Thư của Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên về Dự Án Linh Đài Đức Mẹ La Vang

Thư của Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên về Dự Án Linh Đài Đức Mẹ La Vang

Thứ Tư ngày 21, 2018

Thưa quí anh chị em:
Tôi, linh mục Nguyễn Văn Tuyên, đồng trưởng ban của Ban La Vang, nhân danh Ban La Vang chân thành cám ơn quí ông bà và anh chị em về lòng rộng rãi và lời cầu nguyện liên lỉ của quí vị với dự án Linh Đài Đức Mẹ La Vang. Không có sự giúp đỡ của quí vị, chúng tôi không thể đạt được những thành quả của ngày hôm nay, và có thể nhanh chóng cử hành lễ đặt viên đá đầu tiên cách đây mấy tuần. Nhờ sự tin tưởng và phó thác của quí vị nơi chúng tôi, nên công trình đã có thể thực hiện nhanh như thế.

Hàng trăm giáo dân đã hiện diện và chứng kiến nghi lễ đặt viên đá đầu tiên do các Đức Giám Mục Kevin Vann và Tôma Nguyễn Thái Thành cử hành vào ngày thứ Bảy, 27 tháng Mười, vừa qua tại khuôn viên Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô.

Trong khi chúng ta đang hướng tới việc xây dựng linh đài, nếu có thể, chúng tôi xin anh chị em vui lòng hoàn tất nhanh chóng lời hứa của anh chị em, để chúng ta có đủ tài chánh hoàn thành công việc xây cất vào mùa hè năm tới. Nếu anh chị em có bạn bè hay người thân chưa biết về công trình này, hay chưa có cơ hội đóng góp, thì xin anh chị em liên lạc với các linh mục tại 16 cộng đoàn Việt Nam trong Giáo Phận Orange như Nhà Thờ Chính Toà, St Columban, Westminster, St Cecilia, vv. để họ cũng có cơ hội đóng góp cho công trình vĩ đại, lưu truyền một gia bảo đức tin cho những anh chị em Việt Mỹ sau này.

Linh tượng đang được thực hiện bằng một khối đá cẩm thạch mầu trắng từ Nước Ý Đại Lợi, và sẽ hoàn tất chuyển đến nhà thờ chính tòa Christ Cathedral vào tháng Tư năm tới.

Suốt trong Mùa Tạ Ơn năm nay, chúng ta đang có những tượng Mẹ La Vang nhỏ, do một ân nhân ẩn danh tặng. Nếu anh chị em muốn ủng hộ, xin vui lòng đến nhà thờ Christ Cathedral, Polycarp hay Westminster sau Thánh Lễ để chuộc tượng mẹ. Chỉ có 400 tượng thôi. Và tiền thu được sẽ dành cho Dự Án La Vang 100 phần trăm.

Một lần nữa, chớ gì đức tin của chúng ta tiếp tục hướng dẫn chúng ta không chỉ xây dựng Linh Đài Đức Mẹ La Vang, mà còn xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Xin cầu chúc anh chị em những ngày lễ nghỉ với người thân được hạnh phúc và tràn đầy ân phúc của Thiên Chúa!
Chúc Mừng Lễ Tạ Ơn!


Rev. Father Nguyễn Văn Tuyên, Co -Chair, La Vang Project, Christ Cathedral Pastor, Blessed Sacrament Church Diocese of Orange

Thiên Chúa là Đấng ở cùng con người, đồng hành và lo lắng cho con người

Thiên Chúa là Đấng ở cùng con người, đồng hành và lo lắng cho con người

** Thiên Chúa là Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta và sẽ ở cùng chúng ta cho tới tận thế. Ngài luôn luôn đồng hành với chúng ta, lo lắng cho chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta trên con đường lữ hành trần gian.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về niềm hy vọng kitô bằng cách quảng diễn văn bản trích từ Phúc Âm thánh Mátthêu chương 28 các câu 16 và 18 tới 20 viết rằng: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến… Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,16.18-20). ĐTC nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,20). Các lời cuối cùng của Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc lại lời loan báo ngôn sứ chúng ta tìm thấy ở đầu Phúc Âm. “Người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt 1,23; x. Is 7,14). Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta, mọi ngày, cho tới tận thế. Chúa Giêsu sẽ bước đi với chúng ta, mọi ngày, cho tới tận thế.

Toàn Phúc Âm được gói ghém giữa hai câu trích này là các lời thông truyền cho chúng ta mầu nhiệm của một vì Thiên Chúa, mà tên Ngài và căn tính của Ngài là “ở cùng chúng ta”, Ngài không phải là một Thiên Chúa bị cô lập, nhưng là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, một cách đặc biệt với chúng ta, nghĩa là với con người.

ĐTC định nghĩa Thiên Chúa của Kitô giáo như sau:

** Thiên Chúa chúng ta không phải là một vì Thiên Chúa vắng mặt, bị bắt cóc bởi một bầu trời rất xa xôi; trái lại Ngài là một vì Thiên Chúa “si mê” con người, yêu thương một cách dịu hiền tới độ không có khả năng tự tách rời khỏi con người. Loài người chúng ta khéo léo trong việc chặt đứt các ràng buộc và các cây cầu. Nhưng Thiên Chúa thì không. Nếu trái tim chúng ta lạnh lùng, thì trái tim của Thiên Chúa vẫn nóng bỏng. Thiên Chúa của chúng ta luôn đồng hành với chúng ta, cả khi, vì mạo hiểm, chúng ta quên Ngài. Trên đỉnh cao chia rẽ việc không tin khỏi lòng tin, thật định đoạt việc khám phá ra rằng chúng ta được Thiên Chúa Cha yêu thương và đồng hành, không bao giờ bị Ngài bỏ rơi.

Đời chúng ta là một cuộc hành hương, một con đường. Cả những người được đánh động bởi một niềm hy vọng thuần tuý nhân loại, cũng nhận thức được cám dỗ ở chân trời thúc đẩy họ khám phá các thế giới họ chưa biết tới. Linh hồn chúng ta là một linh hồn di cư. Thánh Kinh đầy những câu chuyện  của người hành hương và khách lữ hành. Ơn gọi của Abraham bắt đầu với lệnh truyền này: “Hãy rời bỏ xứ sở” (St 12,1). Và tổ phụ rời khỏi mảnh thế giới mà ông biết rõ và nó là một  trong các nôi của nền văn minh thời đó. Chúng ta không trở thành người trưởng thành, nếu không nhận thức ra sự hấp dẫn của chân trời: ranh giới giữa trời và đất đòi được đạt tới bởi một dân tộc gồm những người bước đi.

Trong lộ trình của mình trên thế giới, con người không bao giờ cô đơn. Nhất là kitô hữu không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi, bởi vì Chúa Giêsu bảo đảm không chỉ chờ đợi chúng ta vào cuối hành trình của chúng ta, nhưng đồng hành với từng người trong chúng ta mọi ngày.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nêu lên câu hỏi: Việc Thiên Chúa săn sóc cho con người kéo dài cho tới khi nào? Cho tới khi nào Chúa Giêsu bước đi với chúng ta, cho tới khi nào Ngài sẽ săn sóc chúng ta?

Câu trả lời của Phúc Âm không để cho chúng ta nghi ngờ: cho tới tận thế! Trời đất sẽ qua đi, các niềm hy vọng của con người sẽ bị xoá nhoà, nhưng Lời Chúa lớn lao hơn mọi sự sẽ không qua đi. Và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa Giêsu bước đi với chúng ta. Sẽ không có ngày nào trong cuộc sống mà con tim của Thiên Chúa không lo lắng cho chúng ta. Nhưng có ai đó có thể nói: “Cha đang nói gì vậy?” Tôi nói điều này: sẽ không có ngày nào trong cuộc sống trong đó chúng ta sẽ thôi là một âu lo đối với Thiên Chúa. Ngài lo lắng cho chúng ta, và bước đi với chúng ta. Và tại sao Ngài làm điều đó? Một cách đơn sơ bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Anh chị em đã hiểu điều này chưa? Ngài yêu thương chúng ta.

Và chắc chắn Thiên Chúa sẽ lo liệu cho mọi nhu cầu của chúng ta, Ngài sẽ không bỏ rơi chúng ta trong lúc gặp thử thách và đen tối. Sự chắc chắn này xin đuợc làm tổ trong tâm hồn chúng ta để không bao giờ bị tắt ngấm. Có ai đó gọi nó là “Sự Quan Phòng”. Nghĩa là sự gần gũi của Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa, việc Thiên Chúa bước đi với chúng ta cũng gọi là sự “Quan Phòng của Thiên Chúa”. Ngài thấy trước cho cuộc sống chúng ta.

** Không phải vô tình mà giữa các biểu tượng kitô của niềm hy vọng có một biểu tượng tôi rất thích: đó là cái mỏ neo. Nó diễn tả rằng niềm hy vọng của chúng ta không mơ hồ; nó không lẫn lộn với tâm tình thay đổi của người muốn cải tiến các chuyện của thế giới này một cách không thể thực hiện được, chỉ cậy dựa trên sức mạnh của ý chí riêng. ĐTC giải thích gốc rễ niềm hy vọng kitô như sau:

Thật ra, niềm hy vọng kitô  có gốc rễ không phải trong sự hấp dẫn của tương lai, nhưng trong sự chắc chắn về điều Thiên Chúa đã hứa và đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Nếu Ngài đã bảo đảm với chúng ta là sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, nếu khởi đầu của mỗi ơn gọi là một “Theo Ta”, mà Ngài bảo đảm với chúng ta là sẽ luôn luôn ở trước chúng ta, thì tại sao lại sợ hãi? Với lời hưá này các kitô hữu có thể bước đi ở khắp nơi. Cả khi đi qua các phần thế giới bị thương tích, nơi các sự việc không chạy tốt đẹp, chúng ta ở giữa những kẻ vẫn tiếp tục hy vọng. Thánh vịnh nói: “Dù qua qua thung lũng âm u, con không sợ nguy khốn, vì Chúa ở cùng con” (Tv 23,4). Chính ở đâu tối tăm lan tràn, thì cần thắp lên một ánh sáng. Chúng ta hãy trở lại với cái mỏ neo. Đức tin của chúng ta là mỏ neo trên trời. Chúng ta có cuộc sống được neo vào trên trời. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta bám chặt vào dây: nó luôn luôn ở đó. Và chúng ta tiến tới, bởi vì chúng ta chắc chắn rằng cuộc sống chúng ta có một mỏ neo trên trời, trên bờ nơi chúng ta sẽ tới.

Chắc chắn rồi, nếu chúng ta chỉ tin tưởng nơi các sức mạnh của chúng ta thôi, chúng ta sẽ có lý để  cảm thấy  thất vọng và thua cuộc, vì thế giới thường chứng minh cho thấy nó chống lại các luật lệ của tình yêu. Biết bao lần nó thích các luật lệ của ích kỷ. Nhưng nếu còn sống trong chúng ta xác tín Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta và thế giới một cách dịu hiền, thì khi đó viễn tượng lập tức thay đổi. Người xưa có nói: “Con người lữ hành, đuợc nâng đỡ bởi niềm hy vọng”. Dọc dài con đường, lời hứa của Chúa Giêsu “Thầy ở cùng các con” khiến cho chúng ta đứng vững, được nâng đỡ, với viềm hy vọng, bằng cách  tín thác rằng Thiên Chúa nhân từ đã hoạt động để thực hiện điều xem ra không thể được một cách nhân loại, bởi vì mỏ neo ở trên bãi biển trên trời.

Dân thánh trung thành của Thiên Chúa là dân đứng trên chân – là người lữ hành – và bước đi, mà đứng thẳng và bước đi trong hy vọng. Và bất cứ đâu họ đi, họ đều biết rằng Thiên Chúa đi trước họ: không có phần đất nào trên thế giới vượt thoát khỏi chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh. Và chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh là chiến thắng nào?  Chiến thắng của tình yêu.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau trong đó có Hiệp hội giáo hoàng truyền giáo do ĐHY Philippe Barbarin, TGM Lyon hướng dẫn, cũng như cộng đoàn Con Tầu của ông Jean Vanier, và các tín hữu đến từ Pháp và Bỉ. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Ailen, Đan Mạch, Phần Lan, Nigeria, Australia, Niu Dilen, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngài xin Chúa Kitô Phục Sinh đổ tràn đầy tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha xuống trên họ và gia đình họ.

Trong số các nhóm nói tiếng Đức ngài chào tín hữu đến từ Gais vùng Alto Adige, do ĐC Ivo Muser hướng dẫn, các nữ sinh trường Đức Bà Diessen. ĐTC cũng chào các tín hữu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Brasil, đặc biệt là sinh viên học sinh Carcavelos và Porto Alegre, cũng như tín hữu các giáo xứ Queluz và cộng đoàn Obra de Maria, các tỉnh trưởng và nhân viên phối hợp vùng Bairrada, các quân nhân và các thường dân đua xe đạp. Ngài phó thác mọi công việc phục vụ tha nhân của họ cho Đức Mẹ.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã mừng lễ Lòng Thương Xót Chúa và lễ kính thánh Adalberto, Bổn Mạng Ba Lan,  cũng như kỷ niệm 600 năm thành lập toà Giáo chủ Gniezno. ĐTC phó thác cho thánh Giám Mục tử đạo các chủ chăn và tín hữu Ba Lan và khích lệ họ duy trì sống động truyền thống tinh thần và văn hóa cao quý của Ba Lan.

Ngài cũng chào tín hữu Croat đặc biệt là các sinh viên trường sĩ quan cũng như các sĩ quan do ĐC Jure Bogdan hướng dẫn. Ngài xin Thiên Chúa chúc lành cho họ trong mọi sứ mệnh hoà bình của họ.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC chào các cặp vợ chồng tổng giáo phận Ancona Osimo mừng 50 năm thành hôn và cầu mong chuyến hành hương Roma giúp họ tái khám phá ra các bí tích đã nhận lãnh như dấu chỉ hữu hiệu của ơn thánh Chúa trong cuộc sống. Ngài xin họ nói với giới trẻ rằng cuộc sống hôn nhân kitô rất đẹp. Ngoài ra ĐTC cũng chào các tham dự viên đại hội xây cất chống động đất tại châu Mỹ Latin, do Đại học âu châu tổ chức, các cha dòng Ngôi Lời cao niên tuổi thứ ba, hiệp hội Linh Mục bóng đá và tín hữu nhiều giáo phận Italia. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma củng cố ý thức thuộc gia đình giáo hội của từng người.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc thứ ba vừa qua là lễ kính thánh sử Mạccô, môn đệ của thánh Phaolô. Cầu mong cho người trẻ biết noi gương thánh sử quyết tâm theo Chúa ; xin thánh nhân trợ giúp các anh chị em đau yếu trong thử thách khó khăn, và nhắc cho các đôi tân hôn biết tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Hội nhi đồng truyền giáo Đức hát thánh giúp trẻ em nghèo khổ

Hội nhi đồng truyền giáo Đức hát thánh giúp trẻ em nghèo khổ

hoi-nhi-dong-truyen-giao-duc-hat-thanh-ca-quyen-gop-giup-tre-em-ngheo-kho

Aachen – “Mang lời chúc lành, là lời chúc lành. Cùng nhau cho thụ tạo. Ở Kenya và khắp thế giới!”, đây là khẩu hiệu năm 2017 của Hội nhi đồng truyền giáo Đức.

Như mọi năm, năm nay là lần thứ 59 các “Ngôi sao ca nhạc” của Hội sẽ hát thánh ca trên các nẻo đường ở Đức. Các em thiếu nhi mặc trang phục truyền thống của Ba Vua, với ngôi sao và các bài hát, các em đi đến các gia đình trong những ngày Giáng sinh và trong dịp đầu Năm Mới. Có khoảng nửa triệu trẻ em thuộc các giáo xứ Công giáo ở Đức sẽ mang chúc lành "C+M+ B", tiếng Đức là "Christus mansionem benedicat”, nghĩa là “Chúa Ki-tô chúc lành cho nhà này”, đến các gia đình, quyên góp các quà tặng cho các thiếu nhi ở tuổi các em đang đau khổ trên thế giới. Việc quyên góp của các “Ngôi sao ca nhạc” này là chương trình tương trợ lớn nhất trên thế giới, cho phép các trẻ em giúp đỡ những người nghèo khổ cùng tuổi các em.

Tham gia vào chương trình năm 2017 này, Hội nhi đồng truyền giáo Đức nhận thức tầm quan trọng của sự dấn thân của các em cho các trẻ em chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự thay đổi khí hậu. Các tài liệu giải thích về vùng Turkana, nơi nghèo khổ và xa xôi nhất của Kenya, được chuẩn bị cho việc linh động truyền giáo giữa các em, đưa ra những hậu quả của thay đổi khí hậu cho những người có ít trách nhiệm. Giám đốc quốc gia của các Hội truyền giáo Giáo hoàng và Nhi đồng truyền giáo nhấn mạnh rằng: “Với sự dấn thân của mình, các thiếu nhi Đức xây những nhịp cầu với trẻ em trên khắp thế giới.”

Ngày 14/11, khi tiếp đội tuyển bóng đá quốc gia của Đức, Đức Thánh Cha Phanxico cũng nhắc đến tầm quan trọng của sự dấn thân của em. Ngài nói: “Cha đặc biệt biết ơn sự trợ giúp của chúng con cho các “Ngôi sao ca nhạc”, những thiếu nhi trao tặng sự giúp đỡ cụ thể cho các trẻ em và người trẻ ở các quốc gia nghèo nhất. Chương tình này cho thấy cách thức có thể để cùng nhau vượt qua những rào cản dường như không thể vượt qua đang trừng phạt những người nghèo khổ và bị gạt ra bên lề xã hội. Cũng bằng cách này, các con đóng góp vào việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ hơn.” (Agenzia Fides 22/12/2016)

Hồng Thủy

Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?

 Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?

Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.

Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định:  Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
 
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).

Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.

Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.

1/ Núi Nebo
 
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.

Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó! . Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).

Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.

Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.

Ngày 20/03/2000, Đức Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.

Ngày 9/5/2009, Đức Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.

Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14) .

Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.         
      
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.

2/ Tại sao lại treo con rắn?
 
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa : Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu!  Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.

3/ Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
 

Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; “cột rắn“: một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.

Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ : Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
 
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:

– Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.

– Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!

4/ Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
 
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.

Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.

Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
 
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An