qua đời năm 1927, thọ 84 tuổi. Chị cũng là một nhà thần bí và đã sáng lập dòng nữ Đa Minh Mân Côi tại Thánh Địa. Chị được phong chân phước tại Nazareth ngày 22-11 năm 2009 (SD 6-2-2015)

Và ĐHY Amato kết luận rằng: Vì vậy, để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn Giáo Hội, con nồng nhiệt xin ĐTC, dùng quyền Tông Đồ, quyết định phong hiển thánh cho các vị chân phước này, và xác định ngày long trọng ghi tên các vị vào sổ bộ các thánh.

ĐTC nói:
”Chúng tôi đã được ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cho biết tất cả những gì cần thiết đã được hoàn thành tốt đẹp tại Bộ, để các chân phước Jeanne Emilie de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh Baouardy và Maria Alfonsina Danil Ghattas được ghi vào sổ bộ các thánh. Nhưng anh em đáng kính, trước khi cử hành công nghị này, qua giấy tờ, anh em đã bày tỏ riêng ý kiến của anh em và tuyên bố các vị chân phước này đáng được đề nghị như mẫu gương cho toàn thể Giáo Hội, đặc biệt trong hoàn cảnh thời nay. Anh em đáng kính, tôi vui mừng vì anh em nghĩ rằng 3 vị chân phước đáng được đề nghị cho toàn thể Giáo Hội tôn kính. Vì thế, với quyền của Thiên Chúa toàn năng, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và quyền của chúng tôi, chúng tôi quyết định rằng, cùng với chân phước Maria Cristina Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, mà việc phong thánh đã được quyết định trong công nghị Hồng Y năm ngoái, ba chân phước Jeanne de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh và Maria Alfonsina Danil Ghattas sẽ được ghi vào sổ bộ các thánh ngày 17 tháng 5 năm 2015.

Công nghị kéo dài 1 giờ 25 phút và kế thúc lúc 12 giờ 25.

Viếng thăm chúc mừng các tân Hồng Y

Theo chương trình, chiều hôm qua, từ lúc 4 giờ rưỡi, các tân hồng y được nhiều người thân, bạn hữu và quan khách đến chúc mừng tại các địa điểm được chỉ định cho mỗi vị: 4 tân Hồng y thuộc giáo triều ở trong dinh Giáo Hoàng, và 15 vị còn lại tại nhiều địa điểm trong khu vực Đại thính đường Phaolô 6.

Với việc bổ nhiệm này, con số thành viên Hồng Y đoàn là 227 vị, trong đó có 125 Hồng Y cử tri dưới 80 tuổi, tức là vượt quá con số 120 Hồng Y cử tri được luật ấn định. số những nước có HY cử tri được bổ nhiệm lần này có những quốc gia chưa hề có Hồng y bao giờ như Capo Verde, Tonga, Myanmar, Uruguay, Panamá. Đây là một dấu chỉ ĐGH rất tự do trong việc bổ nhiệm, không câu nệ truyền thống. Với việc bổ nhiệm HY cho những nước bé nhỏ hoặc ít tín hữu Công Giáo như Capo Verde, Tonga và Myanmar, ngài muốn mang lại vị thế quan trọng hơn cho những nước nhỏ thường bị quên lãng.

Trong Hồng y đoàn mới, Âu Châu vẫn đứng đầu với 119 Hồng y, trong đó có 57 Hồng y cử tri, Bắc Mỹ 27 vị trong đó có 18 HY cử tri, Nam Mỹ có 26 vị trong đó 12 vị dưới 80 tuổi. Nhưng với việc bổ nhiệm mới, tỷ số này suy giảm từ 60 xuống còn 56,8% Hồng Y đoàn.

Á châu chỉ có 22 Hồng Y, trong đó có 14 HY cử tri, Phi châu 21 Hồng y trong đó có 15 vị dưới 80 tuổi. Hai đại lục này có số tín hữu Công Giáo tăng nhanh nhất.

Sau cùng là Châu Đại Dương có 5 Hồng Y kể cả 2 tiến chức mới được tuyên bố bổ nhiệm, trong đó có 3 HY cử tri.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Vua vĩnh cửu

Vua vĩnh cửu

Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.

Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.

Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.

Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.

Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.

Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:

– Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.

Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?

Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:

– Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.

Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:

– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…

Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.

Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

Sưu tầm

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đỉch thực.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài phát biểu trước các giới chức chính quyền Albania trong chuyến viếng thăm nước này Chúa Nhật 21-9-2014. Đây là chuyến công du thứ tư ngoài Italia, chỉ kéo dài 11 giờ đồng hồ.

Ban sáng Đức Thánh Cha đã đi xe đến phi trường quốc tế Fiumicino để lấy máy bay đi Tirana. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Cha Gino Reali, Giám Mục giáo phận Porto Santa Rufina bao gồm phi trường Fiumicino. Chiếc máy bay của hãng hàng không Alitalia A320 đã cất cánh lúc 7 giờ rưỡi và đã đến phi trường quốc tế ”Mẹ Têrêxa” lúc 9 giờ.

Đón tiếp Đức Thánh Cha tại phi trường Tirana có Đức Tổng Giám Mục Ramiro Moliner Inglés, Sứ Thần Tòa Thánh tại Albania, Thủ tướng Edi Rama, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Văn hóa Albania. Hiện diện tại phi trường cũng có vài giới chức chính quyền khác, các Giám Mục Albania và một nhóm tín hữu.

Sau khi duyệt qua hàng chào danh dự Đức Thánh Cha và Thủ tướng đã vào phòng khách phi trường đàm đạo một lúc.

Albania rộng hơn 28 ngàn cây số vuộng, có hơn 3 triệu dân, 97% là người Albani, 1% là người Hy lạp, 2% còn lại gồm người Arumeni, Rom, Serbi, Macedoni, Montenegrini và Armeni. Ngoài ra cũng có các nhóm thiểu số khác như người Bosniaci hồi giáo, Ashkhli, Gorani và Do thái. Trên bình diện tôn giáo 56.7% tổng số dân theo Hồi giáo, 10% theo Công Giáo, 6.8% theo Chính Thống, 2.1% là tín hữu Bektashi, 5.7% theo các tôn giáo khác và 16.2% không theo tôn giáo nào.

Thành phố Tirana được thành lập năm 1614 và trở thành thủ đô năm 1920, hiện có hơn 421 ngàn dân và là thành phố đông dân nhất Albania. Hiện nay Tirana đang trong giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và thành thị hóa manh mẽ, với việc xây cất nhiều dinh thự, công viên, và tái thiết các cơ sở tôn giáo, đặc biệt là các cơ sở kitô bị phá hủy trong thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ và dưới chế độ cộng sản vô thần. Trong số các nơi thờ tự kitô bị chế độ cộng sản phá hủy năm 1967 có nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu của các cha dòng Tên và nhà thờ chính tòa chính thống Chúa Kitô Phục Sinh, được xây năm 2012 trên một thửa đất khác.

Tổng giáo phận Tirana Durazzo có hơn 1.2 triệu dân, trong đó có 135 ngàn tín hữu công giáo, tức chiếm 11%, với 19 giáo xứ. Nhân lực gồm Đức Cha Rrok Mirdita, 9 linh mục triều, 30 linh mục dòng, 33 tu huynh, 121 nữ tu, 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điểu khiển 14 cơ sở giáo dục và 7 trung tâm bác ái.

Lúc 9 giờ 15 phút Đức Thánh Cha đã đi xe về Dinh tổng thống nơi diễn ra lễ nghi chào đón chính thức. Dinh tổng thống hiện nay do vua Zog cho xây trong các năm 1939-1941, sau đó đã được tu sửa thêm. Tổng thống Bujar Nishani năm nay 48 tuổi, có vợ và hai con, đã từng du học bên Hoa Kỳ và đậu tiến sĩ Luật năm 2004, từng là giáo sư tại Hàn lâm viện quân sự Tirana, nhân viên bộ Nội vụ và làm Bộ trưởng Nội Vu năm 2009, 2011-2012, rồi được bầu làm tổng thống từ tháng 6 năm 2012.

Tổng thống Nishani đã tiếp đón Đức Thánh Cha tại cửa vào dinh tổng thống. Ban nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Albania. Sau đó hai vị và đoàn tùy tùng tiến vào đại sảnh chụp hình lưu niệm, ký tên vào sổ vàng và giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến Đức Thánh Cha hội kiến riêng với tổng thống trong ”Thư phòng xanh”. Sau đó tổng thống giới thiệu gia đình và trao đổi qùa tặng. Lúc 10 giờ tổng thống tháp tùng Đức Thánh Cha vào phòng khách Scandenberg để gặp gỡ hàng lãnh đạo dân sự, Ngoại giao đoàn và vài vị lãnh đạo tôn giáo.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha tổng thống Nishani bầy tỏ niềm vui của toàn dân Albania vì sự hiện diện của ngài trong một đất nước Albania dân chủ tự do, đã thoát khải ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ cộng sản khinh rẻ và chà đạp các quyền tự do của con người. Ngày nay Albania là một quốc gia trong đó người dận thuộc các Giáo Hội công giáo, chính thống và hồi giáo chung sống trong hòa bình, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau chung xây đất nước. Tuy nhiên, dân nước Albania cũng phải đương đầu với nhiều thách đố mới của chế độ tư bản và việc toàn cầu hóa với các hậu qủa tiêu cực của nó.

Đáp lời tổng thống Đức Thánh Cha bầy tỏ niềm vui được đến viếng thăm Albania, vùng đất của các anh hùng đã hy sinh mạng sống cho nền độc lập quốc gia, vùng đất của các vi tử đạo đã làm chứng cho đức tin trong các thời gian khó khăn của các cuộc bách hại, vùng đất của chim đại bàng và hiếu khách. Một phần tư thế kỷ đã qua đi, kể từ khi Albania tìm lại được con đường cam go chiến thăng của tự do. Nó đã cho phép xã hội Albania bước vào con đường tái thiết vật chất và tinh thần, huy động được biết bao năng lực và sáng kiến, rộng mở cho sự cộng tác và trao đổi với các quốc gia trong vùng Balcan và Địa Trung Hải, với Âu châu cũng như toàn thế giới. Nó đã cho phép nhìn tương lai với sự tin tưởng và niềm hy vọng, khởi sự các chương trình và dệt lại các liên hệ thân hữu với các quốc gia gần xa. Việc tôn trọng các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo và tự do tư tưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển xã hội và kinh tế của một quốc gia. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điểm này như sau:

Khi phẩm giá con người đưọc tôn rọng và các quyền của nó được thừa nhận và bảo đảm, thì cũng nở hoa óc sáng tạo và việc kinh doanh, và bản vị con người có thể khai triển nhiều sáng kiến của mình để mưu cầu công ích. Tôi đặc biệt vui mừng vì một đăc thái hạnh phúc của Albania, cần được giữ gìn cẩn trọng: đó là sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa các thành phần tôn giáo khác nhau. Bầu khí tôn trọng lẫn nhau giữa các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo là một thiện ích qúy báu đối với quốc gia và nó có ý nghĩa, đặc biệt trong thời đại chúng ta, trong đó ý nghĩa tôn giáo bị làm cho méo mó bởi các nhóm cuồng tín, và các khác biệt giữa các tôn giáo bị bóp méo và lèo lái khiến cho chúng trở thành một yếu tố nguy hiểm của xung đột và bạo lực, thay vì là dịp đối thoại cởi mở, tôn trọng và suy tư chung về ý nghĩa của việc tin nơi Thiên Chúa và sống theo luật lệ của Người.

Đừng có ai nghĩ rằng có thể lấy Thiên Chúa làm thuẫn đỡ, trong khi dự tính có các cử chỉ bạo lực và đàn áp! Đừng có ai viện cớ tôn giáo cho các hoạt động trái nghịch với phẩm giá và các quyền nền tảng của con người, trước hết là quyền sống và quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người! Trái lại, điều đang xảy ra tại Albania chứng minh cho thấy sự chung sống hòa bình phong phú giữa các con người và các cộng đoàn thuộc các tôn giáo khác nhau, không chỉ là điều đáng cầu chúc, nhưng một cách cụ thể là đIều có thể làm được. Sự chung sống hòa bình giữa các cộng đoàn tôn giáo khác nhau, thật ra, là một thiện ích vộ giá đối với hòa bình và phát triển hài hòa của một dân tộc. Đó là một gía trị cần được giữ gìn và gia tăng mỗi ngày với sự giáo dục tôn trọng các khác biệt và các căn tính đặc thù rộng mở cho đối thoại và cộng tác cho thiện ích của mọi người, với việc thực thi sự hiểu biết và qúy trọng nhau. Đó là một ơn cần luôn luôn nài xin Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Ước gì Albania luôn theo đuổi con đường này, và trở thành một gương mẫu cho biết bao quốc gia khác noi theo!

Sau mùa đông của sự cộ lập và các bách hại, cuối cùng mùa xuân của sự tự do đã tới. Qua các cuộc bầu cử tự do và các cơ cấu mới, sự đa nguyện dân chủ đã được cũng cố, và điều này cũng đã tạo thuân tiện cho việc tái lập các sinh hoạt kinh tế, khiến cho nhiều người dân Albania không còn phải di cư tìm công ăn việc làm nữa, nhưng ở lại trên quê hương để góp phần xây đựng nó từ bên trong.
Về phần mình, Giáo Hội đã có thể có được trở lại cuộc sống bình thường, tái lập hàng giáo phẩm. Các nơi thờ tự, trường học, trung tâm giáo dục và bác ái được tái thiết để phục vụ toàn xã hội và toàn quốc gia.

Tuy nhiên, giờ đây có các thách đố mới cần trả lời. Trong một thế giới hướng tới việc toàn cầu hóa cần phải làm mọi cố gắng để sự tiến bộ và phát triển kinh tế sinh ích lơi cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ cho một phần của dân chúng. Ngoài ra, sự phát triển đó sẽ không đích thật, nếu không có thể chịu đựng được và công bằng, nếu nó không chú ý tới các quyền của người nghèo và không tôn trọng môi sinh. Đối lại sự toàn cầu hóa các thị trường cần phải có sự toàn cầu hóa tình liên đới. Song song với sự tăng trưởng kinh tế cần phải tôn trọng môi sinh nhiều hơn. Cùng với các quyền cá nhân cũng phải bảo vệ quyền của các thực tại trung gian giữa cá nhân và Nhà nước, trước hết là các gia đình.

Sau cuộc gặp gỡ các giới chức lãnh đạo Albania tổng thống đã tháp tùng Đức Thánh Cha ra xe để ngài đến quảng trường Mẹ Têrexa cử hành thánh lễ cho tín hữu. Đức Thánh Cha đã đi xe jeep mui trần đến quảng trường cách đó 800 mét giữa tiếng vỗ tay reo vui của tín hữu. Họ vẫy cờ Tòa Thánh có hình Đức Thánh Cha và huy hiệu chuyến viếng thăm. Nhiều tín hữu đeo khăn quàng cổ mầu trắng và mầu vàng. Họ cũng mang theo ca bieu ngữ chào mừng Đức Thánh Cha hay có viết ”Đức Phanxicô là môt người trong chúng ta”. Khi đến quảng trường Đức Thánh Cha đã chào ông bà tỉnh trưởng. Ông Lulzim Xhelal Basha, thị trưởng Tirana, đã trao chià khóa thành phố cho Đức Thánh Cha như dấu chỉ toàn dân thủ đô tiếp đón vị thượng khách.

Khán đài nơi Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ mầu trẳng với các ghế ngồi mầu vàng và thảm đỏ. Bên phải bàn thờ có ảnh Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành. Tham dự thánh lễ cũng có tổng thống, thủ tướng, các giới chức chinh qyuền và đại diện của các tôn giáo bạn. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có hơn 30 Hồng Y, Giám Mục và mấy trăm linh mục. Thánh lễ vừa bắt đầu được một lúc thì trời đổ mưa lớn, nhưng sau đó lại tạnh ráo rồi lại mưa vào cuối thánh lễ. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh, các bài đọc và lời cầu giáo dận bằng tiếng Albani.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đem tình yêu của Thiên Chúa đến trần gian và muốn phổ biến nó qua sự hiệp thông và tình huynh đệ. Người thành lập một cộng đoàn gồm Mười Hai Tông Đồ, và sai họ cùng với 72 môn đệ khác đi rao giảng Tin Mừng, theo một kiễu rất đơn sơ, đi vào từng nhà một và nói lời chào binh an ”Bình an cho nhà này”. Đây không chỉ là một lời chào, mà còn là một ơn nữa. ơn bình an. Hôm nay, khi đến quảng trường dâng kính một người con gái khiêm tốn nhưng cao cả của vùng đất này, là chân phước Mẹ Têrexa Cacutta, tôi muốn lập lại lời chào ấy: bình an cho nhà của anh chị em, bình an cho con tim của anh chị em, bình an cho quốc gia của anh chị em.

Trong sứ mệnh của 72 của môn đệ Chúa phản ánh kinh nghiệm truyền giáo của cộng đoàn kitô thuộc mọi thời đại. Chúa phục sinh và hằng sống không chỉ gửi Mười Hai Tông Đồ, mà gửi toàn thể Giáo Hội, gửi từng tín hữu được rửa tội ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Nhưng đôi khi các cửa bị đóng kín. Áp dụng vào trường hợp của Albania Đức Thánh Cha nói:

Trong qúa khứ gần đây cánh cửa của nước Albania cũng đã bi đóng kín, với khóa của các cấm đoán và luật lệ của một chế độ khước từ Thiên Chúa và ngăn cản sự tự do tôn giáo. Những người sợ hãi sự thật và tự do đã làm mọi sự để xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người và loại bỏ Chúa Kitô và Giáo Hôi khỏi lịch sử quê hương của anh chị em, cả khi nó đã là một trong các nơi đầu tiên đón nhận ánh sáng Tin Mừng. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolo đã nhắc tới vùng Illiria thời đó bao gồm cả Albania ngày nay. Khi nghĩ tới các thập niên đau khổ tàn bạo và các cuộc bách hại khốc liệt chống lại các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo, chúng ta có thể nói rằng Albania đã là một vùng đất của các vị tử đạo: nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dận đã trả giá cho sự trung thành của họ bằng chính mạng sống… Biết bao kitô hữu đã không gập mình trước các đe dọa, nhưng đã không do dự tiếp tục con đường lòng tin. Trong tinh thần tôi tới bức tường của nghĩa trang Scutari, biểu tượng sự tử đạo của các tín hữu công giáo, nơi họ đã bị xứ bắn, và tôi cảm động đặt vòng hoa của lời cầu nguyện và tưởng niệm ghi ơn không tàn phai. Chúa đã gần gũi, hường dẫn, an ủi và nâng đỡ anh chị em trên cánh đại bàng, như Người đã làm xưa kia đối với dân Israel. Chim đại bàng được biểu hiệu trên quốc kỳ của anh chi em nhắc nhớ ý nghĩa của niềm hy vọng, luôn đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, là Đấng không gây thất vọng, nhưng luôn ở bên cạnh anh chị em, đăc biệt trong những lúc khó khăn.

Ngày nay các cánh cửa của Albania đã rộng mở và đang chín mùi cho một mùa truyền giáo mới đối với mọi thành phần dân Chúa: mỗi tín hữu đều có một chỗ đứng và một vai trò phải chu toàn trong Giáo Hội và trong xã hội. Từng người được mời gọi quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng và làm chứng cho tình bác ái, củng cố các tương quan liên đới để thăng tiến các điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn cho tất cả mọi người. Hôm nay tôi đến để khích lệ và làm cho niềm hy vọng lớn lên trong anh chị em và chung quanh anh chị em, để lôi cuốn các thế hệ trẻ dưỡng nuội mình bằng Lời Chúa và mở cửa lòng cho Chúa Kitô. Ước chi niềm tin của anh chị em luôn tươi vui rạng rỡ; Hãy cho thấy rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trao ban ý nghĩa cho cuộc sống con người, của mọi người. Cùng hiệp thông với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ tôi khuyến khích anh chị em hãy hăng say hoạt động mục vụ và tiếp tục tìm ra các hình thức mới để Giáo Hôi hiện diện trong xã hội. Tôi đặc biệt kêu gọi người trẻ đừng sợ hãi quảng đại đáp trả lời Chúa Kitô kêu mời đi theo Ngài. Trong ơn gọi linh mục tu sĩ các bạn sẽ tìm thấy sự giàu có và niềm vui tận hiến chính hình để phục vụ Thiân Chúa và tha nhân.

Hỡi Giáo Hội sống trên đất nước Albania này, xin cám ơn về gương trung thành của ngươi với Tin Mừng! Biết bao nhiệu con trai con gái ngươi đã đau khổ vì Chúa Kitô, đến hy sinh mạng sống. Xin chứng tá của họ nâng đỡ các bước chân ngươi ngày hôm nay và ngày mai, trên con đường tình yêu, sự tự do, công lý và hòa bình. Amen.

Bài giảng của Đức Thánh Cha đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.

Ngỏ lới với mọi người trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các bạn trẻ xây dựng cuộc sống trên Chúa Kitô là Đá Tảng, vì Ngài luôn trung thành, cả khi chúng ta bất trung. Đức Thánh Cha nói: Hỡi các bạn trẻ, các con là thế hệ mới của đất nước Albania. Với sức mạnh của Tin Mừng và gương của các vị tử đạo, hãy biết nói không với thần tượng của tiền bạc, nói không với sự tự do giả dối cá nhân chủ nghĩa, nói không với các tùy thuộc và bạo lực. Trái lại, hãy nói có với nền văn hóa của sự gặp gỡ và tình liên đới, nói có với vẻ đẹp bất khả phân ly của thiện mỹ, nói có với cuộc sống tiệu bao với tâm hồn lo lớn nhưng trung thành trong những điều nhỏ nhặt. Như thế các con sẽ xây dựng một đất nước Albania và một thế giới tốt đẹp hơn. Đức Thánh Cha đã phó thác toàn Giáo Hội và dân tộc Albani, cách riếng các gia đình, trẻ em và người già cho sự chở che hiền mẫu của Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành Scutari.

Sau cùng, ngài đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau khi từ giã tín hữu Đức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để cùng các Giàm Mục và đoàn tùy tùng dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tuc các sinh hoạt khác vào ban chiều là: gặp gở hàng lãnh đạo các tôn giáo khác tại đại học Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành; cử hành buổi hát kinh chiều với các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các phong trào giáo dân tại nhà thờ chính tòa; gặp gỡ các trẻ em và nhân viên các trung tâm bác ái toàn nước Albania tại nhà Betania, trước khi ra phi trường lấy máy bay trở về Roma.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio