ĐTC Phanxicô cử hành Thánh lễ Phục sinh tại quảng trường thánh Phêrô

ĐTC Phanxicô cử hành Thánh lễ Phục sinh tại quảng trường thánh Phêrô

Lúc 10 giờ sáng chúa nhật hôm nay, 1-4, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô mừng kính Chúa Phục Sinh, trước sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu. Hiện diện gần bàn thờ có 25 Hồng Y, đông đảo các GM, các Giám chức và hằng trăm linh mục.

Đầu thánh lễ, hai thầy phó tế đã mở hai cánh cửa của bức ảnh Chúa Cứu Thế cực thánh cổ kính từ Đông Phương, bản chính hiện giữ tại Đền thờ Thang Thánh ở Roma, để ĐTC và mọi người hát mừng kính.

Phần thánh ca trong buổi lễ, ngoài Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn có 3 ca đoàn khác đảm trách, gồm Ca đoan Mẹ Giáo Hội, Ca hoàn Học viện Anh, và ca đoàn Học Viện Đức – Hungari.

Trong bài giảng ứng khẩu, dựa vào bài Tin Mừng vừa công bố, ĐTC nêu lên 3 nhận xét:

– Trước tiên: lời loan báo của Chúa gây ra ngạc nhiên. Các phụ nữ đến mộ Chúa để xức thuốc thơm cho xác Chúa đã gặp ngạc nhiên khi được thiên thần loan báo: Người đã sống lại, không còn ở đây nữa!

Trong lịch sử cứu độ, vẫn luôn có kèm theo sự gây ngạc nhiên của Chúa, như trường hợp tổ phụ Abraham khi Chúa bảo ông ra đi.

– Tiếp đến là thái độ của các phụ nữ vội vã ra đi loan báo tin Chúa đã sống lại. Sự ngạc nhiên thúc đẩy các bà hành động như vậy, và cũng như Phêrô và Gioan khi được tin gây ngạc nhiên ấy đã vội vã chạy đến mộ, họ đã thấy và tin. Giống như các mục đồng ở Bethlem, được thiên thần báo tin, đã vội vã chạy đến nơi Hài Nhi sinh ra. Hoặc như người Phụ nữ xứ Samaria, sau khi nói chuyện với Chúa, và được Chúa giáo huấn, đã vội vã chạy đi loan báo cho dân làng về Vị đã nói về những việc bà làm, hay Anrê đã vội chạy đi báo cho Phêrô mình đã gặp Đức Messia.

Trong Tin Mừng, có một người không vội vã, phản ứng mau lẹ như vậy là Tômasô, ông không muốn tin lời loan báo Chúa đã sống lại, nhưng Chúa đã kiên nhẫn dẫn dắt ông.

– Nhận xét thứ ba: chúng ta cũng cần tự hỏi: đâu là phản ứng của tôi trước những điều ”ngạc nhiên” của Chúa? Tôi có mở rộng con tim để đón nhận sự ngạc nhiên ấy hay không? Cụ thể là tôi đón nhận Tin Mừng Phục Sinh ngày hôm nay như thế nào?

Trong phần lời nguyện giáo dân, cộng đoàn đã lần lượt cầu nguyện cho ĐTC và các GM của Giáo Hội hoàn cầu, cho các chính quyền và các nhà lập pháp, cho ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến, cho các tội nhân và các tâm hồn lạc hướng, sau cùng cho những người nghèo, những người đau khổ và các nạn nhân của oán thù. (Rei 01/04/2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Công giáo Nam hàn tranh đấu chống hợp pháp hóa phá thai tại nước này

Công giáo Nam hàn tranh đấu chống hợp pháp hóa phá thai tại nước này

Giáo hội Công giáo Nam hàn đã thu thập hơn một triệu chữ ký trong thư kiến nghị giữ luật cấm phá thai tại nước này.

Khi Nam hàn tiếp tục hiện đại hóa và số các bà mẹ đơn thân đang gia tăng, nhiều lời kêu gọi hợp pháp phá thai, điều mà Giáo hội phản đối, cũng gia tăng từ các thành phần của xã hội.

Cha Remigius Lee Dong-ik, thư ký Ủy ban Sinh học của Hội đồng Giám mục Hàn quốc nói: “Chiến dich thu thập chữ ký được tổ chức cách tình nguyện và nó như một cơ hội để truyền bá giáo huấn của Giáo hội.”

Ủy ban Sinh học của Hội đồng Giám mục Hàn quốc đã tổ chức một Thánh lễ ở nhà thờ chính tòa Myeongdong ở thủ đô Seul ngày 12/02 vừa qua và đã trình bày thư kiến nghị  có 1 triệu 5 ngàn chữ ký. Chiến dich được bắt đầu ngày 03/12.

Đức Hồng y Yeom Soo-jung, chủ sự Thánh lễ, đã nói: “Chiến dịch này cho thấy Giáo hội thất vọng thế nào để hoàn thành sứ mạng của mình trong việc bảo vệ mọi hình thức của sự sống.” Đức Hồng y nói thêm: “Ngay cả một bào thai cũng là một phản chiếu của Thiên Chúa, một công dân trong xã hội chúng ta và một sự sống cần được tôn trọng.”

Ủy ban Sinh học của Hội đồng Giám mục Hàn quốc sẽ thực hiện giai đoạn hai của chiến dịch cho đến ngày 18/03 để nâng cao nhận thức khắp xã hội Nam hàn về sự nguy hiểm trong việc đồng ý với “nền văn hóa sự chết”. Đức Tổng Giám mục Hyginus Kim Hee-joong của Kwangju, hiện là chủ tịch của Ủy ban Sinh học của Hội đồng Giám mục Hàn quốc nói: “Tôi hy vọng chiến dịch được sử dụng như một công cụ để truyền bá ý tưởng là chúng ta phải tôn trọng sự sống.” (Ucan News 23/02/2018)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Vatican. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa nhật 11.02.2018, Đức Thánh Cha Phanxico đã gửi lời Chúc Tết đến các gia đình thuộc thuộc miền Viễn Đông và tại nhiều nơi trên thế giới đang chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Ngày 15 tháng hai sắp tới, tại vùng Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu triệu người sẽ ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tôi xin gửi lời chào trân trọng tới tất cả các gia đình. Tôi cầu chúc mọi người luôn sống đoàn kết, giàu tình huynh đệ và đầy những ước mơ tốt đẹp, để góp phần xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người được đón nhận, được bảo vệ, được thăng tiến và được hội nhập. Tôi xin gửi tới mọi người lời cầu nguyện cho hòa bình, vì hòa bình là món quà, là kho tàng quý giá cần luôn được theo đuổi với lòng từ bi, khôn ngoan và can đảm. Tôi đồng hành với quý vị và cầu chúc phúc lành cho quý vị.

Tứ Quyết, SJ

Sự dấn thân của Giáo hội vì người bệnh phong tại 5 châu lục

Sự dấn thân của Giáo hội vì người bệnh phong tại 5 châu lục

Vatican – Chúa nhật cuối tháng 1 hàng năm là Ngày Thế giới Bệnh nhân phong. Ngày này được ông Raoul Follereau, một nhà văn và nhà báo Pháp, người được gọi là “tông đồ của người phong”, thành lập năm 1954. Ông Follereau đã đấu tranh chống lại các hình thức bất công và loại trừ đối với bệnh nhân phong.

Mỗi năm, có hơn 210 ngàn ca bệnh phong mới, trung bình 2 phút có 1 trường hợp. 10% các bệnh nhân dưới 15 tuổi. Hàng triệu người bệnh phong bị tàn tật vĩnh viễn và bị gạt ra bên lề xã hội vì bệnh phong cùi, trong khi bệnh này ngày nay có thể chữa lành dễ dàng.

Giáo hội, đặc biệt là các miền truyền giáo, luôn dành sự trợ giúp cho các bệnh nhân phong, là những người thường bị bỏ rơi bởi những người trong gia đình của họ và bị gạt ra bên lề bởi bối cảnh xã hội. Bên cạnh việc cung cấp cho họ những chăm sóc y tế và trợ giúp tinh thần, Giáo hội cũng giúp cho họ khả năng được phục hồi và tái hòa nhập vào xã hội. Ở nhiều nơi, việc phân biệt đối xử với những bệnh nhân này vẫn còn nặng nề, do ý tưởng là bệnh này không thể chữa được và bởi sự tàn hại khủng khiếp do nó gây ra.

Có nhiều chứng tá của các nhà truyền giáo nam nữ trong lãnh vực này; một số các ngài đã được tuyên phong chân phước hay hiển thánh, những người đã hiến trọn cuộc đời để xoa dịu nỗi đau của các bệnh nhân phong, ví dụ như thánh Jozef Daamian De Veuster – thường được gọi là cha Damien, thánh nữ Marianna Cope, chân phước Jan Beyzym, Đấng đáng kính Marcello Candia, vv.

Ngày 06/11 vừa qua, cha Gaetano Nicosia, thừa sai người Utalia tại Hongkong, vị tông đồ của bệnh nhân phong cùi, đã qua đời sau 48 năm chia sẻ cuộc sống với các người phong ở Macao. Nhờ các hoạt động của cha, trại phong đã được đóng cửa và các bệnh nhân hiện này được hội nhập lại với xã hội.

Theo thống kê hàng năm của Giáo hội, Giáo hội Công giáo điều hành 604 trại phong trên thế giới; 187 nhà ở châu Phi, châu Mỹ có 48 nhà, Á châu có 296, châu Âu có 72 và 1 ở châu Đại dương.

Các quốc gia có nhiều trại phong là: ở châu Phi có Cộng hòa dân chủ Congo (31), Madagascar (24), Kenya (21); ở Bắc Mỹ: Hoa kỳ (2); ở Trung mỹ: Mêxicô (7); ở châu Mỹ Latinh: Haiti (2); ở Nam mỹ: Brazil (16); ở châu Á: Ấn độ (236), Việt nam (14), Indonesia (12),; ở châu Đại dương: Papua Nuova Guinea (1); ở châu Âu: Bồ đào nhà (63), Đức  (5), Ba lan (2). (Agenzia Fides 27/01/2018)

Hồng Thủy

Vatican điều tra euthanasia tại các cơ sở y tế Công giáo ở Bỉ

Vatican điều tra euthanasia tại các cơ sở y tế Công giáo ở Bỉ

Manchester, Anh quốc – Vatican đang điều tra về quyết định cho phép các bác sĩ thực hiện euthanasia (làm chết êm dịu) trên các bệnh nhân tâm thần “không ở giai đoạn cuối”, tại các cơ sở của các trung tâm điều trị tâm thần do một dòng tu Công giáo ở Bỉ điều hành.

Tu huynh Rene Stockman, bề trên tổng quyền của dòng Tu huynh Bác ái, nói với hãng thông tấn Công giáo Hoa kỳ (CNS) rằng chính Đức hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh sẽ điều tra vụ việc.

Tu huynh Stockman đã trực tiếp than phiền với Tòa Thánh sau khi nhóm các Tu huynh Bác ái, đang điều hành 15 trung tâm chăm sóc bệnh nhân tâm thần khắp nước Bỉ, từ chối yêu cầu chính thức của tu huynh Stockman về việc đảo ngược các chính sách mới.

Trong một tài liệu thông cáo hôm tháng 3, nhóm các Tu huynh Bác ái cho biết họ sẽ cho phép việc thực hiện eutaanasia tại các cơ sở của họ. Trước đó khoảng một năm, một nhà hưu dưỡng Công giáo ở Diest, Bỉ, đã bị phạt 6600 đô la vì từ chối thực hiện eutaanasia cho một bệnh nhân 74 tuổi bị ung thư phổi.

Tài liệu về chính sách mới này dung hòa các thực hành của các trung tâm điều trị này với luật về eutaanasia của Bỉ. Nó tìm cách cân bằng niềm tin của Công giáo về tính bất khả xâm phạm của sự sống của người vô tội với nghĩa vụ chăm sóc theo luật và với yêu cầu tự quyết của các bệnh nhân.

Trong email gửi đến CNS hôm 04/05, thầy Stockman viết: “Vì nó là vấn đề của nhóm ở Bỉ, tôi đã thông báo với Hội đồng Giám mục Bỉ để xin ý kiến của họ và thông cáo rõ ràng của họ. Đồng thời, tôi liên lạc với Vatican – Bộ tu sĩ và Quốc vụ khanh Tòa Thánh và ngài đã hỏi tôi thêm các thông tin”.

Thầy Stockman hy vọng sẽ nhận được câu trả lời rõ ràng của các Giám mục Bỉ và Vatican và thầy nghĩ là chính sách mới này sẽ buộc các tu huynh không được chăm sóc cho bệnh nhân tâm thần ở Bỉ nữa. Thầy hy vọng là hội dòng có thể tiếp tục phục vụ trong lãnh vực chăm sóc cho bệnh nhân tâm thần như họ đã bắt đầu từ khi thành lập dòng cách đây hơn 200 năm.

Dòng các Tu huynh Bác ái được cha Peter Joseph Triest thành lập tại Ghent, Bỉ, vào năm 1807. Án phong chân phước cho vị sáng lập của dòng được bắt đầu vào năm 2001. Được soi sáng bởi linh đạo của thánh Vinh sơn Phaolô và dấn thân làm việc với người cao niên và bệnh nhân tâm thần, ban đầu dòng được biết với tên các tu sĩ dòng bệnh viện thánh Vinh sơn và có mặt tại 30 quốc gia.

Tại vùng Flanders của Bỉ, dòng được xem là tổ chức quan trọng nhất cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho các bệnh nhân tâm thần; mỗi năm phục vụ 5000 bệnh nhân. Dòng cũng điều hành các trường học, có khoảng 12 ngàn nhân viên trên toàn nước Bỉ.

Theo tu huynh Stockman, các tu huynh phải hoàn toàn tôn trọng sự sống và không thể dựa trên sự tự quyết của bệnh nhân. Dù hội đồng quản trị của tổ chức này, đa số là giáo dân, xem euthanasia là một hoạt động y khoa, nhưng các tu huynh không thể chấp nhận nó là một hoạt động y khoa. Và cuối cùng, các tu huynh cho phép euthanasia đươc thực hiện tại các trung tâm, nhưng thầy Stockman khẳng định: “Chúng tôi luôn từ chối cho phép thực hiện euthanasia bên trong các bức tường của trung tâm.”

Thầy Stockman cũng loại trừ ý kiến cho rằng nhiều Tu huynh ủng hộ chính sách mới này; thầy khẳng định là hội dòng theo giáo lý của Công giáo và không thể chấp nhận luật về eutaanasia. Thầy nhận định: “Toàn bộ não trạng ở Bỉ đang thay đổi nhanh chóng và có áp lực từ chính quyền chống lại bất lỳ sự từ chối nào đối với euthanasia. Nhưng cho đến nay, các cơ sở có quyền từ chối eutaanasia. Thầy nói thêm: “Tôi xem nó như là một cuộc khủng hoảng thật sự và tôi gọi nó là một cánh cửa mà một khi được mở sẽ không thể đóng lại nữa. Nhiều nhóm sẽ bị ảnh hưởng bởi nó: Nó bắt đầu với đau khổ thể lý, bây giờ đến tâm lý, sau đó những người khuyết tật nặng, người cao tuổi và tiếp nữa.”

Vào năm 2003, Bỉ đã hợp pháp hóa euthanasia (làm cho chết êm dịu). Trước đó một năm, Hà lan là quốc gia đầu tiên từ thời phát xít Đức bắt đầu thực hiện euthanasia.

Năm 2014, luật về euthanasia được mở rộng, thực hiện cho cả các trẻ em với cách gọi “giải phóng trẻ em” và việc các bác sĩ chích thuốc độc cho những người khuyết tật, các bệnh nhân tâm thần đang gia tăng. (CNS 05/04/2017)

Hồng Thủy

 

Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Ngày 19 tháng 12 năm vừa qua Anis Amri, một thanh niên người Tunisi, đã đánh cắp một xe vận tải chở hàng, giết tài xế người Ba Lan, rồi lái xe tông vào một chợ Giáng Sinh đầy người đang đi mua sắm ở Breitscheidplatz trong thủ đô Berlin của Cộng Hoà Liên Bang Đức, khiến cho 12 người chết và 56 người bị thương. Sau khi chạy trốn khỏi Đức Anis Amri đã đi xe lửa qua Bỉ, Hoà Lan và Pháp để vào Italia, và đã bị cảnh sát bắn chết tại Sesta San Giovanni, thuộc Milano bắc Italia ngày 22 tháng 12. Amri đã từng bị kết án tù 5 năm tại Italia vì nhiều tội khác nhau. Trước khi thực hiện vụ khủng bố này Anis Amri đã tung lên mạng video anh đang ca tụng nhà nước Hồi IS.

Vụ khủng bố đẫm máu này lại khiến cho nhiều người đặt vấn nạn liên quan tới cuộc đối thoại của Giáo Hội công giáo với Hồi giáo. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn về vấn đề này.

Hỏi: Thưa ĐHY, kiểu khủng bố như đã xảy ra tại Berlin nhắc lại vụ khủng bố tương tự đã xảy ra tại Nice bên Pháp hối tháng 7 năm 2016 và vụ khủng bố tại Rouen. Chúng đã khiến cho nhiều người tại Âu châu khép kín đối với người Hồi. Đấy là chưa kể tới các vụ khủng bố tại Aleppo, và vụ khủng bố mới đây xảy ra tại nhà thờ chính toà Copte trong thủ đô Cairo của Ai Cập. Trước tất cả các vụ khủng bố này còn có thể nói tới đối thoại không thưa ĐHY?

Đáp: Chính vì tình hình này mà cần phải đặc biệt chú ý tới thế giới hồi giáo. Chúng  ta tất cả đều đã bị liên lụy bởi những gì đã xảy ra bên Đức, bên Ai Cập và trước đó nữa là trên quê hương Pháp của tôi.  Nhưng mà cả trong tình trạng đó chúng tôi cũng đã có thể  đánh giá cao việc thức tỉnh căn tính tôn giáo tứ phía đa số người dân Pháp, cũng như tình liên đới, mà các anh chị em Hồi giáo các nước khác đã bầy tỏ với chúng tôi, đặc biệt là sau vụ sát hại vị linh mục cao niên, cha Jacques Hamel. Chúng tôi đau đớn tiếp tục chứng kiến các hành động tàn bạo vô nghĩa chống lại những người vô tội trong cuộc sống thường ngày của họ. Trước các hành động đó, trước thảm cảnh của các người di cư tỵ nạn, trước cuộc khủng hoảng quốc tế, nhất là trước tình trạng xung đột tại Siria, cám dỗ bỏ cuộc rất là lớn. Nhưng chính trong lúc này là lúc phải tiếp tục tin nơi sự đối thoại, là điều nòng cốt đối với toàn thể nhân loại.

Hỏi: Thưa ĐHY làm thế nào để đưa cuộc đối thoại này tiến tới trong cuộc sống thường ngày?

Đáp: Tất cả mọi người đều phải đào sâu niềm tin tôn giáo của mình, và hiểu rằng đối thoại không phải chỉ được dành cho “các chuyên viên”. Nhưng tất cả mọi người đều phải từ bỏ các thái độ nghi ngờ hay tranh cãi bênh vực các lý do của mình. Khi thực thi, trong sự tự do và lòng tôn trọng, quyền lợi của tha nhân, tất cả những gì mà đa số các tôn giáo đều có chung là cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bác ái, hành hương, là chúng ta sẽ chứng minh rằng các tín hữu là một yếu tố của hoà bình cho các xã hội loài người. Trong thế giới bấp bênh ngày nay, đối thoại giữa các tôn giáo không phải là một dấu chỉ của sự yếu đuối. Nó tìm ra lý do của nó trong cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại.

Hỏi: Nếu phải tóm tắt với một hình ảnh các kết quả của cuộc đối thoại trong năm 2016, thì ĐHY chọn hình ảnh nào?

Đáp: Chắc chắn là tôi chọn hình ảnh ĐTC Phanxicô gặp gỡ Đại Imam Sceicco Ahmad Muhammad al Tayyib, đến Vaticăng với một phái đoàn cấp cao, trong đó có các giáo sư Abbas Shouman, phó thư ký đại học Hồi Sunnít, và giáo sư Hamdi Zakzouk, giám đốc Trung tâm đối thoại Al Azhar. Đại Imam đã được tôi và ĐC Miguel Angel Ayuso Guixot, thư ký Hội đồng toà thánh đối thoại liên tôn tiếp đón, và  chúng tôi đã tháp tùng đại Imam tới gặp gỡ ĐTC. Trong cuộc hội kiến chúng tôi đã nhấn mạnh trên sự cần thiết các vị lãnh đạo và tín hữu của các tôn giáo lớn cùng nhau dấn thân cho hoà bình trên thế giới, khước từ bạo lực và khủng bố; và chúng tôi cũng đề cập tới tình hình của các kitô hữu và các căng thẳng trong vùng Trung Đông.

Hỏi: ĐTC Phanxicô đã hơn một lần lập lại rằng không được đồng hoá Hồi giáo với bạo lực, có phải không thưa ĐHY?

Đáp: Vâng, nhưng không phải chỉ có thế. Trong chuyến bay từ Ba Lan trở về Roma ngày 31 tháng 7 ĐTC đã trả lời một câu hỏi, và bảo đảm rằng các anh chị em hồi giáo tìm kiếm hoà bình, tìm kiếm gặp gỡ. Và chính Sceicco Al Tayyib, trong một cuộc phỏng vấn dành cho các nhà báo Vaticăng ngay sau cuộc gặp gỡ với ĐTC, đã nhấn mạnh rằng Hồi giáo không liên quan gì tới khủng bố, bởi vì ai giết người là đã hiểu sai các văn bản nền tảng của Hồi giáo; và thật là điều nền tảng các tôn giáo  lớn phải có một nỗ lực chung để đưa ra cho nhân loại một hướng đi mới tiến tới lòng thương xót và hoà bình trong thời đại khủng hoảng trầm trọng này. Như vậy, nếu Đức Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Đại Imam của đại học Al- Azhar  trong chuyến công du Ai Cập trong Năm Thánh 2000, thì Sceicco Al Tayyib đã là Đại Imam đầu tiên viếng thăm ĐTC tại Vaticăng, và luôn luôn trong một Năm Thánh, là Năm Thánh Lòng Thương Xót, tức mười lăm năm sau Năm Thánh 2000.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu đã là hoạt động ngoại giao đi trước và theo sau cuộc gặp gỡ này?

Đáp: Vào tháng hai ĐC Ayuso đã đến Cairo, và tại Cairo ĐC đã được ĐTGM Bruno Musarò,  Sứ Thần Toà Thánh,   tháp tùng tới đại học Al Azhar. ĐC Ayuso đã trao tận tay cho giáo sư Shouman một bức thư của tôi, trong đó tôi bầy tỏ sự sẵn sàng tiếp đón Đại Imam và tháp tùng ông vào gặp ĐTC Phanxicô tại Vaticăng. Sau đó ĐC Ayuso đã sang Cairo hai lần nữa, vào tháng 7 và tháng 10 để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sẽ ghi dấu việc tái đối thoại giữa Hội đồng Toà Thánh  và đại học hồi giáo Cairo, vào cuối tháng 4 năm 2017.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu là các chặng ý nghĩ khác trong các sinh hoạt của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn trong năm 2016?

Đáp: Vào đầu năm  2016 có cuộc gặp gỡ hàng năm tại Genève giữa các nhân viên của Hội Đồng và của Văn phòng đối thoại liên tôn với sự cộng tác của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô  trong “Tuần hòa hợp liên tôn” do Liên Hiệp Quốc thành lập. Vào tháng giêng ĐC Ayuso, Thư ký Hội Đồng, đã sang Abu Dhabi tham dự “Diễn đàn các tư tưởng gia A rập”, tổ chức lần đầu tiên. ĐC đã là thuyết trình viên duy nhất không phải người Hồi giáo, và ĐC đã phát biểu về đề tài “Khuynh hướng cực đoan” phân tích các lý do và các phương thế sửa chữa có thể có. Vào tháng hai tôi đã được ông Khaled Abashed, trưởng phòng Hồi giáo, tháp tùng tham dự Hội nghi đối thoại liên tôn lần thứ 12  triệu tập tại Doha bên Qatar.

Hỏi: Thật là ý nghĩa trong năm 2016 ĐTC đã gặp giới lãnh đạo các tôn giáo khác nhiều lần trước khi chủ sự buổi tiếp kiến chung tín hữu và du khách hành hương năm châu. Các buổi gặp gỡ này đã có ý nghĩa gì thưa ĐHY?

Đáp: Đó đã là các lúc rất quan trọng, trong đó ĐTC đã nói mấy lời tự phát ngắn gọn. Các cung cách và cử chỉ dễ thương của ngài đã để lại nơi tất cả mọi người một kỷ niệm tốt. Các vị thuộc “Học viện hoàng gia đặc trách nghiên cứu liên tôn” tại Amman bên Giordania cũng như ông Haxhi Baba Edmond Bahimaj, thủ lãnh cộng đoàn Bektashi, được ĐGH tiếp kiến tuần sau đó, đã cho tôi biết như vậy. Đây là một huynh đoàn hồi giáo phát xuất từ nhóm Sufi, được thành lập hồi thế kỷ 13 bên Thổ Nhĩ Kỳ, và được phổ biến, nhất là bên Albania. Cùng sự kiện này lại xảy ra ngày mùng 1 tháng 6  với một phái đoàn 35 người, và sau cùng ngày 23 tháng 11 với các người hồi Sunnít Iran  tham dự cuộc hội luận về “Khuynh hướng cực đoan và bạo lực nhân danh tôn giáo”, do Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn tổ chức cùng với tổ chức Văn hoá và tương quan tại Teheran. Ngoài ra trong các ngày mùng 7-8 tháng 9 đã có hội nghị về “Châu Mỹ đối thoại- Ngôi nhà chung của chúng ta”. Do Hội đồng Toà Thánh và Học viện đối thoại liên tôn Buenos Aires cùng tổ chức. Các tham dự viên sau đó đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến. Sau cùng chúng ta cũng không quên buổi tiếp liên tôn do chính ĐTC muốn ngày mùng 3 tháng 11, với sự tham dự của biết bao thân hữu và các tác nhân đối thoại, trong đó có các nhân viên của “Trung tâm quốc tế đối thoại liên tôn” tại Vienne bên Áo, viết tắt là KAICIID. Trung tâm này cũng đã thăng tiến một cuộc hội luận về lòng thương xót  tại Đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma.

Hỏi: Các con số thống kê cho thấy Á châu quan trọng, và ĐTC cũng chú ý theo dõi các biến cố của đại lục này vì tầm quan trọng của cuộc đối thoại với Đông Phương. Có các tương quan nào với Á châu và các nền văn hóa của nó thưa ĐHY?

Đáp: Hồi tháng 5 ĐC Thư ký của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn đã sang Nhật Bản để tham khảo ý kiến các vị lãnh đạo tôn giáo cấp cao vùng Trung Đông về đề tài quyền công dân, nhằm thăng tiến môt ý thức lớn hơn tại các nước có đa số dân theo Hồi giáo. Trong các cuộc gặp gỡ tại Tokyo cũng đã có việc củng cố các liên lạc Giữa Giáo Hội công giáo và tổ chức Phật giáo Risho Kosei Kai. Vào tháng 10 ĐC Ayuso cũng đã cùng với cha phó thư ký Indunil Kodithuwakku đi sang Singapore, rồi Đài Loan nhân cuộc gặp gỡ kitô lão giáo lần đầu tiên được tổ chức tại đây.

Hỏi: Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn cũng đã gửi các sứ điệp tới các tôn giáo lớn tại Á châu nhân các dịp lễ, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Đúng thế. Nhân lễ Ánh Sáng Vesakh, kỷ niệm các biến cố chính trong cuộc đời Đức Phật, chúng tôi đã gửi sứ điệp về đề tài “Tín hữu kitô và phật giáo cùng nhau thăng tiến giáo dục môi sinh”. Vào tháng 10 chúng tôi đã gửi một sứ điệp cho các tín hữu Ấn giáo tập trung vào tầm quan trọng của gia đình nhân dịp lễ Deepavali có nghĩa là “hàng đèn dầu”, dựa trên một huyền thoại cổ xưa diễn tả chiến thắng của chân lý trên dối trá và của ánh sáng trên tối tăm. Sau cùng vào tháng Ramadan nhằm tháng 6 chúng tôi cũng đã gửi các lời cầu chúc truyền thống tới cộng đoàn hồi giáo.

Hỏi: Một trong những thời điểm chính của năm 2016 vừa qua chắc chắn đã là cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình tại Assisi ngày 20 tháng 9, nhân kỷ niệm lần thứ 36 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời các vị lãnh đạo các tôn giáo lớn tụ tập nhau cầu nguyên cho hoà bình thế giới, Nó đã có ý nghĩa nào thưa ĐHY?

Đáp: Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình hồi năm 1986 đã hướng Giáo Hội tới các tôn giáo không kitô. Mặc dù có giáo huấn của Đức Phaolô VI trong thông điệp “Ecclesiam suam” và của Công Đồng Chung Vaticăng II với tuyên ngôn “Nostra aetate”, các tôn giáo này xem ra vẫn xa vời, nếu không nói là xa lạ. Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình đã là biểu tượng, là việc thực hiện nhiệm vụ của Giáo Hội trong một thế giới đa tôn giáo. Vì thế không phải vô tình mà chính ĐTC Phanxicô đã muốn tái đề nghị các nội dung  của nó bằng cách đến Assisi tham dự một ngày cầu nguyện cho hoà bình với đề tài “Khát khao hoà bình. Các tôn giáo và các nền văn hoá đối thoại với nhau”.

(Oss. Rom. 21-12-2016)

Linh Tiến Khài

Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".

Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".

Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.

Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.

Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.

Veritas Radio

Lớp Sáu – Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

americangoldentopaz

Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.

Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?

Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.

KhoTangTrongBinhDeVo

Chữa người phong cùi

Chữa người phong cùi

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

– Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

– Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.

Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.

Veritas Radio

CHƯƠNG TRÌNH NGHI LỄ AN TÁNG CHO CỐ GIÁM MỤC CIRILO FLORES

CHƯƠNG TRÌNH NGHI LỄ AN TÁNG CHO CỐ GIÁM MỤC CIRILO FLORES

Cố Giám Mục Cirilo Flores 1948-2014Cố Giám Mục Cirilo Flores 1948-2014

 

Chương trình gồm có:

– Nghi thức đón nhận thi hài của cố Giám Mục Cirilo Flores tại nhà thờ Thánh Giuse (Saint Joseph) vào lúc 10:00 giờ sáng ngày thứ Ba 16 tháng 9 năm 2014. Địa chỉ của nhà thờ:  1535 Third Avenue, San Diego, California 92101.

– Vào chiều tối thứ Ba cùng ngày, lúc 7:00 giờ tối sẽ có nghi thức lễ cầu nguyện cho cố Giám Mục Cirilo Flores tại nhà thờ Thánh Giuse.

– Lễ an táng cho cố GM sẽ được cử hành tại nhà thờ Thánh Teresa Carmel vào trưa ngày thứ Tư 17 tháng 9 năm 2014. Địa chỉ của nhà thờ: 4355 Del Mar Trials Road, San Diego, CA 92130.

– Sau đó sẽ được an táng tại nghĩa trang Holy Cross, 4470 Hilltop Drive, San Diego, CA

Xin mời tất cả các Kitô hữu hiệp nhất cùng nhau cầu nguyện cho Cố GM Cirilo Flores.

Huyền nhiệm tình yêu

Huyền nhiệm tình yêu

Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của thánh Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng được xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch sử của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần dà với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu”. Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân. Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.

Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.

Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.

Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Phong hủi! Phong hủi!”

Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:

– Tại sao ông lại lo lắng cho con?

Nhà truyền giáo đáp:

– Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.

Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:

– Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?

Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:

– Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.

Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.

Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:

– “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!”

Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.

Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm tình thương cho anh em của mình. Amen.

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Gương mặt của hai vị tân Hiển Thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Gương mặt của hai vị tân Hiển Thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Comastri và Đức Hồng Y Loris Francesco Capovilla

Chúa Nhật 27-4-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Hiện diện trong thánh lễ cũng có Đức Biển Đức XVI, cũng như ngoại giao đoàn cạnh tòa thánh và nhiều giới chức đạo đời và mấy triệu tín hữu đến từ khắp nơi trên thế giới. Đây là biến cố chưa từng có vì là lần đầu tiên trong lịch sử dài hơn 2.000 năm của Giáo Hội hai Giáo Hoàng còn sống cùng hiện diện trong thánh lễ phong Hiển Thánh cho hai Giáo Hoàng khác. Thánh lễ đã được các đài truyền hình quốc tế chiếu trực tiếp để tín hữu toàn thế giới có thể theo dõi.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Comastri, giám quản Đền Thờ thánh Phêrô và thành phố Vaticăng là người đã sống gần Đức Gioan Phaolô II.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Comastri, Đức Hồng Y có kỷ niệm nào về Đức Gioan Phaolô II? Làm sao ngài lại có thể trở lại quảng trường Thánh Phêrô sau vụ mưu sát hồi năm 1981?

Đáp: Lần đầu tiên tôi gặp Đức Gioan Phaolô II là khi tôi được chỉ định làm Giám Mục. Hồi đó vụ mưu sát đã xảy ra gần 10 năm trước rồi. Và tôi nhớ là khi đứng mặt giáp mặt với Đức Gioan Phaolô II tôi đã rất là cảm động. Bất thình lình tâm trí tôi như bị một màn sương che phủ và tôi đã không có câu hỏi nào trong trí. Đức Gioan Phaolô II nói: ”Đức Cha xúc động qúa! Xin hỏi tôi điều gì đi chứ”. Lúc đó tôi mới nói: ”Xem nào, vâng con xin hỏi Đức Thánh Cha: làm sao mà Đức Thánh Cha có thể trở lại quảng trường thánh Phêrô sau vụ mưu sát như vậy?” Tôi nhớ là Đức Gioan Phaolô II nhìn tôi mỉm cười và nói: ”Thật đã không dễ đâu”. Và tôi hỏi ngài: “Thế Đức Thánh Cha đã không sợ à?” Và ngài trả lời: ”Chắc chắn là tôi sợ chứ. Xin Đức cha nhớ là những người can đảm không phải là những người không sợ hãi, nhưng là người cho dù có sợ vẫn tiến tới để đưa sứ mệnh của họ tiến tới”. Và ngài nói thêm: “Sau vụ mưu sát người ta khuyên tôi nên mặc áo giáp chắn đạn dưới áo chùng… Nhưng tôi đã không muốn. Mạng sống của tôi ở trong tay Thiên Chúa”.

Hỏi: Tình yêu con thảo của Đức Gioan Phaolô II đối với Đức Maria có ảnh hưởng nào trên chứng tá sự thánh thiện của ngài, thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Đức Gioan Phaolô II đã tâm sự rằng ngài đã khám phá ra sự sùng kính Đức Maria khi còn trẻ. Ban đầu xem ra lòng sùng kính Đức Mẹ – trong một cách nào đó – làm lu mờ quyền tối thượng của Chúa Kitô. Thế rồi khi đọc ”Khảo luận về lòng sùng kích đích thật đối với Mẹ Maria” của thánh Luigi Maria Grignion de Montfort, ngài hiểu ra rằng Đức Maria không làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu, trái lại Mẹ dẫn đưa chúng ta tới với Chúa Giêsu. Và ngài cũng nói rằng chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường này, con đường của Mẹ Maria, khi từ trên thập giá Người đã nói với Gioan: ”Gioan, này là Mẹ con” và nói với Mẹ Maria: ”Này là con Mẹ”. Chúa Giêsu đã chỉ Mẹ Maria cho chúng ta như con đường để tới với Người bởi vì Mẹ Maria, bởi định nghĩa, là Đấng vâng lời. Là Đấng nói tiếng ”xin vâng”. Và bên cạnh Mẹ Maria, khi nhìn Mẹ Maria, chúng ta học được kiểu ”xin vâng” đó. Khi đó khẩu hiệu ”Totus tuus”, chương trình của Đức Gioan Phaolô II có nghĩa là ”Lậy Mẹ Maria, con hoàn toàn là của Mẹ để đi đến với Chúa Giêsu”.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã gần gũi Đức Karol Wotijla trong những lúc cuối cùng cuộc đời dương thế của ngài. Cả trong kiểu đối diện với thử thách cuối cùng người ta cũng đã trông thấy sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II có đúng thế không?

Đáp: Tôi có một kỷ niệm rất sống động của cuộc gẵp gỡ cuối cùng với ngài: đó là ngày mùng 1 tháng 4 năm 2005, một ngày trước khi ngài qua đời. Tôi nhớ là tôi đã làm mọi chuyện với sự vội vã. Tôi đến sân San Damaso, lấy thang máy, đến phòng của Đức Giáo Hoàng và tìm thấy cha Stanislaw dẫn tôi vào phòng Đức Giáo Hoàng, đây là lần đầu tiên trong đời tôi vào phòng một vị Giáo Hoàng. Tôi thấy ngài ngồi dựa lưng vào mấy chiếc gối trong khi một bác sĩ chuyền dưỡng khí cho ngài vì ngài liên tục bị khủng hoảng nghẹt thở. Khi đó tôi nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, con vừa bắt đầu công việc ngài đã giao cho, xin Đức Thánh Cha chúc lành cho con”. Và tôi thấy bàn tay phải của Đức Thánh Cha thò ra ngoài khăn trải giường, sưng rất to, giơ lên chúc lành nhưng rơi xuống. Khi đó tôi nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, phép lành đã ra từ con tim và như thế là đủ cho con rồi”. Đó là kỷ niệm đẹp nhất mà tôi mang theo trong mình. Khi đó Đức Thánh Cha chăm chú nhìm tôi. Tôi còn thấy đôi mắt đó nhìn tôi: đôi mắt thanh thản, trong sáng… Tôi nhớ là khi ra khỏi phòng Đức Giáo Hoàng, tôi tự hỏi từ đâu nảy sinh ra sự thanh thản đó: nó nảy sinh từ sự kiện ngài chắc chăn đi găp Chúa. Nhưng đối với tôi cũng còn có một lý do khác nữa: ngài đã xác tín rằng đã hoàn toàn tiêu hao cuộc sống cho Chúa. Khẩu hiệu ”Totus tuus” ấy ngài đã thực hiện nó một cách tràn đầy: tất cả là của Mẹ Maria cho Chúa Giêsu.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y trong các năm qua Đức Hồng Y đã có thể đọc và thu thập hàng ngàn lời cầu mà tín hữu toàn thế giới đả để lại nơi mộ của Đức Gioan Phaolô II. Có cái gì đánh động Đức Hồng Y từ các chứng tá này?

Đáp: Điều đánh động tôi đó là tất cả chúng hướng về hai phía: hoặc đó là các gia đình cám ơn Đức Giáo Hoàng vì gương sống của ngài, các lời ngài nói, và chứng tá của ngài hay đó là các người trẻ cám ơn Đức Gioan Phaolô II vì niềm hăng say mà ngài đã thắp lên trong họ. Và đó là hai mối tình của Đức Gioan Phaolô II: gia đình và giới trẻ. Nhưng đồng thời chúng ta tất cả đều nhớ ngài như là vị Giáo Hoàng của giới trẻ. Ngoài ra các Ngày Quốc Tế Giới Trẻ là một trong các sáng chế của ngài để quy tụ người trẻ và thắp lên nơi họ lòng hăng say theo Chúa Giêsu.

Hỏi: Bây giờ chúng ta tất cả đều có thể khấn cầu Đức Gioan Phaolô II như là Thánh, tương quan giữa tín hữu và Đức Gioan Phaolô II sẽ thay đổi như thế nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Tôi xin trả lời từ trên trước rồi từ dưới sau. Từ trên tôi nhớ tới một khẳng định của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: hai tháng trước khi chết thánh nữ tâm sự rằng: ”Tôi sẽ sống trên Trời để làm sự lành cho trái đất”. Tôi tin rằng Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là người đã yêu thương Giáo Hội, giới trẻ, gia đình, nhân loại biết bao, sống trên Trời run rẩy như khi người còn sống trong ước muốn làm cái gì đó, làm sự lành, đem người ta đến với Chúa Giêsu. Như vậy nơi ngài chắc chắn có sự đam mê đó, ước muốn đó, bởi vì trên Trời sự thiện được khuyếch đại lên. Đàng khác, chúng ta nhớ tới ngài như là một vi Giáo Hoàng đã trao ban một chứng tá đức tin vĩ đại và một lòng can đảm sống đức tin lớn lao. Điều đánh động tôi nhất đó là sự can đảm này của Đức Gioan Phaolô II, sức mạnh tiến tới để chiến thắng mọi sợ hãi, như lời kêu gọi ngài đã đưa ra trong thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô ngày 22 tháng 10 năm 1978: ”Đừng sợ hãi! Hãy mở ra, còn hơn thế nữa, hãy mở toang các cửa cho Chúa Kitô! Chúa Kitô biết trong trái tim con người có điều gì. Chỉ có Ngài biết mà thôi”. ”Đừng sợ hãi hãy mở toang cửa cho Chúa Kitô” Tôi tin rằng các lời này là kỷ niệm đẹp nhất về Đức Giona Phaolô II. Nó giống như một mũi tên chỉ đường, một dấu hiệu nói rằng ”Hãy đi đến với Chúa Giêsu”.

Sau đây là một vài nhận xét của Đức Hồng Y Capovilla, nguyên bí thư của Đức Gioan XXIII trong hơn 10 năm trời.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong Hiển Thánh Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII năm nay mà không cần chứng nhận phép lạ thứ hai do lời bầu cử của người?

Đáp: Tôi không thể vào trong các ý định của Đức Thánh Cha. Tôi chỉ biết rằng xem ra Đức Thánh Cha muốn lấy lại không phải diễn văn của Đức Gioan XXIII, nhưng là linh hứng đến từ bên trên là triệu tập tất cả các Giám Mục, tất cả các Giáo Hội địa phương trên toàn thế giới, quy tụ bện nhau để lắng nghe, cầu nguyện, suy tư trong tình huynh đệ và tự hỏi xem chúng ta phải làm gì để con người thời đại của thế kỷ XXI đáp trả là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, là người đã nói: ”Công Đồng Chung Vaticăng II là ngôi sao dẫn đường của thế kỷ XXI”. Tuy nhiên đó không phải là lộ trình của một biến cố thôi, mà là lộ trình sứ điệp của Chúa Giêsu ”Niềm vui Phúc Âm”. Giáo Hội là một bà mẹ, xem xét con cái mình. Dọc dài các thế kỷ nếu thầy cần đề nghị người này người nọ nam hay nữ để mọi tín hữu kitô chú ý, thì Giáo Hội tự do làm điều đó và có Chúa Thánh Thần soi sáng con đường của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Phanxicô đến gần cầm tay hướng dẫn chúng ta như một người cha người mẹ. Ngài không bắt buộc nhưng thuyết phục chúng ta. Ngài khÔng đem đến cho chúng ta sứ điệp và kinh nghiệm tại Argentina của ngài, nhưng đến nhân danh Chúa Giêsu và chỉ nói về Chúa Giêsu thôi.

Hỏi: Đức Hồng Y đã viết rằng Đức Gioan XXIII vị Giáo Hoàng tốt lành không gợi lên sự nuối tiếc nào, nhưng khích lệ nhìn tới trước, Đức Hồng Y có ý nói gì vậy?

Đáp: Tôi có ý nói rằng chúng ta không phải là những người giữ gìn một đền thánh, một thánh tích, một viện bảo tàng – chính Đức Gioan XXIII đã nói điều đó – nhưng chúng ta được mời gọi giữ gìn một ngôi vườn, nơi có các hạt giống của Ngôi Lời nhập thể; vun trồng một ngôi vườn và tạo thuận tiện cho một lễ Hiện Xuống mới, một lễ Vượt Qua mới, một mùa xuân mới, không phải chỉ là cho niềm vui của từng người, nhưng là cho toàn nhân loại. Chúng ta đang tiến bước chứ chưa tới đích. Đường còn dài. Chúng ta hiểu rằng mình có một kho tàng không phải chỉ để giữ gìn, mà còn để cống hiến cho toàn thế giới nữa. Phúc âm là Tin Mừng. Tin Mừng tôi là Con Thiên Chúa và Ngài không bỏ rơi tôi. Thật là hay đẹp, khi hầu như mỗi ngày nghe Đức Thánh Cha nói rằng Chúa Giêsu không khước từ ai hết, Ngài chờ đợi mọi người”.

Hỏi: Đức Hồng Y diển tả thời gian mười năm cộng tác với Đức Gioan XXIII như thế nào?

Đáp: Tôi đã không bao giờ cảm thấy mình là cộng sự viên cũng như bí thư của người. Tôi cảm thấy tất cả niềm vui được ở bên một người được Thiên Chúa gửi tới, hướng dẫn và đã ném các hạt giống. Ngài đã không thể thực hiện tràn đầy tất cả những gì có trong tâm hồn ngài, nhưng ngài đã để lại các hạt giống.

(SD 17-4-2014; 19-3-2014; 20-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Gặp gỡ như phạm trù chìa khóa huấn quyền của Đức Thánh Cha Phanxicô

Gặp gỡ như phạm trù chìa khóa huấn quyền của Đức Thánh Cha Phanxicô

Một số nhận định của linh mục Antonio Spadaro, giám đốc Nguyệt san ”Văn minh công giáo” của dòng Tên

Từ khi lên giữ chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cách đây một năm, Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên lập đi lập lại ý niệm ”gặp gỡ”, và mời gọi mọi thành phần dân Chúa và cơ cấu giáo hội ra khỏi chính mình, để đi đến gặp gỡ tha nhân trong các vùng ngoại biên của cuộc sống. Ngài cũng hay nói tới ”nền văn hóa gặp gỡ” và đối chọi nó với ”nền văn hóa loại bỏ” trong tâm thức của con người sống trong xã hội tiêu thụ hưởng thụ ngày nay. Có thể nói gặp gỡ là ”phạm trù chìa khóa” trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Ngay trong phần đầu của chương thứ nhất Tông huấn ”Niềm vui của Tin Mừng” Đức Thánh Cha đã trình bầy hình ảnh một Giáo Hội được mời gọi ra đi, tới nơi Thiên Chúa chỉ cho, như Thiên Chúa đã làm với tổ phụ Abraham, với ông Môshê, với ngôn sứ Giêrêmia. ”Hãy ra đi” cũng là lệnh Chúa Giêsu Kitô đã truyền cho các môn đệ. Nó bao gồm các quang cảnh và các thách đố luôn mới mẻ trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Và chúng ta tất cả đều được mời gọi ra đi loan báo Tin Mừng: ra khỏi các khung cảnh tiện nghi dễ dãi của cuộc sống để can đảm đi đến tất cả các vùng ngoại biên cần ánh sáng của Tin Mừng. Cộng đoàn Giáo Hội được mời gọi ra đi để gặp gỡ mọi người và loan báo Chúa Kitô cho họ.

Để có thể rao truyền Tin Mừng một cách hữu hiệu, mọi tín hữu phải tìm gặp gỡ Chúa Giêsu, sống mối dây thân tình với Người để noi theo gương sống và hành xử của Người: kiểu người gặp gỡ tiếp đón người nghèo, các cử chỉ lời nói và việc làm của Người, sự quảng đại đơn sơ và hoàn toàn tận tụy trong cuộc sống thường ngày của Chúa đối với tất cả mọi người. Kiểu găp gỡ của Chúa Giêsu phải là mẫu gương cho kiểu gặp gỡ của chúng ta với nhau giữa các kitô hữu và với tất cả mọi người khác.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận xét của linh mục Antonio Spadaro, Giám đốc nguyệt san ”Văn minh công giáo” của dòng Tên về điểm này.

Hỏi: Thưa cha Spadaro, tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô hay dùng từ ”gặp gỡ” như vậy: gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ tha nhân, gặp gỡ nhau… ?

Đáp: Đức Thánh Cha Phanxicô có một quan niệm thừa sai về Giáo Hội: ngài đang làm việc và sẽ làm việc cho một sự biến đổi truyền giáo của Giáo Hội. Điều này có nghĩa là Giáo Hội, như ngài thấy, là tuyệt đối hướng tới thế giới, rộng mở cho thế giới, bởi vì Đức Thánh Cha muốn rằng Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào trong đó tín hữu sinh sống. Như thế, ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô là một thứ ngôn ngữ tự nhiên, bình thường. Mục đích của ngài là đến với tất cả mọi người.

Hỏi: Sự chú ý tới châu Mỹ Latinh, chiều kích tin mừng mục vụ, cải tổ các cơ quan trung ương của Tòa Thánh, cải tổ các tương quan với các Giáo Hội khác: đó là vài điểm đặc thù trong năm đầu tiên triều đại của ngài. Theo cha, chúng ta có thể thấy trước được một sự thay đổi bước đi trong các lãnh vực nào nữa trong các tháng tới hay không?

Đáp: Chúng ta không biết được. Và có lẽ cả Đức Thánh Cha cũng không biết, trong nghĩa triều đại của ngài không có trong trí các tư tưởng trừu tượng cần áp dụng cho thực tại, bằng cách nhào nặn nó theo quan điểm riêng của mình. Thực ra, Đức Thánh Cha tiến tới từng bước một, bằng cách phân định lịch sử, đồng hành với các tiến trình đang có trong Giáo Hội, đương nhiên là trong tương quan với cuộc sống của thế giới. Điều này có nghĩa là điều quan trọng nhất đối với Đức Thánh Cha là theo dõi những gì xảy ra và duyệt xét tiến trình cải tổ như là một cuộc canh cải từ bên trong. Chắc chắn là có một dữ kiện rất hiển nhiên nơi sự kiện ngày nay trong sự phát triển của nó Giáo Hội rất gắn bó với các Giáo Hội trẻ, và như thế đang có sự thay đổi viễn tượng, sự thay đổi quan niệm. Đó là ơn ngôn sứ hiện diện trong cuộc sống của các Giáo Hội trẻ đang bước vào tràn đầy trong cuộc sống bình thường của Giáo Hội, và như thế cũng qua các vị đại diện của nó trong các cơ cấu ở trung ương nhất.

Hỏi: Có điều gì là của thánh Ignazio và điều gì là của thánh Phanxicô trong triều đại của Đức Bergoglio thưa cha?

Đáp: Đức Bergoglio đã được đào tạo một cách triệt để theo linh đạo của thánh Ignazio ngay từ khi còn trẻ, vì thế kiểu ngài hành xử, nhìn và duyệt xét thực tại một cách triệt để được gắn liền với linh đạo này. Đó là một linh đạo hiển nhiên theo tinh thần Tin Mừng, chú ý rất nhiều tới sự hiện diện của Chúa trong thế giới. Nó không phải là một linh đạo lạc quan – Đức Thánh Cha không thích từ này – nhưng chắc chắn nó là một linh đạo tràn đầy niềm hy vọng. Điều này có nghĩa là đối với Đức Thánh Cha, Chúa đã hành động trong thế giới, vì thế chúng ta luôn luôn tới sau, và chúng ta phải thừa nhận sự hiện diện của Người. Và đó là sự phân định. Như thế, trước hết tôi sẽ nói rằng triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô là một triều đại của sự phân định xem Chúa đang di chuyển trong thế giới như thế nào, trong nghĩa này thì nó theo tinh thần của thánh Iganzio và dòng Tên một cách sâu xa. Và nó cũng theo tinh thần của thánh Phanxicô trong nghĩa Ignazio nhất của từ này, bởi vì linh đạo của thánh Phanxicô được sống bên trong linh đạo của thánh Ignazio. Điều này chắc chắn đưa Đức Thánh Cha tới chỗ rất chú ý đến sự nghèo khó và điều nòng cốt. Tuy nhiên, cũng có một chiều kích khác rất hiện diện nơi thánh Phanxicô đó là chiều kích của sự tái thiết. Chúng ta biết rằng giấc mơ đã ghi đậm dấu trong cuộc đời của thánh Phanxicô đó là giấc mơ tái thiết Giáo Hội, giấc mơ sự hiện diện của các đổ nát trong thế giới. Khi đó hình ảnh ”bệnh xá chiến trường”, hình ảnh của các tình trạng trong đó cần tái thiết, rất hiện diện trong triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Vào tháng tư tới đây sẽ có lễ phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II; rồi tháng 5 có chuyến viếng thăm Thánh Địa và tháng 8 có chuyến công du Nam Hàn, nhân dịp Ngày Quốc Tế giới Trẻ Á châu lần thứ 6. theo cha có sợi chỉ nào nối liền ba biến cố xem ra khác nhau này không?

Đáp: Gặp gỡ là phạm trù chìa khóa của triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô. Có sự gặp gỡ với lịch sử, với các gương mặt lớn của qúa khứ mới đây. Ngoài ra cũng thật là hay việc phối hợp hai triều đại giáo hoàng vĩ đại này trong một cách thức rất khác biệt nhau. Thế rồi còn có cuộc gặp gỡ với thực tại của vùng Trung Đông, vô cùng phức tạp; rồi tới cuộc gặp gỡ lớn với Đại Hàn, nghĩa là cuộc gặp gỡ với giới trẻ của đại lục Á châu, ngày nay là đại lục có năng lực rất to lớn, có tiềm năng lớn đối với cả cuộc sống của Giáo Hội nữa.

Hỏi: Theo cha, Đức Thánh Cha Phanxicô có gặp phải vài khó khăn nào trong năm đầu tiên triều đại giáo hoàng của ngài hay không?

Đáp: Chắc hẳn là có biết bao nhiêu là khó khăn chứ; tuy nhiên, điều đánh động tôi và tôi cũng đã nói chuyện với ngài, trong cuộc phỏng vấn hồi tháng 8 năm ngoái – đó là Đức Thánh Cha ý thức được các vấn đề đó, nhưng ngài sống thái độ nền tảng rất thanh thản. Chính ngài đã nói lên đều này: ngài ăn ngủ ngon, nghĩa là ngài cảm thấy một sự bình an nội tâm rất lớn, khiến cho ngài khỏe mạnh và cũng cho phép ngài đương đầu với các khó khăn với sự rất đơn sơ và ngay lập tức. Có lẽ sự mới mẻ trong kiểu sống của ngài có thể gây vài khó khăn cho vài người, trong khi trái lại ngài muốn là một con số của cuộc sống tin mừng.

Hỏi: Nếu cha có phải phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô ngày mai, thì cha sẽ hỏi ngài cái gì?

Đáp: Tôi không biết, bởi vì phỏng vấn ngài thực sự đã là một kinh nghiêm tinh thần lớn, một kinh nghiệm hoàn toàn cởi mở. Vì vậy tôi sẽ nói rằng tôi đứng trước mặt ngài, và bắt đầu từ điều Đức Thánh Cha muốn nói. Và đối với tôi đó sẽ là điều hay nhất.

(RG 13-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Gặp gỡ như phạm trù chìa khóa huấn quyền của Đức Thánh Cha Phanxicô

Gặp gỡ như phạm trù chìa khóa huấn quyền của Đức Thánh Cha Phanxicô

Một số nhận định của linh mục Antonio Spadaro, giám đốc Nguyệt san ”Văn minh công giáo” của dòng Tên

Từ khi lên giữ chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cách đây một năm, Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên lập đi lập lại ý niệm ”gặp gỡ”, và mời gọi mọi thành phần dân Chúa và cơ cấu giáo hội ra khỏi chính mình, để đi đến gặp gỡ tha nhân trong các vùng ngoại biên của cuộc sống. Ngài cũng hay nói tới ”nền văn hóa gặp gỡ” và đối chọi nó với ”nền văn hóa loại bỏ” trong tâm thức của con người sống trong xã hội tiêu thụ hưởng thụ ngày nay. Có thể nói gặp gỡ là ”phạm trù chìa khóa” trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Ngay trong phần đầu của chương thứ nhất Tông huấn ”Niềm vui của Tin Mừng” Đức Thánh Cha đã trình bầy hình ảnh một Giáo Hội được mời gọi ra đi, tới nơi Thiên Chúa chỉ cho, như Thiên Chúa đã làm với tổ phụ Abraham, với ông Môshê, với ngôn sứ Giêrêmia. ”Hãy ra đi” cũng là lệnh Chúa Giêsu Kitô đã truyền cho các môn đệ. Nó bao gồm các quang cảnh và các thách đố luôn mới mẻ trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Và chúng ta tất cả đều được mời gọi ra đi loan báo Tin Mừng: ra khỏi các khung cảnh tiện nghi dễ dãi của cuộc sống để can đảm đi đến tất cả các vùng ngoại biên cần ánh sáng của Tin Mừng. Cộng đoàn Giáo Hội được mời gọi ra đi để gặp gỡ mọi người và loan báo Chúa Kitô cho họ.

Để có thể rao truyền Tin Mừng một cách hữu hiệu, mọi tín hữu phải tìm gặp gỡ Chúa Giêsu, sống mối dây thân tình với Người để noi theo gương sống và hành xử của Người: kiểu người gặp gỡ tiếp đón người nghèo, các cử chỉ lời nói và việc làm của Người, sự quảng đại đơn sơ và hoàn toàn tận tụy trong cuộc sống thường ngày của Chúa đối với tất cả mọi người. Kiểu găp gỡ của Chúa Giêsu phải là mẫu gương cho kiểu gặp gỡ của chúng ta với nhau giữa các kitô hữu và với tất cả mọi người khác.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận xét của linh mục Antonio Spadaro, Giám đốc nguyệt san ”Văn minh công giáo” của dòng Tên về điểm này.

Hỏi: Thưa cha Spadaro, tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô hay dùng từ ”gặp gỡ” như vậy: gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ tha nhân, gặp gỡ nhau… ?

Đáp: Đức Thánh Cha Phanxicô có một quan niệm thừa sai về Giáo Hội: ngài đang làm việc và sẽ làm việc cho một sự biến đổi truyền giáo của Giáo Hội. Điều này có nghĩa là Giáo Hội, như ngài thấy, là tuyệt đối hướng tới thế giới, rộng mở cho thế giới, bởi vì Đức Thánh Cha muốn rằng Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào trong đó tín hữu sinh sống. Như thế, ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô là một thứ ngôn ngữ tự nhiên, bình thường. Mục đích của ngài là đến với tất cả mọi người.

Hỏi: Sự chú ý tới châu Mỹ Latinh, chiều kích tin mừng mục vụ, cải tổ các cơ quan trung ương của Tòa Thánh, cải tổ các tương quan với các Giáo Hội khác: đó là vài điểm đặc thù trong năm đầu tiên triều đại của ngài. Theo cha, chúng ta có thể thấy trước được một sự thay đổi bước đi trong các lãnh vực nào nữa trong các tháng tới hay không?

Đáp: Chúng ta không biết được. Và có lẽ cả Đức Thánh Cha cũng không biết, trong nghĩa triều đại của ngài không có trong trí các tư tưởng trừu tượng cần áp dụng cho thực tại, bằng cách nhào nặn nó theo quan điểm riêng của mình. Thực ra, Đức Thánh Cha tiến tới từng bước một, bằng cách phân định lịch sử, đồng hành với các tiến trình đang có trong Giáo Hội, đương nhiên là trong tương quan với cuộc sống của thế giới. Điều này có nghĩa là điều quan trọng nhất đối với Đức Thánh Cha là theo dõi những gì xảy ra và duyệt xét tiến trình cải tổ như là một cuộc canh cải từ bên trong. Chắc chắn là có một dữ kiện rất hiển nhiên nơi sự kiện ngày nay trong sự phát triển của nó Giáo Hội rất gắn bó với các Giáo Hội trẻ, và như thế đang có sự thay đổi viễn tượng, sự thay đổi quan niệm. Đó là ơn ngôn sứ hiện diện trong cuộc sống của các Giáo Hội trẻ đang bước vào tràn đầy trong cuộc sống bình thường của Giáo Hội, và như thế cũng qua các vị đại diện của nó trong các cơ cấu ở trung ương nhất.

Hỏi: Có điều gì là của thánh Ignazio và điều gì là của thánh Phanxicô trong triều đại của Đức Bergoglio thưa cha?

Đáp: Đức Bergoglio đã được đào tạo một cách triệt để theo linh đạo của thánh Ignazio ngay từ khi còn trẻ, vì thế kiểu ngài hành xử, nhìn và duyệt xét thực tại một cách triệt để được gắn liền với linh đạo này. Đó là một linh đạo hiển nhiên theo tinh thần Tin Mừng, chú ý rất nhiều tới sự hiện diện của Chúa trong thế giới. Nó không phải là một linh đạo lạc quan – Đức Thánh Cha không thích từ này – nhưng chắc chắn nó là một linh đạo tràn đầy niềm hy vọng. Điều này có nghĩa là đối với Đức Thánh Cha, Chúa đã hành động trong thế giới, vì thế chúng ta luôn luôn tới sau, và chúng ta phải thừa nhận sự hiện diện của Người. Và đó là sự phân định. Như thế, trước hết tôi sẽ nói rằng triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô là một triều đại của sự phân định xem Chúa đang di chuyển trong thế giới như thế nào, trong nghĩa này thì nó theo tinh thần của thánh Iganzio và dòng Tên một cách sâu xa. Và nó cũng theo tinh thần của thánh Phanxicô trong nghĩa Ignazio nhất của từ này, bởi vì linh đạo của thánh Phanxicô được sống bên trong linh đạo của thánh Ignazio. Điều này chắc chắn đưa Đức Thánh Cha tới chỗ rất chú ý đến sự nghèo khó và điều nòng cốt. Tuy nhiên, cũng có một chiều kích khác rất hiện diện nơi thánh Phanxicô đó là chiều kích của sự tái thiết. Chúng ta biết rằng giấc mơ đã ghi đậm dấu trong cuộc đời của thánh Phanxicô đó là giấc mơ tái thiết Giáo Hội, giấc mơ sự hiện diện của các đổ nát trong thế giới. Khi đó hình ảnh ”bệnh xá chiến trường”, hình ảnh của các tình trạng trong đó cần tái thiết, rất hiện diện trong triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Vào tháng tư tới đây sẽ có lễ phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II; rồi tháng 5 có chuyến viếng thăm Thánh Địa và tháng 8 có chuyến công du Nam Hàn, nhân dịp Ngày Quốc Tế giới Trẻ Á châu lần thứ 6. theo cha có sợi chỉ nào nối liền ba biến cố xem ra khác nhau này không?

Đáp: Gặp gỡ là phạm trù chìa khóa của triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô. Có sự gặp gỡ với lịch sử, với các gương mặt lớn của qúa khứ mới đây. Ngoài ra cũng thật là hay việc phối hợp hai triều đại giáo hoàng vĩ đại này trong một cách thức rất khác biệt nhau. Thế rồi còn có cuộc gặp gỡ với thực tại của vùng Trung Đông, vô cùng phức tạp; rồi tới cuộc gặp gỡ lớn với Đại Hàn, nghĩa là cuộc gặp gỡ với giới trẻ của đại lục Á châu, ngày nay là đại lục có năng lực rất to lớn, có tiềm năng lớn đối với cả cuộc sống của Giáo Hội nữa.

Hỏi: Theo cha, Đức Thánh Cha Phanxicô có gặp phải vài khó khăn nào trong năm đầu tiên triều đại giáo hoàng của ngài hay không?

Đáp: Chắc hẳn là có biết bao nhiêu là khó khăn chứ; tuy nhiên, điều đánh động tôi và tôi cũng đã nói chuyện với ngài, trong cuộc phỏng vấn hồi tháng 8 năm ngoái – đó là Đức Thánh Cha ý thức được các vấn đề đó, nhưng ngài sống thái độ nền tảng rất thanh thản. Chính ngài đã nói lên đều này: ngài ăn ngủ ngon, nghĩa là ngài cảm thấy một sự bình an nội tâm rất lớn, khiến cho ngài khỏe mạnh và cũng cho phép ngài đương đầu với các khó khăn với sự rất đơn sơ và ngay lập tức. Có lẽ sự mới mẻ trong kiểu sống của ngài có thể gây vài khó khăn cho vài người, trong khi trái lại ngài muốn là một con số của cuộc sống tin mừng.

Hỏi: Nếu cha có phải phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô ngày mai, thì cha sẽ hỏi ngài cái gì?

Đáp: Tôi không biết, bởi vì phỏng vấn ngài thực sự đã là một kinh nghiêm tinh thần lớn, một kinh nghiệm hoàn toàn cởi mở. Vì vậy tôi sẽ nói rằng tôi đứng trước mặt ngài, và bắt đầu từ điều Đức Thánh Cha muốn nói. Và đối với tôi đó sẽ là điều hay nhất.

(RG 13-3-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

NHỮNG CƠN CÁM DỖ

Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.

Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.

Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.

Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.

Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.

Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.

Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.

Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.

Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.

Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu cảu mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa cha quyết định.

Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượng chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.

Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.

Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.

Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.

Hãy đặt ra cho mình một chương sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Thiên Chúa Cha, Đấn giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt