Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng[1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa. Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng 2. Các mối phúc mà Đức Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Kinh Thánh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai hậu, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Đức Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Đức Giêsu, mạc khải Tình yêu của Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta đón nhận Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa, đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Yavê ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người 3.Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình[2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hòa bình. Không có chân lý về con người vốn được Đấng Tạo Hóa ghi dấu trong trái tim con người, tự do và bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính mình.

Để trở nên người kiến tạo hòa bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hòa bình vốn là tội lỗi trong tất cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới, giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Đức Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Đức Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của chúng ta (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

(còn tiếp) Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ – Vietvatican

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1. [2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

 

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

1.LỜI CHÚA:

“CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

2.CÂU CHUYỆN:

Thời Hy-lạp cổ đại, triết gia SÔ-CỜ-RÁT (Socrates) là một người nổi tiếng về sự thông thái khôn ngoan và  được nhiều người ngưỡng mộ. Một hôm có một người quen đến nói thì thầm vào tai ông rằng:

“Ông có biết chuyện gì mới xảy ra cho ông bạn thân của ông hay không?” Sô-cờ-rát liền nói:

“Khoan đã. Trước khi nghe ông kể câu chuyện đó, tôi muốn ông cùng với tôi xem xét để sàng lọc ba bước về câu chuyện đó đã”. Người kia hỏi lại:

“Xem xét để sàng lọc ư?” Sô-cờ-rát đáp: “Đúng vậy. Bước sàng lọc thứ nhất là XÉT VỀ SỰ THẬT: Ông có cam đoan với tôi rằng những gì ông sắp nói ra về ông bạn thân của tôi hòan tòan chính xác hay không?”

Người kia trả lời: “Không chắc lắm. Thật ra tôi chỉ được nghe người khác thuật lại mà thôi”. Sô-cờ-rát liền nói:

“Được rồi. Bây giờ qua bước sàng lọc thứ hai là XÉT VỀ THIỆN Ý: Điều ông sắp nói ra với tôi có phải là điều tốt đáng biểu dương không?” Người kia trả lời:

“Không phải điều tốt, mà còn ngược lại!” Sô-cờ-rát tiếp tục:

“Như vậy là ông đang định nói một điều không tốt về người bạn thân của tôi. Nhưng ông lại không chắc điều đó có phải là sự thật hay không. Bây giờ là bước sàng lọc cuối cùng là XÉT VỀ ÍCH LỢI: Câu chuyện ông sắp nói với tôi có mang lại lợi ích gì cho tôi không?” Người kia đáp:

“Không. Thực sự là không!” Bấy giờ Sô-cờ-rát mới ôn tồn kết luận như sau:

“Vậy thì những điều ông muốn nói với tôi không phải là sự thật, không phải là điều tốt đáng biểu dương, và cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho tôi. Thế thì ông nói nó ra với tôi làm chi?”

3. SUY NIỆM:

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy trong cuộc sống thường ngày không được nói hành nói xấu tha nhân. Lý do có  thể tóm gọn như sau : Một là hành động bất công khi lên án một người mà không cho họ bào chữa. Hai là hành động lỗi bác ái khi làm mất tình đòan kết nội bộ và động cơ dẫn đến sự nói xấu thường do ích kỷ, tự mãn và ganh ghét những người hơn mình. Ba là hành động tội ác, nếu việc nói xấu đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho danh dự và uy tín của người bị hại.

Đức Khổng Tử đã dạy học trò: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người). Còn Chúa Giê-su thì dạy các môn đệ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12). Ngòai ra Người cũng dạy chúng ta tôn trọng sự thật: “CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

Có người lại đặt vấn đề: Nếu biết một người làm điều xấu mà im lặng là đồng lõa và làm cho kẻ đó ngày một lún sâu vào tội ác. Vậy trong trường hợp đó, ta nên làm gì để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa không bao che cho tội ác? Câu trả lời đã được Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Chúa dạy như sau: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngọai hay một người thu thuế” (Mt 18, 15-17). 4. THẢO LUẬN:

1) Bạn có đồng ý với ba bước sàng lọc, khi nghe những lời nói xấu về người vắng mặt của triết gia Sô-cờ-rát không?

2) Tại sao chúng ta không nên nói ra những điều xấu của kẻ vắng mặt dù điều đó có thật? 3) Tội nói hành khác với tội vu khống thế nào? Khi nào tội vu khống biến thành trọng tội?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết sống công bình ngay chính noi gương Đức Giê-su Con yêu của Cha. Xin cho chúng con tranh nói những điều gian dối bất công cho những người chúng con không ưa. Xin cho chúng con luôn nói lời ngay thật để xứng đáng nên con thảo của Cha và luôn làm vui lòng Cha, noi gương Chúa Giê-su là Con rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha.

– X HIỆP CÙNG MẸ MARIA – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. Lm. ĐAN VINH – Hiephoithanhmau.co

Đức Giáo hoàng gửi thông điệp ban phép lành trên Twitter

 

Đức Giáo hoàng gửi thông điệp ban phép lành trên Twitter

Đức Giáo hoàng Benedicto thứ 16 đã khai trương tài khoản Twitter của Ngài bằng một tin nhắn ban phép lành cho hàng triệu người « follower », nhân buổi lễ lớn hôm nay 12/12/2012. Như vậy Giáo hội đã vượt qua thử thách của các mạng xã hội, nơi mà Vatican thường bị các cư dân mạng trẻ tuổi chỉ trích.

Trong “tweet” đầu tiên của tài khoản @pontifex, Đức Giáo hoàng viết: “Các bạn thân mến, tôi vui mừng gặp gỡ được các bạn thông qua Twitter. Xin cảm ơn sự đáp ứng nồng nhiệt của các bạn. Tôi xin ban phép lành cho các bạn với cả trái tim”.

Trước khi được gởi đi, tài khoản của Đức Thánh Cha đã có hơn một triệu “follower”, và chỉ trong vòng 40 phút sau, bản tiếng Anh của tin này đã được chuyền lại 15.600 lần. Tin Twitter đầu tiên của Đức Giáo hoàng còn được phổ biến bằng bảy thứ tiếng khác: Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Pháp, Ả Rập và Ba Lan.

Tin Twitter thứ hai, trả lời một câu hỏi về cách sống tốt nhất trong “Năm đức tin”, Đức Giáo hoàng Benedicto thứ 16 đưa ra ba lời khuyên ngắn gọn theo kiểu đặc thù của loại hình mạng xã hội này: “Đối thoại với Chúa Giêsu trong cầu nguyện, nghe lời Chúa nói với các con trong Kinh Thánh, gặp gỡ Đức Giêsu đang hiện diện trong những ai đang cần giúp đỡ”.

Hôm nay Đức Giáo hoàng sẽ trả lời thêm hai câu hỏi nữa, trong số hàng ngàn câu hỏi được gởi đến từ khi tài khoản của Ngài được mở cách đây một tuần.

Sau khi ban phép lành cho 4.500 tín đồ đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung tại gian Phaolô đệ lục trong buổi lễ lớn hàng tuần, Đức Thánh Cha, 85 tuổi, đã gởi đi “tweet” đầu tiên từ chiếc máy tính bảng được, Hội đồng truyền thông xã hội, thanh niên của Đức Giáo hoàng và người phụ trách về Twitter, Claire Diaz-Ortiz, mang lại đặt trên chiếc bàn phủ vải đỏ. Đức Giáo hoàng Benedicto 16 tươi cười nhấn vào phím để gởi đi “tweet” đầu tiên của một Đức Giáo hoàng trong lịch sử.

Do nguyên tắc, Đức Giáo hoàng không “theo chân” ai trên Twitter cả

Từ khi tài khoản Twitter của Đức Thánh Cha được mở, hàng ngàn người đã gởi đến Ngài các câu hỏi. Có những câu nghiêm túc, nhưng cũng có những câu hỏi mỉa mai, chỉ trích, chống đối. Người đứng đầu Giáo hội hy vọng rằng sự hiện diện của Ngài trên Twitter sẽ giúp truyền bá Phúc âm đến nhiều nơi trên thế giới.

Trong bài xã luận hàng tuần trên Radio Vatican, phát ngôn viên của Tòa Thánh là Cha Federico Lombardi nhấn mạnh sự quan trọng của thử thách này, bằng một câu phỏng theo Phúc âm: “Một tweet có thể được đón nhận với sự nhiệt tình hay chối bỏ, hạt giống rơi xuống mặt đất đầy đá sỏi hay trên các quả dại của định kiến cũng sẽ bị héo đi. Hạt giống cũng có thể rơi xuống một vùng đất màu mỡ và tự do, sẽ trở thành quả ngọt và sinh sôi nảy nở”. Cha Lombardi nhận xét: “Số 140 từ có hơi ít, nhưng đa số các đoạn trong Phúc âm còn ngắn hơn. Súc tích một chút vẫn tốt”.

Trà Mi – Đạo Binh Dức Mẹ

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước bảo vệ và thăng tiến giáo dục

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước bảo vệ và thăng tiến giáo dục

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 6 tân Đại sứ cạnh Tòa Thánh, sáng ngày 13 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của giáo dục và kêu gọi các chính phủ đẩy mạnh việc giáo dục cho người trẻ, trong sự tôn trọng sự thật về con người. 6 vị đại sứ đến trình thư ủy nhiệm là Cộng hòa Guinée, tiểu quốc Saint Vincent và Grenadines, nước Niger, Zambia, Thái Lan và Sri Lanka. Hiện nay có 178 quốc gia lớn nhỏ có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp bậc Sứ thần về phía Tòa Thánh, và đại sứ về phía các nước liên hệ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 80 vị đại sứ thường trúc ở Roma, phần còn lại, gần 100 vị kiêm nhiệm chức vụ đại sứ ở một nước Âu Châu và thường trú tại đó, ví dụ Đại sứ Ibrahima Sory Sow của Cộng hòa Guinée cũng là đại sứ tại Đức và thường trú tại Berlin. Các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh, thường trú ở Roma, khi trình thư ủy nhiệm, thì được ĐTC tiếp kiến riêng, còn các vị Đại sứ không thường trú, thì được ngài tiếp kiến chung như sáng 13-12-2012. Trước đây, mỗi khi ĐTC tiếp kiến vị đại sứ mới, đều có sự trao đổi diễn văn giữa hai bên, và cả khi ngài tiếp kiến chung các vị tân đại sứ, ngoài diễn văn chào mừng chung, đều có diễn văn riêng được trao đổi giữa hai bên. Tuy nhiên, thói quen này đã được bãi bỏ từ khoảng 2 năm nay, và Tòa Thánh cũng theo thông lệ như các nước khác nghĩa là không có trao đổi diễn văn riêng. Diễn văn ca ĐTC Trong bài diễn văn bằng tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt đề cao tầm quan trọng của vấn đề giáo dục người trẻ, và khích lệ chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đẩy mạnh một nền giáo dục quân bình và toàn diện. Ngài nói: ”Khi kiểm điểm nhiều thách đố thời nay, chúng ta có thể nhận thấy rằng giáo dục chiếm một cố đứng hàng đầu. Ngày nay giáo dục diễn ra trong bối cảnh trong đó sự biến chuyển của lối sống và kiến thức tạo nên những rạn nứt về mặt con người, văn hóa, xã hội và tinh thần chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Những mạng xã hội, là một điều mới mẻ, chúng có xu hướng thay thế môi trường tự nhiên của xã hội và của việc đả thông, và thường trở thành điểm tham chiếu duy nhất về thông tin và kiến thức. Gia đình và học đường dường như không còn là thửa đất màu mỡ đầu tiên và tự nhiên trong đó người trẻ có thể kín múc nhựa sống cho cuộc đời. Đàng khác, trong lãnh vực học đường và đại học, quyền bính của giáo viên và giáo sư bị đặt lại vấn đề, và đáng tiếc là khả năng của một số giáo chức ấy không tránh khỏi những thiên lệch về tri thức và thiếu sót về nhân sinh quan, loại bỏ hoặc hạ giá chân lý về con ngừơi. Con người là một hữu thể toàn diện và không phải là một mớ các yếu tố mà ngừơi ta có thể phân cách và lèo lái theo ý muốn. Trường học và đại học dường như không có khả năng đề ra những dự phóng sáng tạo mang trong mình một viễn tượng hướng đích siêu việt, có khả năng thu hút người trẻ trong bản chất sâu xa của họ, vì thế người trẻ, lo âu về tương lai, thường bị cám dỗ ít cố gắng càng ít càng tốt, hài lòng với cái tối thiểu và tìm sự thành công dễ dàng, đôi khi bằng những phương thế không thích hợp, và lợi dụng những khả thể do kỹ thuật ngày nay cống hiến. Nhiều người trẻ muốn thành công mau lẹ và sớm đạt được một vị thế xã hội và nghề nghiệp quan trọng, nhưng đồng thời lại ít quan tâm đến việc huấn luyện, thủ đắc khả năng chuyên môn và kinh nghiệm cần phải có. Phải chăng thế giới hiện nay và ngừơi lớn hữu trách không biết mang lại cho người trẻ những tham chiếu cần thiết. Hoạt động không đúng của một số tổ chức và dịch vụ công lập và tư nhân chẳng phải là do giáo dục thiếu sót sao? ĐTC nói thêm rằng: ”Lập lại điều mà vị tiền nhiệm của tôi, ĐGH Lêô 13 đã nói, tôi xác tín ”phẩm giá đích thực và sự trổi vượt của con người ở tại phong hóa của họ, nghĩa là trong nhân đức của họ; nhân đức là gia sản chung của con ngừơi, vừa tầm tay mọi người, nhỏ cũng như lớn, nghèo cũng như giầu” (Rerum novarum, 20). Vì thế, tôi mời gọi chính phủ của quí vị can đảm góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại bằng cách cổ võ việc giáo dục các thế hệ trẻ, qua sự thăng tiến một nền nhân loại học lành mạnh, là điều căn bản không thể thiếu được đối với mọi nền giáo dục chân chính và phù hợp với gia sản tự nhiên của con ngừơi. Trách vụ này có thể tiến hành với sự suy tư nghiêm túc về những vấn đề khác nhau tại các quốc gia liên hệ của quí vị, trong đó một số chọn lựa chính trị hoặc kinh tế có thể âm thầm làm hao mòn gia sản nhân loại học và tinh thần của quí vị. Những gia sản này đã được gạn lọc qua bao thế kỷ và được kiên nhẫn hình thành trên những nền tảng là sự tôn trọng yếu tính của con người trong thực tại phức tạp nhưng đồng thời hòa hợp với toàn thể vũ trụ. Tôi cũng mời gọi chính quyền của quí vị can đảm làm việc để củng cố uy tín luân lý, được hiểu như một tiếng gọi sống hợp với nguyên tắc, là điều cần thiết để có một nền giáo dục đích thực và lành mạnh cho các thế hệ trẻ. ĐTC cũng nói rằng: ”Quyền có một nền giáo dục với những giá trị đúng đắn không bao giờ được phủ nhẫn hoặc quên lãng. Nghĩa vụ giáo dục về các giá trị ấy không bao giờ được bãi bỏ hoặc làm suy yếu vì bất kỳ lợi lộc chính trị quốc gia hay siêu quốc gia. Vì thế, cần giáo dục trong sự thật và về sự thật. Nhưng ”sự thật là gì?” (Ga 18,38), Philatô vốn là một nhà cai trị đã từng hỏi như thế. Ngày nay, nói điều thật thì bị nghi ngờ, muốn sống trong sự thật, dường như bị coi là người lỗi thời, và thăng tiến sự thật dường như là nỗ lực vô ích. Thế nhưng tương lai nhân loại ở trong tương quan của các trẻ em và người trẻ với sự thật: sự thật về con người, sự thật về thiên nhiên, về các tổ chức, cơ chế, v.v. Với việc giáo dục về tâm hồn và tư tưởng ngay chính, ngày nay hơn bao giờ hết, người trẻ cũng cần được giáo dục về ý nghĩa cố gắng và kiên trì trong những khó khăn. Cần phải dạy cho người trẻ biết rằngmọi hành động của con người phải có trách nhiệm và phù hợp với ước muốn vô biên,và hành viđó tháp tùng sự tăng trưởng của người để để huấnluyện về một tình nhân đạo ngày càng huynh đệ hơn và được giải thoát khỏi mọi cám dỗ cá nhân chủ nghĩa và duy vật. Và ĐTC kết luận rằng: ”Qua trung gian của quí vị, tôi xin gửi lời chào thăm các GM và các tín hữu thuộc các cộng đoàn Công Giáo tại đất nước của quí vị. Giáo Hội chu toàn sứ mạng của mình trong niềm trung thành với Chúa và với ước muốn nồng nhiệt đóng góp đặc thù cho sự thăng tiến toàn diện đồng bào của quí vị, nhất là qua việc giáo dục các trẻ em và người trẻ. Hằng ngày Giáo Hội tham gia vào những cố gắng chung để làm cho mọi người được triển nở về tinh thần và nhân bản, qua những cơ cấu giáo dục, từ thiện và y tế của Giáo Hội, luôn quan tâm tới thức tỉnh lương tâm con người tôn trọng lẫn nhau và có tinh thần trách nhiệm. Theo nghĩa đó, tôi khuyến khích chính quyền của quí vị tiếp tục để cho Giáo Hội tự do hoạt động trong các lãnh vực truyền thống, như quí vị đã biết, những hoạt động ngày góp phần vào sự phát triển đất nước và công ích của quí vị. Quí vị đại sứ thân mến, trong lúc quí vị chính thức bắt đầu sứ vụ cạnh Tòa Thánh, tôi cầu chúc quí vị những điều tốt đẹp nhất, bảo đảm với quí vị về sự nâng đỡ của các cơ quan Tòa Thánh dành cho quí vị để thi hành phận sự. Với mục đích ấy, tôi cũng cầu xin Chúa ban dồi dào Phúc lành cho quí vị, và gia đình, cũng như các cộng sự viên của quí vị. Các vị đại sứ Ngoài diễn văn trên đây, Phòng báo chí Tòa Thánh cũng công bố lý lịch của 6 vị đại sứ mới, trong đó có một phụ nữ là bà Aminatou Batouré Gaoh, 51 tuổi, đại sứ của nước Niger ở Berlin, thủ đô Cộng hòa Liên bang Đức. Tân đại sứ Thái Lan là Ông Chalermpol Thanchitt, năm nay 57 tuổi, tốt nghiệp tiếng Nga và chuyên về Xô Viết tại đại học Surrey bên Anh quốc. Ông đã từng làm Tổng lãnh sự tại Thành phố Hồ chí Minh từ năm 2000 đến 2002, rồi lần lượt làm đại sứ tại Singapore, Bangladesh, Liên bang Nga, trước khi được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Thụy Sĩ, nơi ông thường trú hiện nay. Tân đại sứ của Sri Lanka cạnh Tòa Thánh là Ông Ravinatha Pandukabhaya Ary Asinha, năm nay 52 tuổi, tốt nghiệp ngành chính trị học, triết học và kinh tế ở Sri Lanka và hoạt động trong ngành ngoại giao từ 32 năm nay. Ông từng làm Tổng giám đốc và phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Sri Lanka, trước khi làm đại sứ tại Bỉ, và tại LHQ ở Genève Thụy Sĩ, nơi ông đang cư ngụ. G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Tin là tưởng niệm hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại

Tin là tưởng niệm hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại

Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại con đường sự hiện diện của Thiên Chúa trong dòng lịch sử nhân loại và luôn nhớ rằng Thiên Chúa không vắng bóng hay bỏ rơi chúng ta; trái lại Người đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế khác nhau, mà chúng ta phải học biết phân định.

Kính thưa qúy vị, thưa các bạn, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 4.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư hôm qua. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài sự hiện diện và các can thiệp của Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người và sự mạc khải đó được tháp nhập vào thời gian và trong lịch sử con người: lịch sử trở thành nơi trong đó chúng ta có thể nhận ra hành động của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thiên Chúa đến với chúng ta trong những gì thân thuộc nhất với chúng ta và dễ kiểm thực, bởi vì nó làm thành bối cảnh thường ngày cúa chúng ta, mà nếu không có nó chúng ta sẽ không thể hiểu chính mình (Gioan Phaolô II, Fides et ratio, 12). Thánh sử Mạccô tóm tắt các lúc đầu công cuộc rao giảng của Đức Giêsu bằng các từ rõ ràng như sau: ”Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần” (Mc 1,15). Điều chiếu sáng và trao ban ý nghĩa tràn đầy cho lịch sử thế giới và con người bắt đầu chiếu sáng trong hang đá Bếtlêhem. Đức Thánh Cha giải thích như sau: Nơi Đức Giêsu thành Nadarét Thiên Chúa biểu lộ gương mặt của Người và xin con người quyết định thừa nhận Người và theo Người. Việc tự mạc khải của Thiên Chúa trong lịch sử để bước vào tương quan đối thoại yêu thương với con người trao ban một ý nghĩa mới cho toàn lộ trình nhận loại. Lịch sử không chỉ là một tiếp nối các thế kỷ, năm tháng và ngày, nhưng là thời gian của một sự hiện diện trao ban ý nghĩa và mở nó ra cho một niềm hy vọng vững vàng. Tiếp tục bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói chúng ta có thể đọc được các giai đoạn của sự mạc khải ấy trong Thánh Kinh, là nơi đặc tuyển giúp khám phá ra các biến cố của lộ trình ấy. Và trong Năm Đức Tin này, một lần nữa tôi mời gọi tất cả mọi người hãy cầm lấy sách Thánh Kinh thường xuyên hơn để đọc, suy niệm và chú ý hơn tới các bài đọc Thánh lễ Chúa Nhật; tất cả những điều này là một lương thực qúy báu cho đức tin. Khi đọc Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta có thể thấy rằng các can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Người đã chọn và ký kết giao ước không là những sự kiện đã qua và rơi vào quên lãng, nhưng chúng trở thành ”lịch sử thánh”, được duy trì sống động trong ký ức của dân Israel qua việc cử hành các biến cố cứu độ. Trong sách Xuất Hành Thiên Chúa chỉ cho ông Môchê cử hành lúc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, là lễ Vượt Qua, với các lời này: ”Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, các ngươi sẽ cử hành như là lễ của Chúa, từ đời này sang đời kia các ngươi sẽ cử hành nó như một nghi lễ muôn đời” (Xh 2,14). Đối với toàn đân Iarael nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm trở thánh một loại lệnh truyền thường xuyên để cho sự qua đi của thời gian được ghi dấu bởi ký ức sống động của các biến cố đã qua. Trong sách Đệ Nhị Luật ông Môshê nói với dân: ”Ngươi hãy coi chừng đừng quên các điều mắt đã thấy và đừng để chúng vuột khỏi con tim trong suốt cuộc đời: ngươi sẽ dậy cho con cái và cháu chắt ngươi” (Đnl 4,9). Đức tin được nuôi dưỡng bởi việc khám phá và ký ức về Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn trung thành, là Đấng hướng dẫn lịch sử và làm thành nền tảng chắc chắn và ổn định cho cuộc sống. Cả thánh thi Magnificat, mà Đức Maria dâng lên Thiên Chúa, cũng là một thí dụ rất cao của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria chúc tụng hành động của Thiên Chúa trên lộ trình cụ thể của dân Người, sự trung thành với các lời hứa của giao ước với tổ phụ Abraham và con cháu người. Và tất cả điều này là ký ức sống động về sự hiện diện không suy giảm của Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55). Đối với Israel xuất hành là biến cố lịch sử chính yếu, trong đó Thiên Chúa mạc khải hành động quyền năng của Người. Thiên Chúa giải phóng người Israel khỏi nô lệ Ai Cập, để họ có thể trở về Đất Hứa và thờ phượng Người như là Chúa thật duy nhất. Israel không lên đường để là một dân tộc như các dân tộc khác, nhưng để phục vụ Thiên Chúa trong phụng tự và trong cuộc sống và làm chứng cho Người giữa các dân tộc khác. Và việc cử hành biến cố này khiến cho nó hiện diện và thời sự, bởi vì công trình của Thiên Chúa không giảm sút. Người trung thành với chương trình giải phóng và tiếp tục theo đuổi nó, để cho con người có thể nhận biết và phục vụ Chúa mình và đáp trả lại hành động của Thiên Chúa với đức tin và tình yêu thương. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Như thế Thiên Chúa mạc khải chính mình không phải chỉ trong hành động nguyên thủy của việc tạo dựng, nhưng bằng cách bước vào trong lịch sử của chúng ta, lịch sử của một dân tộc bé nhỏ, không phải một dân đông nhất, cũng không phải mạnh nhất. Và Mạc Khải nay của Thiên Chúa đạt tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa, Logos, Lời tạo dựng ở nơi nguồn gốc của thế giới, đã nhập thể nơi Đức Giêsu và cho thấy gương mặt thật của Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu mọi lời hứa được thành toàn, nơi Người lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại đạt tột đỉnh. Khi chúng ta đọc trình thuật hai môn đệ trên đường về làng Emmaus do thánh Luca kể, chúng ta thấy nổi lên một cách rõ ràng con người của Chúa Kitô soi sáng Cưu Ước và toàn lịch sử cứu độ, và cho thấy chương trình hiệp nhất lớn lao của Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy Đức Giêsu giải thích cho hai khách bộ hành lạc lõng và vỡ mộng hiểu Người là sự thành toàn của mọi lời hứa: ”Rồi bắt đầu từ ông Môshê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27). Thánh sử cũng ghi lại lời hai môn đệ kêu lên sau khi đã nhận ra người bạn đường ấy là Chúa: ”Dọc đường khi Người nói chuyên và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,32). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm tắt các chặng sự Mạc khải của Thiên Chúa bằng cách cho thấy một cách tổng quát sự phát triển của nó (x. cs 54-64). Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã mời gọi con người bước vào sự hiệp thông thân tính với Người, và cả khi con người vì bất tuân phục đã đánh mất đi tình bạn của Người, Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người cho quyến lực của cái chết, nhưng nhiều lần đã cống hiến cho con người giao ước của Người (x. Sách lễ Roma, Lời nguyện Thánh thể IV). Sách Giáo Lý duyệt lại lộ trình của Thiên Chúa với con người, từ giao ước với ông Noe sau Lụt Hồng Thủy, cho tới việc mời gọi tổ phụ Abraham ra khỏi quê hương để làm cho ông trở thành cha của đông đảo các dân tộc. Thiên Chúa thành lập Israel như dân Người qua biến cố Xuất Hành, giao ước núi Sinai và ơn Lề Luật qua ông Môshê để được nhận biết và phục vụ như Thiên Chúa duy nhất hằng sống và đích thật. Với các ngôn sứ Thiên Chúa hướng dẫn dân Người trong niềm hy vọng của ơn cứu rỗi, trong việc chờ đợi một Giao Ước mới và vĩnh cửu được dành để cho tất cả mọi người, được hiện thực nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, tột đỉnh của sự Mạc Khải và chương trình lòng lành của Thiên Chúa. Đó là chương trình cứu độ duy nhất được hướng tới toàn thể nhân loại, được mạc khải từ từ và thực hiện bởi quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều nền tảng đối với lộ trình đức tin. Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Từ ”vọng” có nghĩa là ”đến”, ”hiện diện” và xưa kia ám chỉ việc đến của một vì vua hay của hoàng đế trong một tỉnh của đế quốc. Đối với chúng ta là các kitô hữu nó ám chỉ một thực tại tuyệt vời và đảo lộn: Thiên Chúa đã vượt qua Trời của Người và cúi xuống trên con người; Người đã ký kết giao ước với nó bằng cách bước vào trong lịch sử của một dân tộc. Người là vua đã xuống trong tỉnh nghèo nàn này là trái đất và đã ban tặng cho chúng ta sự sống của Người bằng cách nhận lấy thịt xác chúng ta, bằng cách trở thành người như chúng ta. Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại con đường của sự hiện diện đó, và nó luôn nhắc lại cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không tự ra khỏi thế giới, không vắng mặt, không để chúng ta một mình, nhưng đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế, mà chúng ta phải học biết phân định. Cả chúng ta nữa, với đức tin đức cậy và đức mến chúng ta được mời gọi ý thức và làm chứng mỗi ngày cho sự hiện diện này của Chúa, trong một thế giới thường khi hời hợt và lo ra, và làm rạng ngời lên trong cuộc sống chúng ta ánh sáng đã chiếu soi hang đá Bếtlêhem. Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, A rập, Ba Lan, Lituani và Ý. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ Đức Mẹ Guadalupe, Bổn Mạng Châu Mỹ và Ngôi Sao của việc truyền giáo mới. Ngài cầu chúc các bạn trẻ học yêu mến và hy vọng trong trường của Mẹ Maria. Đức Thánh Cha xin Mẹ đồng hành với các người đau yếu và củng cố họ trong khổ đau. Ngài khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới phó thác con đường hôn nhân của họ cho Thân Mẫu Chúa Giêsu. Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người. Linh Tiến Khải – Vietvatican

TẠI SAO ĐỨC THÁNH CHA PHẢI HIỆN DIỆN TRÊN TWITTER ?

TẠI SAO ĐỨC THÁNH CHA PHẢI HIỆN DIỆN TRÊN TWITTER ?

Đức Bênêđictô XVI, với tài khoản trên Twitter là @pontifex, đã tập hợp được 617.000 người đăng ký, ngài sẽ có « tweet » (bài viết) đầu tiên của  ngài vào ngày 12 tháng 12-2012.

Đối với cha Antonio Spadaro, giám đốc tạp chí Civilta Cattolica của dòng Tên, người thường có những bài suy tư về Giáo Hội và Internet, sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là bình thường vì « các mạng xã hội đã trở thành những nơi ý nghĩa thực sự ».

« Sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là hoàn toàn bình thường. Nhiều vị hữu trách tôn giáo đã hiện diện trên Twitter rồi !… Sự hiện diện này hoàn toàn thích ứng với những phương thức truyền thông mới trong đó con người hiện đại đang sống.

Ngày xưa, các thể chế truyền tải những nội dụng. Từ nay, bên kia việc truyền tải này, chúng phải chia sẻ những thông tin. Chúng ta biết rõ làm thế nào một sứ điệp trên Twitter có thể được « tweeter » lại  (được các trang khác đăng lại) và như thế được chia sẻ, được bình luận luôn mãi. Đức Bênêđictô XVI, theo cách của ngài, sẽ có thể truyền bá và chia sẻ đến vô tận sứ điệp của Tin Mừng.

Những gì Giáo Hội chia sẻ chung với Net là một sứ điệp phải được thông truyền trong mối tương quan liên lỉ với các cộng đồng nhân vị. Giáo Hội không thể hoạt động truyền thông độc chiều nữa, nhưng trên phương thức của chứng ta cụ thể, cá nhân và được chia sẻ. Các mạng xã hội đã trở thành những nơi ý nghĩa đích thực, tức là những nơi quan tâm và chia sẻ các giá trị, ý tưởng, và cuộc sống.

Tôi tin rằng các các thể chế sẽ luôn có ý nghĩa, nhưng khả năng hành động của chúng trên xã hội sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa nếu chúng có thể sống thẩm quyền của mình dưới hình thức một cuộc chia sẻ các thông tin. Ngày xưa, các thể chế truyền tải các nội dung. Từ nay, người ta không truyền tải nữa, nhưng là chia sẻ. »

Tý Linh

HỘI NGHỊ LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN X BẮT ĐẦU DIỄN RA TẠI VIỆT NAM

HỘI NGHỊ LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN X BẮT ĐẦU DIỄN RA TẠI VIỆT NAM

Chiều 10 tháng 12-2012 đã khai mạc Hội nghị khoáng đại của Liên HĐGM Á Châu, diễn ra tại Xuân Lộc. Hội nghị sẽ kết thúc với thánh lễ bế mạc tại nhà thờ chánh Tòa Đức Bà, Sài Gòn, vào sáng Chúa Nhật 16 tháng 12-2012, lúc 9 giờ. Trang web HĐGM Việt Nam cho biết các tham dự viên của Hội nghị đã đến phi trường Tân Sơn Nhất để chuẩn bị cho cuộc Hội nghị lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam này. Riêng các ĐHY Oswald Gracias, Tổng thư ký Liên Hội đồng Giám mục Á châu, cùng ĐHY Gaudencio Borbon Rosales (Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Hội nghị lần này), Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli  và Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn ra Hà Nội; sau đó cùng với Đức Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (Chủ tịch HĐGMVN) đến thăm xã giao Chính quyền Việt Nam trước khi khai mạc Đại hội.

Radio Vatican nhận định Đại Hội diễn ra tại Việt Nam như là “dấu cởi mở rụt rè nhưng chắc chắn” tại Việt Nam. Trong quá khứ, Liên Hội Đồng đã từng đề nghị tổ chức tại Việt Nam, nhưng lúc đó câu trả lời nhận được là “chúng tôi chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để tiếp đón”.

Các chủ đề chính của Đại Hội lần này là những thách đố mà các Giáo Hội Á Châu đang gặp phải. Đó là cơ hội để các Giáo Hội Á Châu nhìn lại cuộc sống và sứ mạng của mình và đồng thời đưa ra những định hướng mới cho tương lai gần.

Dưới đây là những chủ đề cụ thể:

+ Ngày thứ nhất: “Nhìn lại quá khứ và tạ ơn Chúa”;

+ Ngày thứ hai: “Phân định các dấu chỉ thời đại và cầu xin ơn khôn ngoan”;

+ Ngày thứ ba: “Suy niệm trong đức tin về hoàn cảnh mục vụ, cầu xin ơn lãnh đạo tinh thần”;

+ Ngày thứ tư: “Trả lời cho những thách đố mục vụ, cầu xin ơn can đảm và quảng đại”;

+ Ngày thứ năm: “Một lần nữa dấn thân trong sứ mạng của Giáo Hội tại Á Châu”;

+ Ngày thứ sáu: “cử hành kỷ niệm 40 năm (1972-2012)” thành lập Liên Hội Đồng.

Cầu xin cho Đại Hội được những hoa trái tốt đẹp của Chúa Thánh Thần.

Tý Linh

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-03 đến 12-09-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 12-03 đến 12-09-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Đồng tiền Euro Thánh Cyrilô và Mêthôđô, chấm dứt một cuộc bút chiến.

Bộ phim về cuộc đời và sự nghiệp của Joseph Ratzinger.

Toà Thánh chào mừng việc LHQ công nhận Palestine.

Tổng giáo phận Milan tăng gấp đôi các nhà trừ quỷ.

Các tổ chức từ thiện Công giáo được lệnh nhấn mạnh căn tính đức tin.

Trung Quốc sẽ có dân số Ki-tô giáo đông nhất.

BỔ NHIỆM MỚI.

Thẻ từ vi mạch (Identity card) bảo vệ an ninh chặt chẽ hơn ở Vatican.

Canberra đầy màu sắc chào mừng Vị Hồng Y Syro-Malabar.

Giáo sĩ lỗi lạc phái Tân giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Báo cáo Vatican về Mễ-Du đến hạn tháng nầy?

Phi Luật Tân: Cầu nguyện và chay tịnh chống lại dự luật kiểm soát sinh đẻ.

Trung Đông : Đại hội các Thượng Phụ và Giám Mục Công Giáo.

NCR (National Catholic Reporter) thách thức Vatican, kêu gọi truyền chức nữ giới.

Việc giáo sĩ lạm dụng tình dục là rào cản lớn nhất cho việc truyền giáo.

Tu sĩ Dòng Tên 92 tuổi bị trừng phạt sau phụng vụ Thánh Thể với nữ linh mục.

Đài Loan : Hội nghị chuyên đề về Thánh Kinh lần thứ IX .

Nữ hoàng Elizabeth ca ngợi chủng viện Anh ở Roma.

Các Giám Mục Ái Nhĩ Lan chỉ trích báo cáo của chính phủ về luật phá thai.

Không phải lúc các lãnh đạo các Giáo Hội tẩy chay cuộc trưng cầu về hiến pháp.

Tổng thống nước Đức thăm viếng Vatican.

Phi Luật Tân : Tân hồng y đề cập đến xung đột giáo phái.

Thượng phụ Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia từ trần.

(Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 12-03 đến 12-09-2012 )

Tân Giám Mục Kevin W. Vann chính thức nhậm chức tại Giáo phận Orange

Tân Giám Mục Kevin W. Vann chính thức nhậm chức tại Giáo phận Orange

Trích từ Người Việt (Thiên An)

IRVINE (NV) – Ðức Cha Kevin W. Vann vừa tiến hành nghi lễ nhậm chức tại Trung Tâm Sinh Hoạt Bren, thành phố Irvine, vào trưa Thứ Hai, ngày 10 Tháng Mười Hai, với sự tham dự của Đức Hồng Y Roger M. Mohany, 50 giám mục , 200 linh mục và hơn 4000 giáo dân đến từ khắp nơi

 

Tân Giám Mục Kevin W. Vann của Giáo Phận Orange dâng lễ trong thánh lễ nhậm chức vào trưa Thứ Hai, ngày 10 tháng 12 tại Bren Center. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Trong hương trầm nghi ngút, tân Giám Mục Vann tiến vào bàn thánh, trọng tâm của buổi lễ, trước sự vui mừng chào đón của các giám mục, linh mục, đại diện các đoàn thể, và những giáo dân từ nhiều nơi xa xôi đến mừng lễ nhậm chức của ngài.

Ngoài nghi thức của một thánh lễ thông thường như giảng kinh thánh và dâng bánh rượu, lễ nhậm chức của vị tân giám mục Giáo Phận Orange còn gồm nhiều thể thức long trọng như việc Ðức Cha Kevin W. Vann nghe đọc thư bổ nhiệm (Apostolic Mandate) của Ðức Giáo Hoàng, ngồi vào chiếc ghế danh dự của Tổng Giám Mục, bắt tay và nhận lời chúc mừng của đại diện các đoàn thể, và giảng thuyết lần đầu tiên trong tư cách Tổng Giám Mục Giáo Phận Orange.

Bên cạnh việc dùng thông thạo tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, Ðức Cha Vann cố gắng sử dụng tiếng Việt trong buổi lễ nhậm chức, cũng là dịp lần đầu tiên ngài ra mắt nhiều giáo dân gốc Việt. “Kính chào ông bà và anh chị em,” Ðức Cha Vann nói trong lúc mở đầu buổi lễ.

Theo tài liệu của hội thánh Công Giáo, Ðức Cha Kevin W. Vann sinh ngày 10 Tháng Năm, năm 1951 tại Springfield, Illinois. Ngài là con trưởng trong 6 người con của ông bà William M. Vann và Theresa Jones Vann. Ngài từng theo học và làm việc trong ngành Kỹ thuật Y khoa, nhưng xin vào chủng viện và theo học một năm tại Chủng Viện Ðức Mẹ Vô Nhiễm ở Springfield và sau đó học 4 năm thần học tại Chủng Viện Kenrick ở Missouri.

 

Ðức Cha Kevin W. Vann là vị tổng giám mục thứ tư của Giáo Phận Orange. (Hình: Giáo phận Orange cung cấp)

Sau khi chịu chức linh mục, ngài được gửi đi học về giáo luật tại Rô-ma. Trở về Giáo Phận Springfield, Cha Vann làm việc tại Tòa Án Giáo Phận và Tòa Kháng Án ở Chicago. Ðức Cha Vann được đề cử và tấn phong giám mục thứ ba của Giáo Phận Fort Worth vào năm 2005 cho đến cuối năm 2012, nơi ngài có dịp sinh hoạt với nhiều giáo dân gốc Việt và tìm hiểu văn hóa Việt Nam.

Ðức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI công bố việc chỉ định Ðức Cha Kevin W. Vann làm giám mục thứ tư của Giáo Phận Orange vào ngày 21 Tháng Chín năm 2012, nhưng đến Thứ Hai tuần này, vị tân giám mục mới chính thức tiền hành nghi lễ nhậm chức.

Các giám mục, linh mục và giáo dân gốc Việt có mặt tại nghi lễ đều tỏ ra vui mừng chào đón vị tân giám mục.

Linh Mục Joseph Luân Nguyễn, cha xứ tại nhà thờ Ðức Mẹ La Vang ở Santa Ana, chia sẻ: “Giám Mục Kevin Vann sẽ giúp rất nhiều cho cộng đồng giáo dân Việt Nam. Thật cám ơn Chúa.”

Linh Mục Luân Nguyễn cũng cho biết trong ba lần ngài tham dự nghi lễ nhậm chức của tổng giáo mục Giáo Phận Orange, “Ðây là lần có đông người nhất.” Nhiều giáo xứ có xe lớn đưa các giáo dân đến tham dự và chào mừng Ðức Cha Vann, trong đó có giáo xứ Ðức Mẹ La Vang.

 

Hàng trăm linh mục, giám mục và hàng ngàn giáo dân khắp nơi đến tham dự thánh lễ nhậm chức của vị tân giám mục. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Nữ tu, Soeur Teresa Thu Hồng Ðào, thuộc Dòng Mến Thánh Giá, phụ trách giáo lý tại Cộng Đoàn Đức Mẹ Mông Triệu Anaheim cho biết: “Tôi rất là vui khi có Cha Vann là Đức Giám Mục mới, ngài sẽ mang lại sức sống mới cho giáo phận. Ngài rất mở lòng với mọi sắc dân, và rất thân thiện. Hy vọng ngài sẽ đoàn kết tất cả mọi người trong tình yêu thương.” Tâm sự của bà phần nào giải thích lý do vì sao rất nhiều người gốc Việt hân hoan chào mừng vị tân Giám Mục Kevin W. Vann.

Sau buổi lễ, Giám Mục Vann bước ra ngoài để đón chào giáo dân. Ngài nói: " Chúa đã mang chúng ta lại với nhau để hoàn thành nhiệm vụ, bây giờ cùng nhau tiến tới để làm công việc đó".

Các bác sĩ Công giáo nhận thấy áp lực khi vi phạm giáo huấn Giáo hội

Các bác sĩ Công giáo nhận thấy áp lực khi vi phạm giáo huấn Giáo hội

Các bác sĩ Công giáo nhận thấy áp lực khi vi phạm giáo huấn Giáo hội thumbnail

Các bác sĩ Công giáo nói cuộc sống đức tin của họ thường mâu thuẫn với thực tế trong trách nhiệm chuyên môn

Các bác sĩ Công giáo nói họ thường bị buộc phải bỏ qua giáo huấn xã hội của Giáo hội về phá thai và hạn chế sinh đẻ nhân tạo, vốn được chính phủ và các tổ chức phi chính phủ phổ biến trên cả nước nhằm kiểm soát dân số ở Bangladesh.

Hạn chế sinh đẻ được cổ vũ mạnh mẽ trong quốc gia có hơn 152 triệu dân này từ những năm 1990 – Bangladesh là quốc gia đông dân thứ tám trên thế giới. Ở đây phá thai là bất hợp pháp trừ khi tính mạng của người mẹ bị nguy hiểm, nhưng các bác sĩ nói tình trạng này hiện đã phổ biến.

"Tôi đã từ chối giết hại thai nhi nhiều lần", bác sĩ June Jacqueline Gomes nói. Bà cho biết từ chối phụ nữ đồng nghĩa với bệnh nhân sẽ không bao giờ trở lại với bà. Do đó, ít người trong số 90 bác sĩ Công giáo trong nước này dám từ chối thực hiện các ca phá thai.

Bà cho biết bà đã thực hiện "hàng trăm" ca thắt ống dẫn trứng, việc làm này cũng trái với giáo huấn Công giáo.

Bác sĩ Gomes tham dự chương trình "Đức tin trong đời sống của chuyên gia y khoa", do Ủy ban Chăm sóc sức khỏe và Hiệp hội Bác sĩ Công giáo ở Bangladesh tổ chức gần đây.

Một số bác sĩ tham gia chương trình phát biểu khó mà tuân giữ giáo huấn tôn giáo trong khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.

"Sau khi tôi đỗ MBBS, tôi được đào tạo về điều hòa kinh nguyệt (MR), một trong các hình thức phá thai. Nhưng tôi đã thực hiện hàng trăm ca MR trong đời, nếu không tôi có thể bị mất việc", bác sĩ Anthony Albert, 55 tuổi, làm việc tại bệnh viện tư ở Dhaka phát biểu.

Đức Giám mục dòng Thánh Giá Theotonious Gomes của Dhaka, chủ tịch ủy ban và là diễn giả chính tại chương trình hội thảo nói bác sĩ Công giáo không nên chỉ biết kiếm tiền.

Vị giám chức thần học gia nói: "Giáo huấn xã hội Công giáo xem mạng sống con người hơn tất cả và chúng ta không bao giờ ủng hộ việc hủy hoại mạng sống. Dù đức tin của chúng ta xung đột với thực tế, chúng ta cũng cần phải trung thành với đức tin".

Đức cha Gomes phát biểu thêm hiện nay ủy ban đang nghĩ đến việc xây dựng một "bệnh viện Công giáo mẫu" trong nước, để người dân có thể được điều trị phù hợp với giáo huấn xã hội Công giáo.

Nữ tu bác sĩ Mary Olympia thuộc dòng Hội viên Đức Mẹ Nữ Vương các Tông đồ nói chị thường nói với các bệnh nhân phá thai là giết người và bất hợp pháp, mặc dù chị lưu ý có những trường hợp ngoại lệ hợp pháp và hợp luân lý.

"Tôi thường cảm thấy Giáo hội cần nới lỏng quy định vì các quy định này không xem xét tất cả các tình huống. Đôi khi nếu không phá thai người mẹ có thể chết hay nếu không hạn chế sinh đẻ nhân tạo thì gia đình có vợ hoặc chồng có HIV có thể bị đổ vỡ".

Trích từ UCANVietnam

Linh mục Chân Tín – nhà loan báo Tin mừng

Linh mục Chân Tín – nhà loan báo Tin mừng

Linh mục Chân Tín – nhà loan báo Tin mừng thumbnail

Thăm viếng linh cữu LM Chân Tín

Cha Stêphanô Nguyễn Tín hay còn gọi là Chân Tín qua đời hôm 1 tháng 12 tại tu viện của nhà dòng Chúa Cứu Thế ở Saigon. Ngài được biết đến như một linh mục luôn dấn thân trong việc loan báo Tin mừng, cho độc lập, tự do, dân chủ và quyền con người.

“Cha Stêphanô Chân Tín là người luôn cố gắng loan báo Tin mừng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời ngài” – cha Vinh sơn Phạm Trung Thành nói trong Thánh lễ an táng ngài sáng ngày 4-12 tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Vị giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) còn khẳng định thêm rằng cha Tín là người “đáng để chúng ta học hỏi và noi gương”.

Truyền thông Chúa Cứu Thế (VRNs) cho hay có gần 100 linh mục trong đó có linh mục Tổng đại diện Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh của Tổng giáo phận TP.HCM đồng tế Thánh lễ này. Ngoài ra, còn có sự hiện diện đông đảo tu sĩ nam nữ và giáo dân tham dự.

Cha Tín, sinh ngày 15-11-1920 tại tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ngài chịu chức linh mục năm 1949 và lấy bằng tiến sĩ thần học tại Rôma vào năm 1953.

Ngài từng giữ chức vụ giáo sư thần học, giám đốc học viện DCCT Đà Lạt, chủ nhiệm báo Đức Mẹ, và người sáng lập tạp chí và tủ sách Tuổi Hoa, Đối Diện, Đồng Dao, Đứng Dậy.

Sau khi bị nhà nước cấm làm báo, cha Tín tiếp tục làm chủ nhiệm của các tạp chí Thư Nhà (ghi xuất bản tại Pháp), rồi sau là Tin Nhà (ghi xuất bản tại Úc) và làm chủ nhiệm của bán nguyệt san Tự do ngôn luận, tiếng nói của phong trào 8406 cho đến lúc qua đời.

Trong bài giảng, cha Thành ca ngợi cha Tín là người có công trong việc lập giáo xứ An Thới Đông trong những năm ngài ở huyện Cần Giờ.

Năm 1990, cha Tín giảng tĩnh tâm Mùa Chay về chủ đề sám hối. Ngài yêu cầu mỗi người phải sám hối, Giáo hội phải sám hối và nhà cầm quyền cộng sản cũng phải sám hối với toàn thể quốc dân về những việc làm quá sức là sai trái. Sự việc này khiến ngài bị cộng sản bắt đi đày ở Cần Giờ trong ba năm. Cũng chính trong thời gian này ngài đã âm thầm dạy giáo lý, cử hành Thánh lễ chui và rao giảng lời Chúa cho những nông dân rất là nghèo khổ vùng An Thới Đông.

"Từ một nơi trắng tôn giáo, hiện nay giáo xứ An Thới Đông đã có hơn 500 giáo dân và xung quanh có thêm các giáo xứ khác" – cha Thành cho biết.

Vị giám tỉnh còn khen ngợi cha Tín là một trong những người ít ỏi dám đứng lên bênh vực giáo hội dẫu rằng hoàn cảnh Giáo hội lúc đó vô cùng khó khăn.

“Sự cống hiến của ngài vào biến cố phong thánh cho các vị thánh tử đạo Việt Nam dẫu nhỏ nhoi thôi nhưng góp phần cho Giáo hội Việt Nam của chúng ta ngày hôm nay có một lễ thánh tử đạo nói theo ngôn ngữ thời thượng ngày nay là hoành tráng”.

Năm 1998, cha Tín từng phát biểu với chính quyền tại trụ sở Mặt trận tổ quốc Việt Nam quận 3, Sài Gòn yêu cầu họ chấp thuận việc phong thánh cho 117 vị Thánh tử đạo Việt Nam.

Ngài còn được nhắc đến như một vị linh mục dấn thân cho độc lập, tự do, dân chủ và quyền con người.

Tác giả Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp viết rằng cha Tín “là một nhà chân tu, một trí thức suốt đời dấn thân cho độc lập, tự do, dân chủ và quyền con người”.

Tác giả còn cho biết cha Tín là một trong những nhân vật có uy tín của "thành phần thứ ba", và là “ngọn cờ cho cuộc đấu tranh đòi tự do cho tù nhân chính trị”.

“Cho đến những tháng chót của cuộc đời, mặc dù bệnh nặng, ông vẫn kiên định lên tiếng đòi tự do, dân chủ và quyền con người. Người ta có thể không chia sẻ với linh mục Chân Tín mọi ý kiến chính trị và nhận định về tình hình đất nước, nhưng không ai có thể phủ nhận sự trong sáng của lòng yêu nước và lí tưởng dân chủ, tự do, công bằng của ông” – ông Giao nhận xét.

Cha Tín từng bị nhiều người chỉ trích là theo cộng sản.

Trong trang viết cuối đời, cha Tín khẳng định rằng “Tôi không bao giờ chạy theo cộng sản, ủng hộ đường lối của cộng sản. Tôi cũng một lòng trung thành với Giáo hội. Và cho đến giờ này trên giường bệnh, tôi vẫn tiếp tục chống lại chế độ cộng sản và bênh vực Giáo hội Công giáo”.

“Xin Chúa chứng giám cho lòng thành tín của con” – ngài nói.

Cũng chính vì sự hiểu lầm đó mà trong Thánh lễ, cha Thành nói: "Tôi thiết tha mời gọi các cha, các tu sĩ hãy tha thứ cho cha già, tha thứ cho những việc ngài làm cho chúng ta buồn trong lúc sinh thời, những gì ngài làm cho chúng ta thiệt hại có khi vô tình hoặc vì một cách nào đó ngài không cố ý".

“Đồng thời chúng ta cũng nhìn nhận rằng cuộc đời của ngài là một bài học để mỗi người chúng ta học lấy. Tôi xin làm chứng về cuộc đời khiêm tốn và yêu thương trong cộng đoàn của ngài. Ngài luôn vui vẻ, tươi cười, yêu thương, nhẹ nhàng và sẵn sàng tha thứ cho anh em nào nhỏ tuổi hơn mà xúc phạm đến mình. Đó là một điểm nổi bật trong cuộc đời ngài” – cha Thành nói.

Trong những ngày cuối đời ngài mắc rất nhiều căn bệnh: tim không hoạt động, thận không làm việc được nữa, phổi ứ nước, hai chân rất đau đớn vì bị giãn tĩnh mạch và gần như bị hoại tử nhưng ngài lúc nào cũng vui vẻ tươi cười.

Thi hài cha Tín được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

UCANVietNam

 

Hội nghị Âu Châu chống nghèo túng nhóm họp tại Bruxelles

Hội nghị Âu Châu chống nghèo túng nhóm họp tại Bruxelles

Phỏng vấn ông Walter Nanni thuộc Caritas Italia,

Trong các ngày 5-7 tháng 12 năm 2012 Hội nghị Âu Châu chống nạn nghèo túng và loại trừ khỏi xã hội đã diễn ra tại Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ. Hội nghị do Caritas Âu Châu tổ chức với sự tham dự của đại diện các quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu cũng như các bộ trưởng lao động, đặc biệt là các vị lãnh đạo Caritas các nước Âu Châu. Trong các bài tham luận ông José Manuel Barroso, Chủ tịch Quốc Hội Âu Châu, và ông Herman Van Rompuy, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Âu Châu, đã bầy tỏ lo âu trước tình trạng kinh tế đen tối của Liên Hiệp Âu Châu với con số thất nghiệp lên tới hơn 110 triệu người, và nạn không có công ăn việc làm ngày càng gia tăng.

Thật thế, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ hồi năm 2008 cho tới nay không phải là một ý niệm, mà là một thực tại của cuộc sống thường ngày gồm nhiều khó khăn cụ thể khác nhau: từ việc mua các nhu yếu phẩm cần thiết nhất cho tới việc không đủ khả năng trả tiền thuê nhà, từ các khó khăn trong việc săn sóc sức khỏe cho tới việc giảm các trợ cấp xã hội từ phía các chính quyền thành viên của Liên Hiệp. Tắt một lời, hệ thống xã hội Âu Châu có nguy cơ bị chết vì bị đè bẹp và bóp nghẹt bởi gọng kìm của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh ngày càng siết chặt.

Ngày thứ hai của hội nghị (7 tháng 12-2012) tập trung vào các hành động cụ thể cần phải làm ngay trong thời gian ngắn nhất có thể để tránh cho tình hình khỏi đồi tệ thêm. Các con số thống kê qủa là một hồi còi hụ báo động: hơn 110 triệu người thất nghiệp, 42 triệu người sống dưới mức có thể chấp nhận. Các cuộc thảo luận bàn tròn cho thấy rằng các dự trù do hội nghị năm 2010 đề ra muốn loại trừ 20 triệu người khỏi cảnh nghèo túng nội trong năm 2020, đã lỗi thời, vì tình hình đã trở thành qúa đồi tệ. Cần phải có nhiều đầu tư hơn nữa để tiếp sức cho hàng ngàn tổ chức phi chính phủ, các hợp tác xã xã hội và các tổ chức địa phương dấn thân trong lãnh vực xã hội. Cần phải chiến đấu từ dưới thấp lên, kể cả qua chương trình tài trợ các dự án nhỏ, vì nó có thể là một trong các chìa khóa giúp nền kinh tế tái sinh.

Chứng từ của ông Nikos Voutsinos, thuộc Caritas Hy Lạp, đã khiến mọi người mủi lòng. Ông cho biết Hy Lạp hàng ngày phải oằn lưng dưới sức nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh. Hàng triệu người phải sống dưới mức nghèo túng và gặp khó khăn trong việc mua các nhu yếu phẩm. Nhưng người dân không đầu hàng chịu trận, mà phản ứng lại với vũ khí là tình liên đới.

Chính ý thức cố gắng trợ giúp nhau này đã trao ban nhiều hy vọng và hăng say hơn giúp người dân Hy Lạp tiếp tục cuộc sống. Chính những người nghèo trợ giúp các người nghèo khác. Và đây là điều rất đẹp. Phản ứng lại lời tuyên bố của ông Rompuy, nói rằng nếu chúng ta cùng nhau chiến đấu chúng ta sẽ thắng nghèo túng, ông Voutnsinos cho rằng các biện pháp ”thắt lưng buộc bụng” không trợ giúp vì Hy Lạp đã rơi vào trình trạng suy thoái từ 5 năm rồi, và không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Người dân Hy Lạp không trông thấy ánh sáng cuối đường hầm đen tối, mặc dù có lẽ họ có cuộc sống khá hơn nhờ số tiền trợ giúp sẽ nhận được. Nhưng tình hình vẫn khó khăn. Như là chuyên viên kinh tế ông tin rằng khi đưa ra biết bao nhiêu hạn chế, thuế, thuế rồi lại thuế nữa, sự thụt lùi lại càng ngày càng tệ hại thêm. Cần phải có sự phát triển, và các giả thiết hợp pháp để khuyến khích các hãng xưởng ngoại quốc đầu tư.

Ông Jorge Nunes Mayer, Tổng thư ký Caritas Âu Châu, người Tây Ban Nha, nhưng sống tại Bruxelles từ hơn hai năm nay, cho biết nhận thức về các hậu qủa cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh ở Bruxelles khác với nhận thức của người dân sống tại thủ đô của các nước Âu Châu. Mùa hè vừa qua khi trở về Tây Ban Nha, ông nhận thấy dân chúng nói về cuộc khủng hoảng, gánh chịu các hậu qủa tiêu cực của nó và cảm thấy bất an. Đó là điều người ta không cảm thấy tại Bruxelles. Các cơ cấu chính trị thì sống trong các diễn văn hay đẹp lý thuyết, nhưng trên thực tế đã không có các hành động và biện pháp cụ thể nào để trợ giúp dân nghèo. Vì thế như là Caritas Âu Châu chúng tôi có bổn phận đem thực tại của dân chúng vào trong Quốc hội và các cơ cấu Âu Châu như Ủy ban và hội đồng cố vấn Âu Châu. Và đó cũng là lý do khiến cho chúng tôi đưa ra bản tường trình về sự nghèo túng, về cuộc khủng hoảng, cùng với sự cộng tác của Caritas các nước Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các tổ chức bác ái công giáo khác như của Ailen, để cho thực tại đang khiến cho dân nghèo đau khổ tới được với các cơ quan Âu Châu.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông Walter Nanni, thuộc Caritas Italia, về Hội nghị Âu Châu chống nghèo túng và loại trừ khỏi xã hội, nhóm họp tại Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ trong tuần vừa qua.

Hỏi: Thưa ông Nanni, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh trên thế giới đã khiến cho 10,9 triệu dân Italia lâm cảnh sống khó khăn, đặc biệt là ở miền Nam Italia, và hàng ngày họ phải đi tìm sự trợ giúp, trong đó có các trợ giúp của Caritas, có đúng thế không?

Đáp: Đúng thế. Đây là lần đầu tiên chúng tôi trình bầy nghiên cứu này cùng với các nước Âu Châu chịu hậu qủa nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh là: Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Chúng tôi đã ghi nhận tình trạng trở nên đồi tệ hơn và số người đến xin Caritas trợ giúp đã gia tăng 60% trong vòng một năm. Điều này cho thấy một cách hiển nhiên là các biện pháp chống cuộc khủng hoảng đề ra trong hai năm qua đã không ích lợi bao nhiêu. Trái lại, trong một nghĩa nào đó, vài cắt chặt trợ giúp xã hội đã khiến cho tình hình càng tệ hại thêm. Vì thế trong lúc này chúng tôi chứng kiến số người tới xin Caritas trợ giúp đông hơn và chúng tôi cũng phải gia tăng các đáp ứng.

Hỏi: Đây là những người thuộc mọi giai tầng xã hội, nghĩa là cho tới trước khi có cuộc khủng hoảng họ đã là những người có cuộc sống bình thường, có công ăn việc làm hẳn hoi… Nhưng bây giờ cuộc khủng hoảng cũng đã gây tổn thương cho lớp người trung lưu này, có đúng thế không thưa ông?

Đáp: Vâng, đúng thế, chúng tôi không có các tình trạng cực đoan như ngày xưa nữa, nhưng chúng tôi có các tình trạng bình thường, nhất là những người lớn thuộc lứa tuổi 40-50 đã bất thình lình mất công ăn việc làm; các người trẻ với các hợp đồng làm việc tạm bợ, không biết phải làm gì nữa, bởi vì họ phải liên tục thay đổi việc làm. Thế rồi còn có các người di dân sau bốn năm năm lại quay trở lại xin Caritas trợ giúp. Điều này có nghĩa là trong thời gian qua tình hình đã không tiến triển tốt hơn, và họ đã không xây dựng được một mạng lưới tương quan giúp thăng tiến cuộc sống. Nhưng cũng có các tình trạng khác nữa, chẳng hạn như tình trạng của thế hệ ông bà cha mẹ bị bó buộc phải bán nhà cửa, hay hiện tượng các doanh thương tự tử gia tăng. Điều này khiến cho chúng tôi phải thành lập các trung tâm lắng nghe và cố vấn để trợ giúp các anh chị em nói trên.

Hỏi: Tình hình lại còn đồi tệ hơn tại miền Nam Italia, nơi trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng cũng đã có tình hình tệ hại hơn miền Bắc rất nhiều…

Đáp: Vâng. Chúng ta có thể nói rằng nó giống như mưa rơi trên đất đã ướt rồi, trong nghĩa cuộc khủng hoảng kinh tế tại miền Nam Itallia đánh trên một tình trạng có các hạ tầng cơ sở đồi tệ hơn miền Trung và miền Bắc Italia rất nhiều. Như vậy nó cũng là một sự mâu thuẫn nữa: người ta nói rằng miền Nam sẽ không bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế vì nó đã rất tách rời khỏi Âu Châu. Trên thực tế, 60% công ăn việc làm bị mất lại xảy ra ở miền Nam. Như thế trong nghĩa này, miền Nam Italia đã cảm thấy rất nhiều hậu qủa tiêu cực của cuộc khủng hoảng, vì nó không có các cơ cấu hạ tầng cần thiết giúp đứng dậy.

Hỏi: Trong số các giải pháp khả thể cho cuộc khủng hoảng kinh tế ông đã đề nghị một đơn thuốc đơn sơ có thể được định nghĩa như là một loại ”tiểu dự án”, nghĩa là cung cấp các trợ giúp nhỏ cho những người muốn bắt đầu một sinh hoạt. Đây có thể là chìa khóa giúp ra khỏi cuộc khủng hoảng hay không, ít nhất là từ bên dưới?

Đáp: Các ”tiểu dự án” này là các dấu chỉ nhỏ đã hoạt động tại các nước đang trên đường phát triển, và đã thành công trong việc vực dậy nền kinh tế của các cộng đoàn nhỏ. Chúng tôi tìm phát triển các dự án tài trợ nhỏ, bằng cách cho vay các số vốn nhỏ, không phải chỉ cho các gia đình mà cho cả các doanh thương nhỏ nữa, hay các hãng xưởng do gia đình điều khiển, hoặc để giúp làm nảy sinh ra các hãng xưởng nhỏ mới, và trợ giúp cho cả những người di dân. Nếu được nâng cao trên mức độ kinh tế, sự kiện này sẽ có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực. Đương nhiên nó không thể là giải pháp vĩnh viễn, nhưng có thể là một bước tiến tới.

Hỏi: Thưa ông Nanni, ông nhận thấy tương lai như thế nào? Ông đã tố cáo tình trạng thiếu nhân viên thiện nguyện: thế không còn có các người trẻ giúp các tổ chức Caritas tiếp tục các hoạt động thường ngày hay sao?

Đáp: Số các người thiện nguyện đang giảm bớt, bởi vì có các lãnh vực khác trong cuộc sống xã hội đạt nhiều thành tựu và lôi cuốn hơn. Có rất nhiều thiện nguyện viện trong các lãnh vực như môi sinh, nhi đồng, văn hóa, quy tụ và giải trí. Nhưng khi người ta nói tới lãnh vực xã hội, thì các thiện nguyện viên giảm sút, và các người thiện nguyện ngày càng già hơn. Người ta không muốn làm thiện nguyện, bởi vì họ không quen với các hình thức nghèo túng mới. Hiện nay chúng tôi thấy đó là một khó khăn. Còn liên quan tới tương lai thì chúng tôi đã đang ở trong một thời điểm sẽ không còn có thể bảo đảm các dịch vụ, mà chúng tôi đang cung cấp cho tới nay, cũng như các giờ mở cửa khác nhau. Vì vậy trước các trung tâm Caritas số người sắp hàng xin trợ giúp sẽ ngày càng dài thêm…

(RG 7-12-2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Ivory Coast tử nạn lưu thông

Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Ivory Coast tử nạn lưu thông



  

ABIDJAN. Đức TGM Ambrose Madtha, Sứ thần Tòa Thánh tại Côte d'Ivoire bên Phi châu, đã tử nạn lưu thông tối thứ bẩy 8 tháng 12-2012.

Đức TGM Madtha người Ấn độ, năm nay 57 tuổi (1955). Hôm 8-12, ngài đã cử hành lễ truyền chức ở thành phố Odienne ở mạn tây bắc Ivory Coast (Côte d'Ivoire), và trên đường về nhà, khi đến Biankouma ở phía tây thành phố Abidjan thì xe chở ngài bị một xe đi ngược chiều đâm vào. Đức TGM Madtha và người tài xế chết tại chỗ và LM bí thư và một nữ tu tháp tùng bị thương.

Đức TGM Madtha sinh tại Belthagady ở miền nam Ấn độ, thụ phong LM năm 1982, gia nhập ngành ngoại giao Tòa Thánh từ năm 1990 và phục vụ tại các sứ quán Tòa Thánh ở Ghana, El Salvador, Georgia, Albani và Đài Loan. Từ 4 năm nay (2008) ngài làm TGM Sứ Thần Tòa Thánh tại Ivory Coast (Côte d'Ivoire). Trong tư cách là niên trưởng ngoại giao đoàn tại nước này, ngài đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi hòa giải trong cuộc nội chiến sau cuộc bầu cử tại Côte d'Ivoire. Ngài cũng can thiệp để cứu trợ dân chúng tại Duékoué sau cuộc tấn công đẫm máu tại trại tị nạn Nahibly hồi tháng 7 năm nay.

Vừa khi hay tin, Tổng thống Alassane Ouattara đã chia buồn với ĐTC. Tuyên bố trên đài truyền hình quốc gia, Ông cũng cho biết chính quyền Côte d'Ivoire dấn thân xây dựng sự hiệp nhất và hòa giải để biểu lộ lòng biết ơn đối với Đức Cố Sứ Thần vì những nỗ lực giúp tái tạo hòa bình tại nước này. (SD 10-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

 

Đức Thánh Cha khai mạc Hội nghị quốc tế về Giáo Hội tại Mỹ châu

     Đức Thánh Cha khai mạc Hội nghị quốc tế về Giáo Hội tại Mỹ châu

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 cổ võ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô hằng sống như nguồn mạch mọi giải pháp cho các vấn đề của Giáo Hội tại Mỹ châu.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài huấn dụ ngắn tối chúa nhật 9 tháng 12-2012, trong buổi khai mạc Đại hội quốc tế về Tông Huấn ”Giáo Hội tại Mỹ châu” đang tiến hành cho tới ngày 12 tháng 12-2012 tại Vatican. Trong số đông đảo tín hữu dự lễ do ĐHY ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM kiêm Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, có lối 250 người, gồm 40 HY, GM và hàng chục LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân đại biểu của các Giáo Hội toàn Mỹ châu.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã đến chào thăm và ngỏ lời với mọi người. Ngài nhắc đến những thách đố và khó khăn mà Giáo Hội đang phải đương đầu tại Mỹ châu, như Tông huấn hậu Thượng HĐGM về Mỹ châu đã nhắc đến: đó là trào lưu tục hóa và các nhóm tôn giáo khác đang bành trướng trên toàn đại lục, gây ra nhiều vấn đề. Nền giáo dục và sự thăng tiến một nền văn hóa bênh vực sự sống là điều rất cấp thiết, trước sự lan tràn não trạng chống lại phẩm giá con người và không ủng hộ hoặc bảo vệ hôn nhân và gia đình.

ĐTC cũng nói: ”Làm sao không cảm thấy lo âu trước những tình trạng đau thương của người di dân, bị mất gốc rễ hoặc phải chịu bạo lực, nhất là do các tổ chức bất lương, nạn buôn bán ma túy, tham nhũng hoặc buôn bán khí giới! Và chúng ta phải nói gì về những chênh lệch quá lớn giữa người giàu và người nghèo, và những tình trạng nghèo đói do những chính sách kinh tế, chính trị và xã hội sai trái gây ra?”

ĐTC nhận xét rằng ”tất cả những vấn đề quan trọng ấy đòi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Tuy nhiên ngoài những thẩm định chuyên môn, Giáo Hội Công Giáo cũng xác tín rằng ánh sáng để giải quyết thích hợp các vấn đề đó chỉ có thể đến từ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô hằng sống, Đấng gợi lên những thái độ và phương thế hành động dựa trên tình thương và sự thật. Đây chính là sức mạnh quyết định sẽ biến đổi Mỹ châu”.

Cũng trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC kêu gọi các LM, phó tế, tu sĩ nam nữ và các nhân viên mục vụ hãy thanh tẩy và củng cố đời sống nội tâm hoàn hảo hơn nhờ một quan hệ chân thành với Chúa và siêng năng lãnh nhận các bí tích một cách xứng đáng. Điều này sẽ được khích lệ nhờ một nền huấn giáo thích hợp và thường huấn đúng đắn về đạo lý, hoàn tùn trung thành với Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, nhắm mang lại những câu trả lời sâu xa nhất cho các vấn nạn và khát vọng của tâm hồn con người”.

Hội nghị ”Theo vết Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM ”Giáo Hội tại Mỹ châu”, nhắm đào và tái đẩy mạnh trực giác ngôn sứ của Đức Gioan Phaolô 2 trong tông huấn Giáo Hội tại Mỹ châu ban hành hồi năm 1997.. Sau khi bức tường Berlin ở Âu Châu sụp đổ, vần đề bây giờ là làm sao phá đổ bức tường ngăn cách giữa Bắc Mỹ và phần còn lại ở Mỹ châu.

Trong số các vấn đề chung mà Giáo Hội tại Bắc và Nam Mỹ gặp phải có vấn đề các giáo phái, sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, vấn đề di dân và nạn buôn bán ma túy, nạn nghèo đói.

Theo ĐHY Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, vấn đề di dân cũng là một đề tài nóng bỏng đối với Hoa Kỳ, Mêhicô, quần đảo Caraibí và cả các nước Trung Mỹ. Ngoài ra, đức tin sinh động của những người di dân từ Mỹ châu la tinh mang lại một đà tiến mạnh mẽ cho Giáo Hội tại Bắc Mỹ. Điều này đòi các tín hữu tại Bắc Mỹ cũng phải mở rộng vòng tay đón tiếp những người mới đến. (SD 9-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican

10 sự kiện Mùa Vọng

10 sự kiện Mùa Vọng

Khắp nơi trên thế giới bắt đầu vang lên các bài hát Giáng sinh và mọi người sẵn sáng nói về mùa Giáng sinh – nhưng chưa phải lễ Giáng sinh. Mùa Vọng là mùa chuẩn bị cho lễ Giáng sinh.

Vậy mùa Vọng là gì và tại sao lại quan trọng? Mùa vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giêsu đến. Mùa Vọng có chủ đề hầu như là sám hối (quasi-penitential theme), và điều này có thể là “thuốc giải độc” mạnh đối với việc bảo vệ quyền lợi của đất nước và thời gian của chúng ta.

Đây là 10 sự kiện quan trọng về mùa Vọng:

1. Việc “chuẩn bị lễ Giáng sinh” được tìm thấy trong sách ghi chép về Công nghị Saragossa (Synod of Saragossa), ở Tây ban nha năm 380 (sau CN). Công hội này tuyên bố các Kitô hữu đã rửa tội nên có mặt ở nhà thờ từ 17/12 đến 25/12, 8 ngày trước lễ Giáng sinh – không là mùa Vọng trọn vẹn nhưng là một sự khởi đầu.

2. Thánh Caesarius thành Arles (502-542) được coi là người có những bài giảng đầu tiên về mùa Vọng.

3. Công hội Macon ở Gaul (ngày nay là Pháp) năm 581 (sau CN) là nhân chứng hùng hồn về những gì chúng ta có thể gọi là mùa Vọng. Công hội này nói rằng các quy tắc phụng vụ đối với mùa Chay được duy trì từ 11/11 tới 24/12 (khoảng 40 ngày). Việc nối kết giữa mùa Vọng và mùa Chay phản ánh lý do tại sao màu tím sám hối lại phổ biến đối với cả mùa Vọng và mùa Chay.

4. Chúng ta cũng có bài giảng của Thánh GH Gregôriô Cả (590-604) về Chúa nhật thứ II mùa Vọng.

5. Thế kỷ thứ VII, mùa Vọng được cử hành ở Tây ban nha với 5 Chúa nhật! Sách bí tích Gelasia (Gelasian Sacramentary) cũng đưa ra phụng vụ đúng đối với “năm Chúa nhật mùa Vọng”.

6. Các Giáo hội Đông phương bắt đầu cử hành mùa Vọng từ thế kỷ thứ VIII như thời gian ăn chay nghiêm nhặt và kiêng khem – việc thực hành vẫn phổ biến trong Chính thống giáo Đông phương (Eastern Orthodoxy). Việc thực hành này cũgn phản ánh tính tương tự với mùa Chay. Một cách ngẫu nhiên, màu đỏ là màu phụng vụ phổ biến nhất đối với mùa Vọng trong các Giáo hội Đông phương.

7. Thánh GH Gregoriô VII (1073-85) đã giảm số Chúa nhật mùa Vọng từ 5 xuống còn 4 như hiện nay.

8. Chúa nhật thứ III mùa Vọng được gọi là Chúa nhật vui mừng (Gaudete Sunday) và được đánh dấu bằng lễ phục hồng và treo màn. Gaudete nghĩa là vui mừng vì Chúa nhật thứ III là đi được nửa chặng đường mùa Vọng. Việc này hợp với lễ phục hồng được dùng vào Chúa nhật thứ IV mùa Chay (Laetare Sunday), cũng đi được nửa chặng đường mùa Chay.

9. Vòng hoa mùa Vọng, xuất hiện trong nhiều gia đình Công giáo, đó là một cách sáng tạo mới. Nó được bắt nguồn từ một thói quen của người Đức hối thế kỷ thứ XIX, nguồn gốc từ những người theo thuyết Luti (Lutheranism). Việc thực hành này mau chóng được người Công giáo Bavaria theo và phát triển ra khắp thế giới.

10. Phụng vụ mùa Vọng đề cập lần đến thứ hai của Đức Kitô trong khi vẫn nhớ lần đến thứ nhất của Đức Kitô trong lễ Giáng sinh. Như vậy, mùa Vọng được cử hành hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử qua Đức Giêsu Kitô. Mùa Vọng là bước ngoặt của lịch sử Kitô giáo.

Tôi hy vọng sẽ hữu ích cho bạn. Hãy gởi thông điệp này cho bạn bè và gia đình, đồng thời tận hưởng mùa Vọng thánh thiện. Chúc mọi người sống mùa Vọng hạnh phúc và thánh thiện để xứng đáng đón nhận Hồng ân của Chúa Hài Đồng.

TAYLOR  MARSHALL

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Canterbury Tales)

Mùa Vọng – mùa của những khao khát

 Mùa Vọng – mùa của những khao khát


 

Đối với người Công giáo, Mùa Vọng là khởi điểm cho một Năm Phụng vụ mới, khởi đầu lại cho chúng ta một hành trình mới của đời người. Đồng thời, cũng là dịp mỗi người nhìn lại đời sống Kitô hữu của mình trong năm qua, để có những thay đổi và cũng cố về đức Tin – Cậy – Mến trên bước đường làm con Chúa trong Năm Phụng vụ mới.

Đối với mọi người đây là tháng cuối cùng của một năm, kết thúc những hoạt động trong một năm và có những định hướng cho năm mới, cho nên ai cũng luôn ấm ủ hy vọng lớn về những điều tốt đẹp, khao khát những điều may mắn trong những ngày còn lại của năm cũ này. Để bước vào năm mới với một động lực mạnh mẽ trong niềm vui của sự hào hứng.

Những người làm ăn kinh tế thì họ hy vọng những điều may mắn tốt đẹp cho công việc làm ăn để khởi đầu một năm mới với nhiều thuận lợi. Những học sinh, sinh viên thì hy vọng những bài kiểm tra, những môn thi cuối kỳ của học kỳ thứ nhất đạt kế quả tốt đẹp, để bước vào kỳ học mới với động lực mạnh mẽ và cố gắng hơn… Nhưng đặc biệt hơn, đối với người Kitô hữu, họ đang có một hy vọng lớn lao, khao khát đích thực đó là mong đợi Con Thiên Chúa giáng trần – Hài Nhi Giêsu. Người đến trần gian, mặc lấy thân phận con người, chuộc tội cho chúng ta để chúng ta được sống trong ân nghĩa làm con Thiên Chúa.

Những ngày này, chúng ta đang sống sự trông mong, đợi chờ con Thiên Chúa xuống thế làm người. Vậy, chúng ta hy vọng gì, khao khát gì nơi Con Thiên Chúa khi Người đến?

Khao khát sự thật, công lý và hòa bình

Hơn lúc nào hết, Con người ngày nay đang sống trong nhiều nỗi bất an, vô lương tâm và đầy rẫy gian dối. Vì những mối lợi cá nhân, vì đồng tiền đã khiến con người lừa đảo lẫn nhau, gian manh với cả anh em mình. Con người “dẫm đạp” lên nhau để sống, lừa lọc trong làm ăn hòng vun vén thật nhiều tiền của. Vì mối lợi của một tổ chức, cơ quan, con người ta có thể bịt miệng những ai dám nói lên sự thật, đè nén và đối xử bất công những ai dám đi ngược lại sự gian dối, ác tâm của họ. Ngay bên cuộc sống, trong xã hội chúng ta, đang thiếu tôn trọng nhân quyền và nhân phẩm của con người. Đạo đức đang xuống cấp một cách trầm trọng, các tệ nạn chém giết, cước bóc, hiếp dâm, phá thai, đánh nhau… nhan nhản trên các tờ báo hằng ngày.

Có vẻ xã hội đang được thu nhỏ dưới bốn câu thơ sau: “Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi, chỉ còn lương thực tăng giá thôi, lương tâm bán rẻ hơn lương thực, chân lý – chân giò một giá thôi!”. Cho nên con người hôm nay luôn cảm thấy lo lắng về cuộc sống, bất an về tinh thần. Từ đó họ luôn khao khát sự thật, mong cho chân lý được hiển trị để cuộc sống có hòa bình đích thực. Nhưng có lẽ điều họ đang mãi kiếm tìm chính là điều mang đến cho họ sự bất an. Sự thật mà họ đang chứng minh là sự thật giả tạo. Chân lý họ đang bám víu là cái lý “không có chân”! Bởi tất cả những điều con người đang kiếm tìm thiếu vắng Thiên Chúa vì “chính Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).

Khao khát tình yêu

Một thế giới “thượng vàng hạ cám” đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Con người ngày nay đang dần trở nên vô cảm với nhau. Tình yêu, tình thương đã được công nghiệp hóa? Lối sống ích kỷ, thờ ơ đang ngày một ăn sâu vào mỗi chúng ta. Con người ngày nay đang thiếu thốn những tình cảm chân thành, thiếu tình thương đích thực. Trái lại, họ đang trao cho nhau nhưng thứ tình cảm vì lợi lộc, đến với nhau bằng thứ tình thương lợi dụng, và dùng tình yêu như một thứ mua bán nhằm đạt được điều mình muốn. Quả vậy, thế giới hôm nay đang bị băng hoại tình người, thiếu vắng tình thương và đang trở nên vô tâm, vô cảm với nhau. Thiết nghĩ, nguyên nhân sâu xa dẫn đến điều đó là cuộc sống của họ đang loại trừ Thiên Chúa nên vắng bóng tình yêu. Vì thánh Gioan đã khẳng định “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8).

Khao khát ơn cứu độ

Chính thánh Gioan Tẩy giả đã khẳng định: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6). Chúa giáng sinh làm người để cứu độ chúng ta, chuộc mọi tội lỗi của con người để chúng ta được sống trong ân nghĩa làm con cái Chúa. Những trái lại, đã hơn 2000 năm Con Thiên Chúa giáng trần nhưng nhiều người vẫn chứa thấy ơn cứu độ. Không đâu xa, ở Việt Nam, đã gần 500 năm từ ngày Tin Mừng được gieo vãi trên mảnh đất này, nhưng số người được rửa tội chỉ vào khoảng 1/10 dân số. Đó là con số rửa tội, còn con số “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” thì không ai thống kê được! Chúa đã ban cho con người sự tự do để họ chọn lựa, tự do kiếm tìm điều tốt nhất cho mình, nhưng họ lại chỉ lo tích trữ cho mình nhiều tiền bạc, tìm địa vị chức quyền, đam mê những thú vui trần thế… Vì thế, sự tự do đã dần đưa họ đến sự mất tự do, xa dần ơn cứu độ và dẫn đến sự diệt vong. Cho nên, con người vẫn luôn đi tìm và khao khát ơn cứu độ nhưng vẫn không tìm được vì họ đã không chọn “phần tốt nhất” cho mình, đó chính là “ơn cứu độ của Thiên Chúa” chúng ta.

Khi cuộc sống còn vắng bóng sự thật, thiếu thốn tình yêu, xa rời chân lý thì làm sao con người thấy được ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành tặng cho mình? Thiên Chúa đã ban cho con người Người Con duy nhất của mình là Đức Giêsu. Chúng ta đang mong đợi, đang khao khát Người Con đến để chúng ta được sống trong yêu thương, được hòa bình đích thực và được hưởng ơn cứu độ. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm gì khi Ngài đến?

Đã bao dịp Giáng ginh trôi qua, đã bao lần “nửa đêm khấn hứa”, không ít lần “quỳ bên hang sâu” nhưng chúng ta đã làm gì, đã sống như thế nào để cho những khao khát đó phần nào trở thành hiện thực? Hay chúng ta mong đợi Chúa đến chỉ là để được vui chơi, được ngắm những cảnh đẹp Noel lung linh, huyền ảo, hay xem đó là cơ hội để chúng ta tâm sự, tỏ tình cùng ai, hoặc là dịp để mở tiệc, liên hoan rầm rộ…

Hy vọng trong thời gian đợi chờ Chúa đến, mỗi chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, chúng ta biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, loại bỏ những của cải vật chất tầm thường. Giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, làm chứng cho chân lý cho dẫu có bị nghi kỵ, hiểu lầm và kết án bất công. Chúng ta hãy sống theo gương Hài nhi Giêsu, làm chứng cho sự thật, dám yêu đến hy sinh cả mạng sống, dám sống hết mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người để cho sự thật được tôn trọng, công lý được hiển trị, tình thương được lan tỏa và cho mọi người “thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Ước mong trong Năm Đức Tin này, cách riêng trong Mùa Vọng này, với những khao khát còn đó, chúng ta hãy sống chứng nhân Tin Mừng giữa cuộc sống này để đón chờ Chúa đến và cho những khao khát và hy vọng chân chính trở thành hiện thực. Nhờ đó, chúng ta có một ngày Lễ Giáng Sinh vui vẻ, ý nghĩa, an lành và một Mùa Giáng Sinh chứa chan ân sủng của Hài Nhi Giêsu.

J.B. Lê Đình Nam Đạo Binh Đức Mẹ

Giáng Sinh là lễ của Con Thiên Chúa đến đem an bình, sự sống và niềm vui cho con người.

Giáng Sinh là lễ của Con Thiên Chúa đến đem an bình, sự sống và niềm vui cho con người.

Thánh Gioan Tẩy Gỉa mời gọi chúng ta lắng nghe, tiếp nhận Lời Chúa và sống nòng cốt thế nào để lễ Giáng Sinh không chỉ như là một lễ bề ngoài, mà là lễ của Con Thiên Chúa đến để đem an bình, sự sống và niềm vui đích thật cho con người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 9 tháng 12-2012. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, Trong Mùa Vọng phung vụ đặc biệt nêu bật
hai gương mặt chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến: đó là Đức Trinh Nữ Maria và thánh Gioan Tẩy Giả. Hôm nay thánh Luca giới thiệu với chúng ta Gioan Tẩy Giả, và giới thiệu người với các sắc thái khác với các Thánh sử khác. “Tất cả bốn Phúc Âm đặt để gương mặt của Gioan Tẩy Giả vào đầu sinh họat của Đức Giêsu và giới thiệu ông như là vị tiền hô. Thánh Luca đã để vào đàng sau việc nối liền hai gương mặt ấy và sứ mệnh của các vị… Trong việc thụ thai và sinh ra, Đức Giêsu và Gioan đã được đặt trong tương quan với nhau” (Thời thơ ấu của Chúa Giêsu, 23). Việc sắp xếp này giúp hiểu rằng Gioan, như là con của ông Dakharia và bà Êlidabét, cả hai đều thuộc gia đình tư tế, không chỉ là vị ngôn sứ cuối cùng, mà cũng diễn tả toàn chức tư tế của Cựu Ước, và vì thế chuẩn bị con người cho việc phụng tự tinh thần của Tân Ước, được Chúa Giêsu khai mào (x. ibid, 27-28). Ngoài ra, thánh Luca đánh đổ mọi kiểu đọc huyền thoại, mà người ta thường làm đối với các Phúc Âm, và đặt để cuộc sống của vị Tẩy Giả vào trong lỊch sử khi viết: “Vào năm thứ mười lăm thời hoàng đế Tibêrio, trong khi Ponzio Pilatô làm tổng trấn… dười thời các thượng tế Anna và Caipha” (Lc 3,1-2). Bên trong khung cảnh lịch sử này được đặt để biến cố vĩ đại đích thực, là việc sinh ra của Chúa Kitô, mà các người thời đó đã không nhận ra. Đối với Thiên Chúa, các kẻ lớn lao của lịch sử làm khung cho các người bé nhỏ.

Đức Thánh Cha nói về thánh Gioan Tẩy Giả như sau:

Thánh Gioan Tẩy Giả tự định nghĩa mình như là “tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa, hãy uốn thẳng các lối đi của Người” (Lc 3,4). Tiếng loan báo lời, nhưng trong trường hợp này, Lời của Thiên Chúa đi trước, trong nghĩa chính nó xuống trên Gioan, con của Dakharia, trong sa mạc (x. Lc 3,2). Như thế, ông có một vai trò lớn, nhưng luôn luôn để phục vụ Chúa Kitô. Thánh Agostino chú giải rằng: “Gioan là tiếng. Nhưng về Chúa trái lại người ta nói: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời” (Ga 1,1). Gioan là tiếng nói qua đi, Chúa Kitô là Lời vĩnh cửu đã có từ ban đầu. Nếu lấy đi lời khỏi tiếng, thì còn lại cái gì? Một tiếng mơ hồ. Tiếng không lời đánh động thính giác, nhưng không xây dựng con tim” (Diễn văn 293,3; PL 38,1328). Chúng ta có bổn phận lắng nghe tiếng nói ấy để dành chỗ trong con tim cho Chúa Giêsu và đón tiếp Người là Lời cứu rỗi chúng ta. Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy chuẩn bị để nhìn thấy, với con mắt đức tin, ơn cứu độ của Thiên Chúa trong Hang Đá nghèo hèn Bếtlêhem (x. Lc 3,6). Trong xã hội tiêu thụ, trong đó người ta thử tìm niềm vui trong các sự vật, vị Tẩy Giả dạy cho chúng ta biết sống một cách nòng cốt, để Giáng Sinh không chỉ là một lễ bề ngoài, nhưng như lễ của Con Thiên Chúa đến để đem tới cho nhân loại an bình, sự sống và niềm vui đích thực.

Chúng ta hãy phó thác con đường đến gặp Chúa của chúng ta cho sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ Maria, Đức Nữ Trinh của Mùa Vọng, để sẵn sàng đón tiếp trong tim và trong toàn cuộc sống Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Bằng tiếng Pháp ngài mời gọi mọi người quảng đại tiếp đón các anh chị em di dân phải bỏ quê hương vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có chiến tranh và nghèo đói, và phải sống trong cảnh tạm bợ, ít được hiểu biết. Ước chi họ được tiếp đón với tình liên đới huynh đệ, được trợ giúp trong các nhu cầu của họ và có cuộc sống xứng đáng.

Bằng tiếng Anh ngài nói trong Phúc Âm hôm nay thánh Gioan Tẩy Giả nhắc cho chúng ta biết sự cần thiết của việc sám hối và thanh tẩy để dọn đường cho Chúa và chờ đợi Người đến trong vinh quang.

Trong tiếng Đức ngài nói qua lời thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi hoán cải và hòa giải với Chúa, chúng ta cũng được kêu mời đón nhận ơn tha thứ trong bí tích Hòa Giải, qua đó Thiên Chúa tha tội cho chúng ta, chữa lành các thương tích và làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài ghi nhận rằng ngày nay, tuy được mời gọi, nhưng có nhiều người không tin. Trong Năm Đức Tin này, cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta được kêu mời là các sứ giả Tin Mừng và là chứng nhân trung thành của Chúa Kitô.

Sau cùng Đức Thánh Cha chúc tất cả một ngày Chúa Nhật tươi vui an bình.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

 

 

LẠY MẸ MARIA, KHÔNG HỀ VƯỚNG MẮC TỘI LỖI, XIN CẦU CHO CHÚNG CON ĐANG CHẠY ĐẾN CÙNG MẸ!

LẠY MẸ MARIA, KHÔNG HỀ VƯỚNG MẮC TỘI LỖI, XIN CẦU CHO CHÚNG CON ĐANG CHẠY ĐẾN CÙNG MẸ!



… Câu chuyện cuộc đời cánh hoa bé nhỏ của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Cô thiếu nữ Ý có tên Margherita. Margherita là đứa con ngoan thảo của Đức Mẹ. Cô là thành viên Hội Đức Bà Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cô tận hiến toàn thân cho Đức Mẹ. Trọn ngày sống của cô thuộc về Đức Mẹ MARIA.

Chỉ có điều đáng nói và cũng là lý do gây bối rối không ít trong tâm hồn thơ trắng và nơi lương tâm bén nhạy của cô gái. Margherita tự suy xét và tự đặt lại vấn đề tình yêu chân thật đối với Hiền Mẫu Thiên Quốc. Margherita tự hỏi:
– Làm sao mình có thể tuyên bố yêu mến Đức Mẹ khi mình không ưa thích lần hạt Mân Côi, lời Kinh rất đẹp lòng Đức Mẹ?

Thật thế, Margherita không tài nào đọc trọn tràng kinh Mân Côi. Cô cũng không thể hiểu được tại sao các tín hữu Công Giáo lại yêu thích lần chuỗi Mân Côi. Margherita không thích lần hạt nên cũng không để yên người khác lần hạt. Cô gái tìm cách phá rối các buổi lần hạt Mân Côi chung.

Thế nhưng, Margherita không bỏ qua ngày nào mà không đọc ít nhất 10 kinh Mân Côi. Margherita thường phân chia 50 kinh Mân Côi thành nhiều lần, khi thì 10 kinh, lúc khác lại 5 kinh. Lúc khác nữa cũng chỉ có 5 kinh. Tràng chuỗi Mân Côi phải góp nhặt nhiều lần mới trọn 50 kinh.

Một ngày, với sự đồng ý của Cha Linh Hướng, Margherita quyết định làm tuần tĩnh tâm nơi Cộng Đoàn các Nữ Tử Đức MARIA. Cô gái thật yêu thích bầu khí thinh lặng. Chỉ điều duy nhất khiến cô khó chịu. Đó là các nữ tu lần hạt Mân Côi liên miên. Ngoài việc lần hạt chung nơi nhà nguyện, Các Chị còn đọc kinh Mân Côi trong lúc làm việc. Một ngày từ sáng đến tối, các nữ tu đọc không biết bao nhiêu là tràng kinh Mâm Côi. ”Làm sao mà các Chị lại có thể đọc kinh Mân Côi nhiều đến thế?” Cô gái ngạc nhiên thắc mắc tự hỏi.

Một ngày rồi hai ngày qua, Margherita bắt đầu bị cuốn hút vào lời kinh Mân Côi. Margherita cố gắng lần trọn tràng chuỗi Mân Côi. Rồi lại lần nhiều tràng chuỗi 50 trong cùng một ngày. Hẳn cố gắng của cô làm vui lòng Đức Mẹ nên Đức Mẹ đã ban cho thiếu nữ một phúc lành.

Một hôm Margherita gặp chị Maria Vittoria người Phi Châu đang sung sướng nô đùa với các bông tuyết trắng tinh ngoài trời. Margherita cất tiếng hỏi:
– Bộ chị thích tuyết lắm hả? Chị đến từ một xứ nóng, vậy thì tuyết không làm chị bị lạnh run sao?

Chị nữ tu dịu dàng đáp:
– Nếu tuyết trắng cũng nóng y như mặt trời xứ Phi Châu, thì đâu còn công phúc gì nữa khi vui chơi cùng tuyết?

Câu trả lời của chị Maria Vittoria như gieo luồng sáng mới trong tâm trí cô thiếu nữ.

Bước vào nhà, Margherita gặp chị Maria Giuseppina, người Hòa-Lan, đang ôm một chồng sách. Cô gái đi theo chị nữ tu vào thư viện lấy sách rồi cất tiếng hỏi:
– Chị à, làm sao chị có thể học và đọc được tất cả các sách này? Tiếng Ý là ngôn ngữ rất khó đối với chị, và chị mới đến đây có vài tháng?

Chị nữ tu Hòa-Lan âu yếm nhìn Margherita và đáp:
– Em à, nếu mọi cái đều dễ dãi trơn tru thì chúng ta đâu có dịp thu góp bó hoa hồng làm quà hy sinh dâng lên Hiền Mầu Thiên Quốc dấu ái của chúng ta?

Câu nói của chị Maria Giuseppina như nốt nhạc cuối kết thúc bản nhạc mà Đức Mẹ MARIA muốn âu yếm trao tặng đứa con ngoan thảo Margherita.

Cô gái hiểu rằng khi lần hạt Mân Côi chúng ta không tìm kiếm trước tiên nỗi dịu ngọt cùng niềm an ủi cho chính mình, nhưng là tìm kiếm niềm vui cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Các lời kinh Mân Côi càng đòi hỏi hy sinh càng làm đẹp lòng Đức Mẹ!

… Câu chuyện xảy ra ngày 10-3-1615 khi Linh Mục Olgivie – vị thừa sai vĩ đại – bước lên đoạn đầu đài. Cha bị hành quyết tại Glasgow vì tội dám rao giảng Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Lúc lên tới nơi, Cha âu yếm nhìn đám đông đang có mặt. Cha muốn gởi lại di vật thân yêu cuối cùng của cuộc đời truyền giáo. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi.

Tràng Hạt Mân Côi cũng là chứng tích cho Đức Tin Công Giáo tinh tuyền của Cha. Cha lấy Tràng Chuỗi Mân Côi rồi mạnh tay ném thẳng vào đám đông. Tràng Chuỗi rơi nhằm một người trẻ Hung-Gia-Lợi theo hệ phái Tin Lành Calvin, lâu nay vẫn ghét cay ghét đắng vật thánh này.

Chàng thanh niên cảm thấy sững sờ. Khi đôi tay chàng chạm đến Tràng Chuỗi Mân Côi lòng chàng xúc động mạnh. Sau đó chàng tìm hiểu giáo lý và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo thánh thiện duy nhất và tông truyền. Quả thật, Tràng Hạt Mân Côi có sức mạnh thiêng liêng hoán cải tất cả những ai được diễm phúc chạm đến nó.

… Kinh cầu cùng Đức Mẹ MARIA

Lạy Mẹ MARIA, Trinh Nữ Vô Nhiễm, THIÊN CHÚA đã nhìn Mẹ: Ngài cúi xuống trên Nữ Tỳ khiêm hạ của Ngài và chúng con chúc tụng Mẹ thật diễm phúc.
Mẹ nhìn Đức Chúa GIÊSU với niềm âu yếm vì Mẹ là Mẹ Ngài. Dưới chân thánh giá, Chúa nhìn Mẹ để trối giao toàn thể nhân loại.
Tại Lộ Đức, Mẹ đã nhìn Chị Bernadette với tư cách là một con người.
Xin Mẹ nhìn chúng con đây với bao nỗi khốn cùng, những tiếng kêu than cùng bao niềm hy vọng.
Xin Mẹ nhìn thế giới đang bị xâu xé và tìm kiếm tương lai.
Xin Mẹ nhìn Hội Thánh mà Mẹ chứng kiến ngày sinh ra vào Lễ Hiện Xuống và đang cần Linh Mục để chu toàn sứ mệnh.
Xin Mẹ ban cho chúng con cái nhìn thơ trẻ, một ánh nhìn trong sáng, minh bạch như nước nguồn để chiêm ngắm Con Mẹ.
Xin Mẹ ban cho chúng con chính ánh nhìn của Mẹ hầu cho đôi mắt chúng con không bao giờ nhắm lại không nhìn tha nhân.
Xin Mẹ ban cho chúng con biết tự nhìn chúng con và giúp chúng con luôn luôn sống đúng tư cách Kitô-hữu và sống trung thành với Phúc Âm.

”Lạy Mẹ MARIA, không hề vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con đang chạy đến cùng Mẹ” (O Marie conçue sans péché, priez pour nous qui avons recours à Vous).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.21, 18-5-2003, trang 16+15)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI VÌ ĐẶC ÂN CỦA THIÊN CHÚA

ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI VÌ ĐẶC ÂN CỦA THIÊN CHÚA



VATICAN: Trưa 8 tháng 12-2012 lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đọc kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài nói: Nhờ đặc ân của Thiên Chúa Đức Mẹ không mắc tội tổ tông truyền. Nơi Mẹ, nhân loại và lịch sử rộng mở cho Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã tìm thấy nơi Mẹ sự lắng nghe, tiếp nhận, đáp trả và tiếng “có” sẵn sàng công tác hoàn toàn, cho phép Ngôi Lời nhập thể và đến ở giữa chúng ta. Mẹ Maria đại diện cho dân Israel mới, mà Thánh Kinh Cựu Ưóc miêu tả với biểu tượng hiền thê. Trong thư gửi tín hữu Êphêxô thánh Phaolô nói về hôn nhân và khẳng định rằng: “ Chúa Kitô đã yêu Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội để làm cho Giáo Hội trở thành thánh thiện, bằng cách thanh tẩy Giáo Hội bằng nước và lời hằng sống, để giới thiệu với chính Người Giáo Hội hoàn toàn vinh quang, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,25-27).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Các Giáo Phụ đã khai triển hình ảnh này và giáo thuyết của Mẹ Vô Nhiễm đã nảy sinh, trưóc hết quy chiếu về Giáo Hội đồng trinh – me và sau đó quy chiếu về Mẹ Maria. Vì thế giáo phụ Efrem ngưới Siri mới viết một cách thi vị như sau: “Như chính các thân xác đã phạm tội và chết và, đất mẹ của chúng, bị chúc dữ (x, St 3,17-19), thì nhờ thân xác này là Giáo Hội không thể hủy hoại, đất của nó đã được chúc lành ngay từ đầu. Đất đó là thân xác Đức Maria, đền thờ trong đó một hạt giống đã được đặt vào” (Diatesaron 4,15: SC 121,102).

Ánh sáng dãi tỏa từ gương mặt của Đức Maria giúp chúng ta hiểu ý nghĩa đích thật của tội tổ tông. Thật vâỵ, nơi Mẹ Maria sống và hoạt động một cách tràn đầy tương quan với Thiên Chúa mà tội lỗi đã bẻ gẫy. Nơi Mẹ không có sự đối nghịch nào giữa Thiên Chúa và con người Mẹ, mà có sự hiệp thông tràn đầy mạnh mẽ. Có một tiếng “có” hai chiều của Thiên Chúa đối với Mẹ và của Mẹ đối với Thiên Chúa. Mẹ Maria khỏi tội lỗi vì Mẹ hoàn toàn là của Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc về Người. Mẹ tràn đầy Thánh Sủng và Tinh Yêu của Thiên Chúa.

Kết luận, giáo lý vế sự Vô Nhiễm Thai của Mẹ Maria diễn tả sư chắc chắn của niềm tin rằng các lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện: rằng giao ước của Người không thất bại, nhưng đã sinh ra một gốc rễ thánh thiện, từ đó nảy mầm Qủa Phúc của toàn vũ trụ, là Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội chứng minh cho thấy rằng Thánh Sủng có khả năng dấy lên một câu trả lời, rằng sự trung thành của Thiên Chúa biết sinh ra một đức tin đích thực và tốt lành.

** Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã bày tỏ tình liên đới với các anh chị em nạn nhân bão lụt tại Philippines. Ngài cầu nguyện cho các nạn nhân, cho gia đình họ và các người phải di tản. ĐTC cầu mong đức tin và tình bác ái huynh đệ là sức mạnh giúp đối phó với thử thách khó khăn này.

Vào bốn giờ chiều, theo một thói quen đã có từ nhiều thập niên qua, Đức Thánh Cha đã đến quảng trường Tây Ban Nha để kình viếng tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và dâng hoa cho Đức Mẹ. Ngỏ lời trong dịp này ngài nói việc sùng kính Đức Mẹ hiệp nhất mọi người, đặc biệt trong Năm Đức Tin này.

Biến cố Thiên Chúa nhập thể làm người và cuộc gặp gỡ của sứ thần với Trinh Nữ Vô Nhiễm đã xảy ra trong sự thinh lặng hoàn toàn. Điều thật sự quan trọng thường đi qua trong thầm lặng, không ai trông thấy và nhận ra. Và sự trầm lắng đó phong phú hơn nhịp điệu ồn ào của các thành phố của chúng ta ngày nay. Khuynh hưóng hiếu động khiến cho chúng ta không có khả năng dừng lại, yên tĩnh, lắng nghe sự thinh lặng, trong đó Thiên Chúa cho nghe được tiếng nói kín đáo của Người. Trong ngày truyền tin Đức Maria hoàn toàn cầm trí và rộng mở cho việc lắng nghe Thiên Chúa. Nơi Mẹ không có gì ngăn che, cản trở và xa cách với Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa cuộc sống vô nhiễm nguyên tội của Mẹ.

Con tim của Mẹ ở trong tim Thiên Chúa một cách toàn vẹn, không phân cách, không có bóng dáng sự ích kỷ, nhưng hoàn toàn đồng điệu vỏi Thiên Chúa.

Nơi đây, Mẹ Vô Nhiễm nhắc cho chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa nói với chúng ta trong thinh lặng. Để nhận ra chương trình của Người đối với cuộc sống cá nhân và xã hội, cần phải xuống một mức sâu xa hơn nữa, nơi các sức mạnh luân lý và tinh thần hoạt động, chứ không phải các sức mạnh kinh tế chính trị. Mẹ mời chúng ta xuông đó để đồng điệu với hoạt động của Thiên Chúa.

Điều thứ hai Đức Mẹ Vô Nhiễm nói với chúng ta: đó là ơn cứu rỗi không phải là công trình của con người, khoa học, kỹ thuật và ý thức hệ, nhưng đến từ Ơn Thánh. Ơn Thánh có nghĩa là Tinh Yêu trong sự tinh tuyền và xinh đẹp của nó, là chính Thiên Chúa như được Thanh Kinh kể trong lích sử cứu rỗi và thánh toàn nơi Đức Giêsu Kitô.

Mẹ Maria được gọi là Đấng “đầy ơn phước”. Căn cưóc này của Mẹ nhắc cho chúng ta nhớ tới quyền tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc sông chúng ta và trong lich sử thế giới. Nó nhắc chúng ta nhớ rằng quyền năng tinh yêu của Thiên Chúa mạnh hơn sự dữ và có thể lấp đầy các trống rỗng, mà sự ích kỷ gây ra trong lịch sử của con người, của các gia đình, các quốc gia và của thế giới. Các trống rỗng ấy có thể trở thành các hoả ngục, nơi cuộc sống con người bị kéo xuống thấp và sự hư vô, mất đi ý nghĩa và ánh sáng. Các phương thuốc gỉa mà thế giớí đề để lấp đầy các trống rỗng ấy – biểu tượng là ma túy – thật ra chỉ đào rộng thêm hố sâu. Chỉ có tình yêu chứa đựng sự trong sạch của Ơn Thánh mới có thể cứu con người khỏi sư sa ngã này, tình yêu của Thiên Chúa biến đổi và canh tân, trao ban dưỡng khí mới, khí trọng lành và năng lực mới cho các lá phổi bị nhiễm độc. Mẹ Maria nói với chúng ta rằng cho dù con người có rơi xuống sâu tới đâu đi nữa nó cũng không bao giờ quá sâu đối với Thiên Chúa là Đấng đã xuống các vực sâu. Cho dù trái tim con người có sai lạc tới dsâu đi nữa, Thiên Chúa “vẫn luôn luôn lớn lao hơn trái tim của chúng ta” (1 Ga 3,20).Hơi thở dịu dàng của Thánh Sủng có thể đánh tan các đám mây đen tối nhất, và cả trong các tinh trạng vô nhân nhất nó cũng có thể khiến cho cuộc sống lại xinh đẹp và phong phú.

Điểm thứ ba Mẹ Maria Vô Nhiễm nói với chúng ta đó là niềm vui đích thật tỏa lan trong con tim khỏi tội lỗi. Tội lỗi đem theo trong chính nó một nỗi buồn tiêu cực khiến cho con người tự khép kín trong chính mình.

Ơn Thánh đem lại niềm vui thật, niềm vui không tùy thuộc nơi sự chiếm hữu vật chất, mà đâm rễ trong nơi sâu thẳm của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy mất được. Kitô giáo, một cách nòng cốt, là một “tin mừng”, “tin vui”.

Kitô giáo loan báo chiến thắng của Ơn Thánh trên tội lỗi, của sự sống trên cái chết. Nếu nó bao gồm các khước từ, một kỷ luật của tâm trí và hành động là bởi vì nơi con người có gốc rễ độc hại của ích kỷ gây đau đớn cho chính mình và cho người khác. Vì thế cần phài học biết nói không với ích kỷ và nói có với tình yêu đích thật. Niềm vui của Mẹ Maria tràn đầy, bởi vì trong tim Mẹ không có bóng dáng tội lỗi. Niềm vui ấy trùng hợp với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của Mẹ… Trong Mùa Vọng này xin Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội dậy cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói trong thinh lặng và tiếp nhận Ơn Thánh của Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và mọi ích kỷ, để hưởng nếm niêm vui đích thật. Xin Mẹ Maria đầy ơn phúc cầu cho chúng ta (SD 8-12-2012)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha chống thành kiến bài tôn giáo

Đức Thánh Cha chống thành kiến bài tôn giáo

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chống lại thành kiến cho rằng các tôn giáo độc thần tự chúng gây ra bạo lực.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7 tháng 12-2012, dành cho 32 thành viên của Ủy ban Thần học quốc tế, dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắc đến một vấn đề đang được Ủy ban thần học quốc tế bàn đến, đó là cảm thức đức tin (sensus fidei). Công đồng chung Vatican 2 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố này và nói rằng ”toàn thể dân Chúa tham gia vào chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô.. Hiến chế ”Ánh sáng muôn dân” (n.12) dạy rằng ”Toàn thể các tín hữu, nhờ được Đấng Thánh xức dầu (Xc 1 Ga 2,20.27), không thể sai lầm trong khi tin, và biểu lộ đặc tính này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi mà từ các GM cho đến tín hữu giáo dân rốt hết đều biểu lộ sự đồng thuận về những vấn đề đức tin và luân lý”. Hồng ân cảm thức đức tin này.. là một tiêu chuẩn để phân định xem một chân lý có thể thuộc về kho tàng sinh động của truyền thống tông đồ hay không. Cảm thức đức tin có một giá trị đề nghị (propositivo) vì Chúa Thánh Linh không ngừng nói với và hướng dẫn các Giáo Hội đến chân lý toàn vẹn”.

Từ tiền đề trên đây, ĐTC cảnh giác chống lại những cảm thức đức tin giả tạo và nói rằng:

”Ngày nay điều đặc biệt quan trọng là xác định những tiêu chuẩn giúp phân định cảm thức đức tin chân chính với những cảm thức giả tạo. Thực vậy, cảm thức đức tin không phải là một thứ dư luận quần chúng trong Giáo Hội; không thể nại đến cảm thức đức tin để phản đối các giáo huấn của Huấn Quyền Hội Thánh, vì cảm thức đức tin chỉ có thể phát triển một cách chân thực nơi tín hữu theo mức độ tín hữu ấy hoàn toàn tham gia vào đời sống Giáo Hội, và điều này đòi tín hữu phải gắn với với Giáo Huấn của Hội Thánh trong tinh thần trách nhiệm”.

ĐTC nói thêm rằng ”Chính cảm thức siêu nhiên về đức tin của các tín hữu khiến họ mạnh mẽ phản ứng chống lại thành kiến theo đó các tôn giáo, đặc biệt là các tôn giáo độc thần, tự nội tại có mang theo bạo lực, nhất là vì các tôn giáo này tự nhận mình có chân lý phổ quát. Một số người cho rằng chỉ có ”sự đa thần về các giá trị” (Politeismo dei valori) mới bảo đảm được sự bao dung và an bình trong dân chúng, và phù hợp với tinh thần của một xã hội dân chủ đa nguyên”.

ĐTC cũng giải thích rằng ”Nếu trong lịch sử đã và đang có những hình thức bạo lực được thực hiện nhân danh Thiên Chúa, điều này không thể qui gán cho các tôn giáo độc thần, nhưng là do những nguyên nhân lịch sử, chủ yếu là do những sai lầm của con người. Đúng hơn, chính sự quên lãng Thiên Chúa làm cho các xã hội con người bị chìm đắm trong một thứ chủ thuyết duy tương đối, chắc chắn sinh ra bạo lực. Khi người ta không để cho mọi người tham chiếu một chân lý khách quan, thì đối thoại trở thành điều không thể thực hiện được, và bạo lực, công khai hoặc ngấm ngầm, trở thành qui luật cho các quan hệ giữa con người với nhau” (SD 7-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican