ĐTC sẽ khai mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

ĐTC sẽ khai mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

Hằng năm, ĐTC vẫn chủ sự kinh chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma vào ngày 25-1, lễ Thánh Phaolô trở lại. Nhưng năm nay, ngài bận viếng thăm tại Panama từ ngày 23 đến 27-1 tới đây, nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 34, nên ngài chủ sự kinh chiều khai mạc.

100 năm lịch sử

Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô đã có từ hơn 100 năm nay do sáng kiến của Mục Sư Anh Giáo Paul Wattson, sau này trở thành một LM Công Giáo. Từ 50 năm nay, chủ đề và các văn bản Kinh Thánh dùng trong Tuần Cầu Nguyện Hiệp Nhất Kitô do một nhóm làm việc chung thuộc Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và Ủy ban Đức tin và Hiến Chế thuộc Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô ở Genève cùng soạn thảo (KNA 8-1-2019)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican

Đức Thánh cha: Buôn bán người là một tội phạm đáng xấu hổ

Đức Thánh cha: Buôn bán người là một tội phạm đáng xấu hổ

Sau Kinh Truyền tin ĐTC nhắc mọi người nhớ rằng hôm nay thứ hai 30/07 là Ngày Thế giới chống buôn bán người.

Đây là ngày được Liên Hiệp Quốc cỗ vũ. ĐTC nói đến nỗi đau của việc buôn bán người nam, người nữ và trẻ em biến họ trở thành nô lệ với mục đích khai thác lao động và tình dục, buôn bán các cơ phận, ăn xin và cưỡng bức phạm pháp. Ngài cũng nói đến các tuyến đường di cư thường được những người buôn và những người khai thác dùng để chiêu mộ các nạn nhân buôn người mới. Trách nhiệm của mọi người là phải cương quyết tố cáo những bất công và chống lại tội phạm đáng xấu hổ này.

Ngọc Yến – Vatican

Năm Giới trẻ tại tổng Giáo phận Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn tây, Trung quốc

Năm Giới trẻ tại tổng Giáo phận Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn tây, Trung quốc

Bắc kinh – Năm Giới trẻ đã được khai mạc tại tổng Giáo phận Thái Nguyên, thuộc tỉnh Sơn tây, miền bắc của Trung quốc.

Theo nguồn tin của “Faith”, có hơn 2000 bạn trẻ Công giáo đã tham gia buổi rước kiệu trọng thể khai mạc, với các hình ảnh các thánh Gregorio Maria Grassi dòng Phanxicô, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Mẹ Têrêsa Cancutta.

Năm đặc biệt này được giáo phận tổ chức, kéo dài từ ngày 16/02-25/11/2018 và sẽ là cách thức chuẩn bị sống Thượng hội đồng Giám mục về Giới trẻ. Chủ đề của Năm Giới trẻ nàu là “Tìm kiếm Thiên Chúa để cùng nhau hành trình trong Giáo hội hoàn vũ”, đề tại được chọn theo hướng dẫn của Đức Giáo hoàng Phanxicô cho Thượng hội đồng Giám mục lần XV về chủ đề “Giới trẻm đức tin và phân định ơn gọi.”

Buổi khai mạc trọng thể Năm Giới trẻ được tổ chức ngày 21/02 vừa qua do Đức cha Phaolô Meng Ning You. Giám mục Giáo phận chủ tế với 60 Linh mục đồng tế. Trong bầu khí lễ hội với sự tham dự của các bạn trẻ cùng hát “Chúng ta là người trẻ của Chúa Kitô”, các bạn trẻ hiện diện đã viết các sứ điệp của họ trên “bức tường ý tưởng” được chuẩn bị để đón nhận các suy tư, các điểm, ước mong và đề nghị thiêng liêng của các bạn trẻ.

Cuộc rước trọng thể được đặc trưng bởi các màu da trời và màu đỏ, thể hiện theo cách này niềm hy vọng rằng các bạn trẻ sẽ theo bước chân của các thánh và các vị tử đạo của Giáo Hội, ngày càng phát triển trong đức tin. Màu xanh kỉ niệm 160 năm Đức Mẹ Lộ đức, màu đỏ là màu các vị tử đạo, khuyến khích các bạn trẻ thừa kế toinh thần tử đạo vì đức tin.

Năm Giới trẻ được phân thành 5 giai đoạn, mỗi giai đoạn được đánh dấu với một câu Tin mừng: tìm kiếm; khuyến khích ơn gọi; sự nhận thức của Giáo hội; Alleluia; niềm hy vọng và cuộc hành hương của giới trẻ.

Đức cha Phaolô Meng cho biết ngài hãnh diện về giới trẻ Công giáo của giáo phận và giải thích: “Đức tin và ơn gọi là hai yếu tố nối kết chặt chẽ với nhau. Chúng ta phải đồng hành với cuộc hành trình của người trẻ và sự phân định ơn gọi của họ trong thế giới tục hóa. Họ là tương lai của thế giới và của Giáo hộ. Chúng tôi có 60 Linh mục lo việc mục vụ trong giáo phận và 130 phục vụ trong các giáo phận và cộng đoàn Trung quốc. Chúng tôi được chúc phúc với nhiều ơn gọi Linh mục, và thật sự, nhưng chúng tôi không hài lòng. Chúng tôi hy vọng rằng, cũng cám ơn sáng kiến như thế này, dành cho giới trẻ, có thể sinh nở những ơn gọi mới của giới trẻ muốn hiến thân cho ơn gọi Linh mục và đời sống thánh hiến. Như thế chúng tôi sẽ có thể tiếp tục gửi các nhà truyền giáo đến các cộng đoàn đang cần họ.” (Agenzia Fides 1/3/2018)

Hồng Thủy

 

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Chuyến công du Chile của ĐTC đã bước sang ngày thứ ba.  Thứ tư hôm qua ĐTC chỉ có hai sinh soạt chính: ban sáng ngài chủ sự Thánh Lễ tại phi trường Maquechue ở Temuco, và ban chiều gặp gỡ giới trẻ tại đền thánh Đức Bà Maipu ở Santiago. Nhưng trước hết kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của ĐTC chiều ngày thứ ba 16 tháng giêng.

Sau khi cử hành Thánh Lễ tại công viên O’Higgins trong thủ đô Santiago ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh cách đó 18 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi thăm trung tâm cải huấn các nữ tù nhân. Trung tâm này có tên gọi là trung tâm Thánh Gioakim do các nữ tu Chúa Chiên Lành trông coi. Trong hơn một trăm năm đây là nơi giam giữ các phụ nữ phạm các tội nhẹ như trộm cắp, chỉ có vài trường hợp là tội giết người. Nhưng tình hình đã thay đổi: với việc buôn bán và nghiền ma tuý có nhiều phụ nữ phạm tội nặng bị nhốt tại trung tâm này. Tuy chỉ có 855 chỗ nhưng trong năm 2,000 số tù nhân đã lên tới 1,400. Hiện nay trung tâm  tiếp nhận 45% các nữ tù nhân toàn nước Chile và được Giáo Hội Chile đặc biệt lưu tâm qua Văn phòng mục vụ nhà tù.

Xe chở ĐTC đã đến nhà tù lúc 4 giờ chiều giờ địa phương và ĐTC đã được bà giám đốc nhà tù cùng 5 linh mục tuyên uý tiếp đón gần nhà nguyện. Hai nữ tù nhân cùng các con của họ tặng hoa cho ĐTC. Tiếp đến ĐTC đi đến phòng thể thao, nơi có nữ tu Nelly León, phụ trách mục vụ, và 600 nữ tù nhân hiện diện.

Nhân danh các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên xã hội, ban giám đốc và nhân viên làm việc trong nhà tù, cũng như các linh mục tuyên uý chị Nelly đã chào mừng ĐTC, bạn của dân nghèo, của công lý, của sự thiện và hoà bình, và cám ơn ngài đã tới thăm các tù nhân. 600 chị em tù nhân thuộc nhiều tôn giáo hiện điện trong nhà thể thao – được trang hoàng với các hình ảnh, gương mặt và lời nói được mọi nhà tù toàn Chile gửi tới – đại diện cho 50.000 tù nhân toàn nước. Chiị Nelly cho biết mỗi Chúa Nhật khi cùng nhau cử hành phụng vụ trong nhà nguyện  Mục Tử Nhân Lành, các tù nhân làm chứng cho xác tín sự sống chiến thắng cái chết, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự ngay thẳng của con tim chiến thắng cái khô cằn của lòng ích kỷ.

Bà Janett Zurita, đại diện cho các chị em tù nhân hiện diện và tất cả những người đã đánh mất sự tự do vì các lầm lỗi của mình, công khai xin lỗi những người đã bị thiệt thòi vì tội phạm của họ. Bà cũng xin ĐTC cầu nguyện cho các tù nhân và nhất là cho con cái của họ, tuy vô tội nhưng cũng phải chia sẻ các hệ lụy tù tội của mẹ. Các tù nhân kinh nghiệm được sự dịu hiền và lòng thương xót của Thiên Chúa, qua các linh mục tuyên uý, các nhân viên mục vụ và người thiện nguyện, cũng như qua tổ chức mục vụ “Espacios Mandela” và Hội “Phụ nữ đứng lên” trợ giúp họ học nghề, liên lạc với gia đình và chuẩn bị cho họ tái hội nhập xã hội.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, tôi xin cám ơn, cám ơn, cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đã làm, và cám ơn vì đã cống hiến cho tôi dịp may có thể gặp gỡ anh chị em. Đối với tôi thật là quan trọng chia sẻ lúc này với anh chị em và gần gũi biết bao nhiêu anh chị em hôm nay bị mất tự do. ĐTC đã đặc biệt cám ơn chị Janeth đã chia sẻ các khổ đau của chị và đã can đảm xin lỗi. Chúng ta tất cả đều học được từ thái độ can đảm và khiêm tốn này. Vì nó nhắc cho biết rằng không có thái độ như thế là chúng ta không là người nữa. Chúng ta tất cả đều phải xin lỗi, truớc tiên là tôi đây. Tất cả. Điều này khiến cho chúng ta là người. Vì nếu không có thái độ xin lỗi, chúng ta đánh mất đi ý thức đã sai lầm, và mỗi ngày chúng ta được mời gọi bắt đầu trở lại.

Trong lúc này tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu đã nói : « Ai không có tội thì ném đá trước đi ! » (Ga 8,7). Anh chị em biết đấy, trong các bài giảng tôi thường nói rằng tất cả chúng ta đều phạm các lầm lỗi, nhưng chúng ta dấu nó bên trong. Tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi. Ai không có tội thì giơ tay lên. Đã không có ai có can đảm giơ tay cả. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ cái luận lý quá đơn sơ chia rẽ thực tại thành người tốt người xấu, để bước vào trong một năng động khác có khả năng tiếp nhận sự giòn mỏng, các hạn hẹp và cả tội lỗi để giúp chúng ta tiến tới. Nhắc lại việc hai bà mẹ và các con nhỏ của họ đợi, chào đón và tặng hoa khi ngài bước vào trung tâm cải huấn, ĐTC suy tư về hai từ : mẹ, và các con và nói : nhiều người trong chị em là mẹ, và chị em biết trao ban sự sống có nghĩa là gì. Chị em đã biết mang trong cung lòng mình một sự sống và cho nó chào đời. Chức làm mẹ không phải và sẽ không bao giờ là một vấn đề, nhưng là một món quà, một trong những món quà tuyệt vời nhất mà chị em có thể có. Ngày nay chị em đang đứng trước thách đố sinh ra sự sống cho tương lai chào đời, làm cho nó lớn lên, trợ giúp nó phát triển, không phải chỉ cho chúng ta, nhưng cho con cái của anh chị em và toàn xã hội. Chị em có một khả năng thích ứng với các hoàn cảnh và tiến tới không thể tin được. Hôm nay tôi muốn mời gọi khả năng sinh ra tương lai sống trong mỗi chị em. Khả năng đó cho phép chiến đấu chống lại biết bao nhiêu chủ trương biến con người thành đồ vật, và kết thúc với việc giết chết niềm hy vọng. Không ai trong chúng ta là đồ vật cả. Chúng ta tất cả là các bản vị con người. Đừng để mình bị biến thành đồ vật.

Bị lấy mất đi sự tự do không đồng nghĩa với đánh mất đi các giấc mộng và niềm hy vọng. Thật cam go và đau đớn nhưng không có nghĩa là mất niềm hy vọng. Mất tự do không đồng nghĩa với không có phẩm giá. Không được đụng tới phẩm giá con người, trái lại cần săn sóc, giữ gìn, vuốt ne nó. Không được lấy mất phẩm giá của ai hết. Chị em mất tự do, vì thế cần chiến đấu chống lại mọi loại sáo ngữ, nhãn hiệu nói rằng không thể thay đổi hay không đáng công hoặc kết qủa luôn luôn như nhau. Không phải vậy đâu. Mỗi một cố gắng chiến đấu cho một ngày mai tốt đẹp hơn sẽ luôn luôn cho hoa trái và được tưởng thưởng.

Từ thứ hai là con cái : chúng là sức mạnh, chúng là niềm hy vọng, chúng là khích lệ. Chúng là lời nhắc nhở rằng cuộc sống được xây dựng bằng cách nhìn về phiá trước chứ không nhìn về phiá sau. Việc mất tự do không là tình trạng vĩnh viễn. Hãy nhìn về chân trời phiá trước, về việc tái hội nhập vào trong cuộc sống xã hội. Một hình phạt không tương lai không phải là một hình phạt nhân đạo, mà là một tra tấn. Mỗi một hình phạt là một món nợ phải trả cho xã hội, nhưng nó phải có một chân trời của việc hội nhập, vì vậy cần phải chuẩn bị cho việc hội nhập, hãy nhìn về việc hội nhập vào cuộc sống thường ngày trong xã hội. Chính vì thế tôi trân quý và mời gọi gia tăng mọi nỗ lực có thể, để các dự án như «Khoảng không Mandela » và « Hội Phụ nữ đứng lên » có thể lớn lên và được củng cố. Tên của hội nhắc nhớ biến cố Chúa Giêsu vào nắm tay bé gái con ông trưởng hội đường Do thái đã chết và nói với em : « Bé gái, Ta truyền cho con : hãy đứng đậy ! » (Mc 5,41). Thật đẹp biết bao có những người thiện tâm thuộc mọi tôn giáo có can đàm theo gương Chúa Giêsu và là dấu chỉ bàn tay giang ra nâng người khác dậy

** Chúng ta tất cả đều biết rằng hình phạt bỏ tù thường bị giản lược vào việc trừng phạt, mà không cống hiến các dụng cụ thích hợp giúp kích động các tiến trình thay đổi. Trái lại, các không gian này thăng tiến các chương trình học việc và đồng hành để tái lập các tương quan là dấu chỉ của niềm hy vọng và tuơng lai. Chúng ta hãy hoạt động để chúng lớn lên. Không đuợc chỉ giản lược an ninh công cộng vào các biện pháp kiểm soát nhiều hơn, nhưng nhất là với các biện pháp phòng ngừa, với việc làm, giáo dục và nhiều cuộc sống cộng đoàn hơn.

Với tâm tình này tôi muốn chúc lành cho các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên, nhân viên, đặc biệt là các hiến binh và gia đình họ. Anh chị em có một nhiệm vụ tế nhị và phức tạp và vì thế tôi cầu chúc chính quyền cũng có thể bảo đảm  cho anh chị em có các điều kiện cần thiết để làm việc với phẩm giá. Phẩm giá làm nảy sinh ra phẩm giá… Các hoa mà anh chị em tặng tôi sẽ đem dâng cho Đức Me nhân danh tất cả anh chị em.

Trung tâm cải huấn đã tặng ĐTC một ảnh Đức Mẹ nổi bằng gốm mầu trắng, xanh da trời và vàng thuộc loại đất sét nung kiểu vùng Toscana theo nghệ thuật đã có từ năm 1400.

Trước khi rời trung tâm cải huấn, ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các nhân viên làm việc tại trung tâm. Sau đó ngài đi xe đến quảng trường Arma strong thủ đô Santiago rồi đến nhà thờ chính toà để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

Nhà thờ chính toà dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời là kết quả của nhiều công trình xây cất dọc dài các thế kỷ. Nhà thờ đầu tiên được xây năm 1600, nhưng sau đó bị ba trận động đất làm hư hại vào các năm 1648, 1657 và 1730 khiến cần phải xây nhà thờ mới như hiện nay. Công việc xây cất bắt đầu năm 1748 do hai cha dòng Tên người Đức là Pedro Vogl và Juan Hogen cùng với kỹ sư Matias Vasquez Acunha đảm trách. Nhà thờ mới được thánh hiến năm 1775. Năm năm sau kỹ sư người Ý Gioachino Toesca canh tân mặt tiền theo kiểu tân cổ điển. Ngày 21 tháng 5 năm 1840 ĐGH Gregorio XVI nâng nhà thờ lên hàng chính toà. Trong một ngày năm Thánh Lòng Thương Xót 2016 nhà thờ chính toà đã  trở thành nhà ăn cho người nghèo. Sáng kiến này của ĐHY Ricardo Ezzati Andrello đã được lập lại hồi tháng 8 năm ngoái.

** ĐTC được ĐHY TGM Santiago và kinh sĩ đoàn tiếp đón tại cửa vào và tháp tùng đến nhà nguyện Thánh Thể để ngài viếng Mình Thánh Chúa trong giây lát. Tiếp đến hai tu sĩ một nam một nữ đã tặng hoa cho ĐTC, ngài đã đặt hoa trên bàn thờ chính trước ảnh Đức Mẹ. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức một buổi cử hành Lời Chúa.

Sau lời chào mừng của ĐHY Ricardo Ezzati, TGM Santiago, ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu phục sinh với Phêrô và vài tông đồ bên bờ hồ Galilea, nơi các ông trở lại với nghề đánh cá, nhưng không bắt được gì. Trong cuộc gặp gỡ ấy Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô có yêu Ngài không và giao cho ông nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, như thánh Gioan kể lại trong chương 21. Áp dụng vào hiện tình của Giáo Hội tại Chile ĐTC  đề cập đến ba thời điểm trong cuộc sống của tông đồ Phêrô và cộng đoàn kitô tiên khởi: Phêrô thất vọng, Phêrô được tha thứ, Phêrô được biến đổi.

Cũng như kinh nghiệm của các tông đồ luôn luôn bao gồm hai khiá cạnh cá nhân và cộng đoàn, các người sống đời thánh hiến được mời gọi một cách riêng rẽ, nhưng luôn luôn là thành phần của một nhóm lớn hơn. Phúc Âm không sợ cho chúng ta thấy các lúc khó khăn và cả xung đột, mà các môn đệ đã phải trải qua. Bên cạnh các lưới trống rỗng không có con cá nào, họ còn có một sự trống rỗng khác đè nặng con tim: đó là sự lạc lõng và đảo lộn nội tâm vì cái chết của Thầy. Nó đã gây ra nơi họ một cơn lốc xoáy các xung đột: Phêrô đã chối bỏ Ngài, Giuđa đã phản bội Ngài và các người khác đã chạy trốn. Chỉ còn có vài phụ nữ và môn đệ yêu dấu ở lại. Đó là các giờ của lạc hướng và đảo lộn nội tâm trong cuộc đời của người môn đệ. Trong những lúc cơn lốc của các bách hại, khổ đau ngờ vực dâng lên vì các biến cố văn hoá lịch sử, thật không dễ tìm lại con đường phải theo. Có rất nhiều cám dỗ, nhưng cám dỗ tệ hại nhất là dừng lại và nhai lại nỗi khổ đau. Như ĐHY Ezzati đã nói: “Cuộc sống linh mục và thánh hiến tại Chile đang trải qua các giờ phút khó khăn của hỗn loạn và các thách đố không nhỏ. Cùng với sự trung thành của đại đa số cũng có cỏ lùng của sự dữ lớn lên với gương mù gương xấu theo sau và sự đảo tẩu”. Tôi biết nỗi đớn đau của các vụ lạm dụng trẻ vị thành niên và tôi chú ý theo dõi những gì anh chị em làm để thắng vượt sự dữ nghiêm trọng và đau đớn này. Đau đớn vì tai hại và nỗi khổ của các nạn nhân và gia đình họ, thấy sự tin tưởng họ đặt nơi các vị thừa tác của Giáo Hội bị phản bội. Đau đớn cho các cộng đoàn giáo hội và đau đớn cho anh em, ngoài sự mệt nhọc của việc tân tụy lại còn phải sống sự tai hại gây ra bởi sự nghi ngờ và tranh luận có thể khiến cho nhiều người nghi ngờ, sợ hãi và mất tin tưởng. Tôi biết anh em đã bị sỉ nhục trên tầu điện hay khi đi trên đường, hay việc mặc áo linh mục đi vào nhiều vùng phải trả giá mắc mỏ. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự sáng suốt gọi thực tại với tên của nó, và can đảm xin lỗi cũng như khả năng lắng nghe điều Chúa đang nói với chúng ta.

** Tiếp tục bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ và chủng sinh ĐTC nói: Xã hội Chile ngày nay rất khác với xã hội Chile hồi tôi được đào tạo. Có các hình thức văn hoá mới khác nhau nảy sinh không thích hợp với các khung cảnh cũ. Chúng ta phải công nhận rằng nhiều khi chúng ta không biết hội nhập vào trong các hoàn cảnh mới này như thế nào. Thường khi chúng ta ước mơ “củ hành Ai Cập”, mà quên rằng đất hứa ở đàng trước, và có thể rơi vào cám dỗ khép kín và tự cô lập mình để bênh vực các lập trường và địa vị của chúng ta. Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ nghĩ rằng mọi sự đều xấu xa, và thay vì loan báo tin vui thì lại chỉ tuyên xưng cái bất khả năng và thất vọng của chúng ta. Dù muốn hay không, chúng ta phải đương đầu với thực tại cá nhân, cộng đoàn và xã hôị như nó là. Hình ảnh các môn đệ mạnh mẽ, can đảm sinh động, cảm thấy mình được mời gọi theo Chúa Giêsu, chắc chắn về mình, sẵn sàng vào tù hay chết vì Thầy, bênh vực Thầy tới độ muốn xin lửa trời xuống đốt trái đất, rút gươm ra để chiến đấu, quở trách Thầy như Phêrô đã làm, không còn nữa. 

Đây là giờ của sự thật trong cuộc sống của cộng đoàn tiên khởi. Phêrô sống kinh nghiệm sự hạn hẹp yêu đuối và tội lỗi của mình. Điều tương tự có thể xảy ra cho chúng ta như môn đệ và như Giáo Hội. Có những lúc trong đó chúng ta đương đầu với các vinh quang và yếu đuối của chúng ta. Nhưng đó cũng là những giờ phút nảy sinh ra người tông đồ.

Chúa Giêsu đã chỉ hỏi Phêrô một câu thôi: “Con có yêu Thầy không?”. Ngài không quở trách và lên án. Điều duy nhất Ngài muốn là cứu Phêrô khỏi nguy cơ khép kín trong tội lỗi và nhai lại nỗi đớn đau sự hạn hẹp của mình, làm suy giảm mọi thiện ích đã sống với Ngài. Chúa muốn cứu ông khỏi thái độ tàn phá của chủ trương coi mình là nạn nhân, hay rơi vào chỗ coi mọi sự như nhau, không dấn thân và tương đối hoá mọi sự, coi mọi người chống lại mình là kẻ thù, hay không thanh thản chấp nhận các phản bác  hay phê bình, buồn sầu và chán nản. Chúa Giêsu mời Phêrô lắng nghe con tim mình và học biết phân định. Vì Chúa không bảo vệ sự thật mà hy sinh bác ái, hay bảo vệ bác ái mà hy sinh sự thật, cũng không bảo vệ thế quân bình mà hy sinh cả hai.

Giữa các tội lỗi, hạn hẹp bần cùng và sa ngã của chúng ta Chúa Giêsu đến giơ tay cho chúng ta, và dùng lòng thương xót đối với chúng ta. Chúng ta không hơn người khác, nhưng được sai đi với ý thức là những người được tha thứ…  ĐTC định nghĩa người được thánh hiến như sau:

** Người được thánh hiến là người gặp gỡ các dấu chỉ của sự Phục Sinh trong chính các vết thương của mình, và trông thấy trong các vết thương của thế giới sức mạnh của sự Phục Sinh và giống Chúa Giêsu không gặp gỡ các anh em khác để trách mắng và lên án. Một Giáo Hội với các vết thương có khả năng hiểu các vết thương của thế giới ngày nay và lấy chúng làm của mình, khổ đau, đồng hành với chúng và tìm chữa lành chúng. Ý thức có các vết thương giải phóng chúng ta khỏi trở thành những người tự quy chiếu tin rằng mình cao hơn người khác, vì tuân giữ các điều lệ xác định hay vì trung thành với một loại công giáo riêng của quá khứ.

Nơi Chúa Giêsu các vết thương của chúng ta được phục sinh, chúng giúp chúng ta liên đới, phá hủy các bức tường giam hãm chúng ta trong thái độ ưu việt để kích thích chúng ta xây cầu và đi gặp gỡ biết bao nhiêu người khát khao tình yêu thương xót mà chỉ có Chúa Kitô mới có thể cống hiến… Biết bao lần chúng ta có các thái độ bành trướng, chiếm chỗ, xuất hiện phô trương, mà không xắn tay áo đi gặp và sờ mó thực tại khổ đau của dân chúng. Thánh Hurtado có nói: “sẽ là sai tất cả các phương pháp được áp đặt để đồng phục, tất cả các phương pháp yêu sách hướng chúng ta tới Thiên Chúa mà lại khiến cho chúng ta quên các anh em khác; tất cả những phương pháp làm cho chúng ta nhắm mắt với vũ trụ, thay vì dậy chúng ta mở mắt để nâng mọi sự lên với Đấng tạo thành mọi vật; tất cả các phương pháp khiến cho chúng ta ích kỷ và khép kín trong chính mình đều sai”.

Dân Chúa không cần các siêu anh hùng, nhưng cần các chủ chăn, các người thánh hiến biết cảm thương và giơ tay cho người đã ngã như Chúa Giêsu.

Kinh nghiệm được Chúa rửa chân khiến cho Phêrô hiểu rằng sự cao cả đích thực đi qua việc trở nên bé nhỏ và phục vụ. Qua kinh nghiệm tội lỗi, các hạn hẹp và yếu đuối Phêrô khám phá ra nơi Chúa Giêsu rằng các vết thương của mình có thể là con đường của sự Phục Sinh. Biết Phêrô chán nản để hiểu Phêrô được biến đổi là lời mời gọi từ một Giáo Hội của những người phiền muộn bước sang một Giáo Hội phục vụ Chúa nơi những người đói khát, bị tù tội, vô gia cư, trần truồng, đau yếu. Một việc phục vụ không đồng hoá với chủ trương cứu trợ hay óc cha chú.

Canh tân lời ngôn sứ là canh tân dấn thân của chúng ta không chờ đợi một thế giới lý tưởng, một cộng đoàn lý tưởng, một môn đệ lý tưởng  để sống và loan báo Tin Mừng, nhưng là tạo ra các điều kiện để mọi người phiền muộn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta không yêu các tình trạng, cũng không yêu các cộng đoàn lý tường, nhưng yêu thương con người…

Mỗi khi chúng ta tìm trở về nguồn và phục hồi sự tươi trẻ nguyên thuỷ của Tin Mừng, thì nảy sinh ra các con đường mới, các phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, các dấu chỉ hùng hồn, các lời tràn đầy ý nghĩa đối với thế giới ngày nay. Giáo Hội mà tôi yêu mến là Giáo Hội của mọi ngày.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay tán đồng của mọi người hiện diện.

Tiếp đến ĐTC đã gặp 50 Giám Mục Chile trong nhà mặc áo của nhà thờ chính toà.  HĐGM Chile gồm 34 Giám Mục của 5 Tổng giáo phận và 20 giáo phận, một giám quản tông toà, một qiáo quận và một Giám Mục quân đội.

** Sau lời chào mừng của ĐC Santiago Silva Retamales, Chủ tịch HĐGM Chile, ĐTC đã ngỏ lời với các GM và khích lệ các vị sống tình hiền phụ và gần gũi chăm sóc các linh mục tu sĩ và chủng sinh, noi gương thánh Giuse. Vì nếu mục tử bị phân tán, thì đoàn chiên cũng sẽ bị tản mác và làm mồi cho chó sói.  Một tình hiền phụ không phải là chủ trương cha chú cũng không phải là lạm dụng quyền hành, nhưng giúp lớn lên và phát triển các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần muốn đổ tràn đầy trên các linh mục.

Một trong các vấn đề mà các xã hội của chúng ta ngày này phải đương đầu là cảm tưởng mình mồ côi, không thuộc về ai hết. Nó cũng có thể thấm nhập chúng ta và hàng giáo sĩ, khiến cho chúng ta quên rằng mình là thành phần của Dân Thiên  Chúa, và Giáo Hội không là và sẽ không bao giờ là một giai tầng ưu việt các người thánh hiến, linh mục hay giám mục. Quên đi điều này có nguy cơ rơi vào các kinh nghiệm sai lạc cá nhân, cộng đoàn và chức thừa tác mà Giáo Hội đã trao phó cho chúng ta. Thiếu ý thức tuỳ thuộc Dân Thiên Chúa như người phục vụ chứ không phải chủ nhân có thể dẫn chúng ta tới một trong các cám dỗ gây thiệt hại cho năng động truyền giáo, mà chúng ta được mời gọi thăng tiến: đó là chủ trương duy giáo sĩ là một hí hoạ của ơn gọi đã nhận lãnh. Việc thiếu ý thức rằng truyền giáo là sứ mệnh của toàn thể Giáo Hội chứ không phải của linh mục hay giám mục, hạn chế chân trời và tệ hơn nữa hạn chế mọi sáng kiến Chúa Thánh Thần có thể khơi dậy giữa chúng ta. Đề cập tới tương quan với giáo dân ĐTC nói:

Chúng ta hãy nói lên điều này cách rõ ràng: các giáo dân không phải là tôi tớ của chúng ta, cũng không phải là các ngườì làm công của chúng ta. Họ không được lập lại như két điều chúng ta nói. Chủ trương duy giáo sĩ không thúc đẩy các đóng góp và đề nghị khác nhau, nhưng dập tắt từ từ ngọn lửa ngôn sứ mà toàn Giáo Hội được mời gọi làm chứng giữa lòng các dân tộc. Óc duy giáo sĩ quên rằng sự hữu hình và tính bí tích của Giáo Hội là của toàn dân Thiên Chúa chứ không phải chỉ là của ít người ưu việt và được soi sáng. Tiếp đến ĐTC đã yêu cầu các Giám Mục săn sóc việc đào tạo các linh mục tương lai làm sao để họ có khả năng phục vụ dân Chúa, bằng cách nhận biệt sự khác biệt của các nền văn hoá và khước từ mọi hình thức duy giáo sĩ. Các linh mục tương lai phải ý thức rằng họ sẽ thi hành chức thừa tác trong một xã hội tục hoá, vì vậy họ cần được chuẩn bị làm việc trong một khung cảnh cụ thể chứ không phải trong các thế giới hay tình trạng lý tưởng, đặc biệt là biết chung vai sát cánh với giáo dân trong một bầu khí phân định và tinh thần công nghị. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ơn mơ mộng và lựa chọn hoạt động truyền giáo và ngôn sứ có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, kiểu cách, giờ giấc, ngôn ngữ và mọi cơ cấu giáo hội trở thành dụng cụ thích hợp cho công tác rao truyền Tin Mừng tại Chile. 

Trước khi từ giã ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các GM rồi đi ra phiá cửa sau nhà thờ chính toà, nơi có 10 đại diện các Giáo Hội Kitô khác và các tôn giáo không kitô chờ đợi ngài. Sau khi chào các vị ĐTC lên xe đi thăm đền thánh Alberto Hurtado dòng Tên và gặp gỡ các tu sĩ của dòng.

** Đền thánh dâng kính thánh Alberto Hurtado, là linh mục dòng Tên sinh năm 1901, qua đời năm 1952, và là người đã thành lập “Hogar Cristo” trung tâm tiếp đón những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Cha qua đời khi mới 51 tuổi vì bị bệnh và đã được Đức Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 14 tháng 10 năm 1994 và đươc Đức Biển Đức XVI phong hiển thánh ngày 23 tháng 10 năm 2005. Đền thánh do kỹ sư Cristian Undurraga, là một trong những kỹ sư nổi tiếng nhất Chile xây cất, với mầu đỏ thắm tọa lạc trong khu phố nhà ga trung ương Santiago và được khánh thành năm 1995. Bên trong có mộ của thánh Alberto Hurtado đựng đất của mọi miền đất nước tượng trưng cho tình yêu của tín hữu toàn nước đối với vị thánh của dân nghèo. Trước đó xác của ngài được giữ trong nhà nguyện las Bienaventuranzas của giáo xứ thánh Giuse Thợ. Giáo xứ này hiện còn giữ một thách tích là một lóng ngón tay trái của thánh nhân. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã quỳ cầu nguyện trong chuyến viếng thăm Chile năm 1987.

Phía trước đền thánh là quảng trường rộng 5,000 mét vuông, chung quanh có các cây cọ biểu tượng cho các cây cột của một đền thờ, ở chính giữa có một bàn thờ cho các buổi cử hành phụng vụ. Trong quần thể đền thánh cũng còn có một viện bảo tàng rộng 700 mét vuông và cao 7 mét, cũng do kỹ sư Undurraga xây. Bên trong  trưng bầy các đồ vật thánh Hurtado dùng hằng ngày khi còn sống, trong đó có một chiếc xe chở hàng mầu xanh cha Hurtado dùng để đem thực phẩm phân phát cho dân nghèo trong thành phố.

Sau khi viếng thăm đền thánh và gặp các tu sĩ dòng Tên ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.

Sáng thứ tư 17 tháng giêng lúc 7 giờ 20 ĐTC đã rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để ra phi trường lấy máy bay đi Temuco, cách Santiago 618 cây số. Trước khi lên máy bay ĐTC đã chào 20 người thuộc Ban tổ chức chuyến viếng thăm của ngài tại Chile.

Sau 1 giờ 20 phút máy bay đã đáp xuống phi trường La Araucania. Có một nhóm trẻ em và một ca đoàn hát mừng ĐTC tại phi trường. Ngài được chào đón bởi ĐC Hector Eduardo Vargas Bastidas, GM Temuco, ĐC Francisco Javier Stegmeier GM Villaria chủ tịch các GM miền, cùng các tỉnh trưởng Temuco, Padre de las Casas và Freire.

Temuco, thủ phủ vùng La Araucania, là thành phố có hơn 290 ngàn dân cư và ở trên độ cao 674 mét, nằm trên bờ sông Cautin và được bao bọc bởi đồi Nhiebol và Conun Huenu. Đây là vùng đất thổ dân Mapuche sinh sống nên thành phố vẫn còn mang dấu tích của nền văn hoá và kiểu sống của họ. Cũng chính tại đây bà Gabriela Mistral và ông Pablo Neruda, hai nhân vật nổi tiếng từng nhận giải Nobel, đã sinh sống vào các thập niên đầu thế kỷ XX.

** Thành phố do quân đội Chile xây ngày 24 tháng hai năm 1881 như pháo đài để chống trả các cuộc tấn công của thổ dân Indios. Ông Manuel Recabaren người đảm trách việc xây cất gọi nó là pháo đài  Recabaren hay pháo đài Temuco, trong tiếng Mapuche có nghĩa là “nước temu” là một loại cỏ thuốc thuộc gia đình mộc dược. Những người thuộc địa mau chóng biến pháo đài quân sự thành thủ phủ toàn vùng này với dân số lên tới 7.000 sau 10 năm thành lập. Ngày nay Temuco là một thành phố hành chánh, thương mại, đại học và văn hoá nổi tiếng với Đại học biên giới và Đại học công giáo. Năm 2010 thành phố bị hư hại vì một trận động đất khiến cho một số dinh thự bị hư hại hiện nay vẫn còn đang được tu sửa. Nổi tiếng có quảng trường Armas Anibal Pinto hay quảng trường Armas Temuco, được đặt theo tên của tổng thống Chile giữa các năm 1876-1881. Vùng cao nhất thành phố là Cerro Nhielol rộng 87 mẫu tây có cây cỏ và thú vật, xưa kia được thổ dân Mapuche dùng để cử hành các lễ nghi khác nhau. Đây là vùng thiên nhiên được che chở và bảo vệ. Ngoài ra còn có chợ của toà thị sảnh nơi có bán các thổ sản tiểu công nghệ Mapuche và đại lộ Alemania.

Giáo phận Temuco được thành lập năm 1925, rộng hơn 17 ngàn cây số vuông có hơn 630 ngàn dân cư, trong đó có 403 ngàn tín hữu công giáo, sống trong 37 giáo xứ. Nhân lực của giáo phận gồm 49 linh mục triều, 21 nữ tu, 46 phó tế, 4 đại chủng sinh, 31 tu huynh, 125 thành viên các dòng nữ. Giáo Hội điều khiển 322 cơ sở giáo dục và 10 trung tâm bác ái.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới sân bay Maquehue cách đó 23 cây số. Phi trường này có chỗ cho 400,000 người. Nó đã được khánh thành năm 1928 và được nới rộng trong thập niên 1990. Hiện nay phi trường này đã đóng cửa vì các chuyến bay thương mại đã được chuyển về phi trường quốc tế La Araucania. Trước khi lên xe díp đi một vòng để chào tín hữu ĐTC đã chào vị chỉ huy phi trường.

Thánh lễ về đề tài “Phát triển các dân tộc” đã bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi. Trong số các tín hữu tham dự có đại diên của các bộ lạc thổ dân toàn vùng La Araucania. Thánh lễ đã được linh hoạt bởi các bài thánh ca và vũ điệu với nhiều yếu tố văn hoá thổ dân.

** Giảng trong Thánh Lễ ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì vùng đất Araucania mầu mỡ xanh tươi  xinh đẹp, nhưng cũng có biết bao khổ đau, bất công, và vi phạm các quyền con người gây ra chết chóc đã xảy ra ngay tại sân bay nơi cử hành thánh lễ. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho hiệp nhất trong Phúc Âm cho biết Ngài đã cảm thấy trong con tim một trong các đe dọa tệ hại nhất sẽ tấn kích dân Chúa và toàn nhân loại: đó là sự chia rẽ, đụng độ,  đàn áp lẫn nhau. Vì thế cần cầu nguyện và không cho phép đụng độ và chia rẽ xảy ra.

Một trong các cám dỗ chính là việc lẫn lộn sự hiệp nhất với đồng nhất. Chúa Giêsu đã không xin Thiên Chúa Cha cho mọi người bằng nhau, giống nhau, bởi vì sự hiệp nhất không nảy sinh và sẽ không nảy sinh từ việc trung lập hay bịt miệng các khác biệt. Vẻ đẹp của một vùng đất nảy sinh từ sự kiện mọi thành phần biết chia sẻ sự khôn ngoan của mình với người khác. Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu xin và cống hiến thừa nhận điều mà mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá được sai đi đem đến cho vùng đất được chúc lành này.  Sự hiệp nhất là một sự khác biệt được hoà giải, bởi vì nó không chấp nhận biện minh cho các bất công cá nhân và tập thể được thi hành nhân danh nó. Chúng ta phải gạt bỏ cái luận lý tin rằng có các nền văn hoá cao hay thấp. Một cái áo choàng Chamel đòi hỏi các người dệt nó biết nghệ thuật hoà hợp các chất liệu và mầu sắc khác nhau. Nghệ thuật của sự hiệp nhất đòi hỏi có các tay thủ công nghệ đích thực biết hoà hợp các khác biệt trong các phòng thí nghiêjm của các làng mạc, đường sá, quảng trường và quang cảnh.

Sự hiệp nhất mà các dân tộc của chúng ta cần có đòi hỏi chúng ta lắng nghe nhau và nhất là thừa nhận nhau. Điều này không có nghĩa là nhận các tin tức liên quan tới các người khác. Nhưng là tiếp nhận điều Thần Khí đã gieo nơi họ như là một ơn cho cả chúng ta.

Liên đới là phương thế dệt sự hiệp nhất và xây dựng lịch sử khiến chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần nhau trong các khác biệt.

Để xây dựng hiệp nhất không thể chấp nhận bạo lực như phương thế. Có hai hình thức bạo lực đe dọa các tiến trình hiệp nhất: Thứ nhất là các thoả hiệp hay đẹp gồm các từ hoa mỹ không bao giờ được thực hiện. Nó khiến cho niềm hy vọng bị cưỡng đoạt Thứ hai không thể ủng hộ rằng một nền văn hoá thừa nhận nhau không thể xây dựng trên nền tảng của bạo lực và phá huỷ với giá của mạng sống con người. Không thể đòi hỏi việc thừa nhận bằng cách hủy hoại tha nhân, vì nó chỉ tạo ra bạo lực và chia rẽ. Bạo lực sinh ra bạo lực. Tàn phá gia tăng đổ vỡ và chia rẽ. Bạo lực rốt cuộc khiến cho lý do chính đáng nhất trở thành dối trá. Các thái độ này giống như phún thạch của núi lửa tàn phá, thiêu rụi mọi sự và chỉ để lại cằn cỗi và thê lương.

Linh Tiến Khải

Đừng làm gương xấu sống hai mặt

Đừng làm gương xấu sống hai mặt

Một khuyết điểm thông thường của những người có quyền bính, quyền bính dân sự cũng như quyền bính tôn giáo, là đòi hỏi nơi những người khác các điều cả khi đúng đắn, nhưng họ lại là những người đầu tiên không thực hành chúng. Thái độ này là một gương xấu trong việc thực thi quyền bính, đáng lý ra phải nêu gương tốt. Quyền bính là một trợ giúp, nhưng nếu được thực thi một cách xấu xa thì nó trở thành áp bức, không để cho con người lớn lên và tạo ra một bầu khí mất tin tưởng thù nghịch và cả thối nát nữa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua.

Giải thích Phúc Âm Chúa Nhật 31 thường niên ghi lại lời Chúa Giêsu quở trách giới lãnh đạo Do thái ĐTC nói: Trình thuật được lồng khung trong các ngày cuối cùng cuộc đời của Chúa tại Giêrusalem; những ngày tràn đầy chờ mong và cũng căng thẳng. Một đàng Chúa Giêsu đưa ra lời phê bình các ký lục và biệt phái, đàng khác Ngài để lại các huấn thị cho các tín hữu kitô thuộc mọi thời đại, vì thế bao gồm cả chúng ta nữa.

Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ”. Điều này có nghĩa là họ có quyền giảng dậy điều phù hợp với Luật của Thiên Chúa. Nhưng ngay sau đó Chúa Giêsu nói thêm: “còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (cc.2-3). ĐTC giải thích sự kiện này như sau:

Anh chị em thân mến, đây là một khuyết điểm thông thường của những người có quyền bính, quyền bính dân sự cũng như quyền bính tôn giáo, là đòi hỏi nơi những người khác các điều,  cả các điều đúng đắn, nhưng họ lại là những người đầu tiên không thực hành chúng. Họ có cuộc sống hai mặt. Chúa Giêsu nói: “ Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (c.4)”. Thái độ này là một việc thực thi xấu quyền bính, đáng lý ra phải có được sức mạnh đầu tiên của nó trong việc nêu gương tốt. Quyền bính nảy sinh từ gương tốt, để giúp các người khác thi hành điều đúng đắn và phải làm, bằng cách yểm trợ họ  trong các thử thách gặp phải trên con đường sự thiện. Quyền bính là một trợ giúp, nhưng nếu thực thi xấu, thì nó trở thành áp bức, không để cho con người lớn lên và tạo ra một bầu khí không tin tưởng và thù nghịch, và đưa tới cả sự thối nát nữa. Đó là thái độ chỉ sống bề ngoài.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Chúa Giêsu công khai tố cáo vài thái độ tiêu cực của các ký lục và của vài người pharisêu: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráb-bi" (cc. 6-7). Đây là một cám dỗ tương xứng với sự kiêu ngạo và không luôn luôn dễ mà thắng vượt được nó.

Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra các huấn thị cho các môn đệ Ngài: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráb-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.” (cc.8-11). Áp dụng vào cuộc sống tín hữu ĐTC nói:

Là các môn đệ của Chúa Giêsu chúng ta không được tìm kiếm các tước hiệu danh dự, quyền bính hay sự tối cao. Tôi nói với anh em rằng riêng cá nhân tôi tôi rất đau lòng, khi thấy những người có tâm lý chạy theo các danh dự hư không. Chúng ta là các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không được làm điều này, bởi vì giữa chúng ta phải có một thái độ đơn sơ và huynh đê. Chúng ta tất cả là anh em và chúng ta không được chèn ép các người khác và nhìn họ từ trên cao xuống. Không, chúng ta tất cả là anh em với nhau. Nếu chúng ta đã nhận được các phẩm tính từ Cha trên trời, chúng ta phải dùng chúng để phục vụ các anh em khác, và không lợi dụng chúng cho sự thoả mãn của chúng ta và lợi lộc cá nhân. Chúng ta không được coi mình cao hơn người khác, lòng khiêm tốn là điều nòng cốt cho một cuộc sống muốn phù hợp với giáo huấn của Chúa Giêsu, là Đấng dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và đã đến không khải để được phục vụ, mà là để phục vụ.

Xin Đức Trinh Nữ Maria “là thụ tạo khiêm nhường và cao cả nhất” (Dante, Thiên Đàng, XXXIII,2) giúp chúng ta với sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ, xa lánh sự kiêu ngạo và hư danh, biết khiêm nhường và ngoan ngoãn đối  với  tình yêu đến từ Thiên Chúa, để phục vụ các anh em của chúng ta và cho niềm vui của họ cũng sẽ là niềm vui của chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh  Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới lễ phong chân phước tại Indore bên Ấn Độ cho  chị Maria Vattalil nữ tu dòng Clarist Phan Sinh, bị giết vì đức tin kitô năm 1995. Nữ tu Vattalil đã làm chứng cho Chúa Kitô trong tình yêu và sự dịu hiền, và kết hiệp với đạo binh đông đúc các vị tử đạo của thời đại chúng ta. Ước chi hy lễ  của chị  là hạt giống đức tin và hoà bình đặc biệt trên đất Ấn Độ. Chị đã rất là tốt lành. Người ta đã gọi chị là “nữ tu của nụ cười”.

ĐTC đã chào các nhóm tín hữu và khách hành hương đến từ Gomel bên Bạch Nga, các thành viên Hiệp hội Trung tâm hàn lâm viện Roma Madrid, cũng như tín hữu các thành phố Valencia, Murcia và Torrente bên Tây Ban Nha, và các nữ tu chị em Chúa Quan Phòng mừng 175 năm thành lập. Ngài cũng chào ca đoàn trẻ Minipolifonici tỉnh Trento bắc Italia và mời họ hát một chút sau đó. ĐTC cũng chào các ca đoàn Candiana, Maser và Bagnoli di Sopra, cũng như các tham dự viên đại nhạc hội và nghệ thuật thánh đến từ nhiều nước khác nhau, và tín hữu đến từ Altamura, Guidonia và Lodi và giáo xứ thánh Luca ở Roma. Sau cùng ngài chúc tất cả ngày Chúa Nhật tươi vui và xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các khoa xã hội

Đức Thánh Cha tiếp Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các khoa xã hội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm ngày 20-10-2017, dành cho Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội, ĐTC kêu gọi loại trừ những nguyên nhân gây nên tình trạng loại trừ trong xã hội.

Các thành viên Hàn Lâm viện và các chuyên gia nhóm họp để đề ra những kiểu mẫu mới về sự cộng tác giữa thị trường, nhà nước và xã hội dân sự, đứng trước những thách đố thời nay.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến 2 nguyên nhân đặc biệt tạo nên sự loại trừ và những vùng ”ngoại ô của cuộc sống”, trước tiên là sự gia tăng nhất loạt những bất bình đẳng trong xã hội và sự khai thác trái đất, vượt quá sự gia tăng lợi tức và sự phong phú. ĐTC nhận xét rằng hai điều tiêu cực này không phải là một định mệnh không thể tránh được: chúng xảy đến do lối cư xử của cá nhân và cả những qui luật kinh tế mà một xã hội tạo ra cho mình… Nếu trong một xã hội, lợi lộc và dân chủ được coi như mục tiêu, thì người ta sẽ có xu hướng trở thành một xã hội người giàu và làm gia tăng tình trạng chênh lệch, và khai thác trái đất.

Nguyên nhân thứ hai của sự loại trừ là lao công không xứng đáng với con người. Các công nhân viên không được trả lương xứng đáng. ĐTC nói: ”Việc kiến tạo công ăn việc làm mới, nhất là thời nay, đòi phải có những người cởi mở, biến báo, đòi những quan hệ huynh đệ, nghiên cứu vào đầu tư vào sự phát triển các năng lượng sạch để giải quyết những thách đố của sự thay đổi khí hậu. Đó là điều có thể ngày nay. Cũng cần phải tránh những sức ép của các nhóm vận động tư và công, chỉ lo bảo vệ những quyền lợi của phe nhóm. Cũng cần vượt thắng sự lười biếng về tinh thần, và cần làm sao để hoạt động chính trị thực sự nhắm phục vụ con người, công ích và tôn trọng thiên nhiên” (Rei 20-10-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Phần hai bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô trên máy bay từ Colombia về Roma

Ngày 11 tháng 9 vừa qua trên chuyến bay từ Cartagena bên Colombia về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài về nhiều vấn đề của Colombia cũng như các vấn đề quốc tế. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần hai bài phỏng vấn này.

Sau các câu hỏi của các nhà báo Cesar Moreno, José Mujica, Hernan Reyes, và Elena Pinardi, tới phiên anh Enzo Romeo.

Hỏi: Con xin chào ĐTC, con tiếp câu hỏi của chị Elena. Tại sao trong các bài diễn văn tại Colombia ĐTC đã lại nhiều lần nói đến việc cần phải làm hoà với Thụ tạo, tôn trọng môi sinh như điều kiện cần thiết để có thể tạo ra một nền hoà bình xã hội ổn định. Và chúng ta trông thấy các hậu quả cuả sự kiện khí hậu thay đổi cả tại Italia nữa. Con không biết ĐTC có biết tin không đã có nhiều người chết tại tỉnh Livorno vì nước lũ và bùn.

Đáp: Có… sau ba tháng rưỡi không có mưa…

Hỏi: Vâng đúng thế. Tại Roma thì có biết bao nhiêu là thiệt hại… vì thế chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong tình trạng này. Nhưng mà tại sao lại có sự chậm trễ trong việc ý thức như vậy, nhất là từ phía các chính quyền, mà xem ra họ lại nhanh chóng đến thế trong các lãnh vực khác – luôn luôn liên quan tói vấn đề vũ trang: chúng ta đang trông thấy thí dụ như cuộc khủng hoảng của Đại Hàn, cả liên quan tới vấn đề này con cũng thích có được ý kiến của ĐTC…

Đáp: Tại sao? Tôi nhớ tới một câu trong Thánh Kinh Cựu Ước, tôi tin là của Thánh Vịnh: “Con người là một đứa ngu dại, là một tên cứng đầu không trông thấy”. Con con vật duy nhất của Thụ Tạo đặt chân vào cùng một cái lỗ là con người. Con ngựa và các con vật khác thì không làm điều đó. Có sự kiêu căng, sự tự đủ… “Không, nó không biết như vậy…” và rồi có ông thần Túi. Không phải chỉ liên quan tới Thụ Tạo mà thôi đâu, nhưng đối với biết bao nhiêu điều, biết bao nhiêu quyết định, biết bao nhiêu mâu thuẫn và vài mâu thuẫn này tuỳ thuộc tiền bạc. Hôm nay tại Cartagena tôi đã bắt đầu một đàng gọi nó là phần Cartagena nghèo nàn đáng thương. Nghèo nàn đáng thương. Đàng khác là phần du lịch, sang trọng và sang trọng vô chừng mực luân lý, chúng ta hãy nói thế. Mà những người đi tới đó họ không nhận ra điều này sao? Hay các chuyên viên phân tích, các nhà xã hội chính trị không nhận ra sao? “Con người là một kẻ ngu si” Thánh Kinh đã nói thế. Và như vậy khi người ta không muốn trông thấy, thì họ không trông thấy. Người ta chỉ nhìn từ một phía thôi. Tôi không biết, và liên quan tới Bắc Hàn tôi xin nói thật, tôi không hiểu, tôi thật sự không hiểu. Nhưng tôi tin là đối với điều tôi thấy thì có sự tranh giành lợi lộc vượt thoát khỏi tôi, tôi thực sự không giải thích được. Nhưng có điều khác quan trọng mà người ta không ý thức được. Tôi nghĩ tới Cartagena hôm nay. Nhưng đây là điều bất công và người ta có thể ý thức không? Đó là điều đến trong trí tôi. Xin cám ơn anh.

** Ông Burke nói: bây giờ tới phiên chị Valentina Alazraki.

ĐTC nói: A, chị trưởng nhóm…

Chị Valentina hỏi ĐTC ra sao, có đau không?

Đáp: Không, không đau, nó chỉ làm tôi bầm mắt thôi.

Hỏi: Nhưng chúng con lấy làm tiếc cả khi nó không làm ĐTC đau. Thưa ĐTC mỗi lần gặp giới trẻ tại bất cứ phần đất nào trên trái đất này ĐTC luôn luôn nói với họ: “Các bạn đừng để cho niềm hy vọng bị ăn trộm, đừng để mình bị lấy trộm đi niềm vui và tương lai”. Rất tiếc bên Hoa Kỳ luật của “những người mơ mộng” đã bị huỷ bỏ: chúng ta đang nói tới 800,000 người trẻ Mexico, Colombia, và của biết bao nhiều quốc gia khác. ĐTC không tin rằng với luật này, với việc huỷ bỏ này các bạn trẻ này mất đi niềm vui, niềm hy vọng và tương lại hay sao? Thề rồi lợi dụng lòng tử tế của ĐTC và của các đồng nghiệp, con không biết ĐTC có thể đọc một lời cầu nguyện nhỏ, có một tư tưởng nhỏ cho tất cả các nạn nhân động đất tại Mexico và của cuồng phong Irma không? Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp:  Thật không…. vâng tôi hỏi không biết chị nói về luật nào thế. Tôi đã nghe nói tới luật này, nhưng tôi đã không thể đọc các bài viết và người ta đã quyết định như thế nào. Tôi không biết rõ luật này, nhưng mà trước hết tách rời người trẻ khỏi gia đình không phải là một điều cho kết quả tốt: không tốt cho người trẻ, cũng không tốt cho gia đình, Tôi nghĩ rằng  luật này không đến từ Quốc hội nhưng từ Ban hành pháp và nếu là như thế – nhưng mà tôi không chắc – thì có hy vọng là người ta nghĩ lại một chút. Bởi vì tôi đã nghe tông thống Mỹ nói chuyện: ông ta trình diện như một người bênh vực sự sống, và nếu ông là một người phò sự sống giỏi, thì ông hiểu rằng gia đình là chiếc nôi của sự sống, và phải bênh vực sự hiệp nhất của nó. Vì thế tôi muốn nghiên cứu kỹ lưỡng luật này. Nhưng đúng thật là khi người trẻ cảm thấy – nói chung trong trường hợp này hay trong các trường hợp khác – khi người trẻ cảm thấy họ bị khai thác, như trong biết bao nhiêu trường hợp, thì sau cùng họ cảm thấy không có hy vọng. Và ai ăn cắp niềm hy vọng ? Đó là ma tuý, các tuỳ thuộc khác, tự tử… Người trẻ tự tử là sự kiện rất mạnh, và nó xảy ra, khi họ bị giật khỏi các gốc rễ. Thật rất quan trọng tương quan của một người trẻ với các gốc rễ của họ. Ngày nay các người trẻ bị bứng gốc kêu cứu: họ muốn tìm trở lại gốc rễ của họ. Chính vì thế tôi nhấn mạnh rất nhiều trên cuộc đối thoại giữa các người trẻ và người già… bởi vì ở đó có các gốc rễ, và chúng ở xa hơn một chút, để tránh các xung khắc có thể có với các gốc rễ gần hơn như gốc rễ của cha mẹ. Nhưng giới trẻ ngày nay cần tìm lại được các gốc rễ. Bất cứ điều gì đi ngược lại các gốc rễ, thì ăn cắp niềm hy vọng. Tôi không biết tôi đã trả lời ít nhiều cho câu hỏi của chị chưa.

Hỏi: Họ có thể bị đầy khỏi Hoa Kỳ thưa ĐTC…

Đáp: Vâng, vâng: họ mất đi một gốc rễ… Đây là một vấn đề. Nhưng thật thế tôi không muốn có ý kiến liên quan tới luật này, bởi vì tôi đã không đọc nó và tôi không thích nói về điều mà tôi đã không nghiên cứu trước. Thế rồi chị Valentina là người Mexico và đất nước Mexico đã đau khổ biết bao nhiêu,  và với chuyện cuối cùng này tôi xin tất cả mọi người vì tình liên đới với chị trưởng nhóm – và có một anh trưởng nhóm khác nữa ở đầu kia – tôn xin một lời cầu nguyện cho quê hương của chị. Xin cám ơn.

** Ông Burke nói : Xin cám ơn ĐTC. Bây giờ tới phiên anh Fausto Gasparroni của hãng thông tấn ANSA

Hỏi : Thưa ĐTC, nhân danh nhóm các nhà báo nói tiếng Ý con muốn hỏi một câu liên quan tới vấn đề của người di cư, cách riêng sự kiện mà Giáo Hội Italia mới đây đã nói lên – chúng ta hãy nói như thế – một loại cảm thông đối với chính sách mới của chính quyền là thắt chặt vấn đề các cuộc khởi hành từ Libia và như vậy thắt chặt các vụ đổ bổ vào Italia. Người ta cũng viết rằng đã có một cuộc gặp gỡ của ĐTC với ngoại trưởng Gentiloni. Chúng con muốn biết đề tài này đã có thực sự được đề cập tới trong cuộc gặp gỡ này hay không, đã có cuộc gặp gỡ hay không và đề tài có được nói tới hay không, và nhất là ĐTC nghĩ gì về đường lối chính trị đóng các cuộc khởi hành này, cũng để ý đến sự kiện các người di cư ở trên đất Libia – như đã được các cuộc điều tra chứng minh – họ phải sống trong các điều kiện vô nhân, trong các điều kiện vô cùng bấp bênh. Con xin cám ơn ĐTC.

Đáp : Trước hết cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Gentiloni đã là một cuộc gặp gỡ cá nhân và không liên quan tới đề tài này. Cuộc gặp gỡ đã xảy ra trước vấn đề. Vấn đề đã nảy sinh sau vài tuần, hầu như một tháng sau. Nghĩa là truớc khi có vấn đề.

Thứ hai, tôi cảm thấy có bổn phận biết ơn hai nước Italia và Hy Lạp, vì họ đã mở rộng con tim cho người di cư. Nhưng mở rộng con tim thôi không đủ. Vấn đề của người di cư là trước hết rộng mở con tim, luôn luôn rộng mở con tim. Vì đó cũng là một điều răn của Chúa dậy tiếp đón họ, « vì ngươi đã là nô lệ, di cư bên Ai Cập », Thánh Kinh nói thế. Nhưng một chính quyền phải diều hành vấn đề này với nhân đức riêng của người cai trị, nghĩa là với sự thận trọng. Nó có nghĩa là gì ? Trước hết : tôi có bao nhiêu chỗ ? Thứ hai : không chỉ tiếp nhận họ, nhưng phải sát nhập họ vào cuộc sống. Sát nhập họ. Tôi đã trông thấy biết bao nhiêu thí dụ – ở Italia này – các thí dụ hội nhập rất tốt đẹp ; Khi tôi đến thăm đại học Roma III, đã có 4 sinh viên hỏi tôi ; chị sinh viên cuối cùng đưa ra câu hỏi. Tôi nhìn chị, và gương mặt này tôi biết mà. Và chị là bạn trẻ gần một năm trước đến từ đảo Lesbo với tôi trong cùng chuyến bay. Chị đã học tiếng, và vì chị đã học môn sinh học tại nước của chị, nên chị đã xin được công nhận ngang hàng với chương trình tại Italia và đã tiếp tục học. Chị đã học tiếng Ý… điều này gọi là hội nhập. Trong một chuyến bay khác khi tôi từ Thụy Điển trở về,  tôi tin thế, tôi đã nói về chính sách hội nhập của Thụy Điển như một mô thức, và cả chính quyền Thụy Điển cũng đã nói : « Con số là thế này. Nhiều hơn thì tôi không thể nhận », bởi vì có nguy cơ không hội nhập. Thứ ba, có một vấn đề nhân đạo, là vấn đề mà anh đề cập tới. Nhân loại ý thức được các trại tập trung này, về các điều kiện mà anh nói tới trong sa mạc. Tôi đã trông thấy các hình chụp… Trước hết là các người khai thác bóc lột… Tôi tin rằng anh đã nói tới chính quyền Italia, chính quyền cho tôi cảm tưởng là đang làm tất cả cho các công tác nhân đạo là cũng giải quyết vấn đề mà họ không thể đảm trách. Nhưng con tim luôn rộng mở, thận trọng, hội nhập và gần gũi nhân đạo. Và có một điều cuối cùng, đây là điều tôi muốn nói và điều này có giá trị nhất là đối với Phi châu. Có trong tiềm thức tập thể của chúng ta một khẩu hiệu, một nguyên tắc : « Phải khai thác bóc lột Phi châu ». Hôm nay tại Cartegena  chúng ta đã trông thấy một thí dụ của việc khai thác bóc lột con người. Và một thủ tướng chính phủ đã làm và đã nói lên một sự thật rất đẹp : « Những người chạy trốn chiến tranh là một vấn đề. Nhưng có biết bao nhiêu người chạy trốn đói khát : chúng ta hãy đầu tư tại đó để cho họ lớn lên ». Nhưng trong tiềm thức tập thể có sự kiện là biết bao quốc gia phát triển sang Phi châu là để khai thác bóc lột. Và chúng ta phải lật ngược tình thế : Phi châu là bạn và cần được trợ giúp để lớn lên. Thế rồi có các vấn đề khác của chiến tranh đi theo các phe khác. Không biết với điều này tôi đã minh giải vấn đề chưa…

** Ông Burke nói còn một câu hỏi cuối cùng nữa của anh Xavier Le Normand.

Hỏi : Thưa ĐTC, hôm nay sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Venezuela. ĐTC đã nói rằng phải đẩy lui mọi loại bạo lực trong cuộc sống chính trị. Ngày thứ năm sau Thánh Lễ tại Bogota ĐTC đã chào 5 Giám Mục Venezuela. Chúng ta đều biết Toà Thánh đã và còn dấn thân rất nhiều cho một cuộc đối thoại tại nước này. Từ nhiều tháng qua ĐTC đã kêu gọi chấm dứt mọi bạo lực. Nhưng tổng thống Maduro một đàng đã có những lời lẽ rất bạo lực chống lại các Giám Mục, đàng khác ông cũng nói rằng ông đứng về phía ĐGH Phanxicô. Có thể có các lời lẽ mạnh mẽ hơn nữa và có lẽ rõ ràng hơn nũa không thưa ĐTC. Con xin cám ơn.

Đáp : Tôi tin rằng Toà Thánh đã nói rất mạnh và một cách rõ ràng. Điều mà tổng thống Maduro nói thì chính ông phải giải thích : tôi không biết tổng thống có gì trong trí ông. Nhưng Toà Thánh đã làm biết bao, đã gửi tới đó, trong nhóm làm việc của bốn nguyên tổng thống, đã gửi một Sứ Thần hàng đầu, rồi đã nói, đã nói với nhiều người, đã nói một cách công khai. Biết bao nhiêu lần trong Kinh Truyền Tin tôi đã nói về tình hình bằng cách luôn luôn tìm một lối thoát cho Venzuela và trợ giúp, bằng cách cống hiến trợ giúp để ra khỏi tình trạng này. Tôi không biết… nhưng xem ra rất khó, và điều đau lòng nhất là vấn đề nhân đạo : biết bao nhiêu người trốn chạy và khổ đau ; cũng có một vấn đề nhân đạo mà dầu sao đi nữa chúng ta cũng phải giúp giải quyết. Tôi tin rằng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng để trợ giúp.

** Ông Burke nói : Thưa ĐTC con tin là chúng ta phải kết thúc. ĐTC hỏi : vì các dằn sóc của máy bay phải không ? Ông thưa : vâng.

ĐTC nói :

Người ta nói là có vài dằn sóc  và chúng ta phải đi về chỗ ngồi. Tôi cám ơn anh chị em, tôi cám ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Và một lần nữa tôi muốn cảm ơn gương sáng của nhân dân Colombia. Và tôi muốn kết thúc với một hình ảnh, hình ảnh đã đánh động tôi nhất nơi người Colombia, trong bốn thành phố tôi thăm viếng đã có đông dân chúng đứng hai bên đường chào đón. Điều đã đánh động tôi nhất là thấy các người cha, các bà mẹ giơ con lên cao cho chúng trông thấy Giáo Hoàng và để Giáo Hoàng chúc lành cho chúng. Như thể nói : « Đây là kho tàng của con, đây là niềm hy vọng của con, đây là tương lai của con. Con tin vào đó ». Điều đó đã đánh động tôi. Sự hiền dịu. Các đôi mắt của các người cha, các đôi mắt của các bà  mẹ. Rất đẹp. Rất đẹp ! Đây là một biểu tượng, biểu tượng của niềm hy vọng của tương lai. Một dân tộc có khả năng sinh con cái, rồi cho thấy chúng, làm cho chúng trông thấy như vậy, như thể để nói rằng : « Đây là kho tàng của tôi ». Đó là một dân tộc có niềm hy vọng và có tương lai. Xin cám ơn anh chị em rất nhiều.

** Ông Burke đại diện các nhà báo cám ơn ĐTC và chúc ngài nghỉ ngơi tốt.

Linh Tiến Khải

 

Trang web chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục năm 2018

Trang web chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục năm 2018

Vatican – Văn phòng thư ký Thượng hội đồng giám mục thông báo việc khai trương  trang web để chuẩn bị cho Thượng Hội đồng giám mục thường kỳ lần thứ XV. Thượng hội đồng giám mục lần thứ XV sẽ được tổ chức vào tháng 10 năm 2018 với chủ để: “người trẻ, đức tin và phân định ơn gọi.”

Trang internet này sẽ bắt đầu hoạt động từ ngày 14/06/2017 tại địa chỉ: http: //youth.synod2018.va

Việc khai trương trang web nhắm cổ vũ sự tham gia rộng rãi của tất cả người trẻ trên thế giới, không chỉ để nhận các thông tin về Thượng hội đồng nhưng còn liên kết và tham dự vào quá trình chuẩn bị.

Trang web cũng có một bản câu hỏi online, bằng các ngôn ngữ khác nhau (Ý, Anh, Pháp, Bồ đào nha và Tây ban nha), trực tiếp gửi đến giới trẻ. Các câu trả lời cần được gửi đến văn phòng Tổng thư ký trước ngày 30/11/2017. Các câu trả lời sẽ rất hữu ích cho quá trình chuẩn bị biến cố Thượng hội đồng và sẽ là một phần của các tài liệu tham vấn mà văn phòng Tổng thư ký đang hướng đến mọi thành phần Dân Chúa. (REI 13/06/2017)

Hồng Thủy

Hãy từ bỏ lối sống hai mặt

Hãy từ bỏ lối sống hai mặt

Đừng gây ra những cú sốc với lối sống hai mặt, đừng gây cớ vấp phạm cho những người bé nhỏ, vì những điều ấy hủy hoại cuộc sống; và đừng trì hoãn việc hoán cải. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống hai mặt là gì?

Trong bài Tin Mừng, Chúa nói đến chuyện thà “chặt tay, móc mắt” và đừng “gây cớ vấp phạm cho những người bé nhỏ”. Điều ấy có nghĩa là hãy sống ngay thẳng đơn thành và tin tưởng Thiên Chúa. Vì gây cớ vấp phạm có nghĩa là đang phá hủy.

Sống hai mặt là gì? Gây cớ vấp phạm, có nghĩa là nói một đàng làm một nẻo, là sống kiểu hai mặt, là sống hai mặt. Lối sống hai mặt là thế này. Một mặt, tôi nói tôi là người Công giáo, tôi luôn đi Lễ, tôi tham gia hiệp hội này hội đoàn kia. Mặt khác, đời sống của tôi thì không Công giáo chút nào, vì tôi trả lương bất công cho nhân viên, tôi chơi bẩn khi kinh doanh, tôi khai thác con người, tôi rửa tiền… Đó là cuộc sống hai mặt. Và nhiều người Công giáo là như vậy. Đó là những thứ chướng tai gai mắt. Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe giữa chúng ta nơi các góc phố hoặc nhiều nơi khác rằng, là người Công giáo mà sống tệ thế, chẳng thà là người vô thần. Thế đó, những cú sốc ấy, những vụ bê bối ấy có sức mạnh hủy hoại. Những thứ đó hủy hoại bạn. Chúng ta thấy nhan nhản những vụ bê bối trên báo chí, thậm chí là những vụ lớn. Những thứ tệ hại đó đang ra sức phá hủy.

Chúa nói gì với kẻ sống hai mặt?

Có ví dụ về công ty lớn đang trên bờ phá sản. Các nhà hữu trách muốn tránh một cuộc đình công chính đáng, nhưng họ lại không làm tốt việc này, và họ muốn nói chuyện với giới lãnh đạo của công ty. Những ngày sau đó, người dân không có tiền để chi trả cho các nhu cầu hàng ngày vì họ không nhận được tiền lương. Trong khi đó, người có trách nhiệm giải quyết vụ việc, là một người Công giáo, lại thản nhiên thực hiện kỳ nghỉ trên bãi biển vùng Trung Đông. Thế đấy! Đó là một vụ bê bối, đó là lối sống hai mặt.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về những người sống hai mặt thế này: “Khi bạn đến Cửa Thiên Đàng, gõ cửa và nói: Con đây, lạy Chúa!” Nhưng Ta sẽ nói: “Ta không biết ngươi. Ta không nhớ ngươi.”. Người ấy có thể nói tiếp: “Con đã đi nhà thờ, con đã tham gia hội đoàn đó, con đã làm điều ấy… Chúa không nhớ sao?”. Chúa đáp lại: “Ừ. Ta nhớ. Ta nhớ tất cả những gì tệ hại, tất cả những gì ngươi ăn cắp từ người nghèo. Ta không biết ngươi.”. Thế đó, Chúa Giêsu sẽ trả lời như thế cho những kẻ sống hai mặt.

Xin ơn mau mắn hoán cải

Thật là tốt cho tất cả chúng ta, cho mỗi người chúng ta, là hôm nay nghĩ về điều gì đó mang tính hai mặt trong cuộc sống chúng ta, những gì xem ra là công bằng, những gì có vẻ như là người tín hữu tốt, có vẻ là người Công giáo tốt, nhưng thực tế lại khác. Nếu có cái gì đó còn là kiểu sống hai mặt, nếu tôi còn quá tự tin theo kiểu: “Chúa sẽ tha thứ tất cả cho tôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục hai mặt”. Nếu có điều gì đó để tôi nói: “Vâng, điều ấy thật không tốt, tôi sẽ thay đổi, sẽ hoán cải, nhưng không phải là hôm nay, để ngày mai”. Nếu chúng ta vẫn còn nghĩ như thế, thì hãy ngẫm suy Lời Chúa ngày hôm nay, để cảm thấy rằng, khó mà có Chúa trong những thứ ấy. Vì lối sống hai mặt chỉ ra sức hủy hoại mà thôi.

Tứ Quyết SJ

Pháp cấm các trang mạng phò sinh nhưng không “công khai tuyên bố” phò sinh

Pháp cấm các trang mạng phò sinh nhưng không “công khai tuyên bố” phò sinh

Các người phò sự sống tìm cách ảnh hương đến quyết định phá thai của phụ nữ có thể bị phạt tù 2 năm.

Hôm chiều thứ 5, 16/02/2017, Quốc hội Pháp, với đa số thuộc đảng xã hội, đã thông qua đạo luật cấm những trang mạng không công khai mình phò sự sống nhưng tìm cách thuyết phục phụ nữ bỏ ý định phá thai. Tội phạm mới này có thể bị phạt tù 2 năm hoặc phạt tiền 30 ngàn euro.

Laurence Rossignol, bộ trưởng về quyền phụ nữ nói rằng những người phò sự sống vẫn được tự do lên tiếng chống lại việc phá thai, miễn là họ công khai tuyên bố mình là ai, mình làm gì và mình muốn gì.

Luật của Pháp đã ngăn cản những người phò sinh biểu tình bên ngoài các cơ sở phá thai. Những người ủng hộ dự luật mới cho rằng chiến thuật phò sự sống đã hoạt động trên mạng internet và phải bị dừng lại.

Đức Tổng Giám mục Georges Pontier của Marseille, chủ tịch hội đồng Giám mục Pháp đã viết thư cho Tổng thống Francois Hollande để bày tỏ lo ngại về dự luật. Ngài kêu gọi Tổng thống đừng cho phép thông qua dự luật này. Ngài gọi nó là một “vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc dân chủ”.

Hàng chục ngàn người đã xuống đường ở Paris để phản đối chống lại luật này. Các người biểu tình mang theo biểu ngữ viết: “Bảo vệ người yếu đuối thì thật sự mạnh mẽ.” (Catholic Herald 17/02/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp công khai một Giám mục Hoa lục

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp công khai một Giám mục Hoa lục

duc-thanh-cha-chup-hinh-voi-duc-cha-tu-hong-can-va-cac-tin-huu-hanh-huong-nguoi-trung-quoc

Ngày 5 tháng 10 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Đức cha Từ Hồng Căn và các tín hữu hành hương của Giáo phận Tô châu, thuộc tỉnh Giang châu, Trung quốc, trong buổi yết kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô. Hình ảnh về cuộc gặp này đã lan truyền trên phương tiện truyền thông xã hội giữa các tín hữu Công giáo.

Đây là lần đầu tiên vị đứng đầu Giáo hội gặp một Giám mục từ Hoa lục trong một sự kiện công khai.

Sự kiên này đã gặp những phản ứng khác nhau giữa các cộng đoàn Công giáo hầm trú và công khai ở Trung quốc, vì những cuộc thương thuyết đang tiếp diễn giữa Vatican và đảng cộng sản lãnh đạo Trung quốc đang chia rẽ các tín hữu Công giáo.

Giáo phận Tô châu được thành lập từ năm 1949, và hiện do Đức cha Từ Hồng Căn, 54 tuổi, coi sóc từ năm 2005. (Ucan 13/10/2016)

Hồng Thủy 

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai

Múa tiếp đón khách tại ngày Giới trẻ Indonesia

Đại hội Giới trẻ Indonesia lần thứ hai (1-6/10/2016) được tổ chức tại Giáo phận Manado, thuộc tỉnh bắc Sulawesi, với sự tham dự của 2600 bạn trẻ đến từ 37 Giáo phận trên toàn quốc. Cũng có 2 phái đoàn nước ngoài; đó là đoàn từ Kota Kinabalu của bang Sabah, Malaysia và đoàn Đông Timor.

Chủ đề của đại hội Giới trẻ năm nay – “Niềm vui Tin mừng giữa một xã hội đa nguyên ở Indonesia” – nhắm nhấn mạnh và chứng tỏ rằng các tín hữu Công giáo, như một nhóm nhỏ, muốn và có thể sống hòa hợp với các tôn giáo khác, đặc biệt là với các tín hữu Hồi giáo chiếm đến 90% trên tổng số 250 triệu dân số Indonesia.

Đối với các tham dự viên, tinh thần của ngày hội là một trong sự tiếp đón và hiệp nhất trong khác biệt. Biểu tượng của điều này là thực tế có hàng ngàn người trẻ được tiếp đón bởi các gia đình  Kitô và Hồi giáo địa phương.

Chương trình của các ngày họp mặt Giới trẻ này bao gồm các giờ cầu nguyện và suy niệm. Các bạn trẻ cũng thảo luận về các vấn đề như đối thoài, hợp tác tương trợ và đoàn kết với tín hữu thuộc các niềm tin khác.

Ba ngày đầu trong chương trình bao gồm các sinh hoạt giáo xứ, được tổ chức tại các gia đình nơi các bạn trẻ được tiếp đón.

Ngày mai sẽ là ngày khai mạc chính thức của Đại hội Giới trẻ Indonesia và sau đó sẽ có các buổi học hỏi, giáo lý, rước kiệu và chia sẻ chứng từ.

Giáo phận Manado đã tổ chức mutual cooperation and solidarity với sự cộng tác của  các tổ chức Công giáo và chính quyền địa phương.

Các công việc được làm để tổ chức sự kiện này cũng sẽ được dùng như việc chuẩn bị cho Đại hội Giới trẻ Á châu tại Yogyakarta (Semarang) từ 30/07-06/08/2016. (Asia News 03/10/2016)

Hồng Thủy

Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du của ĐTC bên Armenia

Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du của ĐTC bên Armenia

ĐTC Phanxicô giảng trong thánh lễ cử hành cho tín hữu tại Gyumri sáng thứ bẩy 25-6-2016

Thứ bẩy 25-6.là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm mục vụ Armenia. Ban sáng ĐTC có ba sinh hoạt chính là viếng thăm Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng Armenia tại Etchmiadzin, chủ sự thánh lễ tại Gyumri, và thăm tu viện Đức Bà Armenia. Vào ban chiều sau khi viếng thăm nhà thờ chính toà Armenia Tông truyền và nhà thờ chính toà công giáo Armenia tại Gyumri, ĐTC lấy máy bay trở về Yerevan để tham dự buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho hoà bình tại quảng trường Cộng hoà trước  Dinh chính quyền. Sau đây là chi tiết các sinh hoạt kể trên.

 

ĐTC thăm đài tưởng niệm Tzitzemakaberd

Lúc 8 giờ 30 sáng thứ bẩy ĐTC đã đi xe đến kính viếng đài kỷ niệm cuộc diệt chủng Tzitzernakaberd, có nghĩa là “Đồi chim én” nằm cách đó 21 cây số, nơi có Đài tưởng niệm cuộc diệt chủng  Armenia hồi năm 1915 dưới thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, khiến cho 1,5 triệu người chết. Đài kỷ niệm này đã được khánh thành năm 1967 và năm 1995 có thêm Viện bảo tàng trưng bầy các chứng tích cuộc diệt chủng, cũng như một trung tâm nghiên cứu tuỳ thuộc Hàn lâm viện khoa học quốc gia Armenia. Đài tưởng niệm gồm ba phần: Bức tường tưởng niệm, Lăng tẩm và Cột Armenia tái sinh. Bức tường dài 100 mét bằng huyền vũ nham dẫn vào Lăng tẩm có khắc tên các thành phố và dân chúng nạn nhân của “Sự dữ lớn lao”. Lăng tẩm hình tròn được tạo thành bởi 12 tấm huyền vũ nham đặt nghiêng, biểu tượng cho 12 thành phố nạn nhân cuộc tán sát hàng loạt bao quanh một khoảng trời trống, nơi có Ngọn lửa vĩnh cửu. Bên cạnh Lăng Tẩm là Cây cột Armenia tái sinh gồm hai cây cột xi măng dính vào nhau hình chiếc kim cao 44 mét, tượng trưng cho cuộc phân tán bạo lực nhân dân Armenia và sự hiệp nhất của nó. Sau cùng bên cạnh đài tưởng niệm có các hàng cây tưởng niệm các vị lãnh đạo và nhân vật quốc tế đã thừa nhận cuộc diệt chủng.

ĐTC và Đức Catholicos đã được tổng thống tiếp đón trên đường dẫn tới Đài tưởng niệm, nơi ĐTC đã đặt một vòng hoa bên ngoài. Cũng có một nhóm trẻ em cầm các bảng tên của các người đã bị tàn sát hồi năm 1915. ĐTC cùng các vị đi xuống thang cấp dẫn tới Ngọn lửa vĩnh cửu. Mọi người đọc Kinh Lạy Cha trong thứ tiếng riêng của mình. ĐTC và Đức  Thượng Phụ Catholicos làm phép và xông hương. Sau đó là bài thánh ca Hrashapar. Tiếp đến Giám Mục Armenia Tông truyền đọc bài đọc bằng tiếng Armenia trích từ chương 10 thư gửi tín hữu Do thái, nói về cuộc chiến đấu lớn lao mà kitô hữu phải chịu. Tiếp đến một Giám Mục công giáo đọc Phúc Âm bằng tiếng Ý, chương 14 thánh Gioan, ghi lại lời Chúa Giêsu nói: bất cứ gì chúng con xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm cho các con. ĐTC đã đọc các lời nguyện bằng tiếng Ý. Sau cùng mọi người đọc Kinh Lạy Cha trong các thứ tiếng riêng của mình. Tại đài tưởng niệm ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây: “Lạy Chúa Kitô, là Đấng đã đội triều thiên cho các thánh và hoàn thành ý muốn của tín hữu Chúa, cũng như nhìn các thụ tạo của Chúa với tình yêu thương và sự dịu hiền, từ trời cao sự thánh thiện của Chúa xin hãy lắng nghe chúng con nhờ lời bầu cử của Mẹ Thiên Chúa, nhờ lời khẩn cầu của tất cả các thánh của Chúa và của những người mà chúng con tưởng niệm hôm nay. Xin Chúa hãy lắng nghe và thương xót, xin tha thứ cho chúng con, xin đền bù và tha các tội của chúng con. Xin làm cho chúng con xứng đáng vinh danh Chúa với các tâm tình biết ơn cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần bây giờ và luôn mãi cho đến muôn muôn đời. Amen.”

ĐTC, Đức Catholicos và tổng thống đi xe lên sân thượng Viện bảo tàng cách đó 80 mét. ĐTC đã dừng lại chúc lành và tưới một cây tưởng niệm chuyến viếng thăm của ngài. Trên sân thượng có hàng chục người con cháu của những người Armenia bị bách hại, đã từng được ĐGH Biển Đức XV tiếp đón và cho trú ngụ tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo. Trước khi từ giã ĐTC đã ký tên vào sổ vàng.

Rời Đài tưỏng niệm ĐTC đã đi xe tới phi trường Yerevan cách đó 19 cây số để lấy máy bay di Gyumri cách đó 80 cây số.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường quốc tế Gyumri có ông thị trưởng, ĐTGM Raphael François Minassian của Giáo Hội công giáo Armenia Đông Âu, và ĐGM Giáo Hội Tông truyền sở tại. Cũng có một nhóm trẻ em mồ côi và một ca đoàn.

 

ĐTC cử hành Thánh lễ tại Gyumri

Gyumri là thành phố nằm trên độ cao hơn 1,500 mét, có 146,000 dân, là thành phố lớn và đông dân thứ hai của Armenia, và là thủ phủ tây bắc vùng Shirak, có người ở ngay từ hồi năm 3,000 trước công nguyên. Vài nhà khảo khổ cho rằng thành phố bị các người Hy lạp chiếm đóng hồi thế kỷ thứ V hay thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, hồi đó thành phố tên là Kumayri. Sau đó nó lần lượt bị người Ba Tư, A rập và Mông Cổ chiếm đóng. Năm 1837 nó bị Nga hoàng Nicolas I chiếm đóng và đổi tên là “Alessandropoli” theo tên hoàng hậu Alessandra. Sau đó thành phố được gọi là “Leninakan” khi Lenin qua đời năm 1924. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1990 thành phố lấy lại tên Gyumri như hiện nay, và nổi tiếng là “thành phố của thủ công nghệ và các nghệ thuật”. Nó cũng nổi tiếng là thành phố của các học viện giáo dục và các nhà hát. Gyumri hãnh diện là thành phố đầu tiên có một đoàn hát năm 1865, nhà hát năm 1923, cũng như là thành phố tổ chức các buổi vũ cổ điển năm 1924, một nhà hát văn xuôi năm 1929. Gyumri cũng là trung tâm giáo dục chính của miền bắc Armenia, và là thành phố kỹ nghệ hoá nhất nước. Nhưng năm 1988 đã xảy ra một trận động đất lớn khiến cho thành phố bị hư hại nhiều và dân chúng phải sống trong các thùng tiền chế nhiều năm sau đó. Thế giới đã tỏ tình liên đới với dân chúng, và danh ca Pháp gốc Armeni Charles Aznavour đã phát động phong trào quyên góp trợ giúp các nạn nhân. Thành phố đã dựng tuợng ghi ơn ông sau đó.

ĐC Raphael François Minassian, TGM đặc trách tín hữu công giáo vùng Đông Âu châu từ năm 1991, hiện trông coi 600,000 tín hữu. Giáo phận có 44 giáo xứ với 11 linh mục giáo phận và 11 linh mục dòng, 10 tu huynh, 20 nữ tu và 4 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1 học viện và 29 trung tâm bác ái.

Sau lễ nghi tiếp đón đơn sơ tại phi trường ĐTC đã đi xe tới quảng trường Vartanànts cách đó hơn 6 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu. Thánh lễ kính Lòng Thương Xót Chúa đã được cử hành bằng tiếng Latinh, Ý và Armenia. Tham dự thánh lễ cũng có Đức Thượng Phụ Catholicos Karekin II, cũng như tổng thống, các giới chức đạo đời và mấy chục ngàn tín hữu. Một ca đoàn hùng hậu gồm mấy trăm ca viên đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ.

Để xây dựng và tái thiết cuộc sống cần duy trì và phục hồi ký ức, sống đức tin vững mạnh cụ thể và thực thi tình yêu thương xót Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết các con đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất và thắng vượt các hàng rào phân cách. Cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi đánh ngã, và không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn sàng phục vụ. Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn không phải chỉ bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng hơn, trong đó mỗi người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một công việc làm được trả lương công bằng.

ĐTC đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ. Ngài đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc lồng khung trong lịch sử của dân nước Armenia. Lấy lại lời ngôn sứ Isaia ngài nói: “Chúng sẽ xây lại các đổ nát cổ xưa; chúng sẽ tái thiết các thành phố hoang tàn” (Í 61,4). Có thể nói rằng các lời này của ngôn sứ đã được thực hiện. Sau các tàn phá kinh khủng của cuộc động đất hôm nay chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những gì đã được tái thiết. Nhưng chúng ta cũng có thể hỏi Chúa mời gọi chúng ta tái thiết cái gì trong cuộc sống hôm nay, và nhất là xây dựng cuộc sống chúng ta trên cái gì? ĐTC đã đề nghị ba nền tảng vững chắc giúp xây dựng và tái xây dựng cuộc sống Kitô không mệt mỏi: đó là ký ức, đức tin và tình yêu thương xót.

Biết phục hồi ký ức là một ơn cần xin Chúa ban cho chúng ta: ký ức liên quan tới những gì Thiên Chúa đã thành toàn nơi chúng ta và cho chúng ta. Nhớ lại rằng Chúa đã không quên chúng ta nhưng nhớ tới chúng ta (Lc 1,72). Ngài đã yêu thương chúng ta, tuyển chọn chúng ta, mời gọi chúng ta và tha thứ cho chúng ta.  Có các biến cố trong lịch sử tình yêu của chúng ta với Chúa cần được hồi sinh trong tâm trí từng người, nhưng cũng có ký ức của dân tộc. ĐTC nhấn mạnh điểm này như sau:

Và ký ức của dân tộc anh chị em rất cổ xưa và quý báu. Trong tiếng nói của anh chị em vang lên tiếng nói của các thánh khôn ngoan trong quá khứ; trong các lời nói của anh chị em vang vọng tiếng của người đã chế ra mẫu tự của anh chị em để loan báo Lời Chúa; trong các thánh ca của anh chị em tan hoà các khóc than và niềm vui của lịch sử của anh chị em. Duyệt xét lại tất cả những điều đó chắc chắn anh chị em có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa: Ngài đã không bỏ anh chị em cô đơn. Ngài đã viếng thăm dân tộc của anh chị em, nhớ tới sự trung thành của tất cả những người đã làm chứng, cả với máu của mình, rằng tình yêu của Thiên  Chúa giá trị hơn sự sống. Thật là hay đẹp khi nhớ lại với lòng biết ơn đức tin kitô đã trở thành hơi thở của dân tộc anh chị em và con tim ký ức của nó.

Nền tảng vững chắc thứ hai là đức tin. Nó cũng là niềm hy vọng cho tương lai của anh chị em, là ánh sáng trên con đường cuộc sống. Nhưng cũng luôn luôn có nguy cơ làm lu mờ đức tin vì cám dỗ giản lược nó thành một cái gì của quá khứ, quan trọng nhưng thuộc các thời đại khác, như một cuốn sách được gìn giữ trong viện bảo tàng. Thật ra, đức tin là sức mạnh, là vẻ đẹp và sự rộng mở đối với tất cả mọi người; nó nảy sinh và tái sinh từ cuộc gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu, từ kinh nghiệm về lòng thương xót của Ngài trao ban ánh sáng cho mọi trạng huống cuộc sống. Cần làm sống dậy mỗi ngày cuộc gặp gỡ này của chúng ta với Chúa, đọc và suy gẫm Lời Ngài trong thinh lặng để nhóm lên niềm vui trong con tim, một niềm vui lớn hơn sự buồn phiền, một niềm vui kháng cự lại khổ đau và biến thành an bình. Tất cả canh tân cuộc sống và khiến cho nó tự do và ngoan ngoãn đối với các ngạc nhiên, sẵn sàng với Chúa và với tha nhân. Chúa cũng có thể mời gọi chúng ta theo Ngài gần hơn, và dâng hiến cuộc sống cho Ngài và cho các anh chị em khác. Khi Ngài gọi anh chị em, đặc biệt là các người trẻ, đừng sợ hãi, nhưng hãy nói lên tiếng “có” để giãi sáng tình yêu và tiếp tục lịch sử rao truyền Tin Mừng, mà Giáo Hội và thế giới ngày nay cần đến.

Nền tảng thứ ba là tình yêu thương xót. Nó là đá tảng cho cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Tình yêu cụ thể là tấm cạc có tên và địa chỉ của kitô hữu. Các kiểu giới thiệu khác có thể sai lạc và cả đến vô ích, vì mọi người sẽ nhận biết chúng ta  khi chúng ta yêu thương nhau. Chúng ta được mời gọi trước hết xây dựng và tái thiết các con đường của sự hiệp thông, mà không mệt mỏi, xây dựng các cây cầu hiệp nhất và thắng vượt các hàng rào phân cách.

Tiếp tục bài giảng ĐTC khẳng định như sau:

Thiên Chúa ở trong con tim của kẻ yêu mến: Thiên Chúa ở nơi đâu người ta yêu thương, đặc biệt nơi đâu người ta lo lắng cho người yếu đuối và nghèo nàn với lòng can đảm và thương xót. Điều này cần thiết biết bao: cần có các kitô hữu không để cho mệt mỏi đánh ngã, và không nản chí trước các đối nghịch, nhưng sẵn sàng và cởi mở, sẵn sàng phục vụ. Cần có những người thiện chí trợ giúp các anh chị em gặp khó khăn không phải chỉ bằng lời nói nhưng với cả việc làm. Cần có các xã hội công bằng hơn, trong đó mỗi người có thể có một cuộc sống xứng đáng hơn và nhất là một công việc làm được trả lương công bằng.

ĐTC đã nhắc tới gương của thánh Gregorio thành Narek, là tiếng nói của dân nước Armenia, là người luôn đặt để trong sự đối thoại các bần cùng của con người với lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh nhân là tiếng nói ủi an, khích lệ, dịu hiền, từ bi, thương xót của Chúa.

Trước khi ban phép lành cuối lễ ĐTC đã cám ơn Đức Thuợng Phụ Catholicos Karekin II và ĐTGM Minassian cũng như Đức Thưọng Phu Ghabroyan, các Giám Mục, linh mục và các giới chức chính quyền cũng như toàn thể tín hữu tham dự thánh lễ, dến từ nhiều miền, kể cả Cộng hoà Georgia. Ngài cũng cám ơn các người quảng đại trợ giúp dân nghèo, các nhân viên nhà thương Ashotsk, cộng đoàn công giáo địa phương, các nữ tu Armenia Vô nhiễm nguyên tội và các nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta.

Sau thánh lễ ĐTC đã đi một vòng quảng trường để chào tín hữu, rồi đến thăm tu viện “Đức Bà Armenia”, cách đó 5 cây số. Mẹ bề trên tu viện các nữ tu Armenia Vô nhiễm nguyên tội đã tiếp đón ĐTC tại lối vào viện mồ côi “Đức Bà Armeni – Trung tâm giáo dục Boghossian”, trong đó có 60 trẻ em mồ côi. Trong tu viện cũng có “Trường huấn nghệ Diramayr”. Các học sinh đảm trách việc tiếp đón ĐTC và phái đoàn Toà Thánh. ĐTC đã dùng bữa trưa trong tu viện của các nữ tu.

Vào lúc 4 giờ 15 phút chiều ĐTC từ giã cộng đoàn các nữ tu và nhân viên trường huấn nghệ và viện mồ côi tu viện Đức Bà Armenia. Ngài đã chụp hình lưu niệm với ba nhóm: các trẻ em mồ côi, các khách của tu viện cùng con em của họ, và các ân nhân. Tiếp đến ngài đến viếng thăm nhà thờ chính toà Tông truyền Gyumri tọa lạc tại quảng trường Vartanànts cách đó 5 cây số.

Nhà thờ chính toà Armenia Tông truyền “Yot Verk” được dâng kính Mẹ Thánh của Thiên Chúa, và được biết đến như là “Nhà thờ chính toà 7 vết thương của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh”, chiếu theo hình vẽ trên gỗ được cất giữ tại đây. Bẩy vết thương quy chiếu 7 giai thoại cuộc đời Thánh Gia, từ biến cố trốn sang Ai Cập cho tới vụ an táng Chúa Giêsu. Ban đầu nhà thờ được làm bằng gỗ, sau đó vào cuối thế kỷ XIX được các ông hoàng nhà Kamsarakan thay thế bằng đá màu tối của vùng này. Dưới thời chính quyền Liên Xô mọi nhà thờ tại Gyumri đều bị đóng cửa. Nhà thờ chính toà Yot Verk đã là nơi thờ tự duy nhất được mở cửa cho các tín hữu. Bàn thờ chính giữa được dùng bởi Giáo Hội Armenia Tông Truyền, trong khi cung thánh phía bắc có tượng thánh giá lấy từ một nhà thờ công giáo dành cho các tín hữu công giáo, và cung thánh phiá nam có một ảnh Icone nga thánh Nicola vẽ trên gỗ dành cho tín hữu chính thống thuộc Toà Thượng Phụ Moscow. Bị hư hại trong trận động đất năm 1988 nhà thờ chính tòa được trùng tu với tiền quyên góp của các tín hữu Armenia di cư bên Argentina. Mái tròn cao 12 mét có bức bích họa Mẹ Maria bồng Chúa Giêsu hài đồng của họa sĩ Vardges Surenyants. Bên trong nhà thờ có nhiều ảnh Icone và trên tường có các bức bích họa thuộc thế kỷ XVII và các bức tranh sơn dầu.

ĐTC và Đức Thượng Phụ Catholicos tiến vào nhà thờ bên trong có vài Giám Mục Armenia Tông Truyền và một nhóm người tàn tật và người tỵ nạn Siri. ĐTC và Đức Thượng Phụ thinh lặng quỳ cầu nguyện trước ảnh Icone năm vết thương, rồi hai vị tôn kính thánh giá, trong khi đó một ca đoàn hát các thánh ca. Sau cùng ĐTC ban phép lành cho mọi người hiện diện. Khi ĐTC ra ngoài nhà thờ có một nữ ân nhân tặng quà cho ngài.

Tiếp đến ĐTC đã đi xe tới viếng thăm nhà thờ chính toà các thánh Tử đạo công giáo Armenia ở quảng trường Vartanànts, cách đó 700 mét. Nhà thờ chính toà này đã được khởi công xây cất năm 2010 do ĐTGM Minassian hoàn thành, và được ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương thánh hiến năm 2015.

ĐTGM Minassian và cha sở đã tiếp đón ĐTC tại cửa nhà thờ. Bên trong nhà thờ có một số các ân nhân của Giáo Hội công giáo Armenia. Sau lời nguyện của ĐTC Đức Thượng Phụ Catholicos đã ban phép lành cho mọi người.

Sau khi từ giã mọi người ĐTC đã ra phi trường Gyumri cách đó 6 cây số để lấy máy bay trở về Yerevan. Từ phi trường ĐTC đi xe tới quảng trường Cộng hoà Yerevan cách đó 12 cây số để tham dự buổi gặp gỡ đại kết cầu nguyện cho hoà bình. Quảng trường tọa lạc trước Dinh chính quyền, các Bộ và Viện bảo tàng quốc gia, có chỗ cho 50,000 người. Buổi phụng vụ lời Chúa cầu nguyện cho hoà bình được cử hành bằng tiếng Ý và Armenia.

Để thực hiện sự hiệp nhất cần có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. và cần gia tăng tình yêu thương nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành ký ức và các vết thương của quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các thành kiến và cho phép thừa nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và cải tiến các xác tín của mình. Chúng ta được mời gọi can đảm từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường.

ĐTC đã nói như trên trong bài giảng tại buổi cầu nguyện đại kết cho hoà bình. Ngài đã nói lên ước muốn của ngài được viếng thăm Armenia, là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã lãnh nhận đức tin kitô. Các thánh giá bằng đá “khatchkar” kể lại một lịch sử duy nhất bao gồm đức tin sắt đá và khổ đau vô biên, một lịch sử giầu các chứng nhân tuyệt vời của Tin Mừng, mà anh chị em là những người thừa kế. Tôi đến như người hành hương từ Roma để gặp gỡ anh chị em và bầy tỏ tâm tình yêu thương quý  mến và vòng tay ôm huynh đệ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, yêu mến anh chị em và gần gũi với anh chị em.

Trong các năm qua các cuộc gặp gỡ giữa hai Giáo Hội đã được củng cố, luôn thân tình và đáng ghi nhớ. Và tôi cám ơn anh chị em vì lòng trung thành với Tin Mừng thường rất anh hùng, và là một món quà vô giá cho mọi kitô hữu. Chúng ta vui mừng chia sẻ biết bao bước tiến trên con đường chung, và tin tưởng hướng nhìn về một ngày, trong đó với sự trợ giúp của Thiên  Chúa, chúng ta sẽ hiệp nhất gần bàn thờ hiến tế của Chúa Kitô trong sự hiệp thông thánh thể tràn đầy.

ĐTC đã đặc biệt nhắc đến biết bao vị tử đạo đã đóng ấn niềm tin chung nơi Chúa Kitô với máu của các vị. Các vị là những vì sao chiếu sáng và chỉ đường cho chúng ta trên con đường còn lại phải đi. Trong số các vị thánh đó nổi bật là thánh Catholicos Nerses Shnorhali, rất yêu thương dân tộc và các truyền thống, và hướng tới các Giáo Hội khác. Sự hiệp nhất thực ra không phải là một lợi thế chiến thuật cần tìm kiếm cho lợi ích của nhau, nhưng là lợi thế mà Chúa Giêsu xin chúng ta, và là điều chúng ta phải chu toàn với thiện chí và tất cả sức lực của mình, để thực hiện sứ mệnh của chúng ta là trao ban Tin Mừng cho thế giới với sự trung thực. Theo thánh Nerses để thực hiện sự hiệp nhất cần thiết thiện chí của một ai đó trong Giáo Hội thì không đủ: cần phải có lời cầu nguyện của tất cả mọi người. Chính vì thế chiều nay tôi đến đây để xin anh chị em món quà của lời cầu nguyện. Thánh Nerses cũng ghi nhận là cần gia tăng tình yêu thương nhau, vì chỉ có lòng bác ái mới có thể chữa lành ký ức và các vết thương của quá khứ: chỉ có tình yêu thương mới xóa bỏ được các thành kiến và cho phép thừa nhận rằng việc cởi mở với người anh em thanh tẩy và cải tiến các xác tín của mình. Noi gương thánh nhân chúng ta được mời gọi can đảm từ bỏ các xác tín cứng nhắc và các lợi lộc riêng, nhân danh tình yêu tự hạ và trao ban, nhân danh tình yêu khiêm nhường: nó là dầu được chúc lành của cuộc sống kitô, là dầu thơm thiêng liêng quý báu chữa lành, củng cố và thánh hóa. Thánh nhân nói “Chúng ta hãy bổ túc các thiếu sót với lòng bác ái đồng nhất”… Không phải các tính toán, và các lợi thế, nhưng là tình yêu thương khiêm nhường và quảng đại lôi kéo lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, phước lành của Chúa Kitô và sự phong phú của Chúa Thánh Thần.

Sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta thế giới này vất vả tìm kiếm. Ngày nay các chướng ngại trên con đường hoà bình lớn biết bao, và các hậu quả của chiến tranh thê thảm biết bao! Tôi nghĩ tới các dân tộc bị bó buộc phải bỏ tất cả, đặc biệt là bên vùng Trung Đông, nơi biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta đau khổ vì bạo lực và bách hại, vì thù hận và các xung khắc luôn luôn được dưỡng nuôi bởi tệ nạn phổ biến và buôn bán khí giới, bởi cám dỗ dùng võ lực và thiếu tôn trọng đối với con người, đặc biệt là đối với những người yếu đuối, nghèo nàn và đối với tất cả những ai chỉ xin có một cuộc sống xứng đáng.

Tiếp tục bài giảng trong buổi cầu nguyện đại kết cho hoà bình, ĐTC nói: Tôi không thể không nghĩ tới các thử thách kinh khủng mà dân tộc anh chị em đã phải sống: một thế kỷ đã qua, kể từ khi “Sự dữ lớn lao” đổ ập trên anh chị em. Cuộc tàn sát to lớn và điên loạn, mầu nhiệm thê thảm này của sự gian ác mà dân tộc anh chị em đã sống trong thịt xác, ghi đậm dấu trong ký ức và nung nấu con tim. Tôi muốn nhấn mạnh rằng các khổ đau của anh chị em cũng là các khổ đau của chúng tôi: chúng là các khổ đau của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhớ lại chúng không chỉ là điều thích đáng mà là một bổn phận: Ước chi chúng là lời cảnh cáo cho mọi thời đại, để thế giới đừng bao giờ rơi vào lốc xoáy của những kinh hoàng như thế!

ĐTC đã ca ngợi đức tin kitô của Giáo Hội Armenia cả trong những lúc thê thảm nhất của lịch sử đã là sức đẩy khai mào cuộc tái sinh của dân tộc bị thử thách. Nó chính là sức mạnh đích thực cho phép anh chị em rộng mở cho con đường nhiệm mầu và cứu rỗi của Phục Sinh: các vết thương còn mở và bị gây ra bởi thù hận tàn bạo và vô nghĩa có thể trong một cách thế nào đó đồng hình dạng với các vết thương của Chúa Kitô phục sinh, với các vết thương đã bị mở ra và Ngài còn mang trên thịt xác ngày hôm nay… Các vết thương kinh khủng ấy được tình yêu biến đổi đã trở thành suối nguồn của tha thứ và hoà bình… Thật thế, ký ức được tình yêu đi ngang qua có khả năng bước đi trên các con đường mới gây kinh ngạc, nơi các đan dệt của thù hận biến thành các dự án hoà giải, trong đó có thể hy vọng nơi một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người.

Hướng tới các ban trẻ ĐTC nói: Các người trẻ thân mến, tương lai này tuỳ thuộc các con: khi làm cho sự khôn ngoan của cha ông các con thành kho tàng, các con hãy ước muốn trở thành những người xây dựng hòa bình, không phải các chưởng khế của tình trạng ngưng đọng, nhưng là những người tích cực thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ và hoà giải.

ĐTC đã khích lệ mọi người noi gương thánh Gregorio thành Narek mà ngài đã tuyên bố là Tiến sĩ Giáo Hội và có thể gọi thánh nhân là “Tiến sĩ hòa bình”. Cuốn sách ngài viết có thể là hiến pháp tinh thần của nhân dân Armenia, trong đó có lời cầu này: “Lạy Chúa, xin nhớ tới những người trong dòng giống nhân loại là các kẻ thù của chúng con, nhưng vì thiện ích của họ, xin thực thi nơi họ sư tha thứ và lòng thương xót” Như thánh nhân chúng ta cũng phải là người dâng lời cầu nguyện cho toàn thế giới. ĐTC gửi lời chào mọi người dân Armenia sống rải rác đó đây trên thế giới, và cầu chúc họ trở thành các sứ giả của sự hiệp thông và hòa bình.

ĐTC và Đức Thượng Phụ Catholicos đã ôm hôn trao ban bình an cho nhau, rồi ban phép lành cho tín hữu.

Từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về dinh Tông toà Etchmiadzin cách đó 12 cây số để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm Armenia ba ngày.

Linh Tiến Khải

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh giác các Kitô hữu trước một lối sống hai mặt, phô diễn ra cho người khác thấy vẻ bên ngoài sáng láng, thánh thiện nhưng trong tâm hồn lại vô cùng đen tối. Đức Thánh Cha cũng khuyến khích các tín hữu biết bước đi trong ánh sáng chứ đừng lún sâu vào con đường tối tăm, vì chân lý của Thiên Chúa không thể được tìm thấy nơi đó.

Khởi đi từ bài đọc được trích từ thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ, Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của mình về trận chiến bất tận với tội lỗi. Ngài nói rằng chúng ta phải trở nên tinh tuyền như Chúa Cha, nhưng nếu chúng ta phạm tội chúng ta vẫn có thể cậy dựa vào sự tha thứ và lòng xót thương của Chúa. Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến sự khuyến cáo của các Tông đồ với các tín hữu: phải nói sự thật và đừng sống hai mặt, đừng nói một đường mà lại làm một nẻo.

Nếu bạn nói bạn kết hiệp với Chúa, thì phải bước đi trong ánh sáng, không sống hai mặt. Chúng ta thấy quen với những lời dối trá và cũng có cám dỗ nói dối nữa đúng không? Nói điều này nhưng lại làm điều khác đúng không? Cám dỗ sẽ không bao giờ ngừng. Chúng ta đã biết sự dối trá đến từ đâu. Trong Phúc Âm, Đức Giêsu gọi ma quỷ là ‘cha của sự dối trá’; là kẻ lừa dối, xảo quyệt. Chính vì điều này mà các giáo phụ khuyên nhủ Giáo hội thời sơ khai với sự yêu mến và đầy tình thương là: ‘Đừng dối trá! Anh chị em kết hợp với Chúa, thì hãy bước đi trong ánh sáng. Làm việc ngay chính, đừng nói một đường mà lại  làm một nẻo. Đừng sống hai mặt.’

Hãy để ý Thánh Gioan bắt đầu lá thư với lời chào ‘các con’. Đây cũng chính là lời của các giáo phụ nói với con cái mình trong thời Giáo hội sơ khai vời tràn đầy tình yêu, sự an ủi và vỗ về. Lời này cũng nhắc nhớ lại lời hứa của Đức Giêsu là sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Cũng vậy, Thánh Gioan khuyến cáo các tín hữu đừng phạm tội, nhưng nếu ai có lỡ phạm tội thì cũng đừng thất vọng nản chí.

Chúng ta có Đấng Bào Chữa luôn chuyển cầu cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha, đó là Đức Giêsu, Đấng Công Chính. Ngài thánh hóa chúng ta nên thánh thiện, tinh tuyền. Chính Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Các giáo phụ đã khuyên chúng ta như thế này: ‘Còn điều gì xấu xa hơn là phạm tội nữa không? Xin thưa là không. Tội lỗi là thứ xấu xa nhất. Nhưng nếu phạm tội, hãy nhìn lên Đấng đang chờ đợi để tha thứ cho anh chị em. Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi của chúng ta.’”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Chính nhờ lòng thương xót và sự cao cả của Thiên Chúa mà chúng ta có được sức mạnh. Chúng ta phải bước đi trong ánh sáng vì Chúa là sự sáng. Đừng bước một chân trong ánh sáng còn chân kia lại trong bóng tối. Đừng là kẻ dối trá. Chúng ta nên biết rằng tất cả chúng ta đều tội lỗi. Bởi vậy, không ai có thể nói người khác rằng: ‘Ông này có tội hay cô kia có tội. Còn tôi, tạ ơn Chúa, tôi công chính, thánh thiện.’ Không. Chỉ có một Đấng Công Chính mà thôi. Ngài đã chuộc tội cho chúng ta. Và nếu có ai trong chúng ta phạm tội, Ngài sẽ chờ đợi và sẵn sàng tha thứ, vì Thiên Chúa đầy lòng xót thương và biết rõ rằng chúng ta được tạo dựng nên bằng gì và chúng ta chỉ là thân phận cát bụi mà thôi. Ước mong rằng niềm vui từ bài đọc một ngày hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống một đời Kitô đơn sơ và trong sáng, trên hết là khi chúng ta hướng về Thiên Chúa với tất cả sự thật.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Cổng Trường Mở Ra

Cổng Trường Mở Ra

Nhà văn Lý Lan

Vào đêm trước ngày khai trường của con, mẹ đã chuẩn bị nhiều tâm trạng và tưởng tượng một số tình huống sẽ xảy ra. Nhưng mẹ đã không hề nghĩ rằng đêm nay mẹ không ngủ được. Một ngày kia, sẽ còn xa lắm ngày đó, con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một ly sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.

Con là một đứa trẻ nhạy cảm, mỗi lần mẹ con mình sắp đi chơi xa, thì vào đêm trước ngày đi con háo hức đến nỗi lên giường mà không sao nằm yên được. Nhưng mẹ chỉ dỗ một lát là con ngủ. thực ra chỉ cần nói: “Ngủ đi, không thôi sáng mai dậy trễ không kịp xe” là con nhắm mắt lại ngay, và chỉ lát sau, con ngủ ngon lành. Đêm nay con cũng có niềm háo hức như vậy: ngày mai con đi học- những sự chuẩn bị áo quần mới, giầy nón mới, cặp sách mới, tập vở mới , mọi thứ đâu đó sẵn sàng, khiến con cảm nhận được sự trang trọng của ngày khai trường. Nhưng cũng như trước một chuyến đi xa, trong lòng con không có mối bận tâm nào khác hơn là ngày mai thức dậy sớm cho kịp giờ.

Mẹ đắp mền cho con, buông mùng, ém góc cẩn thận rồi, mẹ bỗng không biết làm gì nữa. Đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, vả lại cũng còn quá sớm so với giờ ngủ thường ngày của mẹ. Mọi ngày, dỗ con ngủ rồi, mẹ dọn dẹp nhà cửa. Căn nhà mình chỉ trông tạm ngăn nắp gọn gàng từ sau khi con ngủ rồi cho đến sáng hôm sau. Mẹ lượm những chiếc xe thiết giáp dưới gầm ghế, cạnh chân bàn, những chú rôbô bằng nhựa đứng ngồi khắp nơi, và giữa nhà là đoàn quân thú dàn trận trong một cuộc chiến tranh Sư tử – Khủng long mà ngày nào con cũng bày ra và không ngày nào kết thúc bằng thắng lợi của phe nào.

Nhưng tất cả những động tác đó con đã giúp mẹ làm từ chiều rồi. Mẹ nói: Ngày mai con đi học, con là cậu học sinh cấp một, con lớn rồi. Vì vậy con hăng hái tranh với mẹ dọn dẹp những món đồ chơi. Khi con cất những món đồ quen thuộc thường chơi ấy vào thùng, mẹ có cảm giác là con chia tay với chúng luôn. Cái cách con bỏ chúng vào thùng giấy như thể con đã ý thức là chúng không còn phù hợp với mình nữa. Con đóng nắp thùng như thể kết thúc một cái gì. Mấy câu mẹ nói: “Con lớn rồi . . . hình như có một ý nghĩa đặc biệt với con. Và con hành động như một đứa bé – lớn rồi.

Mẹ cũng thường nhân lúc con ngủ mà làm vài việc của riêng mình. Viết một bức thư cho người bạn ở xa , gọi điện thoại cho dì cậu, làm mặt nạ dưỡng da hay bài tập thể dục thẩm mỹ. Nhưng hôm nay mẹ không tập trung được vô chuyện gì cả, mẹ cũng không định làm những chuyện ấy tối nay. Mẹ nhìn con ngủ một lát, rồi đi xem lại những thứ đã chuẩn bị cho con. Mẹ tự bảo mình cũng đi ngủ sớm đi. Mẹ lên giường và trằn trọc, cảm thấy mình hơi vô lý, nhưng không biết như thế nào cho hợp lý. Con đã đi học từ ba năm trước, từ hồi ba tuổi vào lớp mẫu giáo, đã biết thế nào là trường, lớp, thầy, bạn. Ngay cả ngôi trường mới của con, trường cấp một, con cũng đã tập làm quen từ những ngày hè. Tuần lễ trước ngày khai giảng, con đã làm quen với các bạn và cô giáo mới, đã được tập xếp hàng đi ra sân, tập đứng, tập ngồi, cho buổi lễ khai trường long trọng. Mẹ tin là con sẽ không bỡ ngỡ trong ngày đầu niên học đâu.

Mẹ còn nhớ hồi con đi học Mẫu giáo lần đầu tiên , mẹ chọn trường gần chỗ mẹ làm, để cứ một hai tiếng đồng hồ mẹ lại chạy qua trường ngó chừng con một cái. Mẹ sợ con lần đầu xa mẹ sẽ khóc nhiều rồi sinh bệnh. Nhưng cô giáo con có nhiều kinh nghiệm, bảo mẹ đừng để cho con thấy mặt. Con chỉ khóc mấy bữa đầu, mà cũng chỉ khóc đầu giờ sáng khi vừa xa mẹ và đầu giờ chiều khi ngủ trưa dậy không thấy mẹ . Rồi con quen với cô giáo và bạn bè, đến ngày nghỉ mà cũng đòi đi học , làm mẹ có lúc đâm ghen với cô giáo. Nhưng mẹ tin là cô nhận xét đúng: con có tính hướng ngoại ,dễ hòa đồng, thích nghi môi trường tốt, năng động và độc lập. Với những tính cách như vậy, mẹ hy vọng con sẽ sớm coi trường cấp một như nhà mình.

Thực sự mẹ không lo lắng đến nỗi không ngủ được. Mẹ tin đứa con của mẹ . .. lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị gần như chu đáo trong thời gian qua. Còn điều gì để lo lắng nữa đâu? Mẹ không lo. Nhưng mẹ không ngủ được. Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như nghe tiếng đọc bài trầm bổng: Hằng năm cứ vào cuối thu – mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.

Cái ấn tượng ghi sâu mãi trong lòng một con người về cái ngày “hôm nay tôi đi học” ấy, mẹ muốn nhẹ nhàng cẩn thận và tự nhiên ghi vào lòng con, để một ngày kia, bất cứ một ngày nào đó trong đời, khi con nhớ lại, lòng con lại rạo rực những cảm xúc bâng khuâng xao xuyến. Ngày mẹ còn nhỏ, mùa hè nhà trường đóng cửa hoàn toàn, và ngày khai trường đúng là ngày đầu tiên học trò lớp Một đến trường gặp thầy mới, bạn mới. Cho nên ấn tượng của mẹ về buổi khai trường đầu tiên ấy rất sâu đậm. Mẹ còn nhớ sự nôn ao, hồi hộp khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường và nỗi chơi vơi hốt hoảng khi cổng trường đóng lại, bà ngoại đứng ngoài cánh cổng như đứng bên ngoài cái thế giới mà mẹ vừa bước vào.

Mẹ nghe nói ở Nhật, ngày khai trường là ngày lễ của toàn xã hội. Người lớn nghỉ việc để đưa trẻ con đến trường, đường phố được dọn quang đãng và trang trí tươi vui. Tất cả quan chức nhà nước vào buổi sáng ngày khai trường đều chia nhau đến dự lễ khai giảng ở khắp các trường học lớn nhỏ. Bằng hành động đó, họ muốn cam kết rằng, không có ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai. Các quan chức không chỉ ngồi trên hàng ghế danh dự mà nhân dịp này còn xem xét ngôi trường, gặp gỡ với Ban giám hiệu, thầy, cô giáo và phụ huynh học sinh,để điều chỉnh kịp thời những chính sách về giáo dục. Ai cũng biết rằng mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này.

Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con. Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.

NgayDauTienDenLen

 

I. Phân tích và trả lời các câu hỏi

  1. Đêm trước ngày khai trường người mẹ và người con có những biểu hiện gì khác nhau? Hãy chỉ ra những câu văn thể hiện điều này?
  2. Theo em, tại sao người mẹ lại không ngủ được? Chi tiết nào chứng tỏ ngày khai trường để lại ấn tượng thật sâu đậm trong tâm hồn người mẹ?
  3. Có phải người mẹ đang trực tiếp nới với con không? Theo em, người mẹ đang tâm sự với ai? Cách viết này có tác dụng gì?
  4. Câu văn nào nói lên tầm quan trọng của nhà trường đối với thế hệ trẻ?
  5. Người mẹ nói: “Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Em hiểu thế giới kì diệu đó là gì?

II. Bài tập về nhà

Viết một đoạn về một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong ngày khai trường đầu tiên của mình.

 

 

References:

Aronson, D. J. (2016, February 28). Vietnam: Returning to a Country I Have Loved Since I Was 16 Years Old. Retrieved April 24, 2016, from http://www.huffingtonpost.com/dr-jane-aronson/vietnam-returning-to-a-co_b_9266508.html

 

                               

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Thánh lễ sáng thứ ba, 06.04

VATICAN. “Không thể lẫn lộn sự hòa hợp ngự trị trong cộng đoàn Kitô hữu, là hoa trái của Thần Khí, với sự ‘yên ổn’ có được do dàn xếp, thương lượng thường che đậy đi những xung đột và chia rẽ bên trong. Một cộng đoàn được hợp nhất trong Đức Kitô cũng là một cộng đoàn tràn đầy sức mạnh và can đảm.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 05.04, tại nguyện đường thánh Marta.

Một lòng một ý, không ai phải thiếu thốn, mỗi người được phân phát tùy theo nhu cầu. Đó là bức tranh mà sách Công vụ Tông Đồ miêu tả lại. Từ bức tranh ấy, xuất hiện một từ có thể tổng hợp tất cả những tình cảm và lối sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, đó là: hòa hợp.

Tiền bạc – kẻ thù gây chia rẽ

Chúng ta có thể đồng thuận với nhau một tình trạng hòa bình nhất định nào đó. Nhưng sự hòa hợp là một ân sủng nội tâm chỉ có Chúa Thánh Thần mới thực hiện được. Và những cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã sống trong sự hòa hợp đó chứ không phải tình trạng yên ổn do thỏa hiệp. Có hai dấu hiệu của sự hòa hợp: không ai phải thiếu thốn và mọi sự đều là của chung. Điều ấy có nghĩa là gì? Họ sống với nhau chỉ có một lòng một ý, không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Thật sự không ai trong số họ phải thiếu thốn. Sự hòa hợp đích thực của Chúa Thánh Thần lại có một sự liên hệ trái ngược rất mạnh mẽ với tiền bạc: tiền chính là kẻ thù của sự hòa hợp, tiền là sự quy kỷ. Vì thế, dấu hiệu của sự hòa hợp là mọi người biết cho đi tất cả những gì mình có, vì họ không còn thiếu thốn nữa.

Sự yên ổn do thỏa hiệp – một tình trạng mong manh

Sách Công vụ Tông Đồ kể lại rằng ông Banaba đã bán tất cả vườn tược của mình, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Nhưng ngay sau đó, câu chuyện thuật lại một chi tiết khác có phần trái ngược với lúc đầu. Chi tiết này không được nhắc đến trong bài đọc một hôm nay: Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Hai ông bà giả vờ đã đưa tất cả số tiền cho các Tông Đồ, nhưng thật ra là giữ lại một phần tiền. Chọn lựa này đã khiến họ phải trả một giá rất cay đắng là cái chết. Thiên Chúa và tiền bạc là hai ông chủ mà những người tôi tớ phục vụ không được lẫn lộn. Và như thế, cũng rất có nguy cơ, người ta sẽ nhầm lẫn hòa hợp với sự yên ổn chóng qua do thỏa hiệp.

Một cộng đoàn có thể rất yên ổn, tốt đẹp; mọi sự đều suôn sẻ nhưng không hề có hòa hợp. Thật vậy, có lần tôi đã nghe được từ một vị Giám mục một điều khá lý thú: ‘Trong giáo phận, tình hình rất yên ắng. Nhưng nếu bạn chỉ cần đụng vào vấn đề này; vâng, chỉ cần đụng vào vấn đề này thôi, thì ngay lập tức chiến tranh sẽ bùng nổ.’ Đúng là một sự hòa hợp do thỏa hiệp! Và đó không phải là sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta gọi đó là sự hòa hợp giả tạo, giống như trường hợp của ông Khanania và vợ là bà Xaphira với tất cả những gì mà họ đã làm.

Thần Khí và ơn can đảm

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng việc mời gọi mọi người cùng đọc lại sách Công vụ Tông Đồ về những Kitô hữu sơ khai và đời sống chung của họ: “Sẽ thật tốt nếu chúng ta biết cách để làm chứng tá trong những môi trường mà chúng ta đang sống. Sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta lòng quảng đại để không giữ bất cứ gì làm của riêng, cho dù có thiếu thốn. Sự hòa hợp ấy ban cho chúng ta một thái độ thứ hai: ‘Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng’. Điều này có nghĩa là các ông được ơn can đảm. Khi có sự hòa hợp trong Giáo hội, trong cộng đoàn thì sẽ có sự can đảm, can đảm để làm chứng về Thiên Chúa Phục Sinh.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Kitô hữu sống sự hòa hợp của Thần Khí chứ không phải sự yên ổn do thỏa hiệp

Thánh lễ sáng thứ ba, 06.04

VATICAN. “Không thể lẫn lộn sự hòa hợp ngự trị trong cộng đoàn Kitô hữu, là hoa trái của Thần Khí, với sự ‘yên ổn’ có được do dàn xếp, thương lượng thường che đậy đi những xung đột và chia rẽ bên trong. Một cộng đoàn được hợp nhất trong Đức Kitô cũng là một cộng đoàn tràn đầy sức mạnh và can đảm.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 05 tháng 04, tại nguyện đường thánh Martha.

Một lòng một ý, không ai phải thiếu thốn, mỗi người được phân phát tùy theo nhu cầu. Đó là bức tranh mà sách Công vụ Tông Đồ miêu tả lại. Từ bức tranh ấy, xuất hiện một từ có thể tổng hợp tất cả những tình cảm và lối sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, đó là: hòa hợp.

Tiền bạc – kẻ thù gây chia rẽ

Chúng ta có thể đồng thuận với nhau một tình trạng hòa bình nhất định nào đó. Nhưng sự hòa hợp là một ân sủng nội tâm chỉ có Chúa Thánh Thần mới thực hiện được. Và những cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã sống trong sự hòa hợp đó chứ không phải tình trạng yên ổn do thỏa hiệp. Có hai dấu hiệu của sự hòa hợp: không ai phải thiếu thốn và mọi sự đều là của chung. Điều ấy có nghĩa là gì? Họ sống với nhau chỉ có một lòng một ý, không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Thật sự không ai trong số họ phải thiếu thốn. Sự hòa hợp đích thực của Chúa Thánh Thần lại có một sự liên hệ trái ngược rất mạnh mẽ với tiền bạc: tiền chính là kẻ thù của sự hòa hợp, tiền là sự quy kỷ. Vì thế, dấu hiệu của sự hòa hợp là mọi người biết cho đi tất cả những gì mình có, vì họ không còn thiếu thốn nữa.

Sự yên ổn do thỏa hiệp – một tình trạng mong manh

Sách Công vụ Tông Đồ kể lại rằng ông Banaba đã bán tất cả vườn tược của mình, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Nhưng ngay sau đó, câu chuyện thuật lại một chi tiết khác có phần trái ngược với lúc đầu. Chi tiết này không được nhắc đến trong bài đọc một hôm nay: Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Hai ông bà giả vờ đã đưa tất cả số tiền cho các Tông Đồ, nhưng thật ra là giữ lại một phần tiền. Chọn lựa này đã khiến họ phải trả một giá rất cay đắng là cái chết. Thiên Chúa và tiền bạc là hai ông chủ mà những người tôi tớ phục vụ không được lẫn lộn. Và như thế, cũng rất có nguy cơ, người ta sẽ nhầm lẫn hòa hợp với sự yên ổn chóng qua do thỏa hiệp.

Một cộng đoàn có thể rất yên ổn, tốt đẹp; mọi sự đều suôn sẻ nhưng không hề có hòa hợp. Thật vậy, có lần tôi đã nghe được từ một vị Giám mục một điều khá lý thú: ‘Trong giáo phận, tình hình rất yên ắng. Nhưng nếu bạn chỉ cần đụng vào vấn đề này; vâng, chỉ cần đụng vào vấn đề này thôi, thì ngay lập tức chiến tranh sẽ bùng nổ.’ Đúng là một sự hòa hợp do thỏa hiệp! Và đó không phải là sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần. Chúng ta gọi đó là sự hòa hợp giả tạo, giống như trường hợp của ông Khanania và vợ là bà Xaphira với tất cả những gì mà họ đã làm.

Thần Khí và ơn can đảm

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng bằng việc mời gọi mọi người cùng đọc lại sách Công vụ Tông Đồ về những Kitô hữu sơ khai và đời sống chung của họ: “Sẽ thật tốt nếu chúng ta biết cách để làm chứng tá trong những môi trường mà chúng ta đang sống. Sự hòa hợp của Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta lòng quảng đại để không giữ bất cứ gì làm của riêng, cho dù có thiếu thốn. Sự hòa hợp ấy ban cho chúng ta một thái độ thứ hai: ‘Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng’. Điều này có nghĩa là các ông được ơn can đảm. Khi có sự hòa hợp trong Giáo hội, trong cộng đoàn thì sẽ có sự can đảm, can đảm để làm chứng về Thiên Chúa Phục Sinh.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Chương trình khai mạc và mở Cửa Năm Thánh 8-12-2015

Chương trình khai mạc và mở Cửa Năm Thánh 8-12-2015

Chương trình khai mạc và mở Cửa Năm Thánh 8-12-201

VATICAN. Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ được khai mạc trong buổi lễ lúc 9 giờ 30 sáng ngày 8-12-2015 do ĐTC chủ sự tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 4-12 ở Roma, Đức TGM Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cho biết:

 Buổi lễ sẽ bắt đầu với việc đọc vài đoạn trích từ 4 Hiến chế Công Đồng (Lời Chúa, Ánh sáng muôn dân, Phụng vụ và Vui mừng và Hy vọng), và 2 đoạn trích từ hai sắc lệnh Hiệp nhất và Tự Do tôn giáo. Ngày 8-12-2015 là kỷ niệm đúng 50 năm bế mạc Công đồng chung Vatican 2.

Tiếp đến là nghi thức long trọng rước Sách Tin Mừng được cha Rupnik chuẩn bị cho Năm Thánh và do Nhà xuất bản San Paolo ấn hành. Đây là một tác phẩm nghệ thuật có trang bìa là huy hiệu Năm Thánh. Sách Tin Mừng sẽ được trên cùng một ngai nhỏ, như trong các khóa họp của Công đồng ở gần bàn thờ trong Đền thờ Thánh Phêrô, nêu rõ quyền tối thượng của Lời Chúa.

Về nghi thức mở Cửa Năm Thánh ở Đền thờ Thánh Phêrô, nghi thức này thật đơn sơ và được truyền đi trên hệ thống truyền hình thế giới (Mondovisione). ĐTC yêu cầu mở cửa và ngài sẽ bước qua. Tiếp theo đó là các HY, GM và đại diện các LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, đi rước tiến qua Cửa Năm Thánh, cho đến Mộ Thánh Phêrô Tông Đồ. Từ đây sẽ diễn ra nghi thức kết thúc Thánh Lễ.

Sau lễ ĐTC sẽ lên cửa sổ phòng làm việc của ĐGH ở dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Tối ngày 8-12-2015 từ lúc 7 giờ sẽ có phần trình diễn Ánh sáng ở Đền thờ Thánh Phêrô: ”Fiat Lux: Illuminatin Our Common House” (Hãy có ánh sáng: soi chiếu Căn Nhà chung của chúng ta). Đây là buổi chiếu các hình ảnh trên mặt tiền và mái vòm Đền thờ Thánh Phêrô, rút từ bộ sưu tập của một số nhiếp ảnh viên nổi tiếng trên thế giới, trình bày những hình ảnh liên quan tới lòng thương xót, nhân loại, thế giới tự nhiên và những thay đổi khí hậu”. (SD 4-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Khai mạc Đại Hội toàn quốc Italia lần thứ 5

Khai mạc Đại Hội toàn quốc Italia lần thứ 5

Rome-Italy

FIRENZE. Chiều 9-11-2015, Đại hội Công Giáo toàn quốc Italia lần thứ 5 khai diễn tại thành phố Firenze, trung Italia, với chủ đề ”Trong Chúa Giêsu Kitô, một thuyết nhân bản mới”.

Tham dự Đại hội kéo dài 4 ngày này, có tất cả các GM Italia và 2500 đại biểu đến từ 220 giáo phận toàn quốc. Đại hội bàn về những biến chuyển về văn hóa và xã hội thời nay, ngày càng ảnh hưởng đến tâm thức và phong tục của con người, nhiều khi tước bỏ những nguyên tắc và giá trị cơ bản đối với cuộc sống bản thân, gia đình và xã hội.

Thông cáo của ban tổ chức khẳng định rằng: ”Thái độ cần soi sáng cho suy tư chính là điều mà ĐTC Phanxicô nhắc nhở hằng ngày: nghĩa là đọc cc dấu chỉ thời đại và nói bằng ngôn ngữ tình thương mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Chỉ có một Giáo Hội trở nên gần gũi với con người và cuộc sống thực tế của họ, mới có những điều kiện để loan báo và thông truyền đức tin”.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều hôm qua, đã có 4 cuộc rước 4 từ 4 thánh đường tiến về Nhà Thờ chính tòa Tổng giáo phận Firenze. Tại đây vào lúc 5 giờ chiều, sau lời chào mừng của ĐHY Giuseppe Bertori, TGM sở tại và Ông thị trưởng Dario Nardella, mọi người đã hát kinh chiều khai mạc Đại Hội, rồi Đức Cha Cesare Nosiglia, TGM giáo phận Torino, bắc Italia, trong tư cách là trưởng ban tổ chức, sẽ đọc diễn văn dẫn nhập và khai mạc.

Thứ ba hôm nay, 10-11-2015, ĐTC sẽ đến gặp gỡ các đại biểu vào lúc 10 giờ tại Nhà thờ chính tòa Firenze. Sau lời chào mừng của ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova, Chủ tịch HĐGM Itallia, sẽ có một số chứng từ được trình bày, trước khi ĐTC ban huấn dụ.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều ngày mai, ngài sẽ chủ sự thánh lễ tại Sân vận động Franchi ở Firenze.

Đại hội sẽ tiếp tục cho đến thứ sáu 13-11, với các bài suy tư, đối chiếu, trao đổi và cầu nguyện. ĐHY Bagnasco gọi Đại hội này là ”Một Phòng thí nghiệm suy tư, kinh nghiệm, trình thuật, giữa các cộng đoàn, đề ra những viễn tượng chung, hy vọng và dấn thân” cho hành trình của Giáo Hội tại Italia (SD 9-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

Đức Thánh Cha cổ võ sống chung hòa bình giữa các tôn giáo

Đức Thánh Cha cổ võ sống chung hòa bình giữa các tôn giáo

Tirane

TIRANA. ĐTC Phanxicô cổ võ sự sống chung hòa bình giữa tín đồ các tôn giáo và kêu gọi hãy xác tín ”hòa bình là điều có thể”.

 

Trên đây là nội dung sứ điệp của ĐTC gửi hơn 400 các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị quốc tế trong buổi khai mạc cuộc gặp gỡ về hòa bình tại Tirana, thủ đô Albani, chiều chúa nhật 6-9-2015. Ngài khẳng định rằng:

 

”Sự sống chung hòa bình và phong phú giữa con người và các cộng đồng thuộc các tôn giáo khác nhau không những là điều đáng mong ước, nhưng cụ thể còn là điều có thể và khả dĩ thực thi. Thực vậy, sự sống chung hòa bình giữa các cộng đồng tôn giáo khác nhau là một thiện ích vô giá đối với hòa bình và sự phát triển hòa hợp của một dân tộc. Đó là một giá trị cần bảo tồn và phát huy mỗi ngày, qua sự giáo dục về sự tôn trọng những khác biệt và những căn tính đặc thù, cởi mở đối thoạt và cộng tác để mưu công ích cho mọi người..”

 

ĐTC cũng nhận xét rằng ngày nay cần phải tái khẳng định ”Hòa bình luôn luôn là điều có thể”, nhất là vì ngày nay tại một số miền trên thế giới bạo lực, bách hại và những đàn áp chống tự do tôn giáo dường như đang hiển trị cùng với thái độ cam chịu đứng trước những xung đột kéo dài. Chúng ta không được cam chịu chấp nhận chiến tranh! Và chúng ta không thể dửng dưng trước những ngừơi đang chịu đau khổ vì chiến tranh và bạo lực!”.

 

ĐTC tố giác rằng ”Dựng lên những bức tường và hàng rào để ngăn chặn những người tìm kiếm một nơi hòa bình, đó cũng là bạo lực. Xua đuổi những người trốn chạy những hoàn cảnh vô nhân đạo và hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn, đó cũng là bạo lực. Là bạo lực khi gạt bỏ trẻ em và người già ra khỏi xã hội và chính cuộc sống! Gia tăng hố chia cách giữa người phung phú những gì dư thừa và những người thiếu những gì cần thiết, đó là bạo lực”.

 

 Với sứ điệp trên đây, cuộc gặp gỡ quốc tế về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức và kéo dài đến ngày 8-9-2015.

 

Lễ nghi khai mạc diễn ra tại trung tâm hội nghị ở Tirana. Trong số các vị hiện diện và lên tiếng có thủ tướng Albani Ông Edi Rama. Lên tiếng trong dịp này có bộ trưởng tư pháp Italia, Ông Andrea Orlando, Đức Thượng Phụ Louis Raphael Sako, Giáo chủ Công Giáo Canđê bên Irak, Đức TGM giáo chủ Chính Thống Albani, và nhiều vị khác đến từ Á, Âu và Phi châu. Có 27 cuộc trao đổi bàn tròn về nhiều đề tài khác nhau (RG 6-9-2015)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio