Đức Thánh Cha dâng lễ Chúa Hiển Linh: Ánh Sáng Dịu Dàng của Thiên Chúa toả sáng trong tình yêu khiêm nhường

Đức Thánh Cha dâng lễ Chúa Hiển Linh: Ánh Sáng Dịu Dàng của Thiên Chúa toả sáng trong tình yêu khiêm nhường

Sáng Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh, lúc 10h, Đức Thánh Cha dâng Thánh Lễ trọng thể tại đền thờ thánh Phêrô cùng với nhiều hồng ý, giám mục và các tín hữu tham dự.

Trong bài giảng lễ, bắt đầu từ việc giải nghĩa từ “hiển linh” – Chúa tỏ mình ra, Đức Thánh Cha nhắc đến Chúa tỏ mình ra cho tất cả mọi dân tộc, ba nhà Đạo sĩ là những người đại diện. Ngài tỏ thực tại tuyệt đẹp của Thiên Chúa, đến với tất cả mọi nước, mọi dân tộc và ngôn ngữ đều được Ngài đón nhận và yêu mến. Biểu tượng cho điều này là ánh sáng, vươn đến và chiếu soi tất cả.

Hôm nay, nếu Thiên Chúa chúng ta tỏ mình ra cho tất cả mọi người, thì ngài cũng sẽ tiếp tục làm ngạc nhiên về cách Ngài tỏ mình ra. Tin Mừng kể về những xôn xao trong cung điện vua Hêrôđê, trong khi Chúa Giê-su lại tỏ mình ra như một vị vua: “Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2,2), Ba vị Đạo sĩ hỏi. Họ sẽ tìm thấy Ngài, nhưng không phải là nơi họ đã nghĩ: không phải trong điện ngà Giêrusalem, nhưng trong ngôi nhà đơn sơ ở Bêlem. Có một sự nghịch lý trong lễ Giáng Sinh khi Tin Mừng nói về kiểm tra dân số trên khắp cả thiên hạ thời hoàng đế Augustô và tổng trấn Quirinio (x. Lc 2,2). Nhưng không một nhà cầm quyền nào để ý rằng Đức Vua của lịch sử đã sinh ra trong thời của họ. Và rồi, khi Chúa Giêsu được 30 tuổi, Ngài lại tỏ mình công khai, Gioan Tẩy Giả đã đi trước, Tin Mừng đã giới thiệu Ngài một lần nữa trọng thể, và liệt kê tất cả mọi “cấp bậc” quyền lực cả đời lẫn đạo: Tiberio Cesare, Phongxio Pilato, Hêrôđê, Philippo, Lisania, thượng tế Anna và Caipha. Và ngài kết luận: “Lời Thiên Chúa phán với Gioan trong hoang địa” (Lc 3,2). Như thế, Lời Chúa không đến với bất cứ cấp bậc nào, nhưng đến với một người ẩn mình trong sa mạc. Quả là ngạc nhiên: Thiên Chúa không lên sân khấu của thế giới này để tỏ mình ra.

Khi nghe danh sách những người nổi tiếng, người ta có thể dễ dàng có khuynh hướng “quay ánh đèn” về phía họ. Chúng ta có thể nghĩ rằng: Có lẽ sẽ hay hơn nếu ngôi sao của Đức Giê-su hiện ra ở Roma trên ngọn đồi Palatino, nơi hoàng đế Augusto đã ngự triều cai quản thế giới; khi ấy toàn đế quốc lập tức trở thành Kitô giáo. Hay nếu ngôi sao chiếu trên cung điện vua Hêrôđê, thì ông ấy có thể làm điều tốt chứ không làm điều xấu. Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa lại không đến với ai toả sáng bằng ánh sáng của riêng họ. Thiên Chúa đề nghị nhưng không áp đặt; chiếu sáng nhưng không làm chói mắt. Chúng ta luôn có một cám dỗ lớn là đem so sánh ánh sáng của Thiên Chúa với ánh sáng của thế gian. Đã bao lần chúng ta chạy theo quyến rũ lấp lánh của quyền lực và của sân khấu, lại thấy rằng mình phục vụ tốt cho Tin Mừng. Nhưng như thế chúng ta đã hướng ánh sáng vào nhầm chỗ, vì Thiên Chúa không ở đó. Ánh sáng của Ngài nhẹ nhàng chiếu giải tình yêu khiêm nhường. Rồi bao nhiêu lần chúng ta, như là Giáo Hội, đã toả sáng bằng chính ánh sáng của mình! Nhưng chúng ta không phải là mặt trời của nhân loại. Chúng ta là mặt trăng phản chiếu ánh sáng thật là Thiên Chúa. Giáo Hội là ánh trăng mầu nhiệm và Thiên Chúa là ánh sáng của trần gian (x. Ga 9,5). Chính Ngài chứ không phải chúng ta.

Ánh sáng của Thiên Chúa đến với ai biết đón nhận. Tiên tri Isaia trong bài đọc một (x. Is 60,2) đã nhắc nhở chúng ta rằng ánh sáng của Thiên Chúa không ngăn chặn bóng tối và mây mù phủ lấp mặt đất, nhưng chiếu toả trên ai sẵn sàng đón nhận. Do đó, tiên tri lặp lại lời mời dành cho mỗi người: “Đứng lên, bừng sáng lên” (60,1). Hãy đứng dậy, nghĩa là thoát ra khỏi chỗ hiện tại của mình và sẵn sàng bước đi. Nếu không, sẽ vẫn giậm chân tại chỗ như các kinh sư tư vấn cho vua Hêrôđê, về điều họ đã biết, là Đấng Mêsia sinh ra ở đâu, nhưng không một bước di chuyển. Và rồi mỗi ngày, chúng ta cần mặc lấy Thiên Chúa là ánh sáng, cho đến khi Đức Giêsu trở thành trang phục hằng ngày của chúng ta. Nhưng để mặc lấy trang phục của Thiên Chúa, vốn đơn giản như ánh sáng, thì trước tiên cần cởi bỏ những trang phục hào hoa. Nếu không thì cũng giống vua Hêrôđê, dù thấy ánh sáng của Thiên Chúa nhưng vẫn thích ánh sáng trần thế của thành công và danh vọng. Ngược lại, như Ba vị Đạo sĩ, nhận ra lời tiên tri, họ đứng dậy để mặc lấy ánh sáng. Chỉ có họ nhìn thấy ngôi sao trên bầu trời: các kinh sư không nhìn thấy, Vua Hêrôđê không nhìn thấy và cũng chẳng có ai ở Giêrusalem nhìn thấy. Để tìm kiếm Đức Giêsu, phải đi theo một hành trình khác, con đường của Ngài, con đường yêu thương khiêm nhường. Và phải kiên trì theo con đường đó. Thật vậy, Tin Mừng hôm nay kết luận rằng Ba nhà Đạo sĩ, sau khi gặp Đức Giêsu, đã “đi con đường khác mà về xứ mình” (Mt 2,12). Một con đường khác với con đường của Hêrôđê. Một con đường khác để vào thế giới, giống như con đường của bao nhiêu người trong cảnh Giáng Sinh đã ở với Đức Giêsu: Đức Maria, thánh Giuse, các mục đồng. Cũng giống như các vị Đạo sĩ, họ rời bỏ nơi cư ngụ của mình, để trở thành những kẻ hành hương trên con đường của Thiên Chúa. Bởi vì chỉ có ai dám bỏ đi sự dính bén với thế gian này để bước đi thì mới có thể tìm thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Điều này đúng cả với chúng ta. Nếu chỉ biết nơi Chúa Giêsu sinh ra mà không đến nơi thì chưa đủ, giống các kinh sư thôi. Nếu chỉ biết Đức Giêsu mới sinh là ai mà không gặp Ngài thì không đủ. Khi nào nơi của ngài trở thành nơi của chúng ta, thời của ngài trở thành thời của chúng ta, con người của Ngài trở thành sự sống của chúng ta, thì khi ấy lời tiên tri ứng nghiệm nơi chúng ta. Và như thế, Giêsu sinh ra trong chúng ta và trở thành “Thiên Chúa hằng sống vì tôi”. Hôm nay, chúng ta được mời gọi theo gương các vị Đạo sĩ. Họ không bàn cãi, nhưng bước đi; họ không đứng lại nhìn, nhưng bước vào nhà của Giêsu; không đặt mình làm trung tâm, nhưng bái lạy Giêsu, vì Ngài mới là trung tâm; họ không cứng nhắc với kế hoạch của họ, nhưng sẵn sàng chọn đường khác để về. Bằng cử chỉ, họ diễn tả mối tương quan mật thiết với Chúa, một sự mở ra trọn vẹn với Ngài, một liên hệ toàn bộ với Ngài. Họ dùng ngôn ngữ tình yêu để liên hệ với Ngài, cùng một ngôn ngữ mà Giêsu con trẻ đã nói. Thật vậy, các vị Đạo sĩ đến với Chúa không phải để nhận, nhưng để cho. Chúng ta tự hỏi: Chúng ta đã mang đến cho Chúa Giêsu món quà nào trong ngày lễ Giáng Sinh của Ngài, hay chúng ta chỉ trao đổi quà cho nhau giữa chúng ta?

Nếu chúng ta đã đến với Chúa bằng tay không, thì hôm nay chúng ta có thể bù lại được. Có thể thấy Tin Mừng kể một danh sách ngắn những món quà: vàng, nhũ hương mộc dược. Vàng nói lên điều giá trị nhất, để nhắc nhớ rằng vị Đạo sĩ đã đặt Thiên Chúa ở vị trí trên hết, để tôn thờ. Nhưng để làm được điều đó thì phải rút mình khỏi vị trí cao nhất đó và thấy mình cần được giúp đỡ, mình không tự đủ được. Rồi đến nhũ hương, biểu tượng của sự tương quan với Thiên Chúa, việc cầu nguyện, như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan (x. Tv 141,2). Nhưng, giống như hương trầm, để toả hương thì phải chịu đốt cháy; vì thế, việc cầu nguyện cũng “đốt cháy” chút thời gian, dành giờ cho Thiên Chúa. Cầu nguyện thật sự thì không phải chỉ bằng lời. Và rồi, mộc dược, được dùng cùng với tình yêu để liệm xác Đức Giêsu tháo xuống từ Thánh Giá (x. Ga 19,39). Chúa vui khi chúng ta chăm sóc những thân thể chịu nhiều đau khổ, những thân xác yếu đuối, những ai bị lùi lại đàng sau, những ai chỉ có thể nhận mà không thể đổi lại gì về vật chất. Thật quý trong mắt Thiên Chúa khi tỏ lòng thương xót đối với những người không có gì để đền đáp – một sự miễn phí, nhưng không! Sự miễn phí, nhưng không thật quý trong mắt Thiên Chúa. Trong thời gian gần kết thúc Mùa Giáng Sinh, chúng ta đừng để mất cơ hội làm một món quà đẹp cho Vị Vua của chúng ta, Ngài đến không trên sân khấu xa hoa của thế giới, nhưng trong sự nghèo mà sáng của Bêlem. Nếu chúng ta làm điều đó, thì ánh sáng của Ngài sẽ chiếu toả trên chúng ta.

Văn Yên, SJ

ĐTC Phanxicô: không yêu thương là bước đầu của việc giết người

ĐTC Phanxicô: không yêu thương là bước đầu của việc giết người

Trước khoảng 25 ngàn tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô trong buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ tư ngày 17.10, ĐTC Phanxicô tiếp tục giải thích về điều răn thứ 5 “Chớ giết người”. Trước hết, ĐTC nhắc lại điều ngài đã giải thích trong bài huấn dụ tuần trước: đối với Thiên Chúa, sự sống con người thật quý giá, thánh thiêng và bất khả xâm phạm. Không ai có thể khinh khi sự sống của người khác hay của chính mình; thực tế là con người mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa và là đối tượng của tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, dù cho họ sinh ra trong hoàn cảnh nào. Tiếp đến, ĐTC trình bày  ý nghĩa sâu xa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta trong đoạn Tin mừng theo thánh Mátthêu 5, 21-24.

Các hình thức giết người

ĐTC nói: Chúa Giêsu khẳng định rằng, trước tòa án của Thiên Chúa, cả sự giận dữ đối với anh em mình cũng là một hình thức giết người. Do điều này, thánh Gioan tông đồ viết: “Ai ghét anh em mình là giết người” (Ga 3,15). Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở điều này, và trong cùng cách lý luận này, Người nói thêm rằng cả việc sỉ nhục và khinh khi có thể giết chết người. Và chúng ta đã quen thuộc với việc sỉ nhục. Một lời sỉ nhục giống như một hơi thở đối với chúng ta vậy. Và Chúa Giêsu nói: “Hãy dừng lại, bởi vì sỉ nhục là điều xấu, nó giết người.” Người sỉ nhục nói: “Nhưng tôi thì… với loại người này, tôi coi thường họ.” Đây là một hình thức giết đi phẩm giá của một người. Thật là tốt nếu giáo huấn này của Chúa Giêsu đi vào tâm trí và mỗi người chúng ta sẽ nói: “Tôi không bao giờ sỉ nhục ai.” Sẽ là một đề nghị hay, bởi vì Chúa Giêsu nói với chúng ta: ”Xem kìa, nếu bạn sỉ nhục, nếu bạn khinh khi, nếu bạn oán ghét, điều này là việc giết người.”

Cần hòa giải khi tham dự Thánh lễ

ĐTC nói tiếp: Không có bộ luật nào của con người đánh đồng các hành vi khác nhau như thế khi gán cho chúng cùng một mức độ phán xét. Và một cách cương quyết, Chúa Giêsu còn mời chúng ta, ngay lập tức, dừng lại việc dâng lễ vật trong đền thờ nếu nó nhắc chúng ta rằng chúng ta có bất hòa với một người anh em, để đi tìm anh ta và làm hòa với anh ta. Ngay cả chúng ta, khi chúng ta đi tham dự Thánh lễ, chúng ta phải có thái độ hòa giải này với những người mà chúng ta có vấn đề với họ. Ngay cả chúng ta nghĩ xầu về họ thì chúng ta đã sỉ nhục họ rồi. Nhưng nhiều lần, trong khi chúng ta chờ đợi Linh mục đến cử hành Thánh lễ, chúng ta nhiều chuyện một tí và chúng ta nói xấu người khác. Nhưng chúng ta không thể làm điều này. Chúng ta hãy suy nghĩ: sự quan trọng của việc sỉ nhục, sự quan trọng của việc khinh rẻ, sự quan trọng của việc thù ghét. Chúa Giêsu đặt những điều này ngang hàng với việc giết người.

Thờ ơ là giết người

Chúa Giêsu muốn nói điều gì khi Người mở rộng điều răn thứ 5 này đến tận điểm này? ĐTC giải thích: Con người có một sự sống cao quý, rất ý nghĩa, và có một “bản ngã” tâm lý không kém quan trọng so với sự hiện diện thể lý. Trong thực tế, một câu nói không phù hợp là đủ xúc phạm đến sự vô tội của một đứa trẻ. Một cử chỉ lạnh lùng là đủ để làm tổn thương một người phụ nữ. Không tin tưởng người trẻ là đã đủ làm tan vỡ trái tim của họ. Chỉ cần phớt lờ một người là đủ tiêu diệt anh ta. Sự thờ ơ là giết người. Nó giống như là nói với người khác: “Đối với tôi, anh coi như đã chết rổi”, bởi vì như thế là bạn đã giết người đó trong trái tim bạn. Không yêu là bước đầu tiên giết người; và không giết người là bước đầu tiên để yêu.

Nhưng chúng ta là người bảo vệ anh chị em mình

Từ đầu sách Thánh kinh, chúng ta đọc câu nói kinh khủng được tên giết người đầu tiên, Cain, nói ra, sau khi Thiên Chúa hỏi anh ta em của anh ta đâu. Cain trả lời: “Tôi không biết. Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?” (St 4,9). Những kẻ giết người cũng nói như thế: “nó không liên quan đến tôi”, đó là việc của bạn”, và những điều tương tự. ĐTC đặt câu hỏi: Chúng ta có phải là người canh giữ anh em chúng ta? Và ngài trả lời: Đúng! Chúng ta là người bảo vệ anh em! Chúng ta là người bảo vệ nhau! Và đây là con đường của sự sống, là con đường không giết người

Tình yêu tha thứ và thương xót

Sự sống con người cần tình yêu. Và đâu là tình yêu đích thực? ĐTC giải thích: Đó là tình yêu mà Chúa Kitô đã tỏ cho chúng ta, đó là lòng thương xót. Tình yêu mà chúng ta không thể thiếu đó chính là tình yêu tha thứ, tình yêu đón nhận người đã làm điều không tốt cho chúng ta. Không có ai trong chúng ta có thể sống sót tồn tại mà không có lòng thương xót, tất cả chúng ta đều cần được tha thứ. Do đó, nếu giết người nghĩa là hủy diệt, đàn áp, loại bỏ ai đó, thì không giết người có nghĩa là chăm sóc, xem họ có giá trị, bao gồm chứ không loại bỏ, và cả tha thứ.

“Không làm điều xấu là một việc tốt, nhưng không làm điều tốt thì không phải là điều tốt"

ĐTC khẳng định rằng mỗi người được mời gọi làm điều tốt, điều thiện, hơn là chỉ bằng lòng với việc không làm điều xấu là đủ. Ngài nói: Không ai có thể tự lừa dối mình bằng cách nghĩ rằng: “Tôi ok bởi vì tôi không làm điều gì xấu cả”. Một khoáng chất hay một cái cây – những viên đá cuội ở đó, không làm điều gì xấu, chúng hiện hữu theo kiểu như thế, nhưng một con người thì không. Con người được đòi hỏi hơn thế nữa. Có những điều tốt để làm, được chuẩn bị cho mỗi người chúng ta, mỗi người có việc tốt của mình, nó làm cho chúng ta hoàn toàn là chính mình. “Không giết người” là một lời kêu gọi yêu thương và thương xót, là một lời kêu gọi sống theo Chúa Giêsu, Đấng đã ban sự sống cho chúng ta và đã sống lại vì chúng ta. Một khi chúng ta cùng nhau, trong quảng trường này, lập lại lời của một vị thánh về điều này: “Không làm điều xấu là một việc tốt, nhưng không làm điều tốt thì không phải là điều tốt. Chúng ta luôn phải làm điều tốt.

Giới răn “Chớ giết người” là lời mời gọi yêu thương

ĐTC kết luận rằng giới răn thứ 5 chính là lời mời gọi yêu thương. Ngài nói: Chính Chúa Giêsu, khi nhập thể, Người đã thánh hóa sự sống của chúng ta; chính Người, bằng chính máu của mình, đã làm cho sự sống trở nên vô giá; chính Người, “Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3,15), nhờ đó mỗi người chúng ta là một món quà của Chúa Cha. Trong Người, trong tình yêu mạnh hơn sự chết của Người và bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần do Thiên Chúa ban cho chúng ta, chúng ta có thể đón nhận Lời “chớ giết người” như lời mời gọi quan trọng và thiết yếu nhất: lời mời gọi yêu thương.

Hồng Thủy – Vatican

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Vatican. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa nhật 11.02.2018, Đức Thánh Cha Phanxico đã gửi lời Chúc Tết đến các gia đình thuộc thuộc miền Viễn Đông và tại nhiều nơi trên thế giới đang chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Ngày 15 tháng hai sắp tới, tại vùng Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu triệu người sẽ ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tôi xin gửi lời chào trân trọng tới tất cả các gia đình. Tôi cầu chúc mọi người luôn sống đoàn kết, giàu tình huynh đệ và đầy những ước mơ tốt đẹp, để góp phần xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người được đón nhận, được bảo vệ, được thăng tiến và được hội nhập. Tôi xin gửi tới mọi người lời cầu nguyện cho hòa bình, vì hòa bình là món quà, là kho tàng quý giá cần luôn được theo đuổi với lòng từ bi, khôn ngoan và can đảm. Tôi đồng hành với quý vị và cầu chúc phúc lành cho quý vị.

Tứ Quyết, SJ

Đức Thánh Cha gặp giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna

Đức Thánh Cha gặp giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna

BOLOGNA. ĐTC kêu gọi giới trí thức và đại học Bologna thăng tiến quyền văn hóa, quyền hy vọng và quyền hòa bình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna, bắc Italia, chiều chúa nhật 2-10-2017 trong khuôn khổ chuyến viếng thăm mục vụ dài 13 tiếng đồng hồ tại hai giáo phận Cesena và Bologna.

Lúc 4 giờ rưỡi chiều, ĐTC từ nhà thờ chính tòa thánh Phêrô của Bologna đến quảng trường trước Vương cung thánh đường Thánh Đaminh. Ngài tiến vào Vương cung Thánh Đường thánh Đa Minh, chào thăm hàng chục tu sĩ Đa Minh trong nhà thờ, rồi đến cầu nguyện trước mộ của thánh Đa Minh. Tại đây, ngài cũng ghi vào sổ vàng lưu niệm những hàng chữ bằng tiếng Tây Ban Nha:

Trước mộ Thánh Đa Minh, tôi đã cầu nguyện cho dòng Anh em Thuyết Giáo. Tôi đã cầu xin cho các phần tử của Dòng ơn trung thành với gia sản đã lãnh nhận. Tôi đã cám ơn Chúa vì tất cả những điều tốt lành mà các con cái Chúa đã làm cho Giáo Hội và tôi đã cầu xin như một món quà là sự gia tăng nhiều ơn gọi. Anh em Đa Minh thân mến: xin Chúa chúc lành cho anh em, và xin Đức Trinh Nữ Thánh bảo vệ anh em, và xin anh em vui lòng đừng quên cầu nguyện cho tôi”.

Sau đó, ĐTC mới tiến ra quảng trường bên ngoài, để gặp gỡ hàng ngàn người gồm các giáo sư, sinh viên, đại diện cho 85 ngàn sinh viên các ngành thuộc đại học kỳ cựu này.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của giáo sư viện trưởng, ĐTC nói:

”Từ gần 1 ngàn năm nay, Đại Học Bologna là ”một phòng thí nghiệm thuyết nhân bản: tại đây cuộc đối thoại với các khoa học đã mở ra một thời đại và hình thành thành phố này. Vì thế Bologna được gọi là ”thông thái”: thông thái nhưng không kiêu hãnh, chính nhờ Đại học luôn cởi mở, giáo dục các công dân của thế giới và nhắc nhớ rằng căn tính của đại học này là căn tính căn nhà chung, universitas..

ĐTC cũng nhận xét rằng Đại học Bologna cũng nổi tiếng vì sự tiếp đón dành cho các sinh viên đến từ những môi trường xa xăm và khó khăn, và đó là một dấu chỉ tốt đẹp: ”ước gì Bologna là ngã tư ngàn đời của các cuộc gặp gỡ, đối chiếu và tương quan, và gần đây là chiếc nôi của dự án Erasmus, luôn luôn có thể vun trồng ơn gọi này!”

Ngài nhắc đến sự kiện Đại học Bologna hình thành với việc nghiên cứu luật, và nói: điều này chứng tỏ Đại học ở Âu Châu có những căn cội sâu xa nhất trong chủ thuyết nhân bản, mà các tổ chức dân sự và Giáo Hội, qua những vai trò khác nhau, đã góp phần vào. Chính Thánh Đa Minh cũng ngưỡng mộ sức sinh động của thành Bologna, với số sinh viên đông đảo đến đây để học dân luật và giáo luật. Bologna với Đại học ở đây đã biết đáp ứng những nhu cầu của xã hội mới, thu hút những sinh viên muốn tìm hiểu. Thánh Đa Minh thường gặp gỡ họ. Theo một tường thuật, một học giả, ngạc nghiên về kiến thức của thánh nhân về Kinh Thánh, đã hỏi Người xem đã học từ những sách nào. Câu trả lời thời danh của Thánh Đa Minh là: ”Tôi đã học trong cuốn sách bác ái hơn là trong những cuốn sách khác; cuốn sách này dạy mọi sự”.

ĐTC đã đề nghị với mọi người 3 thứ quyền mà ngài thấy rất thời sự. Trước hết là:

Quyền được văn hóa. Đây không phải chỉ là quyền được học hành, nhưng còn là bảo vệ sự khôn ngoan, nghĩa là một kiến thức nhân bản và nhân bản hóa. Quá nhiều khi người ta bị ảnh hưởng của những lối sống tầm thường và phù du, thúc đẩy con người theo đuổi thành công rẻ tiền, coi rẻ hy sinh, nuôi dưỡng ý tưởng cho rằng việc học hành nghiên cứu là vô ích nếu không mang lại ngay những gì cụ thể. Không phải vậy, việc học giúp đặt những câu hỏi, nó giúp ta không bị tê liệt vì sự tầm thường, và giúp tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.

ĐTC cũng nhắc nhở giới sinh viên và trí thức đại học đừng chiều theo khán thính giả, không theo những kịch bản gây phẫn nộ, thường che đậy những ích kỷ lớn, trái lại cần tận tụy hăng say với công tác giáo dục, nghĩa là rút ra những điều tốt đẹp nhất của mỗi người để mưu ích cho tất cả. Cần chống lại thứ ngụy văn hóa biến con người thành đồ phế thải, biến việc nghiên cứu thành lợi lộc và biến khoa học thành kỹ thuật. Cùng nhau chúng ta khẳng định một nền văn hóa xứng với con người, một nghiên cứu nhìn nhận những công lao, tưởng thưởng hy sinh, và một kỹ thuật không tùng phục những mục tiêu thương mại, một sự phát triển trong đó không phải tất cả những gì tiện dụng đều là điều hợp pháp”.

Thứ hai là quyền được hy vọng. Bao nhiêu người ngày nay đang cảm thấy cô đơn, bất an, cái vẻ nặng nề của sự bỏ rơi. Vì thế cần dành chỗ cho quyền hy vọng: đó là quyền không bị xâm chiếm hằng ngày vì những lời tuyên bố gây sợ hãi và oán ghét. Đó là quyền không bị tràn ngập vì những lời mị dân hoặc phổ biến những tin tức giả dối gây lo âu và nhắm thủ lợi. Đó cũng là quyền được thấy có những giới hạn hợp lý được đề ra cho những thứ tin tức đen, làm sao để để cả những tin tức tốt đẹp cũng được nói tới. Đó là quyền của người trẻ được tăng trưởng, không phải sợ hãi về tương lai, được biết rằng trong cuộc sống có những thực tại đẹp đẽ và lâu bền, đáng được chúng ta dấn thân. Đó là quyền tin rằng tinh yêu chân thực không phải là ”dùng rồi vứt bỏ” và công ăn việc làm không phải là một ảo tưởng không đạt tới được, nhưng là một lời hứa cho mỗi người, cần phải được duy trì.

Thật là đẹp dường nào nếu các phòng học của các đại học trở thành những công xưởng hy vọng, nơi làm việc cho một tương lai tốt đẹp hơn, nơi mà người ta học để trở thành những người trách nhiệm về bản thân và thế giới!

– Sau cùng là quyền hòa bình. Đây là một quyền và nghĩa vụ được ghi khắc trong tâm hồn của nhân loại, vì ”sự hiệp nhất trổi vượt hơn xung đột)) (E.G. 226).

ĐTC khẳng định rằng: Đứng trước hòa bình, chúng ta không thể dửng dưng hoặc trung lập. ĐHY Lercaro ở đây đã từng nói rằng: ”Giáo Hội không thể trung lập đứng trước sự ác, bất kỳ từ đâu tới: sự sống của Giáo Hội không phải là trung lập, nhưng là lời ngôn sứ (Bài giảng 1-1-1968), không trung lập, nhưng là đứng vào hàng ngũ bênh vực hòa bình!

Vì thế, chúng ta kêu gọi quyền hòa bình như quyền của tất cả mọi người được giải quyết các cuộc xung đột mà không bạo lực. Để được vậy, chúng ta lập lại: không bao giờ chiến tranh nữa, không bao chống lại người khác, không bao giờ không có người khác! Hãy đưa ra ánh sáng những lợi lộc và âm mưu, thường là tối tăm, của những kẻ gây ra bạo lực, nuôi dưỡng sự chạy đua võ trang, chà đạp hòa bình bằng những nghiệp vụ. Đại học được nảy sinh ở đây để học luật, để tìm kiếm những gì bảo vệ con người, điều hành cuộc sống chung và bảo vệ chống lại những lý lẽ của kẻ mạnh hơn, của bạo lực và độc đoán. Một thách đố rất thời sự là khẳng định các quyền con người và các dân tộc, các quyền của những người yếu thế hơn, người bị gạt bỏ, quyền của thiên nhiên, căn nhà chung của chúng ta.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Anh chị em đừng tin những kẻ nói với anh chị em rằng chiến đấu cho những điều ấy là vô ích và chẳng có gì thay đổi! Đừng hài lòng với những giấc mơ bé nhỏ, nhưng hãy mơ ước những điều vĩ đại… Cùng với anh chị em, tôi mơ ước ”một thuyết nhân bản mới của Âu Châu, để được vậy cần có ký ức, can đảm, một ước mong lành mạnh và nhân bản”, tôi mơ ước một Âu Châu là người mẹ tôn trọng sự sống và cống hiến hy vọng sự sống, một Âu Châu trong đó người trẻ hô hấp không khí trong lành của sự lương thiện, yêu vẻ đẹp của văn hóa và một đời sống đơn giản, không bị ô nhiễm vì những nhu cầu tiêu thụ vô cùng…

G. Trần Đức Anh OP

 

Nhà báo Eugenio Scalfari phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Nhà báo Eugenio Scalfari phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Ngày mùng 8 tháng 7 vừa qua nhật báo Cộng Hoà La Republica ở Italia đã đăng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho ông Eugenio Scalfari, một nhà báo lão thành không có niềm tin tôn giáo. Thứ năm trước đó chính ĐTC đã điện thoại cho ông. Ông Eugenio hơn ĐTC 13 tuổi. Sau khi hỏi thăm nhau về tình hình sức khoẻ ĐTC khuyên ông nên uống nước nhiều và ăn thức ăn có muối. Hai người hẹn gặp nhau lúc 4 giờ chiều cùng ngày tại nhà trọ thánh nữ Marta. Đề tài chính của buổi nói chuyện xoay quanh Thiên Chúa duy nhất, là Đấng Tạo Hoá duy nhất của vũ hoàn. Đó cũng là luận thuyết nền tảng của triều đại Đức Phanxicô. Kết quả là tình huynh đệ giữa mọi tôn giáo và của các Giáo Hội Kitô, đặc biệt là tình yêu thương đối với người nghèo, người yếu đuổi, bị loại trừ, người bệnh tật, hoà bình và công lý. ĐTC cho ông biết ngài rất lo âu đối với hội nghị thượng đỉnh của khối G20. Ngài nói với ông:

“Tôi sợ rằng có các liên minh khá nguy hiểm giữa các cường quốc  có một quan niệm lệch lạc về thế giới: Mỹ và Nga, Trung Quốc và Bắc Hàn, Putin và Assad trong chiến tranh Siria”.

Hỏi: Thưa ĐTC đâu là nguy hiểm của các liên minh này?

Đáp: Nguy cơ liên quan tới việc di cư. Như ông biết đó, chúng ta có một vấn đề chính, và rất tiếc ngày càng gia tăng trong thế giới hiện nay, đó là vấn đề của người nghèo, người yếu đuối, người bị loại trừ, mà các người di cư là thành phần. Đàng khác, có các quốc gia đa số dân nghèo không đến từ các phong trào di cư, mà bởi các tai ương xã hội, có những nước khác có ít người nghèo, nhưng họ sợ sự xâm lăng của người di cư. Đó là lý do tại sao hội nghị thượng đỉnh của khối G20 khiến tôi lo lắng: nó đánh vào người di cư của các quốc gia phân nửa thế giới, và nó càng đánh mạnh với thời gian qua đi.

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC nghĩ rằng trong xã hội toàn cầu như xã hội chúng ta đang sống, sự di chuuyển của các dân tộc gia tăng, nghèo hay không nghèo cũng thế, có phải vậy không?

Đáp: Chúng ta đừng ảo tưởng: các dân tộc bị thu hút bởi các đại lục và các quốc gia giầu cổ xưa. Nhất là Âu châu. Chế độ thực dân phát xuất từ châu Âu. Có các khía cạnh tích cực trong chế độ thực dân, nhưng cũng có các khía canh tiêu cực. Dầu sao đi nữa Âu châu đã trở thành giầu có hơn, giầu nhất trên toàn thế giới. Vì thế nó sẽ là mục tiêu của các dân tộc di cư.

Hỏi: Cả con nữa cũng đã suy tư nhiều lần về vấn đề này, và con đi tới kết luận rằng không phải chỉ vì thế, mà cũng vì thế Âu châu phải mau chóng chừng nào có thể có một cơ cấu liên bang. Các luật lệ và các thái độ chính trị phát xuất từ đó được quyết định bởi chính quyền liên bang và Quốc hội liên bang, chứ không phải bởi các nước thành viên riêng rẽ. ĐTC cũng đã nhiều lần nêu lên vấn đề này, cả khi phát biểu trước Quốc hội âu châu nữa, có đúng thế không thưa ĐTC?

Đáp: Đúng thế. Tôi đã nhiều lần nêu lên vấn đề này.

Hỏi: Và ĐTC đã được vỗ tay tán đồng nhiều lần kể cả tung hô nữa có đúng vậy không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Nhưng rất tiếc nó có ít ý nghĩa. Các quốc gia chuyển động và ý thức được một sự thực: hoặc là Âu châu trở thành một cộng đồng liên bang hoặc là nó sẽ không còn là gì nữa trên thế giới.  Nhưng bây giờ tôi muốn hỏi ông một câu: đâu là các thành kiến và các khuyết điểm của các nhà báo?

ĐTC trở thành người phỏng vấn. Ông Eugenio đáp: Thưa ĐTC, ĐTC phải biết rành hơn con chứ, bởi vì ngài là một người kiên trì đọc các bài họ viết mà!

ĐTC: Nhưng mà tôi muốn biết từ ông cơ!

Đáp: Vâng, chúng ta hãy để qua một bên các thành kiến, nhưng cũng có các thành kiến và đôi khi chúng cũng rất là đáng chú ý. Các khuyết điểm của các nhà báo: đó là kể lại một sự kiện mà không biết nó thật hay không thật tới mức nào;  vu khống, giải thích sự thật bằng cách khiến cho các tư tưởng của mình thắng thế. Và cả việc lấy các tư tưởng của một người khôn ngoan hơn, chuyên môn hơn làm của mình, bằng cách gán nó cho chính mình.

ĐTC nói:

Điều cuối cùng này tôi đã không bao giờ để ý. Chuyện các nhà báo có các tư tưởng riêng và áp dụng chúng cho thực tại không phải là một khuyết điểm, nhưng tự gán cho mình các tư tưởng của người khác để có được uy tín hơn, điều này chắc chắn là một  khuyết điểm trầm trọng.

Hỏi: Thưa ĐTC, nếu ĐTC cho phép bây giờ con xin hỏi hai điều. Con đã trình bầy vài lần trong các bài viết của con, nhưng con không biết ĐTC nghĩ gì?

Đáp: À, tôi hiểu rồi. Ông muốn nói về Spinoza và Pascal chứ gì. Ông muốn đề nghị trở lại hai đề tài này phải không?

Hỏi: Vâng, con cám ơn ĐTC. Chúng ta hãy bắt đầu với Luân lý đạo đức của Spinoza. ĐTC biết ông ta sinh ra là người Do thái, nhưng không sống đạo Do thái. Ông đã từ hội đường do thái Lisboa sang Hoà Lan. Nhưng trong ít tháng sau khi ông cho đăng vài bài khảo luận, hội đường Do thái tại Amsterdam đã cho đăng tải một bài viết rất gay gắt chống lại ông. Trong vài tháng Giáo Hội công giáo đã tìm cách lôi kéo ông vào niềm tin của mình. Spinoza đã không trả lời, và đã sắp xếp để các bút tích của ông chỉ được công bố sau khi ông qua đời. Nhưng trong khi chờ đợi thì vài người bạn của ông đã nhận được các bản thảo của các cuốn sách ông đang viết.

Đặc biệt là cuốn Luân lý đạo đức được Giáo Hội biết tới, và lập tức ra vạ tuyệt thông cho ông, Lý do là vì Spinoza cho rằng Thiên Chúa hiện diện trong mọi tạo vật sống động: thảo mộc, thú vật, con người. Một tia lửa thiên linh ở khắp mọi nơi. Như vậy Thiên Chúa nội tại trong thế gian, chứ không siêu việt. Chính vì vậy mà ông đã bị vạ tuyệt thông.

Đáp: Vậy chứ ông không thấy thế là đúng hay sao? Thiên Chúa duy nhất của chúng tôi siêu việt. Chúng tôi cũng nói rằng có một tia thiên linh ở khắp mọi nơi, nhưng sự siêu việt là miễn nhiễm. Đó là lý do tai sao ông ta bị vạ tuyệt thông.

Hỏi: Đối với con, nếu con nhớ đúng, xem ra đó đã do dòng Tên yêu cầu. Vào thời chúng ta đang đề cập tới, các tu sĩ dòng Tên đã bị trục xuất khỏi Giáo Hội, rồi lại được thu nhận. Dầu sao đi nữa ĐTC đã không nói cho con biết tại sao phải thu hồi vạ tuyêt thông đó.

Lý do là thế này. ĐTC đã nói với con trong một lần nói chuyện trước  rằng vài ngàn năm nữa loài người chúng ta sẽ tuyệt chủng. Trong trường hợp đó các linh hồn giờ đây được hưởng  hạnh phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa nhưng khác với Chúa sẽ hoà tan với Ngài. Ở thời điểm ấy sẽ không còn có sự cách biệt giữa siêu việt và nội tại nữa. Và vì vậy, khi dự kiến trước biến cố đó, việc ra vạ tuyệt thông ngay từ bây giờ có thể được tuyên bố là đã hết rồi. ĐTC không nghĩ như thế sao?

Đáp: Chúng ta hãy nói rằng có một luận lý trong điều ông đề nghị, nhưng lý do dựa trên một giả thuyết của tôi, nó không có sự chắc chắn nào, và nền thần học của chúng ta  không thấy trước điều đó. Việc giống người của chúng ta biến mất là một giả thuyết tinh tuyền, và vì vậy nó không thể lý giải một vạ tuyệt thông đã được đưa ra để kiểm duyệt  sự nội tại và khẳng định sự siêu việt.

Hỏi: Nếu ĐTC mà làm điều đó thì sẽ bị đa số Giáo Hội chống đối, có đúng thế không?

Đáp: Tôi tin là vậy, nhưng nếu chỉ là chuyện đó và tôi chắc chắn về điều tôi nói về đề tài này, tôi sẽ không nghi ngờ, trái lại nếu tôi lại không chắc chắn và vì vậy tôi sẽ không đương đầu với một trận chiến có thể nghi ngờ trong các lý do và thất bại ngay từ lúc bắt đầu. Bây giờ nêu muốn ông hãy nói về vấn đề thứ hai muốn hỏi tôi.

Hỏi: Vâng đó là vấn đề về ông Pascal. Sau một tuổi trẻ ăn chơi Pascal đã như bất thình lình bị xâm chiếm bởi niềm tin tôn giáo. Ông ta đã rất thông thái, ông đã đọc Montaigne nhiều lần và cả Spinoza, Giansenio, các hồi ký của ĐHY Carlo Borromeo. Nghĩa là ông ta có một nền văn hóa đời và cả tôn giáo nữa. Tới một lúc nào đó niềm tin tôn giáo đánh trúng ông hoàn toàn. Ông gia nhập cộng đoàn Port Royal des Champs, nhưng rồi lại tách rời ra. Ông viết vài tác phẩm trong đó các “Tư tưởng”, một cuốn sách theo con thật tuyệt vời và cũng rất hay trên bình diện tôn giáo. Nhưng rồi ông qua đời. Ông hầu như hấp hối và bà chị đã mang ông về nhà để có thể săn sóc cho ông. Mặc dầu ông muốn chết trong nhà thương giữa những người nghèo. Bác sĩ đã từ chối không cho phép vì ông chỉ còn vài ngày sống và vì việc đem ông đi không thể làm được. Khi đó ông xin đem một người nghèo hấp hối từ một nhà thương dành cho người nghèo về nhà ông với một chiếc giường giống giường của ông. Bà chị tìm cách làm vừa lòng ông, nhưng cái chết đến trước. Riêng cá nhân con thì con nghĩ Pascal đáng được phong chân phước lắm.

Đáp: Ông bạn thân mến của tôi, ông hoàn toàn có lý trong trường hợp này. Tôi cũng nghĩ là Pascal đáng được phong chân phước. Tôi sẽ lo liệu thủ tục cần thiết và hỏi ý kiến của các cơ quan Vaticăng đặc trách các vấn đề này, cùng với xác tín cá nhân và tích cực của tôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có bao giờ nghĩ tới việc viết về một hình ảnh Giáo Hội công nghị không?

Đáp: Không, tại sao tôi lại phải làm điều đó?

Hỏi: Bởi vì nó sẽ có một kết quả khá đảo lộn. ĐTC có muốn con giải thích không?

Đáp: Chắc chắn là ông làm tôi hài lòng rồi. Còn hơn thế nữa xin ông vẽ nó ra cho tôi.

ĐTC đưa giấy bút cho tôi và tôi vẽ. Tôi gạch một đường ngang và nói rằng đây là các Giám Mục mà ĐTC quy tụ về họp Công nghị. Tất cả các vị đều có một tước hiệu như nhau và một nhiệm vụ như nhau: đó là săn sóc các linh hồn được giao phó cho các vị trong giáo phận của các vị. Tôi vạch đường ngang này rồi nói: Nhưng mà ĐTC, thưa ĐTC, là Giám Mục Roma và như thế có quyền tối thượng trong Công nghị, vì ĐTC có nhiệm vụ rút tiả ra các kết luận và đưa ra đường lối chung của hàng Giám Mục. Như thế Giám Mục Roma ở bên trên vạch ngang này, có một vạch dọc lên cho tới tên của ĐTC và nhiệm vụ của ngài. Đàng khác các Giám Mục ở trên hàng ngang cai quản, giáo dục, trợ giúp tín hữu, và vì vậy có một đường từ hàng ngang xuống cho tới điều đại diện dân chúng. ĐTC có trông thấy hình vẽ không? Nó là một Thập Giá đó.

ĐTC nói:

Tư tưởng này thật rất là hay đẹp. Tôi đã không bao giơ có ý tưởng làm một hình vẽ về Giáo Hội Công nghị. Ông đã làm điều đó, tôi rất thích nó.

Trời đã muộn. ĐTC tặng tôi hai cuốn sách kể lại lịch sử của ngài tại Argentina cho tới Công nghị hồng y bầu ngài làm Giáo Hoàng. Một cuốn dầy hàng trăm trang. Chúng tôi ôm hôn nhau. Và ĐTC đã muốn mang hai cuốn sách ra xe cho tôi. Chúng tôi xuống thang máy và ra cửa nhà trọ thánh Marta. Chiếc xe của tôi đã dừng trước cửa. Ông tài xế xuống xe bắt tay chào ĐGH và tìm giúp tôi vào trong xe. ĐTC mời ông tài xế ngồi vào tay lái cho xe nổ máy và nói “Để tôi giúp ông ấy”. Ngài đỡ tôi và giúp tôi vào trong xe và giữ cửa xe mở. Khi tôi đã ngồi trong xe, ngài hỏi tôi có thoải mái không. Tôi trả lời là có. Khi đó ngài mới đóng cửa xe, và lui ra sau một bước chờ cho xe chuyển bánh, Ngài vẫy ta chào tôi cho tới phút chót, trong khi tôi đầy nước mắt vì cảm động. Tôi thường viết rằng ĐTC Phanxicô là một người cách mạng. Ngài nghĩ đến việc phong chân phước cho ông Pascal, ngài nghĩ tới người nghèo, người di cư. Ngài cầu mong một Âu châu liên bang và cuối cùng và không phải cuối cùng ngài giơ tay giúp tôi vào trong xe. Một vị Giáo Hoàng như thế chúng ta đã không bao giờ có! Và những gì ngài đã nói với tôi trong cuộc phỏng vấn cứ vang lên trong đầu tôi.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở mọi người: Để lắng nghe tiếng Chúa, cần phải trở nên bé nhỏ.

Thiên Chúa đã chọn chúng ta; Người đã hòa nhập với chúng ta trong hành trình của cuộc sống

Dựa vào bài đọc thứ nhất trích từ sách Đệ nhị luật, trong đó Môsê nói rằng Thiên Chúa đã chọn chúng ta là dân riêng của Người trong số các dân trên mặt đất, Đức Thánh Cha giải thích rằng người ta có thể ngợi khen Chúa bởi vì “trong trái tim Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn cử hành với niềm vui mừng các mầu nhiệm cứu độ lớn lao, các mầu nhiệm của tình yêu Người dành cho chúng ta, nghĩa là cử hành đức tin của chúng ta.”

Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến 2 từ trong đoạn sách Đệ nhị luật: chọn và sự bé nhỏ.

“Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng chính Người đã làm cho mình trở thành tù nhân của chúng ta.”

Thiên Chúa đã gắn kết với cuộc đời chúng ta, không thể tách rời. Người đã hành động mạnh mẽ! Và Người trung thành trong thái độ chọn lựa này. Chúng ta được chọn vì tình yêu và đây là căn tính của chúng ta.

Chúng ta thường nói ‘tôi chọn tôn giáo này, tôi đã chọn…’.  Đức Thánh Cha nói: “Không! Không phải bạn đã chọn. Chính Người đã chọn bạn, đã kêu gọi bạn và gắn chặt với bạn. Đây là đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta không tin điều này, chúng ta không hiểu sứ điệp của Chúa Kitô là gì, chúng ta không hiểu được Tin mừng.”

Về từ ngữ thứ hai, sự bé nhỏ, Đức Thánh Cha nhắc lại, như Môsê đã nói rõ rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israel bởi vì họ là “dân nhỏ nhất trong các dân tộc”.

“Thiên Chúa đã phải lòng sự bé nhỏ của chúng ta và vì thế Người đã chọn chúng ta. Người chọn những người bé nhỏ, không phải là những người cao trọng, nhưng là những người bé nhỏ. Người đã mạc khải chính mình cho những kẻ bé mọn: ‘Chúa đã dấu những điều này với những người khôn ngoan và hiểu biết, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn’. Người cho những người bé nhỏ biết: nếu con muốn hiểu về mầu nhiệm của Chúa Giêsu, hãy tự hạ mình xuống thành người bé nhỏ. Hãy biết trở nên ‘số không’. Người không chỉ chọn và mạc khải cho những người bé nhỏ mà còn kêu gọi họ: ‘hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai mệt nhọc và bị áp bức: ta sẽ cho các người được nghỉ sức’. Các con là những kẻ bé nhỏ nhất – vì các đau khổ, vì mệt nhọc …”

Chúa có kêu gọi những người cao trọng không? Đức Thánh Cha trả lời có. Ngài giải thích: “Trái tim Chúa mở rộng, nhưng những người cao trọng thông thái không thể nghe tiếng của Người vì lòng họ chỉ quan tâm đến mình. Để nghe được tiếng của Chúa cần phải trở nên người bé nhỏ.”

Từ điều này, Đức Thánh Cha nói về Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngài nhắc rằng Thánh Tâm, không phải như vài người nói,  là một tấm ảnh nhỏ dành cho những người sùng kính Thánh Tâm. Trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô là “trái tim mạc khải, trái tim của đức tin chúng ta bởi vì Người đã trở nên bé nhỏ, Người đã chọn con đường này.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Con đường tự hạ và tự hủy cho đến chết trên Thánh giá là một chọn lựa hướng đến sự bé nhỏ để cho vinh quang của Thiên Chúa có thể được tỏ bày.” Đức Thánh Cha hồi tưởng lại: Từ trái tim của Chúa Giêsu bị đâm thâu bởi lưỡi đòng của tên lính “nước và máu chảy ra”, và “đây là mầu nhiệm của Chúa Kitô”. Thánh lễ hôm nay cử hành “một trái tim yêu thương, chọn lựa, trung thành” và “gắn kết với chúng ta, mạc khải cho những người bé mọn, kêu gọi những người bé nhỏ, trở nên bé nhỏ”.

Đức Thánh Cha tiếp tục chia sẻ với câu hỏi: Chúng ta tin vào Thiên Chúa? Có. Tin vào Chúa Giêsu nữa? Có. Tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa?. Có. Nhưng mầu nhiệm là điều này. Đây là sự tỏ bày, là vinh quang của Thiên Chúa. Trung thành trong chọn lựa, trong việc gắn kết với chúng ta, trong việc  trở nên bé nhỏ: trở nên bé nhỏ, tự hủy. Vấn đề của đức tin là hạt nhân của cuộc sống chúng ta: chúng ta có thể rất nhân đức nhưng lại có ít đức tin; chúng ta phải bắt đầu từ đây, từ mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã cứu độ chúng ta với sự trung thành.

Cuối cùng Đức Thánh Cha cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để cử hành trong Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô “các cử chỉ lớn lao, các công trình cứu độ vĩ đại.” (REI 23/06/2017)

Hồng Thủy

Người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách

Người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách

Tại Bogotà, thủ đô Colombia bên Mỹ Châu Latinh, từ 20 năm nay, có một người đàn ông lượm rác được mệnh danh là vua sách. Đó là ông José Alberto Gutierrez, năm nay 54 tuổi. Ông làm nghề lái xe hốt rác. Và từ 20 năm nay, ông đã biến căn nhà khiêm hạ của ông thành một thư viện bình dân cho người trong khu xóm.

Mọi chuyện đã bắt đầu với những chuyến lái xe đi hốt rác đầu tiên hồi năm 1997, khi ông thấy hàng thùng sách bị quẳng ra đường. Tác phẩm đầu tiên mà ông nhặt được là cuốn Anna Karenine của nhà đại văn hào người Nga Leon Tolstoi, nằm chỏng chơ trên một thùng đầy sách ở bên vệ đường. Ông đã không ngần ngại bưng nguyên thùng sách về nhà và khám phá ra bao nhiêu là tác phẩm khác, từ những tiểu thuyết lừng danh như Hoàng tử bé, thế giới của Sophie, đến thơ truyện hay sách giáo khoa vv…và lẽ dĩ nhiên là rất nhiều sách của Gabriel Garcia Marquez, nhà văn hào người Colombia đoạt giải Nobel văn chương.

Tiếng đồn dần dần lan ra, người trong xóm bắt đầu lui tới xin mượn sách giáo khoa để giúp con cái làm bài vở học hành, tiếp đến mượn sách để đọc giải trí, và thế là nhà của ông hốt rác đã trở thành một thư viện, lấp đầy một khoảng trống trong khu vực nỏi ông sinh sống. Năm 2000, cùng với vợ là bà Luz Mery và ba đứa con, ông biến hẳn tầng trệt rộng 90 mét vuông thành thư viện có tên gọi là Mãnh lực của chữ nghĩa.

Sáng kiến này đã thành công vượt bậc. Rất nhiều người thiện nguyện đã đến xin giúp gia đình yêu sách vở này một tay. Có nhiều người đến từ nước ngoài nữa. Có lẽ đây là thư viện duy nhất trên thế giới tặng sách cho những người đến mượn. Có những cuốn sách thật giá trị nhưng lại ở trong tình trạng thê thảm khi bị vất bỏ, khiến bà Luz đã mở một loại “bệnh viện chữa sách” bỏ công bỏ của tân trang lại hầu như lành lặn hoàn toàn.

Tiếng tăm của thư viện “mãnh lực của chữ nghĩa” lan rộng ra khắp nơi, từ trong vùng rồi trên toàn quốc và vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Ông José Alberto được mời đến thăm nhiều hội chợ triển lãm sách mới tại Santiago bên Chilê, Monterrey bên Mêhicô và Bogotà và nhiều nhà xuất bản đã tặng sách cho thư viện. Ngày nay, thư viện có trên 25 ngàn tác phẩm và mở cửa suốt để tặng hay cho mượn sách.

Ông bà Gutierrez rất vui mừng và nói Thật là khó tin được. Càng cho đi lại càng nhận được nhiều hơn. Để có thể dành chỗ nhận sách mới, ông bà lấy thời gian rảnh rỗi đi đến những vùng xa xôi cách trở và nghèo khó để phát hay tặng sách. Nhiều trường học cũng gọi đến để xin sách cho học sinh nghèo. Cho đến nay, sách tặng biếu đã được thư viện gửi đến 235 nơi khác nhau trong nước, trong đó có cả những nơi vừa mới ra khỏi cuộc nội chiến kéo dài hơn 50 năm qua giữa quân đội chính quy và lực lượng phiến quân FARC. Một phiến quân đã liên lạc với ông xin ông gửi sách cho các nhóm du kích để họ có thể chuẩn bị hành trình trở về đời sống dân sự sau thỏa hiệp hòa bình ký kết hồi cuối tháng 11 năm ngoái.

Ông José nói: Tôi yêu sách từ khi còn nhỏ, sống tại một nơi hẻo lánh, nghe mẹ tôi đọc sách dạy con hàng đêm. Chính điều này đã thay đổi con người tôi. Sách giúp con người phát triển tâm linh. Tôi cũng đang cố gắng trở lại học tập và sắp thi tú tài. Tôi nghĩ đến những du kích quân và tin chắc rằng nơi chốn rừng sâu ấy, sách cũng là một dấu hiệu hòa bình, một biểu tượng của lòng hy vọng.

(AFP 06.06.2017) 

Mai Anh

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Sáu 2017: Chấm dứt buôn bán vũ khí

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Sáu 2017: Chấm dứt buôn bán vũ khí

VATICAN. Trong tháng sáu 2017, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi mọi người cầu nguyện để có thể loại bỏ việc buôn bán vũ khí. Bởi lẽ việc buôn bán vũ khí cho thấy sự giả dối của những người dân danh hòa bình nhưng lại làm giàu trên xương máu của người dân. Và thực tế, biết bao người dân vô tội tiếp tục bị giết hại. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video rằng:

Thật là mâu thuẫn một cách vô lý, khi vừa nói về hòa bình và các đàm phán hòa bình, lại vừa thúc đẩy và cho phép việc buôn bán vũ khí.

Có phải cuộc chiến này hay cuộc chiến kia là chiến tranh theo nghĩa giải quyết các vấn đề, hay cuộc chiến ấy chính là cuộc chiến buôn bán vũ khí bất hợp pháp để làm giàu cho những kẻ buôn bán sự chết chóc?

Chúng ta hãy chấm dứt tình trạng này. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện, để các nhà lãnh đạo các quốc gia có thể cam kết chấm dứt việc buôn bán vũ khí vốn sát hại biết bao người dân vô tội. 

Tứ Quyết SJ

Một Giám mục Argentina đang điều tra một vụ được cho là phép lạ Thánh Thể

Một Giám mục Argentina đang điều tra một vụ được cho là phép lạ Thánh Thể

Buenos Aires, Argentina – Đức cha Luis Fernandez của giáo phận Rafaela thông báo rằng một cuộc điều tra sẽ được thực hiện để xem xét những gì xảy ra hồi đầu tuần này ở một cơ sở điều trị ma túy, khi một nhóm người trẻ đang chầu Mình Thánh và thấy một chất trong Mình Thánh, trông giống như là máu.

Hôm 11/04, tại cơ sở điều trị ma túy San Miguel, khi một nhóm trẻ đang chầu Mình Thánh, họ thấy có sự thay đổi nơi Thánh Thể.

Juan Ternengo, điều hợp viên của cơ sở San Miguel nói rằng có một chất đỏ đậm chảy ra từ Minh Thánh, khi các người trẻ đang hát và cầu nguyện.”

Khi hay tin, Đức cha Fernandez và cha Alcides Suppo đã đến nơi và chính Đức cha đã đưa mình thánh đi khỏi nơi này để tiến hành điều tra.

Thông cáo của giáo phận Rafaela cho biết là trong những trường hợp tương tự như thế, Giáo hội cần thận trọng và chừng mực trong việc nhận định sự kiện nhằm làm rõ sự việc và những gì xảy ra. Những trường hợp này không phải là thường xuyên và đơn giản để phân định.

Thông cáo cũng khuyến khích mọi người dùng cơ hội này để canh tân đức tin và lòng mến của mình đối với phép lạ lớn nhât là sự Hiện diện Thật sự của Chúa Giêsu trong mỗi cử hành Thánh lễ. (CNA 13/04/2017)

Hồng Thủy

Sự cứng nhắc và tinh thần thế gian là thảm họa cho các linh mục

Sự cứng nhắc và tinh thần thế gian là thảm họa cho các linh mục

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-09-12-2016

Các linh mục là những người làm trung gian cho tình yêu Thiên Chúa, chứ không làm trung gian cho những bận tâm của riêng mình. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta. Ngài tập trung vào những cám dỗ gây nguy hiểm cho đời phục vụ của các linh mục.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về những người luôn bất mãn. Ngày nay có những Kitô hữu cũng thế, họ không bao giờ thỏa mãn, không hiểu được những gì Chúa dạy, không hiểu được mặc khải của Tin Mừng. Cũng thế, có nhiều linh mục không bao giờ thỏa mãn, mà luôn đi tìm những dự án mới, vì lòng các vị ấy ở xa đường lối của Chúa Giêsu. Do đó, các vị than phiền và sống cách khổ sở.

Các linh mục làm trung gian cho tình yêu Thiên Chúa  

Chúa Giêsu làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta phải đi theo con đường của Đấng trung gian là Chúa Giêsu. Trong đời thường, có những người làm trung gian, đó là họ làm một nghề và nhận lại thù lao cho nghề ấy. Nhưng ở đây, người trung gian có nghĩa hoàn toàn khác.

Vị trung gian cần hy sinh chính bản thân mình để có thể nối kết con người với Đấng ban sự sống. Cái giá phải trả chính là toàn cuộc sống, là cả mạng sống, với tất cả sự cực nhọc, với công việc phục vụ và rất nhiều thứ khác. Đây chính là trường hợp của các linh mục coi xứ. Các vị sống như thế, để có thể kết nối với đoàn chiên, kết nối với người dân, và để dẫn đưa họ đến với Chúa Giêsu. Khi làm Đấng trung gian, Chúa Giêsu hoàn toàn trút bỏ chính mình, hoàn toàn khiêm nhường đến độ trở ra như không. Thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philipphê (2:7-8) nói rất rõ về điều này: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang… Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Đây chính là con đường của Chúa, con đường của hy sinh và khiêm nhường đến tận cùng, của việc tự vét cạn chính mình, tự làm rỗng chính mình, tự hóa ra không.

Sự cứng nhắc dẫn đến việc xa lánh người dân

Một linh mục đích thực, là người trung gian và rất gần gũi với dân chúng. Vị linh mục ấy không làm việc để rồi được nhận lại cái gì đó theo kiểu một quan chức.  

Thế nhưng, có những vị trung gian thích đi dạo quanh để được người ta nhìn thấy và tán thưởng. Để làm cho mình trở thành quan trọng, vị linh mục ấy đi theo con đường của cứng nhắc và xa lánh người dân. Vị ấy không biết đến nỗi khổ của con người. Vị ấy đánh mất những gì đã được hấp thụ nơi gia đình, nơi cha mẹ, nơi ông bà và anh chị em… Khi cứng nhắc như thế, các vị ấy chất gánh nặng lên người dân mà trong khi mình chẳng làm gì. Các vị nói với dân Chúa rằng: không thể thế này, không thể thế kia… Có nhiều người dân muốn tìm một chút an ủi, một chút hiểu biết, thế mà bị gạt đi.

Vị linh mục tốt cười vui với trẻ thơ

Khi xét mình, người linh mục có thể tự hỏi: Hôm nay tôi là một người trung gian của Chúa hay tôi chỉ là một quan chức? Tôi có sống phục vụ tha nhân không? Một vị linh mục tốt, thì có khả năng quan tâm, có khả năng vui chơi và mỉm cười với trẻ thơ… Vị ấy biết cách để gần gũi những gì là bé nhỏ, với những con người bé nhỏ. Có những vị luôn buồn rầu với vẻ mặt nghiêm trọng và sa sầm nét mặt, nhưng nếu là người trung gian của Chúa, vị linh mục tốt sẽ có những nụ cười, có sự thân thiện, sự thấu hiểu và lòng cảm thông.

Có ba vị thánh là mẫu gương cho đời linh mục. Thứ nhất, thánh Policarpo giữ vững ơn gọi và đi lên giàn để chịu thiêu sống. Khi lửa cháy lên, các tín hữu xung quanh ngửi thấy mùi bánh mì. Ngài đã kết thúc cuộc đời của người trung gian của Chúa và trở thành “bánh cho các tín hữu”. Thứ hai, thánh Phanxicô Xaviê chết đang khi tuổi còn trẻ. Ngài chết trên bãi biển trong khi vẫn hướng về Trung Hoa, nơi ngài ao ước đi tới. Thứ ba, thánh Phaolô Tre Fontane bị lính bắt và giải đi ngay từ sáng sớm. Ngài biết rằng có một số người trong cộng đoàn Kitô hữu đã phản bội. Ngài đã hiến dâng chính mạng sống mình như của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Đó là ba mẫu gương mà chúng ta tìm thấy về cuộc đời của một linh mục. Đó là cái kết của người linh mục, của vị trung gian của Thiên Chúa, cái kết trên thập giá.

Tứ Quyết SJ

Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ về vụ ‘Hilary Clinton email leaks’

Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ về vụ ‘Hilary Clinton email leaks’

Archbishop Kurtz addresses journalists and communicators at opening of annual Catholic Media Conference in North Carolina

Trước việc Wikileaks công bố hàng chục ngàn các thư điện tử bị rò rỉ cho thấy tâm tình chống báng các học thuyết xã hội Công Giáo, khinh miệt các Giám Mục Công Giáo, và nguy hiểm hơn là âm mưu của đảng Dân Chủ Mỹ muốn gieo những “mầm mống nổi loạn” trong Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ, Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của tổng giáo phận Louisville, là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ra tuyên bố như sau:

Tại thời điểm quan trọng này trong lịch sử của dân tộc, tôi khích lệ tất cả chúng ta dành ra một chút thời gian để suy tư về một trong những nguyên tắc sáng lập ra nền cộng hòa của chúng ta – đó là quyền tự do tôn giáo. Nguyên tắc này bảo đảm những quyền của cộng đồng đức tin có thể bảo vệ sự toàn vẹn niềm tin của mình và được tự quản một cách chính đáng. Có những báo cáo gần đây cho thấy một số người có thể đã tìm cách can thiệp vào đời sống nội bộ của Giáo Hội vì những lợi ích chính trị ngắn hạn của họ. Nếu đúng như thế, đây là điều đang gây khó khăn cho cuộc sống của các cộng đồng đức tin và cả lợi ích quốc gia của chúng ta.

Chúa Kitô đã ban cho chúng ta một ân sủng quý giá là đức tin và Giáo Hội của chúng ta. Là người Công Giáo, chúng ta giữ vững niềm tin của mình bởi vì niềm tin ấy đến với chúng ta từ Chúa Giêsu, chứ không phải từ một sự đồng thuận giả tạo dựa trên các chuẩn mực hiện tại. Tin Mừng được ban cho tất cả mọi dân tộc xuyên suốt thời gian. Tin Mừng mời gọi chúng ta yêu thương người lân cận và sống hòa bình với nhau. Vì lý do này, sự thật của Chúa Kitô không bao giờ là lỗi thời hoặc không thể tiếp cận được. Tin Mừng phục vụ lợi ích chung, chứ không phải là các chương trình nghị sự chính trị.

Tôi khích lệ anh chị em Công Giáo chúng ta, và tất cả mọi người thiện chí, hãy trở thành những người gìn giữ các quyền quý giá, mà chúng ta được thừa kế trong tư cách là công dân của đất nước này. Chúng tôi cũng hy vọng các viên chức công quyền biết tôn trọng quyền của người dân được sống đức tin của họ mà không cần sự can thiệp nào của nhà nước. Khi cộng đồng đức tin bị mất đi quyền này, chính ý tưởng là một người Mỹ sẽ bị đánh mất.

Các chính trị gia, các nhân viên và tình nguyện viên của họ nên phản ảnh nguyện vọng tốt nhất của chúng tôi trong tư cách là những công dân. Quá nhiều những diễn văn chính trị trong những ngày này đã khinh miệt phụ nữ và gạt ra ngoài lề xã hội những người có đức tin. Điều này phải được thay đổi. Theo đúng những hy vọng đẹp nhất của những người sáng lập ra quốc gia chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta có thể và sẽ làm tốt hơn với tư cách là một quốc gia.

+ Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz
Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ

 
J.B. Đặng Minh An dịch
 
 
WikiLeaks có 1,700 emails chứng minh Hillary Clinton chỉ đạo bán vũ khí cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS

Julian Assange, người sáng lập WikiLeaks, là một nhân vật gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, người ta không thể phủ nhận những email ông ta nhặt nhạnh được là có thật.

Trong một cuộc phỏng vấn với Democracy Now hôm 14 tháng 10, Julian Assange tung ra một quả bom chấn động Hoa Kỳ. Ông tuyên bố rằng, WikiLeaks thủ đắc trong tay khoảng 1,700 emails chứng minh bà Hillary Clinton và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chủ động trang bị cho các chiến binh thánh chiến Hồi giáo, đặc biệt là bọn khủng bố Hồi Giáo IS ở Syria.

Hillary Clinton đã nhiều lần phủ nhận điều này, bao gồm cả trong các báo cáo khi tuyên thệ trước Quốc Hội Hoa Kỳ.

Sau cuộc tấn công vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Benghazi, Lybia vào ngày 11 tháng Chín, 2012, đầu năm 2013, Hillary Clinton được mời ra điều trần trước Quốc Hội Hoa Kỳ. Bà phủ nhận cáo buộc có liên can đến các lô hàng vũ khí xuất cảng sang Trung Đông.

Theo Julian Assange, về tội khai man trước Quốc Hội Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đáng bị bắt ngay lập tức.

Trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Obama, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã cho phép đưa các lô hàng vũ khí Mỹ tới Qatar, một đất nước dưới ảnh hưởng của bọn Huynh đệ Hồi giáo. Lô hàng này nhằm giúp quân nổi dậy Libya, trong một nỗ lực để lật đổ chính phủ Gaddafi của Libya.

Sau đó là hàng loạt những tàu chở đầy vũ khí sang Trung Đông để cung cấp cho Al Qaeda, và bọn khủng bố Hồi Giáo IS trong cố gắng lật đổ chế độ của tổng thống Assad ở Syria.

Các emails cho thấy Hilary Clinton đã đóng vai chính trong việc tổ chức ra cái gọi là “Những người bạn của Syria”, một tổ chức trá hình của Al Qaeda và bọn khủng bố Hồi Giáo IS, để hỗ trợ cuộc nổi dậy do CIA dẫn đầu nhằm thay đổi chế độ ở Syria.

Bà Hilary Clinton và những người điều hành chiến dịch tranh cử của bà cho đến nay vẫn từ chối xác nhận hay phủ nhận tính xác thực của các tài liệu bị rò rỉ này.

Đặng Tự Do (Vietcatholic)

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

ĐTC Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của các nhá báo quốc tế trên chuyến bày từ Krakow về Roma 31-7-2016

Như thường lệ trên chuyến bày từ Cracovia về Roma chiều Chúa Nhật 31 tháng 7 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế cuộc phỏng vấn dài. Sau đây là nội dung cuộc nói chuyện của ĐTC với các nhà báo quốc tế.

Cha Federico Lombardi Giám đốc mãn nhiệm Phòng Báo Chí Toà Thánh nói: “Thưa ĐTC, chúng con xin cám ơn ĐTC rất nhiều đã ở đây với chúng con sau chuyến công du này. Mặc dù trời chiều nay mưa, nhưng xem ra mọi sự đã xuôi chảy đến độ chúng con tất cả đều rất hạnh phúc và hài lòng, và chúng con cũng thấy ĐTC hài lòng trong các ngày này. Như thường lệ chúng con sẽ hỏi ĐTC vài câu, nhưng nếu ĐTC muốn nói vài điều mở đầu thì xin mời ĐTC.

Xin chào anh chị em và tôi xin cám ơn anh chị em về công việc làm và sự đồng hành của anh chị em. Tôi muốn chia buồn với anh chị em là đồng nghiệp về cái chết của chị Anna Maria Jacobini. Hôm nay tôi đã tiếp bà chị và các cháu của chị ấy… Họ rất đau buồn về việc này… Đó là một điều buồn của chuyến công du này. Thế rồi, tôi muốn cám ơn Cha Lombardi và anh Mauro, vì đây là chuyến công du cuối cùng của họ với tôi. Cha Lombardi đã làm việc tại đài Vaticăng từ hơn 25 năm qua và trong 10 chuyến bay. Còn anh Mauro thi từ 37 năm qua: 37 năm đặc trách về hành lý trong các chuyến bay. Tôi xin cám ơn cha Lombardi và anh Mauro rất nhiều. Và sau cùng tôi xin cám ơn với một chiếc bánh ngọt. Và tôi sẵn sàng cho cuộc phỏng vấn. Chuyến bay ngắn nên lần này chúng ta sẽ vội vã.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và giới thiệu một trong các nhà báo Ba Lan là chị Magdalena Wolinska thuộc đài truyền hình Ba Lan.

Hỏi: Thưa ĐTC, trong diễn văn đầu tiên tại lâu đài Wawel sau khi vừa tới Cracovia ĐTC đã nói rằng ngài hài lòng bắt đầu biết Âu châu trung đông từ chính Ba Lan. Nhân danh dân tộc Ba Lan con xin hỏi ĐTC, ĐTC đã sống Ba Lan trong các ngày này như thế nào? ĐTC có cảm tưởng gì?

Đáp: Đó đã là một Ba Lan đặc biệt, bởi vì đó đã là một Ba Lan bị xâm lăng, lần này bởi giới trẻ, đúng không? Cracovia mà tôi đã thấy thật là đẹp biết bao. Dân Ba Lan rất hăng say. Đấy coi xem chiều nay, mưa như vậy mà dọc đường không phải chỉ có các người trẻ, mà cả các cụ bà nữa… Đây thật là một lòng tốt, một sự cao quý. Tôi đã có kinh nghiệm với người dân Ba Lan khi tôi còn bé: nơi cha tôi làm việc cũng có biết bao người Ba Lan tới làm việc, sau chiến tranh. Họ là những người tốt, và đó là điều đã ở lại trong con tim tôi. Tôi đã tìm lại được lòng tốt ấy của anh chị em. Một vẻ đẹp. Xin cám ơn chị.

– Cha Lombardi nói bây giờ tới lượt một đồng nghiệp ba lan khác là chị Ursula thuộc đài Polsat.

Hỏi: Thưa ĐTC, các con cái trẻ của chúng con rất cảm động vì những lời của ĐTC, rất phù hợp với thực tại và các vấn đề của chúng. Nhưng trong các diễn văn ĐTC cũng đã dùng các lời lẽ và các kiểu diễn tả riêng trong ngôn ngữ của người trẻ. ĐTC đã chuẩn bị như thế nào? Làm sao ĐTC lại đưa ra nhiều thí dụ gần gũi với cuộc sống, với các vấn đề và ngôn ngữ của chúng như vậy?

Đáp: Tôi thích nói chuyện với người trẻ. Tôi thích lắng nghe giới trẻ. Họ luôn luôn đặt tôi vào trong các khó khăn, bởi vì họ nói những điều mà tôi đã không nghĩ tới, hay tôi chỉ nghĩ tới có một nửa. Người trẻ lo lắng, người trẻ sáng tạo…Tôi thích họ, và từ họ tôi lấy thứ ngôn ngữ của họ. Có biết bao lần tôi phải tự hỏi: “Nhưng điều này có nghĩa là gì?” Và họ giải thích cho tôi hiểu nó nghĩa là gì. Tôi thích nói chuyện với họ. Tương lai của chúng ta là họ, và chúng ta phải đối thoại. Cuộc đối thoại này giữa quá khứ và tương lại quan trọng. Chính vì thế mà tôi đã nhấn mạnh biết bao tương quan giữa người trẻ và ông bà, và khi tôi nói “ông bà” thì tôi hiểu họ là những người cao niên nhất và những người ít cao niên hơn… Để cũng trao ban kinh nghiệm của chúng ta, bởi vì những người gia cảm nhận quá khứ, lịch sử và họ lấy lại và đem nó đi tới với lòng can đảm của hiện tại, như tôi đã nói chiều nay. Thật là quan trọng. Quan trọng! Tôi không thích nghe nói: “Ôi, lũ trẻ này nói toàn những điều tầm phào!” Chúng ta cũng nói biết bao chuyện tầm phào đấy chứ! Người trẻ nói những chuyện tầm phào, nhưng họ nói những điều tốt: cùng như chúng ta, cũng như tất cả mọi người vậy. Nhưng nghe họ, nói chuyện với họ, bởi vì chúng ta phải học từ họ và họ phải học từ chúng ta. Như thế đó. Và như thế người ta làm lịch sử, và như thế người ta lớn lên mà không khép kín, không kiểm duyệt. Tôi không biết, nhưng mà nó như vậy đó. Như thế tôi học từ giới trẻ các lời này.

– Tiếp đến cha Lombardi giới thiệu anh Marco Ansaldo, phóng viên của nhật báo Cộng Hoà Italia, đại diện cho nhóm nhà báo Ý.

Hỏi: Thưa ĐTC, theo hầu hết các quan sát viên quốc tế cuộc đàn áp bên Thổ Nhĩ Kỳ 15 ngày sau cuộc đảo chánh hụt đã tồi tệ hơn là chính cuộc đảo chánh. Đã có hàng loạt các tầng lớp bị đánh: các quân nhân, các thẩm phán, các nhân viên hành chánh công cộng, giới ngoại giao, các nhà báo. Con xin trích các dữ kiện của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ: người ta nói tới hơn 13.000 người bị bắt giữ và hơn 50.000 người bị cách chức. Một cuộc thanh lọc. Hôm trước đây tổng thống Recep Tayyip Erdogan, trước các chỉ trích bên ngoài đã nói: “Quý vị hãy nghĩ tới chuyện của mình!” Chúng con muốn hỏi tại sao cho tới nay ĐTC đã không can thiệp, đã không lên tiếng? Có lẽ ĐTC sợ rằng có thể có các âm hưởng trên thiểu số công giáo bên Thổ Nhĩ Kỳ chăng?

Đáp: Khi tôi đã phải nói điều gì đó không vừa lòng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng mà tôi đã chắc chắn, thì tôi đã nói, với các hậu quả mà anh chị em biết đó. Tôi đã nói những lời ấy và tôi chắc chắn! Tôi đã không nói, bởi vì tôi chưa chắc chắn, với các tin tức mà tôi đã nhận được, liên quan tới điều gì đang xảy ra ở đó. Tôi lắng nghe các tin tức đến Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, và cả các tin đến từ vài nhà phân tích chính trị quan trọng. Tôi đang nghiên cứu tình hình cả với các nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh và câu chuyện vẫn chưa rõ ràng. Có đúng thật là phải luôn luôn tránh sự dữ cho các tín hữu công giáo – và tất cả chúng ta đều làm điều này – nhưng mà không phải với giá của sự thật. Có nhân đức cẩn trọng – phải nói điều này khi như trong trường hợp của tôi anh chị em là các chứng nhân đó, khi tôi đã phải nói điều gì đó liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, thì tôi đã nói.

– Tới phiên chị Frances D’ Emilio của Hãng thông tin AP, là hãng thông tin lớn tiếng Anh

Hỏi: Thưa ĐTC câu hỏi của con là một câu hỏi  mà nhiều người đã đặt ra trong các ngày này, bởi vì đã được đưa ra ánh sáng là cảnh sát Australia hình như đang điều tra các lời tố cáo mới chống lại ĐHY Pell, và lần này các lới tố cáo liên quan tới các lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, rất khác với các lời tố cáo trước đây.  Điều con tự hỏi và biết bao nhiêu người khác hỏ:i đó là theo ĐTC đâu là điều đúng đắn cần làm cho ĐHY Pell,, xét vì tình hình nghiêm trọng, địa vị quan trọng như thế của ngài và sự tin tưởng mà ĐHY hưởng từ phía ĐTC?

Đáp: Xin cám ơn chị. Các tin tức đầu tiên tới đã lẫn lộn. Đó đã là các tin tức của 40 năm về trước, và ban đầu cảnh sát cũng đã không chú ý tới. Đó là một điều lẫn lộn. Rồi tất cả các lời tố cáo đã được trình bầy với công lý, và trong lúc này thì chúng ở trong tay công lý. Không được phán xử trước khi công lý phán xử. Nếu tôi đưa ra một phán xử phò hay chống ĐHY Pell, thì sẽ là điều không tốt, bởi vì như vậy là tôi xét xử trước. Dúng thật là có sự nghi ngờ. Và có nguyên tắc rõ ràng của luật pháp: “trong nghi ngờ thì phò bị can”. Chúng ta phải đợi công lý, chứ không trước hết làm một cuộc phán xử truyền thông, vì điều này không giúp ích gì. Sự phán xử của các lời bép xép. Người ta không biết kết qủa sẽ ra sao. Xin hãy chú ý tới điều công lý sẽ quyết định. Một khi công lý đã nói, thì tôi sẽ lên tiếng.

– Cha Lombardi nói bây giờ chúng ta nhường lời cho anh Hernán Reyes của đài truyền hình Mỹ. Anh đại diện cho các nhà báo Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ĐTC, sức khoẻ của ĐTC ra sao sau cú ngã hôm trước? Chúng con thấy ĐTC khỏe khoắn. Đây là câu hỏi thứ nhất. Câu hỏi thứ hai là: trong tuần vừa qua ngoại trưởng Ernesto Samper đã nói tới một sự trung gian của Vaticăng bên Venezuela. Đây có phải là một cuộc đối thoại cụ thể hay không? Nó có phải là một khả thể thực sự hay không ? Và ĐTC có nghĩ rằng việc trung gian này, với sứ mệnh của Giáo Hội có thể trợ giúp ổn định quốc gia này  không?

Đáp: Trước hết là cú ngã.. Tôi đã nhìn Đức Mẹ và tôi đã quên là có bậc thang…Tôi đang cầm bình hương trong tay… Khi tôi cảm thấy là mình tè, tôi để cho mình ngã,  và điều này đã cứu tôi. Bởi vì nếu tôi đã chống cự lại, thì chắc là đã có các hậu quả. Không có gì. Tôi rất khoẻ mạnh.

Câu hỏi thứ hai liên quan tới Venezuela. Cách đây hai năm tôi đã có một cuộc gặp gỡ với tổng thống Maduro rất là tích cực. Thế rồi tổng thống đã xin được tiếp kiến năm ngoái: vào ngày Chúa Nhật, một ngày sau khi tôi từ Sarajevo trở về. Nhưng rồi ông đã huỷ bỏ cuộc gặp gỡ ấy, bởi vì ông đã bị viêm tai, và không thể tới. Rồi sau đó tôi đã để cho thời gian qua đi, rồi viết cho ông một bức thư. Đã có các tiếp xúc cho một cuộc gặp gỡ và anh đã nhắc tới. Vâng, với các điều kiện trong các trường hợp này. Và trong lúc này thì tôi không chắc chắn và không thể bảo đảm điều đó: như vậy rõ ràng chưa? Tôi không chắc chắn là người ta đang nghĩ rằng trong nhóm trung gian  có ai đó và tôi không biết cả chính quyền nữa có muốn một đại diện của Toà Thánh hay không – tôi không chắc chắn. Điều này là cho tới lúc tôi đã đi khỏi Roma. Nhưng các sự việc còn ở đó. Trong nhóm có ông Zapatero của Tây Ban Nha, ông Torrijos và một người nữa và một người thứ tư người ta nói là của Toà Thánh. Nhưng tôi không chắc chắn về điều này.

– Tới phiên anh Antoine-Marie Izoard của hãng tin Media Pháp và chúng ta biết nước Pháp đang sống những gì trong các ngày này.

Hỏi: Thưa ĐTC, trước hết con chúc mừng ĐTC và cha Lombardi và cha Spadaro về lễ thánh Ignazio. Câu hỏi của con hơi khó một chút. Sau vụ sát hạị man rợ cha Jacques Hamel trong nhà thờ đang khi ngài đang thánh lễ, các tín hữu công giáo không phải chỉ bên Pháp đã bị sốc nặng, như ĐTC biết. Cách đây bốn hôm ở đây ĐTC đã lại nói rằng mọi tôn giáo đều muốn hoà bình. Tuy nhiên, vị linh mục thánh thiện 86 tuổi này đã bị giết một cách rõ ràng là nhân danh Hồi giáo. Vì thế thưa ĐTC, con có hai câu hỏi ngắn: Tại sao khi nói tới các hành động bạo lực này, ĐTC đã luôn luôn nói tới các người khủng bố mà không bao giờ nói tới Hồi giáo. ĐTC đã không bao giờ dùng từ Hồi giáo… Thế rồi ngoài lời cầu nguyện và việc đối thoại, đương nhiên là rất nòng cốt, đâu là sáng kiên cụ thể ĐTC có thể bắt đầu hay gợi ý để chống lại bạo lực hồi giáo?

Đáp: Tôi không thích nói tới bạo lực hồi giáo, bởi vì mọi ngày khi đọc báo tôi thấy các bạo lực, ở Italia đây: người thì giết hôn thê của mình, người khác giết mẹ vợ…Và đây là các tín hữu công giáo bạo lực đưọc rửa tội… Họ là các tín hữu công giáo bạo lực. Nếu tôi nói tới bạo lực hồi giáo, thì tôi cũng phải nói tới bạo lực công giáo. Không phải mọi tín hữu hồi đểu bạo lực; không phải mọi tín hữu công giáo đều bạo lực. Nó giống như một loại trái cây hỗn hợp: có mọi thứ; có những kẻ bạo lực của các tôn giáo này. Có một điều thật: đó là trong mọi tôn giáo đều luôn luôn có một nhóm nhỏ quá khích. Qúa khích. Chúng ta cũng có. Và khi chủ trương quá khích đi tới chỗ giết người – và người ta có thể giết chết với cái lưỡi, và điều này  chính tông đồ Giacôbê nói tới chứ không phải tôi đâu, và cũng giết với con dao – tôi tin rằng không đúng việc đồng hóa Hồi giáo với bạo lực. Đây là điều không đúng và không thật. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với Đại Imam của Đại học Al-Azhar, và tôi biết họ nghĩ gì: họ tìm kiếm hoà bình, gặp gỡ. Đức Sứ Thần của một nuớc Phi châu có nói với tôi rằng trong thủ đô luôn luôn có một hàng người dài xếp hàng vào Cửa Thánh: vài người đến các toà xưng tội, người khác thì vào ghế quỳ cầu nguyện Nhưng đa số tiến tới cầu nguyện trước bàn thờ Đức Mẹ: đó là các tín hữu hồi muốn cử hành Năm Thánh.  Họ là anh em. Khi tôi ở bên Trung Phi, tôi đã đến với họ và imam cũng đã leo lên xe với tôi. Chúng ta có thể sống chung tốt với nhau. Nhưng có các nhóm nhỏ cuồng tín. Và tôi cũng tự hỏi có biết bao người trẻ – biết bao người trẻ mà người âu châu chúng ta đã để cho họ trống rỗng lý tưởng, không có công việc làm, tìm đến với ma tuý, rượu chè và họ đến đầu quân vào các nhóm cuồng tín này. Phải, chúng ta có thể nói rằng cái gọi là ISIS là một nhà nuớc hồi tự giới thiệu như là bạo lực vì khi nó cho chúng ta thấy thẻ căn cước cho chúng ta thấy họ cắt cổ người Ai Cập hay làm các điều khác trên bờ biển Libi như thế nào. Nhưng đây là một nhóm nhỏ cuồng tín, gọi là ISIS. Nhưng không thể nói rằng – tôi tin là nó không thật và không đúng – nói rằng Hồi giáo là khủng bố.

Hỏi: Thưa ĐTC còn một sáng kiến cụ thể giúp chống lại nạn khủng bố, bạo lực thì sao?

Đáp:  Khủng bố ở khắp nơi! Xin anh hãy nghĩ tới nạn khủng bố bộ tộc tại vài nước Phi châu… Khủng bố – tôi không biết có nên nói không vì hơi nguy hiểm.. Khủng bố lớn mạnh, khi không có một lựa chọn khác, khi ở trung tâm của nền kinh tế thế giới có thần tiền chứ không có bản vị con người, người nam và người nữ. Đây đã là nạn khủng bố đầu tiên rồi. Bạn đã xua đuổi sự tuyệt diệu của thụ tạo là người nam và người nữ, và bạn đã đặt vào đó tiền bạc. Đây là sự khủng bố nền tảng chống lại nhân loại. Chúng ta hãy nghĩ tới điều đó.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và nói sáng nay ĐTC đã loan báo Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần tới sẽ được tổ chức bên Panama. Ở đây có một nhà báo muốn kính tặng ĐTC một món quà để chuẩn bị cho ngày này. Nhà báo người Panama hỏi ĐTC:

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã nói trong cuộc gặp gỡ với các thiện nguyện viên là có lẽ ĐTC sẽ không có mặt ở Panama. ĐTC không thể làm điều này đâu, vì chúng con đợi ĐTC bên Panama.

Đáp: Không, không. Nếu tôi sẽ không đi, thì sẽ có Thánh Phêrô chứ…

Hỏi: Nhưng mà chúng con tin là  sẽ có ĐTC. Thay mặt cho nhân dân Panama con xin kính tặng ĐTC một chiếc áo số 17 là ngày sinh của ĐTC, và một chiếc mũ mà dân quê Panama thường đội.. Họ đã xin ĐTC đội nó. Tuy nhiên nếu ĐTC muốn chào dân Panama, con xin cám ơn ĐTC.

Đáp: Tôi xin cám ơn người  Panama vì điều này. Tôi cầu mong anh chị em chuẩn bị tốt cho Ngày Quốc Tế Giới Trẻ với cùng sức mạnh, tinh thần tu đức, và sự sâu xa mà người Ba Lan đã làm, dân chúng ở Cracova và mọi người Ba Lan đã làm.

– Anh Antoine Marie Izoard thay mặt mọi người nói: Thưa ĐTC nhân danh các đồng nghiệp nhà báo, bởi vì con hơi bị bó buộc đại diện cho họ, con cũng muốn nói đôi lời nếu ĐTC cho phép, liên quan tới cha Lombardi để cám ơn ngài.

Không thể tóm tắt 10 năm hoạt động của cha Lombardi tại Phòng Báo  Chí Toà Thánh, với ĐTC Biển Đức, một việc cai quản nội bộ chưa từng có và rồi với việc ĐTC được bầu làm Giáo Hoàng và các kinh ngạc tiếp theo. Điều chắc chắn có thể nói được đó là sự sẵn sàng liên tục, sự dấn thân và tận tụy của cha Lombardi; khả năng không tin được của cha trong việc trả lời và không trả lời cho các câu hỏi của chúng con, cho các câu hỏi thường là lạ lùng: và điều này cũng là cả một nghệ thuật. Thế rồi, cũng còn có tính khôi hài hơi theo kiểu người Anh của cha nữa: trong mọi tình trạng, kể cả những trạng huống tồi tệ nhất. Và chúng con có nhiều thí dụ lắm.

Dĩ nhiên là với niềm vui chúng con tiếp đón các người kế vị cha, hai nhà báo giỏi, nhưng chúng con cũng không quên rằng cha đã còn hơn là môt nhà báo, và hiện tại vẫn là linh mục và linh mục dòng Tên nữa. Thật là tuyệt vời! Chúng con sẽ không quên mừng ngài một cách xứng đáng vào tháng 9, khi ngài bắt đầu các việc phục vụ khác, nhưng ngay hôm nay chúng con muốn chúc mừng ngài. Một lời chúc mừng lễ thánh I Nhã và chúc cha trường thọ, 100 tuổi như người ta nói bên Ba Lan, một trăm tuổi phục vụ khiêm tốn. Bên Ba Lan người ta nói là “Stolat” . “Stolat thưa cha Lombardi”. Sau đó mọi người đã vui vẻ ăn bánh ngọt ĐTC tặng.

Linh Tiến Khải

Hãy học biết lắng nghe nhau – Lắng nghe là một nhân đức nhân bản và Kitô

Hãy học biết lắng nghe nhau – Lắng nghe là một nhân đức nhân bản và Kitô

ĐTC Phanxicô chào tín hữu thám dự buổi đọc Kinh Truyên Tin trưa Chúa Nhất 17-7-2016

Biết lắng nghe Chúa Giêsu, lắng nghe lời soi sáng của Ngài, là cách thức tiếp đón Chúa ưa thích nhất. Chúng ta hãy biết lắng nghe nhau giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái người thân, bạn bè. Nó là một nhân đức nhân bản và kitô quan trọng, ngày nay đang có nguy cơ bị lãng quên. Trong khả năng lắng nghe có gốc rễ của hoà bình.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn du ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa Nhật, trích từ chương 10 Phúc Âm thánh Luca, kể lại biến cố Chúa Giêsu vào làng Betania ghé thăm nhà hai chị em Marta và Maria. ĐTC nói: “Cả hai đều  đều tiếp đón Chúa, nhưng họ làm điều đó trong các cách thức khác nhau. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu  và lắng nghe lời Ngài (c. 39). Marta, trái lại, hoàn toàn bận bịu với các điều phải chuẩn bị; và tới một lúc nào đó nàng nói với Chúa Giêsu: “Lậy Chúa, em con để một mình con phục vụ mà Chúa không quan tâm gì sao? Xin hãy bảo nó giúp con” (c-40). Và Chúa Giêsu trả lời: “Marta, Marta, con lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một chuyện cần thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và nó sẽ không bị lấy mất đi” (cc.41-42).  ĐTC giải thích điểm này như sau:

Trong sự chộn rộn và bận việc của mình Marta có nguy cơ quên. Và đây là vấn đề: có nguy cơ quên điều quan trọng nhất, nghĩa là sự hiện diện của vị khách, trong trường hợp này  là Chúa Giêsu. Người ta quên sự hiện diện của khách. Và khách thì không phải chỉ được phục vụ, nuôi dưỡng, săn sóc trong mọi cách. Nhưng nhất là cần đưọc lắng nghe nữa. Xin anh chị em hãy nhớ kỹ từ này: lắng nghe! Bởi vì khách được tiếp đón như một người, với lịch sử của họ, với con tim giầu tình cảm và tư tưởng của họ, như thế họ có thể cảm thấy thực sự như ở trong gia đình. Nhưng nếu bạn tiếp đón một người khách vào nhà bạn và tiếp tục làm các việc, để họ ngồi đó, bạn câm nín và họ câm nín, như thể họ là đá: khách bằng đá. Không! Cần phải lắng nghe khách! Khi Chúa Giêsu nói với Marta chỉ có một điều cần thôi, chắc chắc câu Chúa trả lới cho Marta tìm thấy ý nghĩa tràn đầy của nó trong sự quy chiếu vào việc lắng nghe lời của chính Chúa Giêsu, lời soi sáng và nâng đỡ tất cả những gì chúng ta là và những gì chúng ta làm. Chẳng hạn nếu chúng ta đi cầu nguyện trước Chúa chịu đóng đanh và chúng ta nói, nói và nói, rồi đi về, chúng ta không lắng nghe Chúa Giêsu! Chúng ta không để cho Chúa nói với con tim chúng ta. Lắng nghe: đó là từ chià khóa. Xin anh chị em đừng quên! Chúng ta không được quên rằng Lời của Chúa Giêsu soi sáng chúng ta, nâng đỡ tất cả những gì chúng ta là và những gì chúng ta làm. Chúng ta không được quên rằng cả trong nhà của Marta và Maria, trước khi là Chúa và là Thầy, Chúa Giêsu là người hành hương và là khách.  Như thế, câu trả lời của Ngài có ý nghĩa đầu tiên và lập tức này: “Marta, Marta, tại sao con lại bận rộn vì khách tới nỗi quên đi sự hiện diện của họ? Khách bằng đá.  Để tiếp đón Ngài không cần phải có nhiều điều, trái lại chỉ có một điều duy nhất cần thiết thôi: lắng nghe Ngài – lời: lắng nghe Ngài – chứng minh cho Ngài thấy một cử chỉ huynh đêj, làm sao để Ngài cảm thấy đang ở trong gia đình, chứ không phải ở trong một nơi tạm bợ”.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Hiểu như thế lòng hiếu khách là một trong các công việc của lòng thương xót, xem ra thực sự là một nhân dức nhân bản và kitô, một nhân đức mà trong thế giới ngày nay có nguy cơ bị lơ là. Thật thế, người ta gia tăng các nhà thương và nhà dưỡng lão, nhưng người ta không luôn luôn thực thi một lòng hiếu khách thực sự trong các môi trường này. Người ta làm nảy sinh ra nhiều cơ cấu, dự kiến cho nhiều  hình thức bệnh tật, cô đơn, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, nhưng lại giảm khả thể tìm thấy ai đó sẵn sàng lắng nghe đối với người ngoại quốc, bị gạt bỏ bên lề, bị loại trừ. Bởi vì họ là người xa lạ, tỵ nạn, di cư. Lắng nghe lịch sử đớn đau ấy của họ! Cả trong gia đình, giữa các người thân  cũng có thể xảy ra việc dễ tìm thấy các phục vụ và săn sóc thuộc nhiều loại khác nhau hơn là sự lắng nghe và tiếp đón. Ngày nay chúng ta bận bịu một cách cuồng loạn bởi biết bao nhiêu vấn đề –  và có vài vấn đề không quan trọng – đến nỗi thiếu khả năng lắng nghe. Chúng ta liên tục bận rộn, và như thế chúng ta không có thời giờ để lắng nghe. Tôi muốn hỏi anh chị em một điều, và mỗi người hãy trả lời trong tim mình: “Này anh là chồng, anh có thời giờ để lắng nghe vợ không? Và chị là vợ, chị có giờ lắng nghe chồng chị không? Các anh chị em là cha mẹ, các anh chị em có giờ, có giờ để mất thì giờ, để  lắng nghe con cái, ông bà của các anh chị em, hoặc người già không? – “Nhưng mà ông bà luôn luôn nói cùng một chuyện, họ nhàm chán lắm… “ – “Nhưng họ cần được lắng nghe”. Lắng nghe.  Tôi xin anh chị em học lắng nghe và dành nhiều thời giờ hơn để lắng nghe. Trong khả năng lắng nghe có gốc rễ của hoà bình.

Xin Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ của lắng nghe và sốt sắng phục vụ, dậy chúng ta biết tiếp đón và hiếu khách đối với các anh chị em của chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã lại chia buồn về vụ khủng bố tại Nice tối 14 tháng 7 vừa qua. Ngài nói:

Trong tim của chúng ta vẫn còn sống động nỗi đớn đau vì tai ương xảy ra chiều thứ năm vừa qua tại Nice, đã đốn ngã biết bao mạng sống vô tội, kể cả trẻ em… Tôi gần gũi với từng gia đình và toàn quốc gia Pháp đang để tang. Xin Thiên Chúa là Cha từ nhân đón nhận tất cả các nạn nhân vào trong sự an bình của Ngài, nâng đỡ các người bị thương và an ủi thân nhân của họ. Xin Ngài đánh tan mọi dự tính khủng bố và chết chóc, để đừng có ai còn dám đổ máu người anh em nữa. Tôi xin gửi một vòng tay ôm hiền phụ và huynh đệ tới tất cả các cư dân thành phố Nice và toàn quốc gia Pháp. Và bây giờ tất cả chúng ta hãy cầu nguyện, nghĩ tới tai ương này, nghĩ tới các nạn nhân, các người thân. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng. ĐTC đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các nạn nhân.

Ngài đã chào tín hữu hiện diện, đặc biệt các đoàn hành hương Ai Len, tín hữu các giáo phận Armagh và Derry, cũng như các Phó tế vĩnh viễn giáo phận Elphin và phu nhân. Ngài cũng chào cha giám đốc và các chủng sinh đại Chủng viện thần học thánh Pio X vùng Calabria, các bạn trẻ giáo phận Cremona, các bạn trẻ thuộc cộng đoàn các Thánh Tông Đồ Milano, các trẻ em giúp lễ giáo phận Treviso, và nhiều tín hữu Trung Quốc.

Linh Tiến Khải

Biến cố chính của đức tin là chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết

Biến cố chính của đức tin là chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết

ĐTC Phanxicô chào tín hữu tham dự lễ phong thánh cho hai chân phước Papczynski và Hasselblad sáng Chúa Nhật 6-6-2016

Biến cố chính của đức tin là chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết. Chúa Giêsu xin cho Ngài cái chết của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi nó, và trao ban sự sống trở lại cho chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giàng thánh lễ phong hiển thánh cho chân phước linh mục Stanislao Chúa Giêsu Maria Papczynski, người Ba Lan, và nữ Chân phước Maria Elisabetta Hesselblad, người Thụy Điển, cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật hôm qua trước thềm đền thờ thánh Phêrô.

Cùng đồng tế với ĐTC có  470 vị gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và linh mục. Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh, còn có ca đoàn hướng dẫn, ca đoàn giáo phận Concorida Podenone, ca đoàn Goteborg và ca đoàn Bro Chamber.

Tham dự thánh lễ cũng có giới chức đạo đời của hai nước Ba Lan và Thụy Điển, gồm tổng thống Ba Lan, Bộ trưởng văn hóa và tôn giáo và đại sứ của hai nước, cũng như hơn 50.000 tín hữu và du khách hành hương, trong đó cũng có một số linh mục tu sĩ Việt Nam đang tu học tại Roma, và vài vị đến từ Thụy Điển.

Sau lời chào đầu lễ cộng đoàn đã hát kinh xin Chúa Thánh Thần đến. Tiếp đến ĐHY Angelo Amato, Tổng trường Bộ Phong Thánh, xin ĐTC tôn phong hai chân phước lên hàng hiển thánh và ngài đọc tiểu sử của hai vị.

Chân phước Stanislao Giêsu Maria Papczynski sinh năm 1631 tại Podegrodzie, trong tổng giáo phận Cracovia, bên Ba Lan. Sau thời gian huấn luyện, Stanislao gia nhập dòng các cha Scolopi, rồi được thụ phong Linh Mục. Cha nổi tiếng là bậc thầy của khoa hùng biện và giảng thuyết, cũng như là cha giải tội, đặc biệt là của Đức Sứ Thần Toà Thánh Antonio Pignatelli, sau này sẽ là ĐGH Innocenzo XII, và của vua Gioan III Sobieski. Cha viết cuốn Templum Dei Misticum Đền thờ thần bí của Thiên Chúa, trong đó cha trình bầy chương trình cuộc sống thiêng liêng, nhất là cho giáo dân, vì cha xác tin rằng họ cũng được mời gọi nên thánh.

Năm 1670 cha Papczynski ra khỏi dòng Scolopi với phép chuẩn, và thành lập một dòng mới với tên gọi là “Tu sĩ thánh mẫu của Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”, với đặc sủng phổ biến lòng tôn sùng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, đặc biệt cho các nạn nhân chiến tranh và dịch hạch, và trợ giúp mục vụ cho các cha sở.

Với phép của ĐC Stefano Wierzbowski, GM Poznan, cha lui về tịch liêu Korabiew, xây nhà đầu tiên của dòng và viết Hiến pháp. Tiếp đến cha sống tại một nhà thờ nhỏ gọi là “Nhà tiệc ly của Chúa tại Giêsusalem mới, nay là Gora Kalwaria, cùng với các anh em cùng dòng hoạt động tông đồ và bác ái, trợ giúp dân nghèo vùng quê.

Cha Stanislao đã về Roma để xin Toà Thánh chấp nhận dòng và dòng đã được Toà Thánh chấp nhận năm 1699. Giai đoạn cuối cùng cuộc đời cha bị ghi dấu bởi bệnh tật. Và cha đã qua đời trong hương thơm thánh thiện ngày 17 tháng 9 năm 1701 và được an táng trong nhà thờ Tiệc Ly tai Gora Kalwaria. Cha đã được ĐTC Biển Đức XVI phong Chân phước ngày 16 tháng 9 năm 2007.

Chị Maria Elisabetta Hesselblad sinh tại Faglavik bên Thuỵ Điển ngày mùng 4 tháng 6 năm 1870. Ngày từ ngày còn bé, khi nghe lời Chúa liên quan tới một chuồng chiên và một mục tử duy nhất, cô đã bắt đầu tuy tư về sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Năm lên 18 tuổi để giúp gia đình chị Maria Elisabetta  di cư sang Mỹ tìm việc làm. Chính trong môi trường mới này chị tiếp xúc với các tín hữu công giáo, và bắt đầu con đường tiến tới gần Giáo Hội  và lãnh nhận bí tích Rửa Tội năm 1902. Vì một tật bệnh đã có từ hồi còn nhỏ nay trở lại, chị hầu như gần chết, và ước mong qua đời tại Nhà thánh nữ Brigida ở Roma. Vì thế chị sang Roma và chính tại đây chị đã cảm nhận được ơn gọi sống đời tu trì, xin gia nhập và khấn trong dòng Brigida.  Tại Roma chị Maria Elisabetta nhận 3 ứng sinh người Anh và cùng với các chị này bắt  đầu thành lập một dòng mới lấy tên là dòng Chúa Cứu Thế Rất Thánh của thánh nữ Brigida. Được linh hứng bởi một tinh thần truyền giáo mãnh liệt và nồng nhiệt đối với sự hiệp nhất của các tín hữu kitô, chị quảng đại phục vụ và trợ giúp dân nghèo trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và đã được các chính quyền và dân chúng ghi ơn. Chị qua đời tại Roma ngày 24 tháng 4 năm 1957. Trong Năm Thánh 2000 chị đã được ĐTC Gioan Phaolô II tôn phong Chân phước. Mới đây ĐTC Phanxicô đã cho phép Bộ Phong Thánh công bố các sắc lệnh nhìn nhận các phép lạ nhờ lời bầu cử của hai chân phước. Hồi tháng 3 năm nay ĐTC đã họp  công nghị các Hông Y và quyết định tôn hai vị lên hàng hiển thánh.

Sau lời nguyện của ĐTC cộng đoàn đã hát kinh cầu các Thánh. Tiếp đến ĐTC đã đọc công thức ghi tên hai chân phước vào trong sổ bộ các thánh. Thánh tích của hai vị đã được rước lên đặt trên bệ cao bên trái bàn thờ, và được Phó tế xông hương. ĐHY Amato đã cám ơn ĐTC tôn phong hai chân phước lên hàng hiển thánh.

Thánh lễ đã  tiếp tục với kinh Vinh danh và phần phụng Lời Chúa. Bài đọc thứ nhất bằng tiếng Anh, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý, bài đọc hai bằng tiếng Ba Lan. Phúc Âm đã được hát bằng tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp.

 

Giảng trong thánh lễ ĐTC  đã quảng diễn ý nghĩa  các bài đọc Chúa Nhật thứ 10 thường niên năm C kể lại phép lạ ngôn sứ Elia đã làm để cho con bà goá thành Sarepta hồi sinh, và  phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho anh con trai bà goá thành Naim sống lại. Ngài nói: Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe tuyên đọc dẫn chúng ta tới biến cố chính của đức tin: đó là chiến thắng của Thiên Chúa trên khổ đau và cái chết. Đó là Tin Mừng của hy vọng vọt lên từ Mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, giãi toả từ gương mặt Ngài, vén mở Thiên Chúa Cha Đấng an ủi của người sầu khổ. Lời ấy mời gọi chúng ta kết hiệp mật thiết với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, để quyền năng sự phục sinh của Ngài được tỏ hiện nơi chúng ta. ĐTC giải thích thêm như sau:

Thật vậy, trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô có câu trả lời của Thiên Chúa cho tiếng kêu âu lo và đôi khi giận dữ, mà kinh nghiệm của khổ đau và cái chết dấy lên trong chúng ta. Đây không phải là trốn chạy Thập giá, nhưng ở lại đó, như Trinh Nữ Mẹ đã làm, Mẹ là Đấng, khi cùng chịu khổ đau với Chúa Giêsu, đã nhận được ơn hy vọng chống lại mọi hy vọng (x. Rm 4,18).

Đây cũng đã là kinh nghiệm của hai chân phước Stanislao Giêsu Maria và Maria Elisabetta Hesselblad, mà hôm nay chúng ta tôn phong lên hàng hiển thánh: hai vị đã kết hiệp mật thiết với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và nơi các vị đã tỏ lộ quyền năng sự phục sinh của Ngài.

Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm của của Chúa Nhật hôm nay giới thiệu với chúng ta hai dấu chỉ lạ lùng của sự sống lại, dấu chỉ thứ nhất do ngôn sứ Elia làm, dấu chỉ thứ hai do Chúa Giêsu làm. Trong cả hai trường hợp, người chết là hai con trai rất trẻ của hai bà goá được hồi sinh và trả lại cho mẹ họ.

Người đàn bà Sarepta, là phụ nữ không do thái, nhưng đã tiếp đón ngôn sứ Elia vào nhà; bà nổi giận với ngôn sứ và với Thiên Chúa, bởi vì chính trong lúc ngôn sứ là khách trọ nhà bà, thì đứa con trai của bà bị đau và tắt thở trên tay bà. Khi đó ngôn sứ Elia nói với bà: “Hãy đưa con bà cho tôi” (1 V 17,19). Đây là từ chià khóa: nó diễn tả thái độ của Thiên Chúa trước cái chết của chúng ta, trong mọi hình thái của nó; ngôn sứ không nói: “Hãy giữ lấy nó và tự liệu lấy” nhưng nói: “Hãy đưa nó cho tôi”. Thật vậy ngôn sứ đã bế đứa bé, đưa nó lên phòng bên trên, và ở đó một mình “chiến đấu với Thiên Chúa” trong lời cầu nguyện,  bằng cách đặt để Thiên Chúa trước sự vô lý của cái chết. Và Chúa đã lắng nghe lời cầu của ngôn sứ Elia, bởi vì chính Ngài là Thiên Chúa nói và hành động qua ông. Chính Ngài, qua miệng ngôn sứ, đã nói với người đàn bà: “Đưa con bà cho tôi”. Và bây giờ chính ngôn sứ trả lại đứa con sống cho bà mẹ.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Sự dịu hiền của Thiên Chúa được mạc khải tràn đầy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng (Lc 7,11-17) Chúa Giêsu cho thấy Ngài rất cảm thương bà góa thành Naim ở Galilêa, đang đi theo đứa con trai duy nhất còn thanh xuân ra mộ. Nhưng Chúa Giêsu tới gần, đụng vào cáng, chặn đoàn người đưa đám lại, và chắc chắn đã vuốt ve gương mặt đầy nước mắt của bà mẹ đáng thương ấy. Ngài nói với bà: “Đừng khóc” (Lc 7,13) như thể nói với bà: “Hãy cho tôi con bà”. Chúa Giêsu xin cho Ngài cái chết của chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi nó, và trao ban sự sống trở lại cho chúng ta Thật thế, thanh niên ấy tỉnh dậy như thể từ một giấc ngủ sâu,  và bắt đầu nói. Và Chúa Giêsu trả cậu lại cho mẹ cậu” (c.15). Ngài không phải là một nhà ảo thuật! Ngài là sự dịu hiền của Thiên Chúa nhập thể, nơi Ngài hoạt động sự cảm thương vô biên của Thiên Chúa Cha.

Cũng là một loại phục sinh sự sống lại của tông đồ Phaolô, từ kẻ thù nghịch và bách hại tàn bạo các kitô hữu đã trở thành chứng nhân và người loan báo Tin Mừng (x. Gl 1,13-17). Sự thay đổi triệt để này đã không phải là công trình của thánh nhân, mà là ơn lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng đã chọn thánh nhân và kêu gọi thánh nhân với ơn của Chúa, và muốn mạc khải trong thánh nhân Con của Ngài, để thánh nhân loan báo Chúa giữa muôn dân (cc. 15-16). Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa Cha đã hài lòng mạc khải Con của Ngài, không phải chỉ cho thánh nhân, nghĩa là hầu như in trong con người, thịt xác và tinh thần của thánh nhân, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Như thế, tông đồ sẽ không chỉ là một sứ giả, mà trước hết là một chứng nhân. Áp dụng vào cuộc sống chúng ta ĐTC nói:

Và cả với những người tội lỗi, từng người một, Chúa Giêsu không ngừng làm rạng ngời lên chiến thắng của ơn thánh trao ban sự sống. Ngài nói với Mẹ Giáo Hội: “Hãy cho ta các con ngươi”, là chúng ta tất cả. Ngài nhận lấy trên Ngài các tội lỗi của chúng ta, Ngài cất chúng đi và trao ban chúng ta sống cho chính Giáo Hội. Và điều này xảy ra trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này.

Ngày hôm nay Giáo Hội cho chúng ta thấy hai người con là chứng nhân gương mẫu của mầu nhiệm phục sinh này. Cả hai đều có thể ca hát đời đời, với các lời của tác giả Thánh vịnh: “Ngài đã thay đổi tiếng than van của con thành vũ điệu. Ôi Chúa, lậy Thiên Chúa của con, con sẽ tạ ơn Ngài luôn mãi” (Tv 30,12). Và chúng ta tất cả hãy hiệp tiếng nói rằng: “Con sẽ chúc tụng Chúa, vì Ngài đã nâng con dậy”.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc trong các thứ tiếng: Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bồ Đào Nhà, Ý và Hoa. Các lễ vật đã được một gia đình 5 gồm cha mẹ với 3 con và 3 nữ tu dâng lên ĐTC.

Hàng chục linh mục đã giứp ĐTC cho tín hữu rước lễ.

Trước khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người ĐTC đã ngỏ lời chào và đăc biệt cám ơn các phái đoàn chính thức của hai nưóc đã đến tham dự thánh lễ tôn phong hiển thánh cho hai người con Ba Lan và Thụy Điển. Ngài Xin Chúa chúc lành cho hai quốc gia nhờ lời bầu cử của các vị. ĐTC cũng chào và cám ơn các nhóm hành hương Italia và các nước khác cũng như tín hữu đến từ Estonia, giáo phận Bologna và các ban nhạc.

Ngài mời mọi người hướng tới Đức Trinh Nữ Maria và xin Mẹ luôn hưóng dẫn trên con đường nên thánh và xây dựng công lý và hòa bình mỗi ngày.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải 

Linh Mục Nguyễn văn Lý ra tù

Linh Mục Nguyễn văn Lý ra tù

Linh mục Nguyễn Văn Lý (trái) và Linh mục Phan Văn Lợi chụp trong ngày đến thăm Cha Lý vừa ra khỏi nhà tù.Linh mục Nguyễn Văn Lý (trái) và Linh mục Phan Văn Lợi chụp trong ngày đến thăm Cha Lý vừa ra khỏi nhà tù.

Linh mục Nguyễn Văn Lý, tù nhân lương tâm được nhiều người trong và ngoài nước biết tiếng, vừa ra khỏi tù trong ngày 20 tháng 5.

Linh mục Phan Văn Lợi, một thân hữu cùng trong nhóm Nguyễn Kim Điền với người vừa được trả tự do, cho biết sau khi ông đến Tòa Giám mục thăm linh mục Nguyễn Văn Lý về:

“Sáng hôm nay vào lúc 11 giờ tôi đã đến tại Nhà Chung, thuộc Tòa Tổng Giám mục Huế để thăm linh mục Lý và tôi được nói chuyện với linh mục Lý trong vòng nửa giờ đồng hồ.Theo tôi nhận thấy tình trạng sức khỏe của ngài thật sa sút, người ốm o lại, mất đi cái gọi là ‘nét đẹp’ ngày xưa. Ngài cao 1,8 mét nhưng ốm lắm và không thể đứng thẳng người được, đi phải lom khom. Đó là sự tàn phá về mặt thể xác qua 8 năm ở trong nhà tù.

Nhưng về mặt tinh thần, cha Lý vẫn minh mẫn, sáng suốt, vẫn kiên trì. Tôi biết sở dĩ hôm nay ngài được về Nhà Chung là do sự đấu tranh cuối cùng của ngài. Ban đầu Nhà nước quyết định đưa cha Lý về lại giáo xứ Bến Củi, một giáo xứ nhỏ cách thành phố Huế 30 cây số về phía bắc. Đó là nơi họ quản thúc cha Lý hơn 1 tháng trời vào năm 2007, sau đó đưa ngài ra tòa và xử án 8 năm tù. Nhưng cha Lý nói nếu các ông đưa tôi về Bến Củi thì tôi xin được tiếp tục ở lại trong nhà tù này.

Họ cũng nói với cha Lý rằng đây là đặc xá của chủ tịch nước, nhưng cha Lý nói không có đặc xá gì cả mà đây là món quà mà các ông muốn cho Hoa Kỳ trước khi tổng thống Mỹ đến Việt Nam mà thôi. Hơn nữa tôi không có tội gì để các ông gọi là đặc xá. Họ nói ông có tội là tội tuyên truyền. Cha Lý nói có tuyên truyền nhưng không phải tội. Đó là cha Lý tuyên truyền ba điều mà ông cho là quan trọng mà phía cơ quan chức năng không dám đối chất: thứ nhất là những bí mật về ông Hồ Chí Minh, thứ hai là cái chết của đức tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, chính các ông đã đầu độc vào năm 1988; thứ ba là chính nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam làm mất Hoàng Sa và Trường Sa.

Sáng hôm nay khi gặp phường để làm thủ tục giấy tờ, cha Lý nói không được cho công an, an ninh canh gác trước Nhà Chung để dò xét, ngăn cản những người đến thăm linh mục Lý. Ngài nói nếu làm thế là đưa ra lời mời ngài tiếp tục tranh đấu.”

Xin được nhắc lại linh mục Nguyễn Văn Lý vào ngày 15 tháng năm vừa qua ông tròn 70 tuổi.

Ông được nhiều người biết đến với câu nói ‘tự do tôn giáo hay là chết’ cũng như bức ảnh ông bị miệng tại phiên xử ở Huế vào năm 2007 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tòa năm ấy tuyên án ông 8 năm tù giam và 5 năm quản chế.

Đó không phải là lần đầu ông bị bắt và bị tuyên án tù. Lần đầu tiên ông bị bắt vào năm 1977 và bị tuyên án 20 năm tù. Lần thứ hai vào năm 1983, ông bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với cáo buộc ‘gây rối trật tự’. Vào năm 2001, ông bị kết án 15 năm tù giam với cáo buộc ‘phá hoại chính sách đoàn kết’ và không chấp hành quyết định quản chế hành chính.

Ông là một trong những thành viên sáng lập ra Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến Việt Nam.

RFA Radio

 

Tiền bạc và quyền lực làm nhơ bẩn Giáo hội

Tiền bạc và quyền lực làm nhơ bẩn Giáo hội

Thánh lễ sáng thứ Ba, 17.05, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. Con đường mà Đức Giêsu chỉ ra là con đường yêu thương, phục vụ, nhưng trong Giáo hội, người ta lại thường đi tìm kiếm quyền lực, tiền bạc và những điều phù phiếm khác. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Ba, 17.05, tại nguyện đường Thánh Marta. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng các Kitô hữu phải chiến thắng cám dỗ của thế gian muốn chia rẽ Giáo hội và cảnh giác những kẻ ‘cơ hội’. Họ là những người luôn tìm cách loại trừ người khác để leo lên vị trí cao hơn.

Các Kitô hữu phải chiến thắng cám dỗ quyền lực

“Các môn đệ có cám dỗ về quyền lực. Họ suy nghĩ theo tinh thần thế gian. Các ông cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Nhưng Đức Giêsu nói với các ông rằng phải làm người rốt hết, phải làm người phục vụ mọi người.

Tiêu chuẩn trên con đường mà Đức Giêsu chỉ ra chính là sự phục vụ. Người đứng đầu phải là người phục vụ, khiêm nhường phục vụ người khác chứ không huênh hoang, tự đắc, chỉ lo tìm kiếm quyền lực, tiền tài và những thứ phù phiếm khác. Nếu ai không phục vụ thì không phải là người lớn hơn cả. Tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả đã là chuyện xảy ra với các tông đồ, cũng như với mẹ của Gioan và Giacôbê. Và đó cũng chính là điều diễn ra ngày hôm nay trong Giáo hội, trong mỗi cộng đoàn. Trong chúng ta, ai là người lớn hơn cả? Ai là người ra lệnh? Trong mỗi cộng đoàn, trong các xứ đạo, trong các tổ chức luôn có một ước muốn được thăng tiến, được leo thật cao trên nấc thang quyền lực.

Bài đọc một thuật lại một đoạn trong lá thư của thánh Giacôbê, trong đó thánh nhân đã cảnh giác mọi người trước đam mê quyền lực, ghen ghét, ganh tị dẫn đến việc loại trừ lẫn nhau.

Đây cũng là thông điệp cho Giáo hội ngày hôm nay. Thế gian cho rằng ai có nhiều quyền lực sẽ là người chỉ huy. Nhưng Đức Giêsu lại tuyên bố ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.

Khi chúng ta có những ước muốn thế tục, muốn nhiều quyền lực, muốn được phục vụ chứ không phục vụ, thì sẽ rất dễ dẫn đến việc  chúng ta nói xấu và loại trừ người khác. Sự ghen ghét và đố kỵ cũng khiến người ta làm như thế. Tất cả chúng ta đều biết điều này. Nó xảy ra trong mọi tổ chức của Giáo hội: xứ đạo, trường học, giáo phận và thậm chí là trong giám mục đoàn. Ước muốn của tinh thần thế gian chính là tinh thần của sự giàu có, của danh vọng và những thứ phù phiếm. Đức Giêsu đã dạy sự khiêm nhường phục vụ nhưng các môn đệ lại cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Đức Giêsu đến thế gian này để phục vụ và ngài dạy cho chúng ta con đường của sự phục vụ, của khiêm hạ.

Yêu thế gian là ghét Thiên Chúa

Khi các vị đại thánh nói họ cảm thấy mình rất tội lỗi, đó là vì họ hiểu được tinh thần thế gian đang tồn tại trong tâm hồn họ, và họ bị cám dỗ rất nhiều bởi những tinh thần ấy. Không ai trong chúng ta có thể nói: Tôi là thánh. Tôi trong sạch.

Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ bởi tinh thần thế gian. Chúng ta bị cám dỗ loại trừ người khác để leo lên những vị trị trên cao. Đó chính là cám dỗ của thế gian, gây chia rẽ và hủy hoại Giáo hội, chứ không phải là Thần Khí của Đức Giêsu. Chúng ta hãy hình dung cảnh này: Khi Đức Giêsu nói những lời khiêm tốn phục vụ, các môn đệ thưa: ‘Thôi Thầy ơi, đừng yêu cầu quá nhiều. Chúng ta hãy đi thôi’. Và sau đó, các ông lại thích cãi vã với nhau xem ai là người lớn hơn cả. Rất nhiều lần chúng ta đã thấy điều này xảy ra trong Giáo hội và ngay cả chúng ta cũng đã làm như thế. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa soi sáng cho chúng ta, để chúng ta hiểu ra rằng yêu thế gian, hay yêu tinh thần thế gian, tức là ghét Thiên Chúa.”

Vũ Đức Anh Phương SJ 

Đức tin là gia sản quý giá nhất

Đức tin là gia sản quý giá nhất

Thánh lễ tại nguyện đường thánh Martha, sáng thứ Năm ngày 04-02-2016

VATICAN. “Gia tài quý giá nhất mà chúng ta có thể để lại cho các thế hệ mai sau chính là đức tin.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, ngày 04.02, tại nhà nguyện thánh Marta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng chúng ta đừng sợ hãi, vì đằng sau cái chết sự sống vẫn mãi tiếp tục.

Suy nghĩ về cái chết sẽ giúp soi sáng cho cuộc sống hiện tại

Được gợi hứng từ bài đọc một trích sách các Vua thuật lại sự ra đi của vua Đa-vít, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải trải qua những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Suy nghĩ này khiến chúng ta chẳng mấy vui thích. Vì thế, chúng ta thường tránh đi và không muốn nhắc đến. Nhưng cái chết lại là một thực tại hiển nhiên của kiếp sống nhân sinh. Khi biết suy xét đúng đắn về ‘cuộc vượt qua cuối cùng’ này sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Sự chết chính là thực tại mà ai cũng phải đối diện.

Trong những buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ tư hàng tuần, có lần tôi đã gặp một nữ tu lớn tuổi với gương mặt chan chứa niềm vui và bình an, đang ngồi giữa những bệnh nhân và người đau yếu. Tôi hỏi soeur: ‘Năm nay soeur bao nhiêu tuổi rồi?’ Soeur trả lời tôi với một nụ cười rất tươi: ‘Dạ, thưa Đức Thánh Cha, nay con được 83 ạ. Con đang hoàn tất những chặng đường cuối cùng trong cuộc hành trình dương thế này và bắt đầu một cuộc hành trình khác bước đi cùng với Thiên Chúa. Con bị ung thư tuyến tụy, Đức Thánh Cha ạ.’ Và như thế, trong an bình, vị nữ tu này đã sống hết mình trong một cuộc đời hiến dâng. Soeur đã chẳng hề tỏ ra sợ hãi trước cái chết, vì như soeur đã nói ‘con đang hoàn tất cuộc đời này để bước vào một cuộc sống mới với Đức Kitô’. Đó là một sự chuyển tiếp. Và sự chuyển tiếp này rất cần thiết với chúng ta.

Đức tin – gia sản quý giá nhất

Vua Đa-vít đã trị vì Ít-ra-en được 40 năm. Khi thấy mình đã gần đất xa trời, vua truyền dạy Sa-lô-môn con mình phải biết tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, các luật pháp và chỉ thị của Người như đã ghi trong luật Mô-sê. Trong đời mình, vua Đa-vít đã phạm nhiều tội lỗi, nhưng ngài cũng đã biết nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Và ngày hôm nay, mỗi lần nhắc đến ngài, Giáo hội đều dùng tước hiệu ‘thánh vương Đa-vít’. Ngài là tội nhân nhưng cũng là một vị thánh. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, vua đã để lại cho con trai một gia sản quý giá và đẹp đẽ nhất, một gia sản mà ai cũng có thể để lại cho con cái mình, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng.

Khi viết di chúc, người ta thường nói: tôi để lại cái này cho người này, cái kia cho người kia, cái nọ cho người nọ, ….vân vân và vân vân. Điều ấy tốt thôi. Nhưng gia sản quý giá nhất mà một người có thể để lại cho con cháu của mình chính là đức tin. Vua Đa-vít ghi nhớ lời Thiên Chúa hứa và vẫn hằng tin tưởng vào những lời hứa ấy. Cuối cùng vua đã truyền lại lòng tin tưởng ấy cho con trai mình. Thế nên, hãy để lại đức tin cho con cháu như một gia sản thừa kế.

Khi cử hành nghi thức Thanh Tẩy, chủ tế trao nến phục sinh cháy sáng cho các bậc phụ huynh và nói những lời tương tự như thế này: ‘Ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom. Hãy làm bừng sáng nơi con cái của anh chị em và hãy truyền lại ánh sáng ấy cho con cái như một gia sản quý giá.’

Để lại đức tin cho con cháu như một gia sản. Đây là điều mà chính vua Đa-vít đã làm và cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta. Vua đã qua đời cách bình thường và đơn sơ như bao nhiêu người khác, nhưng vua lại biết truyền dạy và để lại cho con thứ gia tài quý giá và quan trọng nhất. Gia tài đó không phải là ngôi vua, là vương quốc nhưng chính là đức tin.

Thiên Chúa trung tín, là người Cha không bao giờ khiến con cái thất vọng

Như vậy thật là hữu ích nếu mỗi người chúng ta cũng hãy tự hỏi mình rằng: ‘Khi ra đi, tôi sẽ để lại gì cho con cháu? Tôi sẽ trao cho những người thừa kế gia sản gì?’

Chúng ta hãy xin Thiên Chúa hai điều. Thứ nhất, xin ơn đừng sợ hãi trước cái chết. Hãy xin ơn để được giống như vị nữ tu mà tôi đã nhắc đến trong buổi tiếp kiến chung – ‘Con đang hoàn tất cuộc hành trình dương thế để bắt đầu một chặng đường mới với Đức Kitô’ – đừng hoảng sợ. Và điều thứ hai, xin ơn để mỗi người chúng ta có thể để lại cho đời, để lại cho con cháu, cho thế hệ mai sau một thứ gia sản quý giá nhất, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa Thành Tín. Vị Thiên Chúa ấy luôn bên cạnh chúng ta. Ngài chính là người Cha không bao giờ khiến cho con cái mình phải thất vọng."

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Các ký giả quốc tế phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên chuyến bay vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà báo quốc tể trên chuyến bay từ Bangui về Roma

Chiều thứ hai vừa qua trên chuyến bay từ thủ đô Bangui của Cộng hoà Trung Phi về Roma, ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài một giờ liên quan tới chuyến tông du Phi châu, cũng như một số vấn đề của Giáo Hội và quốc tế. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn ĐTC.

Trước hết cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, thay mặt các nhà báo cám ơn ĐTC về truyền thống họp báo sau mỗi chuyến công du, nhất là sau chuyến viếng thăm dầy đặc sinh hoạt như chuyến viếng thăm ba nước Kenya Uganda và Cộng hòa Trung Phi. Cha cũng cám ơn chị Elena Pinardi của Liên hiệp Phát thanh truyền hình Âu châu đã phát trực tiếp chuyến viếng thăm Trung Phi, nhờ đó hình ảnh các sinh hoạt của ĐTC đã đến với khán thính giả thế giới. Cha cũng chúc mừng Liên hiệp mừng 65 năm hoạt động.

Trước tiên là anh Namu Name của Nhật báo quốc gia Kenya. Anh hỏi:

Thưa ĐTC, tại Kenya ĐTC đã viếng thăm các gia đình nghèo ở Kangemi. ĐTC đã nghe các câu chuyện của họ bị loại trừ khỏi các quyền con người như thiếu nước trong lành để uống. Trong cùng ngày ĐTC đã đến sân vận động Kasarani để gặp gỡ giới trẻ. Các ban trẻ cũng kể cho ĐTC nghe tình cảnh không được hưởng các quyền căn bản của họ, vì sự hà tiện và gian tham thối nát của con người. ĐTC đã cảm thấy gì khi nghe các câu chuyện như vậy. Và phải làm gì để chấm dứt các tình trạng bất công này thưa ĐTC?

Đáp: Liên quan tới vấn đề này tôi đã nói rất mạnh ba lần. Trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất các Phong trào bình dân tại Vaticăng, lần thứ hai tại Santa Cruz de la Sierra bên Bolivia, rồi còn hai lần nữa: đó là một chút trong Thông điệp “Niềm vui Phúc Âm”, rồi một cách rõ ràng hơn trong Thông điệp “Laudato si’”. Tôi không nhớ các thống kê, vì thế xin anh chị em đừng đăng tải các thống kê mà tôi sẽ nói, bởi vì tôi không biết chúng có thật không. Nhưng mà tôi tin là có tới 80% tài nguyên thế giới nằm trong tay của 17% dân chúng toàn cầu – tôi không biết có thật không nhưng nếu nó không thật thì nó đã được tìm ra, vì các sự việc là như thế. Nếu có ai trong anh chị em biết thống kê, thì xin nói để nó được điều chỉnh. Đây là một hệ thống, trong đó ở trung tâm có tiền bạc, có thần tiền, Tôi nhớ có lần gặp một vị đại sứ lớn nói tiếng Pháp nói với tôi câu này – ông ta không phải là người công giáo – ông nói: “Chúng tôi đã rơi vào chỗ tôn thờ ngẫu tượng tiền bạc”. Và nếu các sự việc tiếp tục như thế, thì thế giới sẽ tiếp tục như vậy. Anh hỏi tôi cảm thấy gì, khi nghe các chứng từ của người trẻ và tại Kangemi, tôi đã nói rất rõ về các quyền con người. Tôi cảm thấy đau đớn. Và tôi nghĩ làm sao mà người ta không cảm thấy điều đó… Một nỗi đớn đau rất lớn. Chẳng hạn hôm qua, tôi đã tới thăm nhà thương nhi đồng, đây là nhà thương nhi đồng duy nhất tại Bangui và toàn Trung Phi. Và trong khu vực chữa trị cấp bách họ không có dưỡng khí. Có rất nhiều trẻ em thiếu dinh dưỡng, nhiều lắm! Và bà bác sĩ nói với tôi: “Đa số các em sẽ chết, bởi vì các em bị bệnh sốt rét rừng rất nặng, và các em thiếu dinh dưỡng”. Tôi không muốn giảng đâu, nhưng mà Chúa đã luôn luôn quở trách dân Israel, nhưng đó là từ mà chúng ta chấp nhận, vì nó là Lời Chúa, chúng ta tôn thờ thần giả. Và đó là tôn thờ thần giả, khi một người đánh mất đi căn tính của mình, là con cái Thiên Chúa, nhưng lại thích tìm cho mình một vị thần hợp với mình. Đây là nguyên tắc. Và nếu nhân loại không thay đổi, thì các bần cùng, các thảm cảnh, chiến tranh, trẻ em chết vì đói, bất công sẽ tiếp tục… Số người chiếm giữ 80% của cái thế giới nghĩ gì? Đây không phải là chủ thuyết cộng sản đâu, đây là sự thật. Đó là sự thật, thật không dễ nhìn nó, và tôi xin cám ơn anh đã đặt câu hỏi này, bởi vì đó là cuộc sống.

Câu hỏi thứ hai là của anh Mumo Makau của Radio thủ đô Kenya. Anh hỏi:

Thưa ĐTC con muốn biết đâu đã là lúc đáng ghi nhớ nhất trong chuyến viếng thăm này của ĐTC tại Phi châu? ĐTC có sẽ mau trở lại viếng thăm Phi châu không, và mục tiêu tới là ở đâu?

Đáp: Chúng ta hãy bắt đầu từ phần cuối của câu hỏi: nếu mọi chuyện xuôi chảy, tôi tin là chuyến viếng thăm tới sẽ là Mêhicô. Ngày tháng chưa được xác định. Thứ hai, tôi có trở lại Phi châu không? Tôi không biết, tôi già rồi… Các chuyến du hành nặng nề…Và câu hỏi thứ nhất là gì nhỉ? Xin đợi một chút, tôi phải nghĩ đã. Điều đáng nhớ đó là đám đông dân chúng, niềm vui và khả năng mừng lễ, mừng lễ với cái dạ dầy trống rỗng. Đối với tôi Phi châu đã là một sự ngạc nhiên. Tôi nghĩ Thiên Chúa khiến cho chúng ta ngạc nhiên, nhưng cả Phi châu cũng gây kinh ngạc cho chúng ta. Và có nhiều lúc đáng ghi nhớ lắm. Đám đông, đám đông dân chúng. Họ cảm thấy được viếng thăm. Họ có một ý thức tiếp đón, bởi vì họ sung sướng cảm thấy được viếng thăm. Thế rồi mỗi nước có căn tính riêng của mình. Kenya thì tân tiến hơn một chút, phát triển hơn. Uganda có căn tính của các vị Tử Đạo: người dân Uganda, công giáo cũng như anh giáo, tôn kính các vị tử đạo. Tôi đã ở trong hai đền thánh: anh giáo trưóc, rồi tới công giáo  và ký ức của các vị tử đạo là căn tính của họ. Lòng can đảm trao ban mạng sống cho một lý tưởng. Và Trung Phi thì có ước muốn hòa bình, hoà giải, tha thứ… Cho tới cách đây 4 năm các tín hữu công giáo, anh giáo, hồi giáo sống chúng với nhau như anh em. Hôm qua tôi đã đi thăm đền thờ hồi giáo. Tôi đã cầu nguyện trong đó, và cả Imam cũng đã lên xe giáo hoàng để đi một vòng trong sân vận động nhỏ. Đó là những cử chỉ bé nhỏ mà tôi làm, và đó là diều mà họ muốn. Và có một nhóm nhỏ – tôi tin là kitô hữu vì họ nói họ là kitô hữu – rất là bạo lực, tôi không hiểu rõ lắm, nhưng không phải là Nhà nước hồi giáo, nó là một cái gì khác. Nhưng mà là kitô. Và họ muốn có hoà bình. Giờ đây nếu có các cuộc bầu cử họ đã lựa chọn Nhà nước chuyển tiếp, họ đã chọn bà thị trưởng như là tổng thống của Nhà nưóc chuyển tiếp, và bà sẽ tổ chức các cuộc bầu cử. Nhưng họ kiếm tìm hòa bình, hòa giải giữa họ. Không có thù hận.

Tới phiên anh Philip Putella của hãng tin Reuters hỏi ĐTC

Thưa ĐTC, ngày nay người ta nói nhiều về vụ Vatileaks. Không đi sâu vào vụ xử án đang xảy ra, con muốn hỏi ĐTC tại Uganda ĐTC đã nói buông rằng gian tham hối lộ có ở khắp mọi nơi, và cả trong tòa thánh Vaticăng nữa. Như thế câu hỏi của con là đâu là tầm quan trọng của báo chí tự do và của giáo dân trong việc nhổ tận gốc rễ sự gian tham hối lộ này, tại khắp nơi nó hiện diện?

Đáp: Tôi sẽ nói là báo chí tự do, đời và cả tôn giáo nữa, nhưng chuyên nghiệp. Bởi vì sự chuyên nghiệp của báo chí có thể là đời hay tôn giáo: điều quan trọng đó là  các chuyên viên, thật vậy, để các tin tức không bị lèo lái, có đúng thế không? Đó. Đối với tôi nó quan trọng, bởi vì việc tố cáo các bất công, các gian tham hối lộ là một công việc đẹp: “Ở đó có gian tham hối lộ!” Và rồi người có trách nhiệm phải làm cái gì đó, đưa ra một phán đoán, loan báo một toà án. Nhưng báo chí nguyên nghiệp phải nói tất cả, mà không rơi vào trong ba tội thông thường nhất là thông tin sai lạc, nói một nửa và không nói nửa kia, vu khống – bào chí chuyên nghiệp, khi không có sự chuyên nghiệp, thì làm bẩn người khác với sự thật hay không sự thật – và nói xấu, tức là nói những điều lấy mất đi danh tiếng của một người với các điều, mà trong lúc này không gây hại gì cả, có lẽ đó là các điều trong quá khứ… Và đó là ba thiếu sót mưu sát tính chuyên nghiệp của báo chí. Chúng ta cần có sự chuyên nghiệp, sự đúng đắn: câu chuyện là như thế, câu chuyện là như thế, câu chuyện là như thế. Và liên quan tới việc gian tham hối lộ, phải coi kỹ các dữ kiện và nói lên các dữ kiện ấy: phải, có gian tham hối lộ ở đây, vì cái này, vì cái này, vì cái này.  Rồi, một nhà báo mà chuyên nghiệp nếu sai, thì xin lỗi. Tôi đã tin rằng, nhưng rồi tôi nhận thấy là không có, và như thế các chuyện xuôi chảy. Nó rất là quan trọng.

Tới phiên anh Philippe de Saint Pierre, đặc trách đài truyền hình công giáo Pháp. Chúng ta sang Paris, mọi người đều gần gũi với nước Pháp trong lúc này. Anh hỏi:

Thưa ĐTC, DTC đã trao ban danh dự cho khán đài có sự hiện diện của ĐTGM, Imam và Mục Sư tại Bangui. Ngày nay hơn bao giờ hết người ta nói rằng khuynh hướng tôn giáo quá khích đe dọa toàn hành tinh. Chúng ta đã thấy tại Paris. Như vậy trước nguy hiểm này DTC có nghĩ rằng các vị lãnh đạo tôn giáo phải can thiệp nhiều hơn vào lãnh vực chính trị hay không?

Đáp: Can thiệp vào lãnh vực chính trị, nếu anh muốn nói là “làm chính trị”, thì không. Hãy làm linh mục, mục sư, imam, rabbi: đó là ơn gọi của họ. Nhưng người ta làm chính trị một cách gián tiếp: bằng cách giảng các giá trị, các giá trị đích thật, và một trong các giá trị  lớn nhất là tình huynh đệ giữa chúng ta. Chúng ta tất cả là con cái của Thiên Chúa, chúng ta có cùng Cha. Cần phải làm chính trị trong nghiã này: một chính trị của sự hiệp nhất, của hoà giải… và của một từ, mà tôi không thích nhưng phải dùng nó, đó là của sự “khoan nhượng”, nhưng không phải chỉ của sự khoan nhượng, mà là của sự chung sống, của tình bằng hữu. Nó là như vậy. Khuynh hướng quá khích là một căn bệnh có trong tất cả mọi tôn giáo. Chúng tôi là công giáo chúng tôi cũng đã có vài khuynh hướng quá khích, không phài vài, mà biết bao nhiêu qúa khích. Mà người ta lại tin là sự thật tuyệt đối, và người ta tiếp tục bằng cách bôi nhọ người khác với sự vu khống, nói xấu và họ làm bậy, họ làm bậy. Và tôi nói lên điều này, vì nó là Giáo Hội của tôi: cả chúng ta nữa, tất cả! Và phải chiến đấu. Khuynh hướng quá khích tôn giáo không phải là tôn giáo. Tại sao? Bởi vì nó thiếu Thiên Chúa. Nó là tôn thờ thần giả cũng như tiền bạc là thần giả. Làm chính trị trong nghĩa thuyết phục người có khuynh hướng này là một nền chính trị, mà chúng ta là hàng lãnh đạo tôn giáo phải làm. Nhưng khuynh hưóng quá khích luôn luôn kết thúc trong một thảm kich hay trong các tội phạm. Nó là một điều xấu, nhưng trong mọi tôn giáo đều có một mảnh nhỏ.

Tiếp theo đây là chị Cristina Caricato của TV2000, là đài truyền hình công giáo của các Giám Mục Italia. Chị hỏi

Thưa ĐTC sáng nay khi chúng ta đang ở Bangui, thì tại Vaticăng có vụ xử án Đức Ông Vallejo Balda và bà Chaouqui cũng như hai nhà báo. Con xin đưa ra câu hỏi mà nhiều người khác cũng muốn đưa ra: đó là tại sao lại có hai người này? Làm sao trong tiến trình cải tổ mà ĐTC đã bắt đầu hai người thuộc loại này lại đã có thể vào trong Uỷ ban COSEA đưọc? ĐTC có tin là mình đã lầm hay không?

Đáp: Tôi tin là đã có một lầm lẫn. Đức Ông Vallejo Balda đã vào Ủy ban vì chức vụ ngài đã có, và đã có cho tới nay. Ngài đã là thư ký của Sở tài chính Tòa Thánh, nên đã vào. Còn bà Chaouqui, tôi không chắc chắn, nhưng tin là mình không sai, nếu nói là chính ngài đã giới thiệu bà như là một phụ nữ hiểu biết thế giới của các tương quan thương mại. Nó là như thế và họ đã làm việc. Khi công việc đã xong, thì trong các thành viên của uỷ ban gọi là COSEA có vài người ở tại chức trong Vaticăng, cả chính Đức Ông Vallejo Balda. Còn bà Chaouqui thì đã không ở trong Vaticăng nữa. Vài người nói rằng bà đã giận dữ vì vậy, nhưng các thẩm phán sẽ nói cho chúng ta biết sự thật liên quan tới các ý hướng như họ đã làm. Đối với tôi, đó đã không phài là một ngạc nhiên, nó đã không khiến cho tôi mất ngủ, bởi vì họ đã cho thấy công việc đã bắt đầu với Uỷ Ban 9 Hồng Y là tìm kiếm gian tham hối lộ và những gì không ổn. Và ở đây tôi muốn nói lên một điều, không có Vallejo và Chaouqui, nhưng tất cả mọi người, mọi sự. Thế rồi nếu chị muốn, tôi trở lại đề tài gian tham hối lộ. Từ “gian tham hối lộ” một trong hai người Kenya đã nói 13 ngày trước cái chết của thánh Gioan Phaolô II, trong buổi đi đàng Thánh Giá, khi đó do ĐHY Ratzinger hướng dẫn. Ông đã nói đến các “dơ bẩn của Giáo Hội” ông dã tố cáo điều đó trong ngày thứ Sáu tuần thánh. Thế rồi, ĐGH Gioan Phaolô II qua đời trong tuần bát nhật Phục Sinh. ĐHY Ratzinger trở thành Giáo Hoàng. Nhưng trong thánh lễ cho việc bầu giáo hoàng ngài đã là Hồng Y niên trưởng. Ngài cũng đã nói lên cùng điều ấy, và chúng tôi đã chọn ngài vì sự tự do nói lên các chuyện này. Và từ lúc đó có trong không khí của Vaticăng là ở đây có gian tham hối lộ: có sự thối nát. Trên sự phán đoán này, tôi đã cho các thẩm phán các tố cáo cụ thể: bởi vì điều quan trọng  đối với việc bệnh vực là đưa ra các lời tố cáo. Tôi đã không đọc các lời tố cáo cụ thể, kỹ thuật. Tôi đã muốn là chuyện này kết thúc trước ngày mùng 8 tháng 12 cho Năm Lòng Thương Xót. Nhưng tôi tin là không thể làm được, bởi vì tôi muốn là tất cả các luật sư bào vệ có giờ để bênh vực, có sự tự do bênh vực. Và họ đã được chọn làm sao, thì là cả lịch sử. Nhưng việc gian tham hối lộ đến từ xa…

Hỏi: Nhưng ĐTC có ý tiến hành như thế nào để những chuyện như vậy không xảy ra nữa?

Đáp: Tôi cám ơn Chúa vì không có Lucrezia Borgia. (Các nhà báo đều cười). Nhưng tôi không biết, tiếp tục với các Hồng Y, với ủy ban để quét dọn sạch sẽ.

Cha Lombardi nói bây giờ tới phiên anh Nestor Ponguta người Colombia của Radio W và Caracol:

Thưa ĐTC con xin hỏi ĐTC về một đề tài đặc biệt liên quan tới Mỹ châu Latiinh bao gồm cả đất nước Argentina của ĐTC nữa. Tại Argentian với ông Macrri sau 12 năm sống dưới chế độ của bà Kirchner, đang hơi có thay đổi. ĐTC nghĩ gì về các thay đổi này, và nền chính trị tại châu Mỹ Latinh đang theo một hướng đi mới như thế nào?

Đáp: Tôi dã nghe vài ý kiền, nhưng thực ra vể tình hình địa lỹ chính trị trong lúc này thì tôi không biết nói gì. Thực sự là như vậy, tôi không biết. Bởi vì có các vấn đề trong nhiều nước trong đường lối này, nhưng thật sự tôi không biết nó đã bắt đầu tại sao và như thế nào. Tôi thực sự không biết. Có nhiều nước châu mỹ latinh ở trong tình trạng của một chút thay đổi này, đúng vậy, nhưng tôi không biết giải thích nó.

Tiếp đến là anh Juergen của hãng tin DPA Nam Phi

 Thưa ĐTC bệnh AIDS đang tàn phá Phi châu. Các thuốc điều trị có nghĩa là ngày nay nhiều người có thể sống lâu hơn. Nhưng mà nạn dịch tiếp tục. Chỉ tại Uganga năm ngoái đã có tới 135 ngàn trường hợp lây bệnh mới. Tại Kenyha tình hình còn tệ hơn. AIDS là lý do đầu tiên gây ra cái chết cho người trẻ phi châu. Thưa ĐTC, ĐTC đã gặp gỡ các trẻ em bị bệnh liệt kháng và đã lắng nghe chứng từ cảm động tại Uganda. Nhưng ĐTC đã nói rất ít về đề tài này. Chúng ta biết là việc phòng ngừa là nền tảng. Chúng ta biết là bao cao su không phải là phương thế duy nhất giúp chặn đứng nạn địch. Nhưng chúng ta cũng biết nó là một phần quan trọng của câu trả lời. Có lẽ đã đến lúc làm nhẹ bớt các lập trường của Giáo Hội  đối với vấn đề này, và cho phép dùng bao cao su để phòng ngừa việc lây bệnh chưa thưa ĐTC?

Đáp: Đối với tôi câu hỏi xem ra nhỏ qúa và cũng là một câu hỏi phiến diện nữa. Đúng, nó là một trong các phương thế. Trong điềm này nền luân lý của Giáo Hội – tôi nghĩ – đang đứng trước một sự phức tạp. Nó là điều răn thứ năm hay thứ sau? Bênh vực sự sống hay liên hệ tính dục rộng mở cho sự sống? Nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề lớn hơn. Câu hỏi này khiến tôi nghĩ tới câu hỏi, mà một lần kia người ta đã đưa ra cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chữa bệnh ngày sabát có hợp pháp không ?” Phải chữa lành! Câu hỏi là có được phép chữa bệnh như thế không, nhưng thiếu dinh dưỡng, khai thác bóc lột con người, lao động nô lệ, thiếu nước trong lành để uống, đó là các vấn đề. Chúng ta không nói tới việc có thể dùng cái băng này hay cái băng kia cho một vết thương bé tí. Vết thương lớn đó là bất công xã hội, bất công môi sinh, bất công mà tôi đã nói tới, của khai thác bóc lột và thiếu dinh dưỡng. Cái đó thì có. Tôi không thích đi xuống các suy tư có tính cách giải nghi học, khi ngưòi ta chết vì thiếu nưóc trong lành  và vì đói, vì thiếu nhà ở… Khi tất cả mọi người đều được chữa lành, hay khi sẽ không còn có các bệnh thê thảm này  mà con người gây ra, vì bất công xa hội hay để kiếm được nhiều tiền hơn, tôi tin rằng có thể hỏi: “Có đưọc phép chữa bệnh ngày thứ bẩy không ?” Tại sao, nếu người ta tiếp tục chế tạo vũ khí và buôn bán vũ khí? Các cuộc chiến là ly do gây ra chết chóc lớn lao hơn nhiều… tôi sẽ nói là đừng nghĩ tới việc có được phép hay không được phép chữa bệnh ngày sabat. Tôi sẽ nói vơi nhân loại: hãy tạo dựng công bằng, và khi tất cả mọi người sẽ được  chữa lành, khi không còn bất công trên thế giới này nữa, thì chúng ta có thể nói tới ngày sabat.

Anh Marco Ansaldo của nhật báo “Cộng hòa” Italia hỏi:

Thưa ĐTC, trong các nhật báo tuần qua có hai biến cố lớn được các phương tiện truyền thông nói tới: một là chuyến viếng thăm của ĐTC tại Phi châu, và chúng con hạnh phúc vì nó đã kết thúc thành công lớn duới mọi khía cạnh. Thứ hai là một cuộc khủng hoảng quốc tế xảy ra giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã bắn hạ một máy bay Nga bay trên không phận Thổ trong vòng 17 giây khiến cho có các lời tố cáo, không xin lỗi từ phiá này và tố cáo từ phiá kia, tạo ra cuộc khủng hoảng không cần phải có trong tình hình đệ tam thế chiến từng mảnh mà ĐTC nói tới. Con xin hỏi đâu là lập trường của Tòa Thánh Vaticăng trong vấn đề này? ĐTC có nghĩ tới việc viếng thăm Armenia nhân dịp kỷ niệm 101 năm các biến cố của Armenia vào tháng 4 năm tới như ĐTC đã làm với Thổ Nhĩ Kỳ hay không?

Đáp: Năm ngoái tôi đã hứa với ba vị Thượng Phụ  là sẽ đi. Có lời hứa. Tôi không biết tôi có thể thực hiện được không, nhưng có hứa rồi. Thế rồi các chiến cuộc. Chiến tranh xảy ra vì tham vọng. Tôi nói tới các chiến tranh, không phải các cuộc chiến tự vệ chính đáng chống lại một kẻ xâm lăng bất công – nhưng các cuộc chiến làm thành một kỹ nghệ. Trong lịch sử chúng ta đã thấy biết bao lần một quốc gia. Ngân quỹ không chạy. Thôi chúng ta hãy làm một cuộc chiến, và thế là hết thiếu hụt. Chiến tranh là một áp phe, một áp phe buôn bán khí giới. Các kẻ khủng bố có khí giới không? Có lẽ họ có một ít. Ai là người cho họ khí giới để gây chiến tranh? Có cả môt mạng lưới lợi nhuận: nơi đâu có tiền bạc, thì đàng sau có quyền lực. Quyền bính đế quốc hay quyền bính  kết hợp. Nhưng từ bao năm nay chúng ta đang ở trong chiến tranh, và mỗi lần càng nhiều hơn: các mảnh, ít là các mảnh và càng ngày chúng càng to hơn. Tôi nghĩ gì à? Tôi không biết Tòa Thánh Vaticăng nghĩ gì. nhưng tôi nghĩ gì? Tôi nghĩ rằng chiến tranh là một tội, và nó chống lại nhân loại, tàn phá nhân loại, gây ra cảnh khai thác bóc lột, buôn người và biết bao nhiều điều khác … Cần phải chặn nó lại. Tại Liên Hiệp Quốc tôi đã nói điểu này hai lần, ở đây bên Kenhya cũng như bên New York. Ước chi công việc của quý vị không là một chủ trương duy danh tuyên bố, nhưng hiệu nghiệm: ước chi người ta tạo dựng hòa bình. Họ làm biết bao nhiêu diều. Ỏ dây bên Phi châu tôi đã thấy các lính bảo hòa làm việc. Nhưng điều này không hữu hiệu. Các cuộc chiến không phải của Thiên  Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa của hòa bình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới, Ngài đã làm mọi sự tốt đẹp, tất cả đều tốt đẹp, và rồi như Thánh Kinh trình thuật, một người anh em giết người anh em khác: đó là cuộc chiến thứ nhất. Đệ nhất thế chiến giữa các anh em. Tôi không biết, các điều này đến với tôi như thế, và tôi nói lên diều này với rất nhiều đau đớn.

  Anh Beaudonné thuộc đài Truyền hình Pháp, hỏi ĐTC: Hôm nay, hội nghị thế giới về thay đổi thời tiết khai mạc tại Paris; ĐTC đã cố gắng nhiều để mọi sự tiến hành tốt đẹp. Nhưng chúng ta đang chờ đợi rất nhiều từ hội nghị thượng đỉnh quốc tế này: chúng ta có chắc rằng hội nghị COP 21 này sẽ là điểm khởi đầu của biện pháp giải quyết không?

ĐÁP: Tôi không chắc, nhưng tôi có thể quả quyết rằng: hoặc bây giờ hay không bao giờ nữa. Ngay từ hội nghị đầu tiên, hình như nhóm tại Tokyo, cho đến ngày nay, đã chỉ có rất ít thành quả đạt được, và mỗi năm tình hình càng trầm trọng hơn. Trong một buổi họp với giới sinh viên đại học về đề tài “chúng ta muốn để lại cho con cháu của thế hệ này thế giới nào”, một người đã nói: Mà có chắc là thế hệ này sẽ để lại đàn con cháu không? Chúng ta đang ở mức giới hạn, giới hạn của cuộc tự tử tập thể, nếu muốn dùng một chữ mạnh bạo. Và tôi tin chắc rằng hầu như tất cả mọi nhân vật có mặt tại Paris, hiện diện tại hội nghị COP 21, đều ý thức được điều này, và muốn làm một cái gì đó. Hôm trước, tôi có đọc thấy sự kiện tại Groenlandia, các vùng băng đá đã mất đi hàng tỷ tấn. Trong Thái Bình Dương, có một quốc gia đang mua đất đai của một nước khác để thuyên chuyển quốc gia đến đó, bởi vì trong vòng 20 năm nữa, đất nước này sẽ không còn hiện hữu nữa. Không, tôi có lòng tin. Tôi tin tưởng rằng những người này sẽ làm một điều gì đó… Tôi tin chắc rằng họ có thiện chí hành động, và tôi mong được như vậy. Tôi cầu nguyện cho điều này

Delia Gallagher, phái viên đài CNN, hỏi ĐTC:

Kính thưa ĐTC, ngài đã thực hiện nhiều cử chỉ đầy sự tôn trọng và tình thân hữu đối với người hồi giáo. Con tự hỏi: hồi giáo và giáo huấn của tiên tri Mohamed còn có thể nói gì với thế giới ngày nay?

ĐÁP: Tôi không hiểu rõ lắm câu hỏi này… Nhưng mà người ta có thể đối thoại: họ có những giá trị, nhiều giá trị. Họ có nhiều giá trị và các giá trị này rất xây dựng. Ngay cả tôi, tôi cũng có một kinh nghiệm tình bạn, nhưng mà tình bạn là một lời quá mạnh, với một người hồi giáo, một vị lãnh đạo thế giới… Chúng tôi có thể nói chuyện: ông ấy có những giá trị riêng, tôi có những giá trị của tôi. Ông ấy cầu nguyện, tôi cầu nguyện. Có nhiều giá trị lắm chứ! Chẳng hạn như cầu nguyện. Ăn chay cũng là một giá trị tôn giáo chứ. Còn nhiều giá trị khác nữa. Không thể xóa bỏ một tôn giáo chỉ vì trong một lúc nào đó, tronog một thời điểm lịch sử nào đó có một hay nhiều nhóm quá khích. Dĩ nhiên là các cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo vẫn luôn có trong lịch sử xưa nay. Ngay cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải xin lỗi. Bà hoàng Caterina de Medici đâu có phải là một vị thánh đâu? Và rồi cuộc chiến Ba Mươi năm, rồi Đêm của thánh Bartolomeo… nữa? Ngay cả chúng ta, chúng ta cũng phải xin lỗi vì những kẻ cực đoan thái quá trong những cuộc chiến tôn giáo. Người hồi giáo họ cũng có những giá trị và có thể đối thoại với họ được. Ngày hôm nay, tôi đã đến một  đền thờ hồi giáo, tôi đã cầu nguyện tại đó, rồi Imam hồi giáo đã muốn cùng đi với tôi một vòng quanh sân vận động nhỏ, nơi có bao nhiêu người khác không có chỗ vào, phải đứng bên ngoài…Trên xe chở tôi, có ĐGH và Imam. Cũng như ở khắp mọi nơi, có những người mang nhiều giá trị tôn giáo, có những người không mang giá trị nào… Nhưng mà có biết bao nhiêu chiến tranh, không chỉ có những chiến tranh tôn giáo mà thôi… người ky tô chúng ta cũng đã từng gây ra nhiều chiến tranh Vụ cướp phá Roma đâu có phải do người hồi giáo gây ra đâu. Họ cũng có các giá trị, nhiều giá trị.

Đến lượt Marta Calderon, thuộc hãng thông tấn Catholic News Agency, cô hỏi:

Kính thưa ĐTC, chúng con biết ngài sẽ viếng thăm Mêhicô. Chúng con muốn, nếu có thể, biết thêm nhiều hơn về chuyến viếng thăm này và vẫn trong chiều hướng viếng thăm những quốc gia có nhiều vấn đề, ĐTC có nghĩ đến chuyện thăm dân nước Colombia hay là trong tương lai, thăm cả các nước như Perù hay  không?

ĐÁP: Quý vị biết đó, vào tuổi tôi, đi nhiều quá không tốt… Nếu ở đó không có Đức Mẹ, thì tôi sẽ chẳng đến thành phố Mêhicô đâu, vì tiêu chuẩn các cuộc viếng thăm là đi thăm ba hay bốn thành phố chưa bao giờ được các Giáo Hoàng viếng thăm. Nhưng tôi sẽ đi Mêhicô vì Đức Mẹ. Rồi tôi sẽ đi Chiapas, ở miền Nam giáp giới với Guatemala, rồi sang Morella, và gần như là chắc chắn trên đường về Roma, tôi sẽ ghé lại một ngày, hay là ít hơn một chút, ở Ciudad Juarez. Còn về việc viếng thăm các nước Mỹ la tinh khác thì vào năm 2017, tôi đã được mời đến Aparecida, Đức Mẹ Apảecida bổn mạng của các nước Mỹ châu nói tiếng Bồ Đào Nha. Quý vị biết là Mỹ châu la tinh có hai vị bổn mạng mà! Từ đó có thể nghĩ đến chuyện viếng thăm một nước khác, sau khi dâng lễ tại Aparecida… Nhưng hiện thời thì chưa có chương trình nào…

Câu hỏi kế tiếp là của Mark Masai, thuộc đài National Media của Kenya.

Anh hỏi: Trước hết, xin cám ơn ĐTC đã viếng thăm Kenya và Phi châu. Chúng con vẫn chờ đợi ĐTC đến Kenya lần nữa, không phải để làm việc mục vụ mà để nghỉ ngơi. Chuyến viếng thăm vừa rồi của ĐTC là chuyến đầu tiên và mọi người đều đã lo lắng nhiều về vấn đề an ninh. ĐTC sẽ nói gì với thế giới luôn đinh ninh rằng Phi Châu là vùng đất chỉ có chiến tranh và đầy dẫy hủy hoại mà thôi?

ĐÁP: Tôi không hiểu rõ lắm chiều hướng của câu hỏi này…. Phi châu là nạn nhân. Phi châu đã và luôn luôn bị các cường quốc khác bóc lột. Từ Phi châu, bao nhiêu người đã bị bắt và đem bán sang Mỹ châu làm nô lệ. Có bao nhiêu cường quốc chỉ biết tìm cách chiếm đoạt những tài nguyện lớn lao của Phi châu, tôi không rõ lắm, nhưng có lẽ Phi châu là lục địa giàu nhất đấy… Họ không nghĩ đến chuyện giúp đỡ lục địa này lớn mạnh, phát triển, kiến tạo công ăn việc làm cho người dân nơi đây… Họ chỉ muốn bóc lột… Phi châu là một lãnh thổ tử đạo, tử đạo vì bị bóc lột suốt dòng lịch sử. Những kẻ cho rằng tất cả các thiên tai và chiến tranh đều đến từ Phi châu đã không hiểu rõ là một số hình thức mệnh danh là phát triển có thể gây hại cho toàn nhân loại chừng nào. Vì thế, tôi rất yêu quý Phi châu bởi lẽ Phi châu đã là một nạn nhân của các cường quốc khác.

Đến đây, cha Lombardi nói rằng buổi nói chuyện đã kéo dài một tiếng đồng hồ và chấm dứt các câu hỏi. Trước khi kết thúc cuộc phỏng vấn, các ký giả muốn tặng ĐTC một cuốn sách mà tuần báo Paris Match của Pháp ấn hành và tặng cho các vị nguyên thủ quốc gia hiện diện trong hội nghị COP 21 về thay đổi thời tiết đang nhóm tại Paris. Cuốn sách gồm 1.500 hình ảnh về các vấn đề môi sinh do các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và tài tử thực hiện, cũng được tặng cho ĐTC. Sau đó, cha Lombardi đã cám ơn ĐTC mặc dù mệt mỏi sau chuyến viếng thăm, vẫn dành thời giờ cho các ký giả phỏng vấn. Mọi người xin chúc ĐTC an vui trở lại Roma và tiếp tục hoạt động bình thường. ĐTC Phanxicô cười và cám ơn các ký giả cùng công việc của họ. Ngài nói: Cám ơn quý vị về công việc của quý vị. Bây giờ là lúc dọn bữa trưa, nhưng người ta nói là hôm nay quý vị sẽ phải nhịn đói vì phải làm việc trên cuộc phỏng vấn này. Cám ơn quý vị nhiều vì công việc của quý vị và vì những câu hỏi, về sự quan tâm của quý vị. Chỉ có một điều tôi muốn nói nói rõ là tôi trả lời theo những gì tôi biết, còn những gì tôi không biết thì tôi không nói tới. Tôi không bày đặt gì cả. Xin cám ơn mọi người.

Linh Tiến Khải – Mai Anh

Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh

Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh

ĐTC 11-15-2015

Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh. diện đối diện. Cuộc gặp gỡ này với Chúa là đích điểm của chúng ta. Chúng ta không chờ đợi một thời gian hay một nơi chốn, nhưng chúng ta đi gặp gỡ một người: đó là Chúa Giêsu. Vì thế vấn đề không phải khi nào xảy ra các dấu chỉ báo trước thời sau hết, nhưng là phải sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ ấy.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 15-11-2015.  . Ngài cũng đã tái mạnh mẽ lên án các hành động khủng bố bạo lực tại Paris khiến cho 129 người chết và 352 người bị thương. ĐTC tái chia buồn với toàn dân Pháp và nói:

Tôi muốn bầy tỏ nỗi đớn đâu sâu thẳm của tôi đối với các vụ tấn công khủng bố chiều tối ngày thứ sáu đã khiến nước Pháp đổ máu, gây ra nhiều nạn nhân. Tôi xin bầy tỏ sự chia buồn sâu xa với tổng thống và mọi công dân của Cộng Hòa Pháp. Tôi đặc biệt gần gũi gia đình những người đã mất mạng sống và nhũng người bị thương. Biết bao nhiêu dã man khiến cho chúng ta kinh hoàng, và người ta tự hỏi làm sao trái tim con người lại có thể nghĩ ra và thực hiện các biến cố kinh khủng như thế, không chỉ đảo lộn nước Pháp mà còn đảo lộn toàn thế giới nữa. Trước các hành động bất khoan nhượng như vậy, không thể không lên án việc xúc phạm tới phẩm giá con người một cách xấu hổ như thế.  Tôi muốn mạnh mẽ tái khẳng định rằng con đường của bạo lực và thù hận không giải quyết được các vấn đề của nhân loại và dùng tên của Thiên Chúa để biện minh cho con đường này là một sự phạm thượng.

Tôi xin mời anh chị em hiệp nhất với lời cầu nguyện của tôi: chúng ta hãy phó thác cho lòng thương xót Chúa các nạn nhân không được bênh đỡ của thảm cảnh này. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của lòng thương xót, dấy lên trong con tim của mọi người các tư tưởng của sự khôn ngoan và các ý hướng hòa bình. Chúng ta hãy xin Mẹ che chở và canh thức trên quốc gia Pháp thân yêu, trưởng nữ của Giáo Hội, trên Âu châu và trên toàn thế giới. Chúng ta tất cả cùng nhau cầu nguyện một chút trong thinh lặng, rồi cùng đọc một kinh Kính Mừng.

Trước đó trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật thứ 33 thường niên năm B, liên quan tới diễn văn của Chúa Giêsu về sự thành toàn của Nước Thiên Chúa (x. Mc 13,24-32). Đây là một diễn văn Chúa nói tại Giêrusalem trước lễ Vượt Qua cuối cùng của Ngài. Nó chứa đựng vài yếu tố khải huyền như chiến tranh, đói kém, các tai ương trong vũ trụ. Chúa nói: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyền” (Mc 13,24-25). Tuy nhiên, các yếu tố này không phải là điều nòng cốt của sứ điệp. Nhân tố chính, mà diễn văn của Chúa Giêsu xoay quanh, là chính Ngài, mầu nhiệm con người của Ngài, cái chết, sự phục sinh và việc Ngài trở lại vào thời sau hết. ĐTC giải thích thêm:

Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh. Và tôi muốn hỏi anh chị em: có bao nhiêu người trong anh chị em nghĩ tới điều này? Sẽ có một ngày kia tôi sẽ gặp gỡ Chúa diện đối diện. Đó là đích điểm của chúng ta: cuộc gặp gỡ này với Chúa. Chúng ta không chờ đợi một thời gian hay một nơi chốn, nhưng chúng ta đi gặp gỡ một người: đó là Chúa Giêsu. Vì thế vấn đề không phải khi nào xảy ra các dấu chỉ báo trước thời sau hết, nhưng là phải sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ ấy. Vấn đề cũng không phải  là biết các điều đó sẽ xảy ra như thế nào, mà là biết chúng ta phải hành xử ra sao, hôm nay, trong lúc chờ đợi các điều đó. Chúng ta được mời gọi sống hiện tại, bằng cách xây dựng tưong lai của chúng ta với sự thanh thản và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Dụ ngôn cây vả đâm chồi, như dấu hiệu của mùa hè gần tới (x. cc28-29) nói rằng viễn tượng của ngày sau hết không cất chúng ta ra khỏi hiện tại, nhưng làm cho chúng ta nhìn các ngày sống của mình trong một lăng kính của niềm hy vọng. Đó là nhân đức thật khó mà sống được: đức cậy, nhân đức bé nhỏ nhưng là nhân đức mạnh mẽ nhất. Và niềm hy vọng của chúng ta có một gương mặt: đó là gương mặt của Chúa phục sinh, đến trong “quyền năng lớn lao và vinh quang” (c. 26), nghĩa là Ngài tỏ lộ tình yêu bị đóng đanh được hiền dung của Ngài trong sự phục sinh. Chiến thắng của Chúa Giêsu vào thời sau hết sẽ là chiến thắng của Thập Giá, là việc chứng minh cho thấy rằng sự hiến tế chính mình vì yêu thương tha nhân và noi gương Chúa Kitô, là quyền lực chiến thắng duy nhất và là điểm vững chắc duy nhất giữa các đảo lộn và các thảm cảnh của thế giới.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Chúa Giêsu không chỉ là điểm tới cuộc lữ hành trần thế của chúng ta, nhưng là một sự hiện diện thường hằng trong cuộc sống chúng ta: ngài luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, Ngài luôn luôn đồng hành với chúng ta. Vì thế khi Ngài nói tới tương lai và dự phóng chúng ta về tương lai, đó là để dẫn đưa chúng ta trở lại hiện tại. Ngài chống lại các ngôn sứ giả, các thị nhân thấy trước ngày tận cùng của thế giới gần kề, và chống lại thuyết định mệnh. Chúa ở bên cạnh chúng ta, bước đi với chúng ta, yêu thương chúng ta. Ngài muốn kéo các môn đệ thuộc mọi thời đại của Ngài khỏi sự tò mò muốn biến các ngày tháng, các tiên báo, các lá số tử vi, và tập trung sự chú ý của chúng ta trên ngày hôm nay của lịch sử. Tôi muốn hỏi anh chị em – nhưng xin đừng trả lời, mỗi người hãy trả lời trong chính mình thôi – có bao nhiêu người trong anh chị em đọc lá số tử vi mỗi ngày? Im lặng nhé! Mỗi người hãy tự trả lời đi. Và khi bạn muốn đọc lá số tử vi, thì hãy nhìn lên Chúa Giêsu, đang ở với bạn. Làm như thế thì tốt hơn cho bạn. Sự hiện diện này của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta chờ đợi và tỉnh thức. Chúng loại trừ biết bao thái độ mất kiên nhẫn cũng như ngủ quên, biết bao trốn chạy về phía trước, biết bao tình trạng bị giam cầm trong thời gian hiện tại và trong tinh thần thế tục.

Cả trong thời đại chúng ta nữa cũng không thiếu các tai ương thiên nhiên và tai ương luân lý, cũng không thiếu các thù nghịch và sai lạc đủ loại. Mọi sự đều qua đi – Chúa nhắc cho chúng ta biết thế – chỉ có Ngài, Lời ngài còn lại như ánh sáng dẫn đường, trao ban can đảm cho các bước chân của chúng ta, và Ngài luôn luôn tha thứ cho chúng ta, bởi vỉ Ngài ở bên cạnh chúng ta. Chỉ cần nhìn Chúa và Ngài thay đổi con tim chúng ta. Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta tín thác nơi Chúa Giêsu, là nền tảng vững vàng của cuộc sống chúng ta, và xin Mẹ giúp chúng ta tươi vui kiên trì sống trong tình yêu của Chúa.

Tiếp đến ĐTC đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Chào các tín hữu sau kinh Truyền Tin ĐTC nhắc cho mọi người biết ngày 14 tháng 11 vừa qua tại Três Pontas trong tiểu bang Minas Gerais bên Brasil, cha Francisco de Paula Victor, linh mục Brasil gốc phi châu, con của một phụ nữ nô lệ, đã được phong chân phước. Ngài đã là một cha xứ quảng đại, nhiệt thành trong việc dậy giáo lý và ban phát các Bí Tích, và nổi bật nhất là sự khiêm nhường của Ngài. Xin cho chứng tá ngoại thường của ngài là mẫu gương cho biết bao linh mục, được mời gọi là các tôi tớ khiêm nhường của dân Thiên Chúa.

ĐTC đã chào tín hữu đến từ khắp nơi trong nước Italia và trên thế giới, đặc biệt là đông đảo các tín hữu các nưóc Tây Ban Nha, San Salvador và Malta, cũng như Hiệp hội các người tháp tùng hành hương các đền thánh Đức Mẹ trên thế giới, và Tu hội đời “Chúa Kitô Vua”.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thiên Chúa chỉ yêu thương chứ không hề kết án

Thiên Chúa chỉ yêu thương chứ không hề kết án

ĐTC 10-29-2015 Martha

Giảng trong thánh lễ sáng hôm nay, ngày 29-10 tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Thiên Chúa chỉ biết yêu thương chứ không hề kết án. Tình yêu thương chính là ‘điểm yếu’ của Ngài và là sự chiến thắng của chúng ta.”

Sự chiến thắng của chúng ta là tình yêu thương khôn tả của Thiên Chúa

Khởi đi từ thư của thánh Phao-lô Tông đồ gởi giáo đoàn Rôma, Đức Thánh Cha diễn giải rằng: “Kitô hữu là những người chiến thắng vì nếu có ‘Thiên Chúa bên đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?’. Nếu Thiên Chúa cứu độ chúng ta, ai còn dám kết án chúng ta? Dường như sức mạnh của sự vinh thắng này là ân ban mà mỗi tín hữu nắm trong tay như một tài sản quý giá. Bởi thế, hầu như mỗi Kitô hữu đều có thể thốt lên: ‘Chiến thắng. Chúng ta đã toàn thắng. Chúng ta là những nhà vô địch.’ Tuy nhiên, sự chiến thắng này cũng mang một nghĩa khác. Chúng ta chiến thắng không phải vì chúng ta có thể chiếm hữu được sự chiến thắng nhưng bởi một lý do khác. Chính lý do khác ấy khiến chúng ta chiến thắng, hay ít là nếu chúng ta không muốn chối từ, chúng ta sẽ luôn luôn chiến thắng. Đây chính là điều mà thánh Phao-lô tuyên bố: ‘Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô, Chúa chúng ta.’

Như vậy, ý nghĩa thứ hai: không phải là chúng ta toàn thắng trên kẻ thù hay trên tội lỗi nhưng là chúng ta được gắn chặt vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi không một ai, không một sức mạnh nào và không điều gì có thể tách chúng ra ra khỏi tình yêu này. Thánh Phao-lô đã nhìn thấy trong ân sủng của sự vinh thắng ấy một điều hết sức sâu xa: đó chính là hồng ân được tạo dựng lại, hồng ân được tái sinh trong Đức Giêsu Kitô. Như thế, thánh Phao-lô đã cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu khôn tả.

Điều ‘không thể’ của Thiên Chúa là Ngài không thể không yêu thương

Đức Thánh Cha nói: “Con người có thể chối từ ân ban vì thói hư danh, kiêu căng ngạo mạn hay vì tội lỗi của mình. Nhưng ân ban chính là tình yêu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể tách rời khỏi con người. Và đây chính là điều ‘không thể’ của Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa toàn năng, có thể làm được mọi sự. Nhưng ít là có một chuyện Ngài không làm được, đó là xa lìa, bỏ rơi chúng ta. Trong bài Tin Mừng, hình ảnh Đức Giêsu khóc thương cho thành Giê-ru-sa-lem giúp chúng ta hiểu hơn về tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc. Ngài khóc thương thành Giê-ru-sa-lem và việc thương khóc này biểu lộ trọn vẹn sự ‘không thể’ của Thiên Chúa: Thiên Chúa không thể không yêu thương, Ngài không thể bỏ rơi chúng ta.”

Bảo đảm của chúng ta: Thiên Chúa chỉ yêu thương chứ không hề kết án

Đức Thánh Cha tiếp tục triển khai: “Đức Giêsu khóc thương Giê-ru-sa-lem vì họ đã giết các ngôn sứ rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa ngỏ lời với thành Giê-ru-sa-lem và với mỗi người chúng ta: ‘Đã bao lần ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.’ Đây thực sự là một hình ảnh hết sức dịu dàng dễ thương: ‘Đã bao lần ta muốn trao cho các ngươi sự êm ái và tình yêu ngọt ngào của Ta, giống như gà mẹ ấp ủ đàn con, nhưng các ngươi đã từ chối.’ Khi hiểu và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đã nói: ‘Tôi tin chắc rằng cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.’

Thiên Chúa không thể không yêu thương! Và đây là một sự bảo đảm chắc chắn cho chúng ta. Chúng ta có thể chối từ tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta có thể từ chối giống như người trộm lành chối từ tình yêu của Thiên Chúa cho đến tận những giây phút cuối đời. Nhưng trên thánh giá, Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi anh với một tình yêu thương tha thứ. Ngay cả một người có tội lỗi nhất, có ngạo mạn hay ăn nói phạm thượng nhất, Thiên Chúa vẫn yêu thương bằng một sự dịu dàng và nhân hậu của người cha. Tình yêu ấy giống như thánh Phao-lo đã xác tín, như Tin mừng đã thuật lại và như Đức Giêsu đã nói: ‘như gà mẹ ấp ủ đàn con’. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, là Tạo Hóa có thể làm được mọi sự nhưng Ngài lại khóc. Sự khóc thương của Đức Giêsu đối với thành Giê-ru-sa-lem, trong những giọt nước mắt ấy, chứa đựng tất cả tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa khóc thương chúng ta khi chúng ta lạc xa đường lối Ngài; Thiên Chúa khóc thương mỗi người chúng ta; Thiên Chúa khóc thương những kẻ tội lỗi đã làm ra bao nhiêu chuyện gian ác, xấu xa cho người khác…Đứng trước tất cả những điều ấy, Thiên Chúa không hề kết án nhưng Ngài chỉ khóc và chờ đợi. Ngài đã khóc vì yêu thương!" (SD 29-10-2015).

Vũ Đức Anh Phương