Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Đức tin thúc đẩy chúng ta liên tục ra khỏi chính mình mhư tổ phụ Abraham để đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào trong lịch sử: một sự hiện diện trao ban sự sống và ơn cứu độ và mở ra cho chúng ta một tương lai của cuộc sống không bao giờ tàn phai.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 23 tháng 1-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính bắt đầu với lời tuyên xưng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa”. Khẳng định nền tảng này xem ra đơn sơ, nhưng nó mở ra cho tương quan vô tận với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người. Tin bao gồm sự gắn bó với Chúa, tiếp nhận Lời Người và tươi vui vâng phục mạc khải của Người, như sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dậy: ”Đức tin là một hành động cá nhân: nó là lời đáp trả tự do của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải” (s. 166). Và Đức Thánh Cha định nghĩa hành động tin như sau:

”Như vậy, có thể nói rằng tin nơi Thiên Chúa vừa là một ơn vừa là một dấn thân, là ơn thánh Chúa và là trách nhiệm của con người, trong một kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa, là Đấng vì tình yêu ”nói với con người như với bạn hữu” (Dei Verbum, 2), nói với chúng ta, để trong đức tin và với đức tin, chúng ta có thể bước vào trong sự hiệp thông với Người.

Nhưng chúng ta có thể lắng nghe Thiên Chúa ở đâu? Nền tảng là trong Thánh Kinh, trong đó Lời Chúa trở thành có thể nghe được đối với chúng ta, và dưỡng nuôi cuộc sống của các bạn hữu Người. Toàn Thánh Kinh kể lại việc Thiên Chúa tự mạc khải cho nhân loại: toàn Thánh Kinh nói về đức tin và dậy chúng ta đức tin, bằng cách kể cho chúng ta một lịch sử trong đó Thiên Chúa làm cho chương trình cứu độ tiến tới và gần gũi mọi người, qua biết bao nhiêu gương mặt rạng rỡ của những kẻ tin nơi Người và tín thác nơi Người, cho đến mạc khải tràn đầy nơi Chúa Giêsu.

Chương 11 thư gửi tín hữu do thái rất đẹp, vì nó nói về đức tin và đưa ra ánh sáng các gương mặt lớn đã sống nó và trở thành mẫu gương cho mọi kẻ tin: ”Đức tin là nền tảng của những điều người ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều người ta không thấy” (Dt 11,1). Như vậy, con mắt đức tin có khả năng trông thấy sự vô hình và trái tim của người tin có thể hy vọng bên kia hy vọng, như tổ phụ Abraham, mà thánh Phaolô nói tới trong thư gửi tín hữu Roma rằng: ”ông tin vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng” (Rm 4,18).

Tổ phụ Abraham là gương mặt lớn đầu tiên để quy chiếu, khi nói về niềm tin nơi Thiên Chúa: tổ phụ Abraham là mẫu gương, là cha của tất cả mọi kẻ tin (x Rm 4,11-12). Thư gửi tín hữu Do thái giới thiệu người như sau: ”Nhờ đức tin ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin ông đã tới cư ngụ tại đất hứa như tại một nơi khách, ông sống trong lều cũng như ông Igiaác và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa. Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt 11,8-10).

Tác giả thư gửi tín hữu Do thái quy chiếu về ơn gọi của tổ phụ Abraham như kể trong sách Sáng Thế. Thiên Chúa xin Abraham bỏ quê hương mình để đi đến một xứ Người sẽ chỉ cho ông: ”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho người” (St 12,1). Đây là một cuộc ra đi vào nơi tăm tối, không biết Thiên Chúa sẽ dẫn ông tới đâu. Đó là một con đường đòi hỏi một sự vâng lời và tín thác triệt để, mà chỉ có đức tin mới cho phép đạt được. Nhưng cái tối tăm của sự không biết được chiếu tỏ bởi ánh sáng của một lời hứa. Thiên Chúa thêm vào lệnh truyền một lời trấn an mở ra cho ông Abraham một tương lai sự sống tràn đầy: ”Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng… và nơi ngươi mọi gia tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc” (St 12,2-3).

Trong Thánh Kinh ban đầu phúc lành được gắn liền với ơn sự sống đến từ Thiên Chúa, và nó biểu lộ trước hết trong sự phong phú, trong một cuộc sống được nhân lên, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Và phúc lành cũng gắn liền với kinh nghiệm sở hữu một vùng đất, một nơi ổn định để sống và lớn lên trong tự do và an ninh, kính sợ Thiên Chúa và xây dựng một xã hội của những người trung thành với Giáo Ước, ”một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (x. Xh 19,6).

Vì thế trong chương trình của Thiên Chúa tổ phụ Abraham được chỉ định trở thành ”cha của đông đảo các dân tộc” (St 17,5; x. Rm 4,17-18), và bước vào một vùng đất mới để ở. Nhưng Sara vợ ông lại hiếm muộn, không thể có con; và xứ sở Thiên Chúa dẫn ông tới lại ở xa quê hương của ông và đã có các dân tộc khác sinh sống và sẽ không bao giờ thực sự thuộc về ông. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Vùng đất mà Thiên Chúa ban cho Abraham không thuộc về ông, ông là một người ngoại quốc và sẽ luôn là như thế, với tất cả những gì bao gồm: không có mục đích sở hữu, luôn cảm thấy sự nghèo nàn của mình, coi mọi sự như là ơn. Đây cũng là điều kiện tinh thần của người chấp nhận theo Chúa, của người quyết định ra đi bằng cách tiếp nhận lời Người mời gọi, dưới dấu chỉ của phước lành vô hình nhưng quyền năng của Người. Và tổ phụ Abraham cha của những người có lòng tin, chấp nhận lời mời gọi đó của Thiên Chúa trong niềm tin. Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Roma: ”Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc như đã được nói với ông: dòng dõi ngươi sẽ như thế.

Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4,18-21).

Đức tin dẫn đưa Abraham đi theo một con đường mâu thuẫn. Ông sẽ được chúc phúc, nhưng không có dấu chỉ hữu hình của phước lành: ông nhận lời hứa trở thành một dân tộc lớn, nhưng với một cuộc sống ghi dấu bởi sự hiếm muộn của bà vợ Sara; ông được dẫn đưa vào trong một quê hương mới, nhưng sẽ phải sống tại đó như ngoại kiều; sở hữu đất đai duy nhất sẽ được cho phép là một mảnh đất để chôn cất Sara (x. St 23,1-20). Abraham được chúc phúc, bởi vì trong lòng tin ông biết phân định phước lành của Thiên Chúa bằng cách vượt qúa các vẻ bề ngoài, tín thác nơi sự hiện diện của Thiên Chúa, cả khi các con đường của Người xem ra mầu nhiệm đối với ông.

Khi chúng ta khẳng định ”Tôi tin nơi Thiên Chúa” thì chúng ta cũng nói như Abraham: ”Con tin nơi Chúa; con tín thác nơi Chúa”, nhưng không phải chỉ như nơi một Người để chạy tới trong những lúc khó khăn hay chỉ để dành một vài lúc trong ngày hay trong tuần. Nói rằng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là xây dựng đời tôi trên Người, để cho Lời Người hướng dẫn mọi ngày trong các lựa chọn cụ thể, khộng sợ hãi đánh mất đi cái gì của chính tôi.

Trong lễ nghi rửa tội ba lần tín hữu được hỏi: ”Các con có tin” nơi Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Chúa Thánh Thần, nơi Giáo Hội công giáo thánh thiện và các sự thật khác của đức tin không, thì ba lần câu trả lời ở ngôi số ít là ”Con tin”, bởi vì chính cuộc sống cá nhân của tôi phải tiếp nhận một khúc rẽ với ơn đức tin, cuộc sống cá nhân của tôi phải thay đổi, phải hoán cải.

Mỗi khi chúng ta tham dự một lễ nghi rửa tội, chúng ta phải tự hỏi chùng ta đã sống ơn đức tin mỗi ngày như thế nào.

Đức tin khiến cho chúng ta trở thành các người lữ hành trên trái đất, được tháp nhập vào trong thế giới và trong lịch sử, nhưng trên đường hướng về quê hương trên trời. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Như thế, tin nơi Thiên Chúa khiến cho chúng ta trở thành những người đem theo các giá trị thường không trùng hợp với mốt và ý kiến của hiện tại, vì nó đòi hỏi chúng ta phải theo các tiêu chuẩn và có các thái độ không thuộc kiểu suy nghĩ chung. Kitô hữu không được sợ hãi đi ngược dòng đời để sống đức tin của mình chống lại cám đỗ ”đồng phục”. Trong biết bao nhiêu xã hội của chúng ta Thiên Chúa đã trở thành ”người vắng bóng vĩ đại”, và thay vào chỗ của Người là các tà thần, trước hết là cái ”tôi” tự lập. Và cả các tiến bộ tích cực của khoa học và kỹ thuật cũng dẫn đưa con người tới một ảo tưởng của sự toàn năng và tự đủ, và một chủ trương lấy cái tôi làm trung tâm gia tăng đã tạo ra không ít các mất quân bình bên trong tương quan giữa con người với nhau, và các thái độ xã hội.

Nhưng nỗi khát khao Thiên Chúa đã không tắt lịm, và sứ điệp tin mừng tiếp tục vang lên qua các lời nói và việc làm của biết bao nhiêu người có đức tin. Abraham tiếp tục là cha của nhiều con cái chấp nhận bước theo chân người, lên đường vâng theo ơn gọi của Chúa, tín thác nơi sự hiện diện tốt lành của Chúa, và tiếp nhận phước lành của Người để trở thành phước lành cho tất cả mọi người. Và thế giới được chúc lành của đức tin mà mọi người đều được kêu mời vào, để bước đi không sợ hãi theo Chúa Giêsu Kitô. Nó là một con đường đôi khi khó khăn, có thử thách và cái chết, nhưng mở ra cho sự sống trong sự thay đổi triệt để thực tại, mà chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể trông thấy và hưởng nếm trọn vẹn.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau rồi cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

ĐTC tiếp kiến Nguyễn phú TrọngCourtesy Pic. from AP

VATICAN. Lúc 10 giờ 30 sáng 22 tháng 1-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân dịp Ông hướng dẫn phái đoàn cấp cao của Đảng và Nhà Nước Việt Nam viếng thăm một số nước Tây Âu.

Sau khi hội kiến với Ông Tổng Bí Thư trong vòng 30 phút, ĐTC đã gặp chung và chào thăm 10 vị trong đoàn tháp tùng, trong đó có Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh, Trưởng Ban Tôn Giáo Chính phủ, Trung Tướng Phạm Dũng cũng là thứ trưởng Bộ nội vụ và một số vị khác như thứ trưởng quốc phòng, chủ tịch Ủy ban ngoại giao của đảng cộng sản Việt Nam, thứ trưởng Bộ công an, Đại Sứ Nguyễn Hoàng Long của Việt Nam tại Roma, v.v.

Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tặng ĐTC bức sơn mài có hình Chùa Một Cột ở Hà Nội, và ngài tặng ông một bức tranh hình một phông ten trong nội thành Vatican.

Tiếp đến phái đoàn của Ông Tổng Bí Thư đã gặp gỡ và hội kiến với ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, với sự hiện diện của Đức TGM Dominique Mamberti, Ngoại trưởng Tòa Thánh, cùng với một số chức sắc thuộc Bộ ngoại giao Tòa Thánh.

Thông báo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết “Đây là lần đầu tiên một vị Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam gặp Đức Giáo Hoàng và các vị lãnh đạo cấp cao của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Trong các cuộc nói chuyện thân mật các vị đã bàn về những vầ đài có quan hệ đối với Việt Nam và Tòa Thánh, đồng thời bày tỏ ước muốn một số tình trạng còn tồn đọng sớm được giải quyết và sự cộng tác phong phú hiện nay có thể được củng cố”.
Đây là lần thứ 3 một nhân vật cấp cao của Việt Nam được ĐTC Biển Đức 16 tiếp kiến tại Vatican, sau thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết.

Trong thời gian qua, Ủy ban làm việc chung giữa Tòa Thánh và Nhà Nước Việt Nam vẫn gặp gỡ hàng năm để thảo luận về quan hệ hai bên. Một trong những kết quả của quan hệ này là phía Nhà Nước Việt Nam đồng ý để Tòa Thánh bổ nhiệm một vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, đó là Đức TGM Lepoldo Girelli hồi năm 2011. (SD 22-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 20 tháng 1-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã giải thích ý nghĩa phép lạ của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana, mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, cũng như kêu gọi chấm dứt thảm trạng tàn sát các thường dân vô tội trong các cuộc xung đột hiện nay trên thế giới.


Hàng ngàn tín hữu đã tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô dưới trời mưa. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC nói:

Anh chị em thân mến!

Hôm nay phụng vụ trình bày Tin Mừng về tiệc cưới Cana, một giai thoại được thánh Gioan là chứng nhân tận mắt kể lại. Giai thoại này được đặt trong Chúa nhật hôm nay, ngay sau mùa Sinh Nhật, vì cùng với cuộc viếng thăm của các Đạo Sĩ đông phương, và biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, họp thành 3 biến cố hiển linh, nghĩa là sự tỏ mình ra của Chúa Kitô. Thực vậy, biến cố tiệc cưới Cana là ”khởi đầu các dấu lạ” (Ga 2,11), nghĩa là phép lạ đầu tiên do Chúa Giêsu thực hiện, qua đó Ngài biểu lộ công khai vinh quang của Ngài, khơi dậy niềm tin của các môn đệ. Chúng ta hãy gợi lại vắn tắt những gì xảy ra trong tiệc cưới ở Cana. Xảy ra là họ thiếu rượu và Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, nói với Con của Mẹ về điều đó. Chúa trả lời là giờ của Ngài chưa tới; nhưng rồi Ngài vẫn theo lời yêu cầu của Mẹ Maria và sau khi 6 chum nước lớn được đổ đầy, Chúa biến nước thành rượu, rượu ngon tuyệt hảo, ngon hơn rượu trước đó. Với ”dấu lạ” này, Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị Hôn Phu cứu thế, đến để thiết lập với dân Ngài giao ước mới và vĩnh cửu, theo lời các ngôn sứ: ”Như hôn phu vui mừng vì hôn thê, Thiên Chúa của ngươi cũng vui mừng vì ngươi” (Is 62,5). Và rượu là biểu tượng niềm vui ấy của tình yêu; nhưng rượu cũng ám chỉ máu mà Chúa Giêsu sẽ đổ ra vào thời sau cùng, để ký kết hôn ước của ngài với nhân loại.

”Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, Đấng làm cho Giáo Hội trở nên thánh thiện và tươi đẹp nhờ ân sủng của Ngài. Nhưng hôn thê này gồm những con người họp thành, luôn cần được thanh tẩy. Và một trong những tội nặng nhất làm biến dạng khuôn mặt của Giáo Hội là tội chống lại sự hiệp nhất hữu hình của Hội Thánh, đặc biệt là những chia rẽ lịch sử đã chia cách các tín hữu Kitô và cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Chính trong những ngày này, từ 18 đến 25-1, đang diễn ra Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một thời điểm ngày càng được các tín hữu Kitô và các cộng đoàn đón nhận, khơi dậy nơi mọi người ước muốn và sự dấn thân tinh thần để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn. Theo nghĩa đó, buổi canh thức cầu nguyện mà tôi đã có thể cử hành cách đây khoảng 1 tháng, tại Quảng trường thánh Phêrô này, với hàng ngàn bạn trẻ từ các nơi ở Âu Châu tựu về, và cùng với cộng đoàn đại kết Taizé: đó là một thời điểm hồng phúc trong đó chúng ta đã cảm nghiệm vẻ đẹp được liên kết với nhau thành cộng đoàn duy nhất trong Chúa Kitô. Tôi khuyến khích tất cả mọi người hãy cùng nhau cầu nguyện để chúng ta có thể thực hiện ”Điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta” (Mi 6,6-8), như chủ đề Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất năm nay; một đề tài được một số cộng đồng Kitô tại Ấn độ đề nghị, mời gọi hãy quyết liệt tiến bước về sự hiệp nhất hữu hình giữa tất cả các tín hữu Kitô và, như những anh chị em trong Chúa Kitô, khắc phục mọi thứ kỳ thị bất công. Thứ sáu tới đây (25-1-2013), vào cuối những ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất này, tôi sẽ chủ sự Kinh Chiều tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, trước sự hiện diện của các đại diện các Giáo Hội khác và các Cộng đoàn Giáo Hội.

”Các bạn thân mến, ngoài ý nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một lần nữa tôi muốn thêm ý nguyện cho hòa bình, để trong các cuộc xung đột, rất tiếc là vẫn còn đang diễn ra, các cuộc thảm sát thường dân vô tội được đình chỉ, mọi bạo lực được chấm dứt, và tìm được can đảm đối thoại và thương thuyết”. Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, Đấng trung gian ân phúc, cho cả hai ý nguyện đó”.

Chào thăm tín hữu

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng 6 thứ tiếng khác nhau, không kể tiếng Ý.
Bằng tiếng Pháp, Ngài cũng đề cập đến tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất và nói: ”Chúng ta hãy dấn thân cụ thể yêu thương nhau để thế gian tin. Xin Chúa ban chúng ta, đặc biệt trong Năm Đức Tin này, ơn hoán cải tâm trí để tình hiệp thông giữa các tín hữu đã chịu phép rửa được thực sự hữu hiệu.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC giải thích một ý nghĩa của tiệc cưới Cana và nhận định rằng ”Theo lời xin của Mẹ Maria và nhờ sự cộng tác của những người giúp việc đổ đầy 6 chum nước, Chúa đã giúp đỡ đôi tân hôn trong tình trạng khó khăn. Sự kiện này khích lệ chúng ta hãy tín thác nơi sự chuyển cầu của Mẹ Maria và như những người giúp việc trong trình thuật Tin Mừng, Mẹ khích lệ chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa Giêsu, cộng tác với Ngài và bước theo Ngài để tiến bước đến cùng Thiên Chúa.

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC đặc biệt chào nhóm tín hữu thuộc giáo xứ Bửu Huyết ở thành phố Valencia. Ngài nhắc đến tiệc cưới Cana, qua đó Chúa Giêsu làm cho con người được tràn đầy hồng ân cứu độ mà tự mình con người không thể đạt được. Đón nhận hồng ân Chúa ban, hồng ân đức tin và hy vọng nơi Chúa Giêsu, đó chính là điều làm cho tâm hồn con người thực sự được sung mãn.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các gia đình và tín hữu thuộc các giáo xứ, hội đoàn và phong trào khác nhau. Ngài cầu chúc tất cả một chúa nhật và một tuần lễ tốt đẹp.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (01-14 đến 01- 20-2013)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

(01-14 đến  01- 20-2013)

Trích từ XBVN

 

  • Một đài tưởng niệm dâng kính ĐHY Lustiger ở Israel.

  • ĐHY Sandri viếng thăm Ai Cập.

  • Hàng trăm người bảo vệ tượng ảnh Chúa Giêsu ở trường công lập Ohio.

  • Chủng viện Sơn Tây đóng cửa hai năm.

  • Ai Cập: Các Giáo Hội xích lại gần nhau từ khi có tân Thượng Phụ chính thống Côp (Cope).

  • Thúc giục các nhà lãnh đạo tôn giáo chiến đấu chống bách hại toàn cầu.

  • “Vào tù” để chống lại sắc lệnh HHS.

  • Nghiên cứu về các hôn nhân dị giáo.

  • Đức Thánh Cha rửa tội cho các bé sơ sinh.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Một gia đình được phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Song Thân Thánh Nữ Têrêxa.

  • Biểu tình rầm rộ chống lại hôn nhân đồng tính ở Pháp.

  • Những nhà đấu tranh nữ quyền để hở ngực làm gián đoạn buổi triều yết.

  • Lập trường chính thức của HĐGM Ấn Độ chống vụ hãm hiếp.

  • Các LM Anh tham gia cảnh báo hôn nhân đồng tính có thể gây ra cuộc bách hại mới.

  • An tử được phê chuẩn cho cặp sinh đôi người Bỉ vì sắp bị mù.

  • “Ánh Sáng Đức Tin: buổi hoà nhạc vì Ơn Gọi nhân 100 ngày đầu Năm Đức Tin.

  • Các phán quyết lẫn lộn về tự do tôn giáo tại Toá án nhân quyền Châu Âu.

  • TIN VẮN:

  • Tổng trưởng CDF tán dương trí thức sâu rộng của Đức Thánh Cha.

  • Các luận cứ thần học của Nostra Aetate là không thể đảo ngược.

  • Các giám mục Đài Loan học hỏi về truyền thông.

  • Tân thượng phụ Giáo Hội Công giáo Côp.

  • Phái đoàn Phần Lan thăm Vatican.

  • Hội thảo chuyên đề về tính thời sự của Đức Gioan-Phaolô II ở UNESCO.

  • Vatican soạn kim chỉ nam cho các linh mục về cách cử hành thánh lễ.

(Xin xem chi tiết : TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁ0 01-14 đến 01-20-2013 )

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

VATICAN. Sáng 19 tháng 1-2012, ĐTC lên tiếng mạnh mẽ phê bình nhân sinh quan và ý thức hệ vô thần đang được nhiều tổ chức từ thiện quốc tế theo đuổi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 50 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), vừa kết thúc hôm 19-1 sau 3 ngày tiến hành tại Roma. Trong số các HY, GM và nhiều chuyên gia tại Hội nghị cũng có Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu, tân GM Phó Giáo phận Bùi Chu, tham dự với tư cách là khách mời, đại diện cho Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, GM Xuân Lộc, Chủ tịch Ủy ban GM Việt Nam về bác ái xã hội.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến chủ đề khóa họp của Hội đồng Cor Unum là ”Bác ái, luân lý đạo đức mới trên thế giới và nhân loại học Kitô giáo”. Ngài nhấn mạnh mối liên hệ giữa đức tin và hoạt động bác ái của các tín hữu và các tổ chức từ thiện Kitô giáo, đồng thời tố giác những ”bóng đen” đang làm lu mờ dự án của Thiên Chúa, nhất là một quan niệm thu hẹp về con người: quan niệm này liên kết nhân sinh quan duy vật với sự phát triển lớn về kỹ thuật. Đó là một thứ nhân loại học vô thần giả thiết rằng con người bị thu hẹp vào những chức năng tự lập, trí tuệ bị thu hẹp vào não bộ, lịch sử con người bị thu hẹp thành một vận mạng tự thể hiện mình. Tất cả những điều đó tách rời khỏi Thiên Chúa, khỏi chiều kích tinh thần và chân trời vượt lên trên lãnh vực trần thế này.”
ĐTC nhận xét rằng theo quan niệm như thế, ”người ta cho rằng tất cả những gì con người có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật, thì đều hợp với luân lý, mọi thí nghiệm đều có thể chấp nhận được, mọi chính sách dân số đều là điều được phép, mọi sự lèo lái con người đều là điều hợp pháp. Cạm bẫy đáng sợ nhất của trào lưu tư tưởng này, trong thực tế, là một sự tuyệt đối hóa con người: con người muốn được giải thoát khỏi mọi ràng buộc và mọi cơ cấu tự nhiên của mình.”

ĐTC nhận xét rằng ”đức tin và sự phân định lành mạnh theo tinh thần Kitô giáo giúp chúng ta chú ý đến vấn đề luân lý đạo đức như thế và não trạng ngầm chứa trong đó. Sự cộng tác đúng đắn với các tổ chức quốc tế trong lãnh vực phát triển và thăng tiến con người không bao giờ được làm cho chúng ta nhắm mắt trước những ý thức hệ trầm trọng ấy, và các vị chủ chăn của Giáo Hội có nhiệm vụ cảnh giác các tín hữu Công Giáo và những người thiện chí, có lý trí ngay thẳng, chống lại những sai trái như vậy. Đó là những sai trái tiêu cực đối với con người, cho dù nó nấp sau những tâm tình tốt đẹp dưới chiêu bài gọi là tiến bộ, hoặc những ngụy nhân quyền hay một thứ chủ thuyết tâm bản”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các nhân viên Caritas Công Giáo hãy cảnh giác phê bình, và đôi khi phải từ khước những tài trợ và những sự cộng tác, trực tiếp hay gián tiếp, cổ võ những hoạt động hoặc những dự án trái ngược với nhân sinh quan Kitô giáo. Tích cực hơn, Giáo Hội luôn dấn thân thăng tiến con người theo ý định của Thiên Chúa, trong phẩm giá trọn vẹn, trong niềm tôn trọng hai chiều kích dọc và ngang của con người”.

Trong 3 ngày đại hội, các tham dự viên đã theo dõi những bài thuyết trình gợi ý và tham dự các cuộc hội luận trong các nhóm nhỏ, trao đổi chứng từ. Đặc biệt có chứng từ của Đức TGM Silvano Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức của LHQ ở Genève, Thụy Sĩ.

Các cuộc thảo luận nhóm xoay quanh những đề tài như ”Luân lý đạo đức mới trên thế giới”, ”Sự hiện diện của các tổ chức Công Giáo Phi chính phủ trong các cơ quan quốc tế”.

Phát biểu của ĐHY Robert Sarah

Trong diễn văn khai mạc Đại hội, ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriale, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum đã lên tiếng đề cao một đặc tính của các hoạt động bác ái Công Giáo là biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa.
ĐHY lên án sự kiện một số tổ chức quốc tế áp đặt cho các nước nghèo những kiểu mẫu luân lý đạo đức tai hại, một thứ nhân sinh quan tiêu cực và hủy hoại con người, cụ thể là não trạng ngừa thai và ý thức hệ ”gender”, coi sự khác biệt nam nữ chỉ là sản phẩm của văn hóa xã hội, chứ không phải do thiên nhiên.

Do chủ trương đó, một số tổ chức nhân đạo quốc tế đòi các nước nghèo phải thi hành chính sách hạn chế sinh sản, chấp nhận hôn nhân đồng phái, thì mới được nhận viện trợ. Đó là một thứ chủ thuyết duy đời cực đoan, bất bao dung và tàn phá.

ĐHY Sarah cho biết rất tiếc có một số phần tử của Giáo Hội Công Giáo làm việc trong lãnh vực từ thiện bác ái cũng để cho mình bị quyến rũ để theo một thứ luân lý đạo đức hoàn toàn là đời của các cơ quan cứu trợ trên bình diện thế giới. Họ thiết lập sự đối tác vô điều kiện với các tổ chức quốc tế nói trên và chấp nhận cùng những mục tiêu có tính chất tai hại về nhân loại học, sử dụng cùng ngôn ngữ và những khẩu hiệu như các tổ chức quốc tế đó.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Sarah nhận xét rằng ngày nay có một cuộc khủng hoảng sâu đậm về con người là ai, và Hội đồng Cor Unum cần nhắc nhớ rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa và chúng ta không được hủy hoại con người. Ngày nay, hoạt động

bác ái chân thực là giúp đỡ con người để họ không bị hủy diệt, để gia đình, hôn nhân không bị hủy hoại, để bảo tồn căn tính của con người như một thành phần của Thiên Chúa”.

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum giải thích rằng ”Dĩ nhiên là cuộc khủng hoảng kinh tế ngày nay đang hủy diệt bao nhiêu người, làm cho họ mất mọi sự, mất công ăn việc làm.. Sở dĩ xảy ra như vậy là vì cả quan niệm về con người cũng bị hủy diệt.. Chúng ta không áp đặt đức tin Công Giáo cho bất kỳ ai, vì đó không phải là mục tiêu của chúng ta; nhưng chúng ta muốn rằng con người khám phá mình không lẻ loi, vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên họ và Ngài không thể bỏ rơi họ.. Chúng ta phải trở thành bàn tay của Thiên Chúa, biểu lộ sự hiện diện, sự trợ giúp của Thiên Chúa, và lòng từ bi của Ngài… Tôi quan niệm công việc của tất cả các Caritas trên thế giới là một sự hiện diện của Thiên Chúa, trong một thế giới mà sự hiện diện này bị lãng quên”. (SD 18 và 19-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

“Xin mời mọi người cùng hướng mắt về cổng hoa để chào đón Tân Lang và Tân Giai Nhân đang dìu nhau bước lên đài Hạnh Phúc”

Không biết ở thành phố thì thế nào, nhưng ở nhà quê của tôi thì câu này nghe quen lắm, gần như bài thuộc lòng của các người dẫn chương trình (người ta vẫn gọi là MC, Master of Ceremony, mà không sợ lai căng, và không hề hổ thẹn). Tuy nhiên, tôi nghĩ các từ “Tân Lang”, “Tân Giai Nhân” hoặc “Chú Rể”, “Cô Dâu” luôn luôn là tuyệt đẹp. Với Hôn Nhân Ki-tô Giáo thì còn tuyệt đẹp hơn nữa, bởi vì, đời người chỉ một lần được làm chú rể, một lần làm cô dâu, không có lần thứ hai. Cũng có thể có lần thứ hai, nhưng nếu do người bạn đời qua đời thì còn vui được, nhưng nếu do chuyện tự ý xé bản giao ước hôn nhân lần thứ nhất để có thêm một lần làm “chú rể, cô dâu” thì ôi! thật là chua xót! Chẳng biết ai đó đã có lý do chính đáng nào mà vui mừng thêm một lần nữa!

Vâng, Hôn Nhân Ki-tô Giáo luôn mang một ý nghĩa siêu nhiên bởi vì đài Hạnh Phúc của họ được Thiên Chúa thiết lập, chúc phúc, và củng cố qua ơn thánh của Ngài. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể chứng minh cho chúng ta điều đó.

Hẳn là hôm Chúa Giê-su và Mẹ Người dự tiệc cưới ở Cana cũng có Tân Lang và Tân Giai Nhân, có Hai Họ, có Thân Hữu, có Quý Khách, có nhạc, có pháo hoa, có các món ngon, có bia rượu, có múa hát, có hò nhặt hò khoan, có vỗ tay, có tiếng cụng ly, có lời chúc mừng rôm rã. Ai cũng muốn cho bữa tiệc cưới trọn vẹn niềm vui và không thể có nỗi buồn nào chen vào cách vô duyên nên phải chuẩn bị thật chu đáo từ các món ngon đến chén rượu nồng. Rượu cũng được chúc phúc, vì rượu không uống để say, nhưng để cho lòng thêm phấn khởi. Như thánh vịnh 103 xác nhận: “Từ ruộng đất Chúa làm nẩy sinh cơm bánh, ban rượu ngon cho thêm phẩn khởi lòng người” (Tv 103, 14b-15a).

Thế nhưng, bữa tiệc hôm nay bống hết rượu giữa chừng . Hẳn là chủ hôn lo lắng, lứa đôi lo lắng, bởi vì sợ khách không chỉ bỏ tiệc ra về mà còn thêm lời chê trách “mời lơi, đãi lếu”. Mẹ Maria chứng tỏ một người phụ nữ biết quan tâm và đồng cảm với nỗi lo của gia đình nên nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Hiểu con mình, Mẹ nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 3-5).

Và sau đó,

Chúa Giê-su bảo họ:  ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”  (Ga. 2, 7-8)

Người quản tiệc nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”  (Ga. 2, 10)

Thế là:

“Chúc mừng đôi lứa Ca-na, Chúa làm nước lã hóa ra rượu nồng”.

Vâng, Chúa Giê-su không bỏ tiệc ra về khi chủ hôn hết rượu, khi lứa đôi hết rượu. Ngược lại, Ngài còn ở lại đó để cảm thông với nỗi lo của lứa đôi, để chúc phúc cho lứa đôi, để làm phép lạ cho “nước lã hóa rượu nồng” cho mọi người không bỏ tiệc ra về mà nối dài niềm vui với chủ hôn và cho lứa đôi vững yên trên đài hạnh phúc.

Thiết nghĩ, Chúa không tự dưng mà thi thố quyền năng của Ngài, nhưng một là vì sự can thiệp của Mẹ Người, hai là vì người ta đã làm đúng như lời Mẹ dặn: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Người ta đang hết rượu kia kìa, khách đang xầm xì kia kìa, có vài ông muốn bỏ về rồi kia kìa, không lo đi mua rượu mà lại bảo “Đổ nước lã vào chum” thì rõ là dỡ hơi, khó mà chấp nhận được. Thế nhưng, các gia nhân đã “Nghe Lời Người” và “Thực hiện đúng như Lời Người dạy, nên phép lạ đã xảy ra.

-Mỗi người chúng ta, khi nhận lãnh Bí Tích Rửa tội, là cũng đã có một cuộc hôn phối kỳ diệu với Thiên Chúa. Đời sống Đức Tin không thiếu những phút giây “hết rượu giữa chừng” khiến lòng chúng ta không còn phấn khởi, rơi vào tình trạng băn khoăn, nghi hoặc, chán nản, thất vọng. Tồi tệ hơn nữa, đôi khi chúng ta đã muốn chia tay với cuộc hôn phối kỳ diệu nầy, xé rào giao ước thánh mà bắt tay với ma quỷ, với thế lực gian tà. Thật đáng tiếc! Chúng ta quên rằng Đức Giê-su, Ngôi Thiên Chúa đang làm khách dự tiệc đời ta chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn còn đó, Ngài bảo ta “đổ nước vào chum”, cộng tác với Ngài để phép lạ xảy ra, mà chúng ta không làm.

-Đời sống lứa đôi cũng vậy, sự nồng nàn của tình yêu mỗi lúc một phai nhạt dần theo năm tháng vì trăm ngàn lý do. Biết bao đôi lứa đã “hết rượu giữa chừng” mà không biết nghe lời Mẹ dặn: “Người bảo gì các anh hãy làm theo”, lại nghe theo lời xúi quẩy của ma quỷ mà nhập khẩu vào nhà mình loại rượu giả cho qua ngày đoạn tháng. Lời Chúa vẫn còn đó trong từng trang Tin Mừng, đặc biệt những Lời này: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người thí mạng mình vì người mình yêu”. Lời Chúa đang dặn dò dạy bảo bao điều phải làm để tình yêu luôn mới, để tình yêu luôn nồng nàn. Nhưng không có phép lạ “nước hóa thành rượu” trong nhà chúng ta vì chúng ta không làm theo Lời Người dạy.

-Chúa Giê-su chính là Tân Lang, và Giáo Hội của Người là Tân Giai Nhân trong Giao Ước Mới được gọi là Tân Ước. “Kìa Chàng Rể đến, hãy ra đón Chúa Ki-tô”. Vâng, Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Ki-tô và Chúa Ki-tô vẫn đang làm phép lạ không chỉ cho rượu nho nồng nàn mà còn làm cho rượu nho trở thành Máu Thánh Người để niềm vui bữa tiệc cưới trần gian sẽ còn kéo dài tới bữa tiệc Thiên Quốc, hạnh phúc vĩnh cửu.

Mẹ Maria chưa bỏ tiệc ra về. Mẹ đang thôi thúc chúng ta thực hiện Lời Chúa dạy. Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn đang chờ sự cộng tác của mỗi chúng ta trong đời sống Đức Tin, đời sống lứa đôi, trong đời sống Giáo Hội để ban cho chúng ta thứ rượu ngon nông nàn cho lòng ta thêm phấn khởi.

Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài đang chờ bạn, chờ tôi, chờ chúng ta làm theo Lời Ngài để chúng ta được bình an hạnh phúc.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con nhận ra rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn, trong nhà, trong giáo xứ chúng con và đang cho phép chúng con cùng làm phép lạ với Ngài khi chúng con tuân giữ và thực hiện Lời Ngài. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 18-01-2013

Chúa Nhật 2 QN năm C

 Chúa Nhật 2 QN năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, người ta thường nói: “Trăm hoa đua nở” hay “ Vườn hoa đẹp là vườn hoa có đủ muôn màu muôn sắc khác nhau”. Phải chăng khi ta nói như thế là hàm ý nói về cái đa dạng, cái khác nhau. Vâng đúng thế, cái đa dạng, cái khác nhau đó đẹp biết bao khi mỗi cái phô diễn cái đẹp riêng của mình một cách hài hoà; phô diễn là đưa ra cái đẹp riêng của mình, chứ không phải là ganh đua, hiềm khích, phân bì hay ghen ghét.

     Hôm nay trong bài đọc hai, thánh Phao lô cũng cho chúng ta thấy được cái đa dạng nơi mỗi người; nghĩa là mỗi người, Chúa ban cho một khả năng nào đó, hiểu như thế thì tất cả mọi người đều được Chúa ban cho một tài năng riêng, không ai là vô dụng hay vô tích sự, có điều chúng ta có khám phá ra để phát triển cái tài năng đó hay không? Chẳng hạn ta thấy anh chàng Nick Vujicic, một anh chàng không tay, không chân, thế mà đã vượt lên chính mình, không gây gánh nặng cho người khác; trái lại anh đã đem lại niềm vui cho biết bao người buồn sầu chán nản, thất vọng. Anh đã giúp biết bao bạn trẻ bước ra khỏi ý định tự hủy hoại cuộc sống của mình, qua cách thức Nick nói chuyện; nhất là, qua con người cụ thể của anh là một lời nói hùng hồn của anh. Nick đã từng giảng thuyết cho cả hàng triệu người đó đây trên thế giới.

     Trở lại vấn đề, mỗi người có một tài năng riêng hay nói như ngôn ngữ của Thánh Phaolo: Có nhiều đặc sủng khác nhau. Có nhiều sự phục vụ khác nhau. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí của Chúa. Thế thì giờ đây ta nhìn vào đời sống sinh hoạt của gia đình, đoàn thể, cộng đoàn, giáo xứ, Giáo Hội hay trong xã hội. Ta thấy điều này rất rõ là: Chúa ban cho mỗi người có một tài năng riêng, không ai giống ai, mỗi người có một điểm độc đáo mà người khác không có. Tất cả mọi khả năng khác nhau đó chung qui lại là: Chúa muốn mọi khả năng mà mỗi người có được cần phải bổ túc cho nhau để gia đình, giáo xứ, Giáo Hội, xã hội phát triển  phong phú, tốt đẹp. Và nếu chúng ta nhận ra được mọi tài năng ta có là do ơn Chúa ban thì ta mới có sự khiêm tốn và làm cho ơn đó nên ích lợi cho chính mình và cho người khác được hưởng nhờ.
 
     Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu, mẹ Maria và các Tông Đồ tới dự tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Điều này đã minh định cho chúng ta vấn đề hôn nhân là một sự tốt lành, cho nên đã có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Tông đồ. Quả thật sự hiện diện của các ngài không những là một niềm vui và vinh dự lớn lao cho gia chủ mà còn giúp cho gia chủ giải quyết một sự bế tắc thiếu rượu. Khởi sự để phép lạ xẩy ra là nhờ sự quan tâm lo lắng để ý của Mẹ Maria, nên chi Mẹ mới biết gia đình hết rượu trong khi buổi tiệc đang vui; vì thế Mẹ đã can thiệp vào, qua việc Mẹ nói với Chúa Giêsu. Câu nói: “ Họ hết rượu rồi”. Một câu nói như là báo cho Chúa biết đồng thời như một lời xin ‘ép buộc’ để  giải quyết cho sự khó khăn bẽ mặt hổ người với quan khách, vì vấn đề hết rượu này. Mặc dầu Chúa Giêsu trả lời: “Giờ của Ngài chưa đến” nhưng Mẹ vẫn tin Con mình sẽ có cách giải quyết, nên Mẹ mới mạnh dạn nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo”. Quả thật, lệnh được ban ra: “Hãy đổ đầy nước lạnh vào các chum” và từ sáu chum nước lạnh trở nên sáu chum rượu hảo hạng tuyệt vời. Ai làm được việc đó, nếu không phải là nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc đó sao?
 
     Sự việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu, là để cho mọi người biết rằng:Thiên Chúa đang hiện diện giữa con cái loài người. Thiên Chúa yêu thương con người và Thiên Chúa muốn giúp đỡ con người khi gặp khó khăn; cho dù họ không kêu xin nhưng có người khác cầu giúp thay cho. Người đó là ai vậy! nếu không phải là Đức Mẹ đó sao, và ai nữa nhỉ, nếu không phải là các thánh đó sao!  Thực ra Chúa chẳng cần ai kêu xin thì Ngài mới biết; vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi khó khăn, lo âu của từng người một. Rồi Chúa lại là Đấng giàu lòng thương xót cơ mà, nhưng Chúa muốn cho Đức Mẹ cũng có một chỗ đứng quan trọng trong sự tương quan với mọi người; Nên chi Chúa sẽ lắng nghe sự chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, để Ngài ban ơn cho mọi người. Sự ban ơn này không phải vì chúng ta dễ thương hay vì chúng ta làm được công kia việc nọ lớn lao, nhưng vì sự yêu thương của Chúa và vì lời kêu xin của Mẹ Maria. Như trường hợp ở tiệc cưới Cana xưa; cho dẫu Chúa “chưa thuận” ban ơn ngay lúc đó nhưng vì lời xin của Mẹ hay các thánh thì như “ép” Chúa ban ơn cho vậy.
 
     Vậy, chúng ta thật là diễm phúc, bởi có được người Mẹ thiêng liêng tuyệt vời; Mẹ hiểu rõ mọi nhu cầu của con cái, bởi Mẹ là người yêu thương, quan tâm, tế nhị, kín đáo như Mẹ đã làm trong trường hợp tiệc cưới tại Cana; hết rượu, không ai nói với Mẹ và cũng không ai nghĩ cách giải quyết thế nào. Cũng vậy, cuộc sống hằng ngày có những ơn chúng ta không xin và cũng chưa nghĩ tới và cũng không xin, nhưng Chúa vẫn ban cho ta qua Mẹ Maria, thật dư dật tràn trề như số rượu quá nhiều và tràn trề trong sáu chum. Nhưng có những điều ta xin và luôn xin mà lại không được, thì không phải Chúa không biết; mà Chúa thấy điều ta xin đó không tốt đẹp cho chúng ta về lâu về dài, nhưng thay vào đó, Chúa sẽ ban cho ta những ơn khác mà ta không biết đó thôi.
 
     Lạy Chúa, chúng con thiếu thốn đủ mọi điều trong cuộc sống,tinh thần cũng như vật chất. Xin Chúa ban cho chúng con những gì mang lại lợi ích tốt đẹp cho phần hồn cũng như phần xác của chúng con. Qua lời cầu xin của Mẹ cho chúng con những gì chúng con đang cần; Với lời xin của Mẹ chúng con tin chắc Chúa sẽ ban cho chúng con. Amen.

Lm Phaolô Cao Thế Bình S.D.D

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên C – TÌNH YÊU CHAN CHỨA RƯỢU NỒNG (Ga 2:1-12)

  Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên C – TÌNH YÊU CHAN CHỨA RƯỢU NỒNG (Ga 2:1-12)

Chỉ còn khoảng ba tuần nữa, người Việt Nam chúng ta sẽ hân hoan chào đón Tết mới, mừng Xuân Qúi Tỵ 2013. Ông bà tổ tiên xưa nay thường nói: Năm hết, Tết đến. Năm mới, con người mới. Bởi thế, thói quen cưới Vợ, gã Chồng cho con cháu dịp cuối năm, vốn là một truyền thống, phong tục không thể nào quên. Đôi bạn trẻ được Cha Mẹ lo cưới hỏi, để những ngày đầu Xuân; tân lang và tân nương mang lễ phẩm (cặp bánh, đôi chai rượu) đi Tết mới, ra mắt và nhận họ Nội Ngoại hai bên…

Tuy vô tình nhưng thật đúng ý người Việt Nam, khi Giáo Hội chọn bài Phúc Âm tuần này, xoay quanh câu chuyện tiệc cưới tại Cana, một xóm làng thân thuộc với Đức Maria và Chúa Giêsu. Đường dài từ Nazareth xuống Cana khoảng 8 dặm, dân cư ngụ trong vùng chẳng bao nhiêu, nên chủ tiệc ưu ái mời mọi người thân thuộc đến chung vui. Lệ thường, tiệc cưới người Việt chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ là no thoả, song le tiệc hôn nhân người Do Thái có thể liên tục dài ngày. Bởi thế, cô dâu chú rể tiếp khách suốt buổi này sang buổi khác, chẳng khác gì tuần trăng mật “honeymoon” nối dài cho riêng họ. 

Một chuyện nan giải éo le, xảy đến bất ngờ cho tiệc cưới: thiếu Rượu ngon, để chiêu đãi khách uống.  Chủ tiệc có vẻ bối rối, khó xử. Đức Maria là người quen biết nhà đám, nhạy bén nhận ra vấn đề bế tắc.  Mẹ khẩn cầu cùng Chúa Giêsu, con Mẹ. Ngài nhậm lời Mẹ nài van: nước hoá rượu tràn trề, lai láng.
 
A. Tiệc Vui cần có thức ăn ngon và rượu nồng.
 
Con người “không ai là một hòn đảo’, mỗi cá nhân đều thích sống hợp quần, liên kết.  Tiệc Vui ăn uống với nhau là cơ hội giúp mọi người gần gũi, gia tăng tình yêu thương thân thiết hơn.
  • Tiệc tân gia, chúc mừng gia chủ có nhà mới, “an cư” rồi mới “lạc nghiệp”.
  • Tiệc thôi nôi, chia vui vợ chồng trẻ có con cái nối dõi tông đường “đa tử, đa tôn, đa phú qúi”.
  • Tiệc ra trường, hiệp thông niềm vui với các sinh viên vừa tốt nghiệp, “hy vọng đã vươn lên”.
  • Tiệc thượng thọ, mừng ông bà sống lâu trăm tuổi, mỗi ngày thêm “trường thọ, khang an”.
Ăn Tiệc thì phải có rượu vào lời ra, niềm vui mới ngọt ngào, lan toả; nụ cười mới thấy “ép-phê”.
  • Nhiều thực khách ưa quen sánh ví: “Muốn ăn ngon, phải đủ hai yếu tố: thứ nhất tốt Nhắm, thứ nhì Lắm anh em”Nghĩa là: làm cỗ to, mà không có đồ nhậu tốt, rượu ngon, không có đông người tham dự…thì mất vui.
  • Một số dân nhậu, lại bạo miệng quảng cáo:  “Nam vô tửu như kỳ vô phong”.  Đàn ông mà không biết uống rượu, chẳng khác gì lá cờ bay phất phơ, thiếu sức mạnh của gió thổi. Phải ăn cho ngon, uống cho no say, dzô “trăm phần trăm” đều đều, mới xứng đáng là “dân chơi thứ thiệt”.
Do đó, tiệc cưới mà thiếu rượu như tại Cana, là một dấu hiệu mất Vui, kẻ mê tín cho đó là “điềm xui”.
  • Rước cô dâu về nhà chồng: đôi bạn trẻ đến trước bàn thờ tổ tiên, đốt nến thắp nhang kính bái di ảnh Ông Bà Nội Ngoại bên chồng. Bất ngờ, nến Cô Dâu cháy đều, nến Chú Rể gió thổi vụt tắt, người xấu bụng cho là “điềm xui”, Chú Rể sẽ yểu mệnh, chết sớm / Cô Dâu sẽ lấn át, ăn hiếp ?
     
  • Đón dâu đến cổng nhà chồng: Pháo Nổ cả dây dài chục mét, chào mừng tân lang & tân nương.  Nào ngờ, khi viên pháo Đại sau cùng nổ đùng một tiếng lớn, lộ ra một miếng vài đỏ với câu chúc vô tình “Thiên Thu Vĩnh Biệt” thay vì “Trăm Năm Hạnh Phúc”, khiến lắm kẻ xôn xao tin rằng điềm xui cho đôi tân hôn sẽ xảy đến “ngày tàn của Chú Rể / thời nở hoa của Cô Dâu” ?
Thực sự, kitô hữu tin vào một Thiên Chúa quan phòng, Ngài yêu thương ban phát mọi sự lành cho ta.  Không có chuyện “điềm hên, điềm xui”, khi thiếu Rượu giữa tiệc, khi nến tắt trên bàn thờ, khi phong Pháo Nổ bị ai đó chơi xấu, hay vô tình lầm lỗi, dán vào câu “thiên thu vĩnh biệt” thay cho các câu: “song hỉ”, “tình thắm duyên nồng”, “tình nặng duyên sâu”, “mãi mãi bên nhau”…
 
Đám cưới ngày xưa là thế. Song thực tế, tiệc cưới hôm nay ở Hoa Kỳ, làm gì có chuyện thiếu Rượu?
  • Khi gửi thiệp mời đám cưới, cô dâu chú rể luôn kèm thêm Thiệp Hồi Báo cho từng vị khách, thư trả lời cho đôi bạn trẻ biết Họ có đến dự tiệc hay không. Gần ngày hôn lễ, Cô Dâu Chú Rể mới tổng kết các Thư Hồi Âm ấy, mà biết rõ số người sẽ tham dự để đặt tiệc Nhà Hàng và mua số Rượu tương ứng tiếp khách.
  • Hơn nữa, Tiệc vui bây giờ lỡ hết Rượu, chủ tiệc sẽ nhanh chóng gọi Phone liên hệ: bảo đảm vài phút sau có người mang tới tận nhà hàng, tiếp Bia Rượu nhiều vô kể. Thậm chí, một số Nhà Hàng cũng có nguồn dự trữ Bia Rượu, sẵn sàng hỗ trợ chủ tiệc đến nơi đến chốn…
B. Đời sống Hôn Nhân cần có rượu nồng Yêu Thương, Cảm Thông và Chia Sẻ.
 
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người và sống trong một gia đình, cư ngụ ở Nazareth.  Gia Đình Thánh của Ngài, có Thánh Giuse là cha nuôi và Đức Maria là mẹ ruột.
Đời sống hôn nhân của Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ luôn thắm nồng Rượu Tình chan chứa.
  • Chan chứa tình Yêu Thương:
    o   tôn trọng sự thanh khiết của nhau, suốt thời gian sống chung.
    o   đặt hạnh phúc người mình yêu lên trên tham vọng ích kỷ cá nhân.
    o   không phản bội, giận hờn, hủy diệt nhưng luôn xây dựng tình mến cho nhau.
  • Chan chứa sự Cảm Thông:
    o   hiểu được vị thế và trách nhiệm người mình yêu, mà nâng đỡ, phụ giúp, ủi an.
    o   quan tâm nhu cầu chung, cùng san sẻ mọi trách nhiệm hỗ tương.
    o   xem Thánh Ý Chúa luôn trọng yếu hơn mọi ước muốn riêng mình.
  • Chan chứa hành vi Chia Sẻ:
    o   cùng nhau lao động cần cù, giúp thăng tiến cuộc sống.
    o   cùng chia sẻ bổn phận mình với các thành viên khác trong gia đình.
    o   đồng cảm mọi gánh nặng buồn, vui trong mái ấm êm đềm ẩn dật Nazareth.
Theo gương Thánh Gia Nazareth, thiết tưởng tình yêu thương nơi các đôi vợ chồng hôm nay cũng thế.  Hạnh phúc gia đình thế gian, cũng rất cần đầy đủ những Rượu Ngon nồng nàn tương tự.
  • Rượu nồng Yêu Thương:
    o   hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng gian khó; sống chết cho nhau.
    o   dám quên mình, để sống vị tha, bỏ qua những lầm lỗi.
    o   nhìn điểm Tốt nơi người yêu hơn là đay nghiến mãi các sai sót sủa họ.
  • Rượu nồng Cảm Thông:
    o   hiểu những yếu đuối con người, giúp nhau xây dựng nên tốt.
    o   hâm nóng luôn những kỷ niệm đẹp, những thời điểm đáng nhớ của gia đình.
    o   biết đáp ứng và phát triển những sở thích tốt của nhau.
  • Rượu nồng Chia Sẻ:
    o   liên đới, hỗ trợ nhau mưu sinh, giúp thăng hoa kinh tế gia đình.
    o   hiệp thông hợp nhất trong bổn phận làm cha mẹ, giáo dục con cái nên tốt.
    o   trao đổi, thảo luận và cộng tác thực hiện mọi sinh hoạt trong mái nhà chung.
Giêrêmia là một chàng trai hiền lành tốt bụng. Anh yêu một cô gái cao hơn anh rất nhiều. Mỗi buổi tối, anh thường bách bộ đến sở làm của người yêu, đưa đón nàng về nhà cô ta. Giữa đường, Anh rạo rực muốn tặng nàng nụ hôn, song rụt rè nhút nhát. Một tối nọ, Giêrêmia lấy hết can đảm nói với cô gái: “Em cho phép Anh được hôn em nhé!”. Nàng đồng ý, nhưng Anh thấp quá, không sao thể hiện được. Chợt thấy trong xưởng thợ rèn gần đó, có một chiếc đe vừa vặn, cho Giêrêmia đứng lên. Anh sử dụng nó, để thoả mãn lòng mong ước. Sau đó, anh vác luôn chiếc đe mang theo mình, chẳng khó khăn gì. Đi được một đoạn, Giêrêmia lại nói với người yêu: “Cho Anh hôn thêm một cái nữa đi, Em yêu!”. Cô nàng khó chịu: “Không được. Em đã cho rồi, một lần như thế là đủ rồi”. Anh bèn lý sự: “Sao nảy giờ Anh cứ vác chiếc đe nặng nề này theo Em, mà Em cứ im lặng không nói sớm đi, để Anh vứt nó?’.
 
Đúng là một tình yêu thiếu Rượu nồng. Khi đã yêu, vật có nặng bao nhiêu cũng thành nhẹ. Ngược lại, khi đã Không Còn Yêu Thương, thì vật gì nhẹ cách mấy, cũng ttở thành gánh nặng biết bao!!!
 
C. Hãy mời Chúa và Đức Mẹ hiện diện trong gia đình mình luôn mãi.
 
Nhà văn Lệ Hằng trước 1975, trong tác phẩm Chết Cho Tình Yêu có viết:  “Yêu nhau là cầm tù nhau đời đời, cắn rứt nhau mãi mãi và giận nhau thiên thu”. Tình yêu làm cho hai bạn tình bị mê mệt, gợi hứng cho cô dâu chú rể phải gắn bó, là chất xúc tác giúp vợ chồng luôn “ăn đời, ở kiếp”, khó bỏ nhau.
 
Để yêu thương, họ cần có: Rượu nồng kính mến, Rượu nồng cảm thông, Rượu nồng chia sẻ.  Nhưng làm sao để có các Rượu ấy đầy đủ, giúp đôi bạn sống yêu nhau đến ngày răng long, tóc bạc?
  • Nơi tiệc cưới Cana, cô dâu chú rể suýt bị “quê độ” vì thiếu Rượu bất thình lình giữa buổi tiệc.  May mắn thay, Đức Maria là khách qúi được mời dự tiệc, biết rõ sự khó của họ, Mẹ đã nhờ Chúa Giêsu hỗ trợ. Và phép lạ “nước hoá rượu” xảy ra, giúp nhà đám có đủ rượu, ngon hơn.
  • Hạnh phúc hôn nhân Công Giáo, nhiều khi thiếu Rượu đạo đức, tin tưởng và yêu mến nhau, đời sống chung bị ảnh hưởng. Những lúc ấy, vợ chồng hãy rước Chúa và Đức Mẹ vào trong gia đình mình. Chắc chắn, Chúa sẽ làm phép lạ giúp xua tan mọi bất hoà, nghi kỵ, lo lắng trong ta.
Đôi vợ chồng nọ cưới nhau đã 12 năm, nhưng vẫn hiếm muộn không con. Họ tốn tiền chạy chữa Bác Sĩ khắp nơi, song không thấy tín hiệu khả quan. Hôm ấy, tháng Mân Côi, giáo xứ tổ chức long trọng đón rước tượng Đức Mẹ Thánh Du Fatima mang từ Rôma về. Cha Xứ cho phép mỗi gia dình được luân phiên đón tượng Đức Mẹ vào nhà mình ở một ngày, cử hành giờ Tôn Vương. Đôi vợ chồng hí hửng chào đón tượng Mẹ đến tư gia, khẩn nài Mẹ cứu giúp, cầu Chúa ban cho họ niềm vui có con thơ.  Quả nhiên sau đó một năm, cậu Qúi Tử kháu khỉnh chào đời. Hai vợ chồng giữ lời hứa, từ đó về sau, mỗi Thứ Bảy đầu tháng, họ đi làm về sớm, đến nhà thờ dâng lễ, làm việc tạ ơn Chúa và Đức Mẹ.
 
Cha Thánh Gioan Boscô khuyên nhủ các thanh thiếu niên:  “Hãy chạy đến với Đức Mẹ, các con sẽ thấy phép lạ là thế nào?”.  Thánh Viện Phụ Bênađô trước đó, cũng đã xác tín:  “Từ xưa đến nay, chưa từng có ai chạy đến cùng Đức Mẹ, xin cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
 
Bởi vậy, “qua Mẹ đến với Chúa Giêsu”, Mẹ đã từng giúp đôi tân hôn tại Cana gỡ được thế cờ bí “thiếu Rượu”, lẽ nào đôi vợ chồng ngày nay, thiếu lòng tin tưởng, cậy trông, kính mến vào Chúa và Đức Mẹ?  Hãy mời Chúa và Đức Maria vào hiện diện, cư ngụ trong mái nhà chung của mình luôn mãi:
  • giữa nhà, có bàn thờ đặt Thánh Giá, tượng Chúa và Đức Mẹ ngự nơi trang trọng nhất.
  • mua một quyển Kinh Thánh để nơi thuận tiện, dễ thấy; dung chung cho gia đình.
  • mỗi thành viên trong nhà có Tràng Hạt riêng, để lần hạt Mân Côi hàng ngày.
  • cuối tuần, sớm tối gia đình họp mặt, đọc kinh chung, đêm về phó thác linh hồn cho Chúa.
  • trang hoàng hoa tươi, đèn điện tươi sáng…toả lan Nhan Thánh Chúa và Mẹ luôn mãi.
  • cả gia đình đi dự lễ chung Chúa Nhật, làm việc công giáo tiến hành giúp giáo xứ, cộng đoàn.
  • nghỉ Vacation hàng năm, đi xa hành hương Đất Thánh, tham dự Đại Hội Thánh Mẫu Lavang..
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu! Ngày xưa, cùng Mẹ vào đời, Chúa đã can thiệp giúp đôi tân hôn ở tiệc cưới Cana.  Hôm nay, con cùng Mẹ bước đi, trên đường đầy bao gian nguy, xin Chúa tiếp tục che chở, ban cho gia đình chúng con đầy Rượu tình yêu mến, chan hoà niềm hạnh phúc và khang an.  AMEN.
 
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C

“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,

“Hây hây thục nữ mắt như thuyền.”

(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)

Ga 2: 1-11

            Ngừng thêu gấm, để mừng em lên xe tìm hạnh phúc. Mắt như thuyền, để tôi đi về tìm Lời Chúa ở bữa tiệc. Như trình thuật thánh sử ghi chép, rất hôm nay.

            Trình thuật thánh sử kể lại hôm nay, là kể về sinh hoạt Chúa hiện diện ở tiệc cưới xứ Cana. Thông thường thì, khi nghe kể về tiệc vày, người đọc thường liên tưởng đến Đức Nữ Trinh Maria cầu bàu Chúa, khi hết rượu. Hoặc, chỉ nghĩ đến ơn phúc Chúa gửi đến với hôn nhân. Hoặc, cả đến tính thánh thiêng của bí tích hôn phối trong Đạo; cũng như nhu cầu cần thực thi những gì Chúa dạy ở Tin Mừng. Nhưng nay, hãy nghĩ về vai trò ta phải có khi Chúa thực hiện mọi điều trong thế giới, ta đang sống.

            Truyện về tiệc cưới hôm nay, ta thấy Đức Giêsu đã lớn thành thanh niên trai tráng, rất trưởng thành. Cana, là xứ miền không xa Nadarét là mấy, tức thôn làng Chúa sống vào thời ấu thơ. Khi ấy, Chúa tham dự tiệc cưới theo kiểu Do thái tức tiến trình gồm hai bước, giống như ở một số nơi có đám hỏi vào năm trước. Sau đó, mới đưa cô dâu về nhà chồng có lễ hội kéo dài những 8 ngày ròng ở thôn làng; có mời mọc bạn bè người thân đến từ làng bên cạnh. Hôm ấy, Chúa có mặt ở nhà trai lúc có buổi đón dâu rất đình đám. Tiệc cưới ở đây, bao giờ cũng cần chuẩn bị rất nhiều rượu.

  Cạnh thôn làng Chúa sống, lại có nhiều vườn nho được canh tác nhưng rượu được cất từ trại nho gần đó, lại không có được phẩm chất cao. Trong khi đó, trách nhiệm của nhà trai là phải chu cấp rượu ngon cho mọi người uống đủ. Nơi truyện kể, người kể không nói đến danh tánh của đôi trẻ, nên ta có thể đoán biết quan viên hai họ là những người được Chúa và Đức Mẹ cũng như mọi người trong làng đều biết đến. Cả đến tên của Mẹ cũng chẳng được người kể nêu tên, mà chỉ nói :”Mẹ của Đức Giêsu”. Cũng không thấy nói đến tên tuổi của đồ đệ Chúa có mặt vào hôm ấy.

Điều rất thú vị ở đây, ai cũng thấy là: Đức Maria là người được mời đến dự tiệc. Và, cả đến Đức Giêsu cũng như đồ đệ Ngài được mời đến. Và, xem ra Mẹ là chủ gia đình, tức người có thói quen coi ngó mọi việc nên Mẹ mới biết là: rượu đã cạn. Và, Mẹ đã ra tay hành động, cũng là giờ của Mẹ. “Giờ” của Mẹ Đức Chúa đã tới ở tiệc cưới hôm ấy, là vì mọi người trong cuộc đang có nhu cầu được Chúa ra tay giúp đỡ.

Việc Chúa ra tay giúp đỡ là đổ tràn tình thương Ngài ban phát cho những người có nhu cầu. Ngài nhìn quanh, thấy có vại nước. Nước, là biểu tượng của tình thương đang đổ tràn lu/vại và bảo mọi người hãy cứ uống. Thức uống Ngài bảo ban không chỉ là rượu, lại chính là tình thương đổ tràn lên họ và làm ấm áp tâm can họ. Họ không thể tin vào mắt mình rằng: còn gì quý bằng được uống nước tình thương đổ tràn trong đó. Ngài biến nước thành rượu nhưng Ngài biến nó thành biểu tượng của tình thương Ngài ban phát cho họ. Ngài vẫn còn làm việc đó cho ta mọi ngày.

Thế nhưng, đại ý câu truyện biến nước thành rượu ở đây là thế nào?

Là, Đức Maria cũng có vai trò trong việc Chúa thực hiện. Mẹ chỉ cho Chúa cơ hội bằng vàng để tình thương của Chúa được đổ tràn lên mọi người là những người có nhu cầu đem đến cho họ hơi ấm và cuộc sống. Mẹ thấy có vấn đề và Mẹ có được con của Mẹ là Chúa giải quyết giúp đỡ.

Cả ta nữa, cũng có thể làm được như Mẹ. Không phải để tổ chức tiệc cưới nào hết. Ta cũng không thể biến nước thành rượu, nhưng vẫn có thể giải quyết các khó khăn, mỗi khi bắt gặp. Ta có thể ra tay hành động. Và khi làm thế, ta có thể cho Chúa về những người đang có nhu cầu, như ta biết. Ta kêu cầu Chúa giúp họ. Ta cũng có thể nói với mọi người những điều như thế. Hãy cứ nói  với  bạn Đạo. Cả đến chính trị gia, hàng xóm láng giềng và có thể gọi số cấp cứu 000 hoặc 911, nếu thấy cần.

Điều cần thiết, là: hãy tỏ cho mọi người biết tình trạng của người cần được giúp và yêu cầu những người dửng dưng hãy tra tay hành động để phụ giúp. Nhưng, có lẽ thông điệp từ truyện kể hôm nay là để bảo: hãy làm những gì Chúa bảo. Và có lẽ, cũng nên làm như Mẹ từng làm. Sống và hành động như Đức Giêsu không có nghĩa là ta chỉ đi đến cửa hàng mua vài món quà cho ai đó. Nhưng là, đừng cả thẹn/ ngại ngùng khi mình “cho đi” tình thương yêu để giúp những người túng thiếu/ có nhu cầu. Là, cầu cho có được sự giúp đỡ thật sự cho người đang có nhu cầu. Hãy cho đi và nhận sự giúp đỡ mỗi khi cần.

Thành thử, hãy nghe lại thông điệp này, là: kể cho Chúa nghe một đôi điều và hãy ngạc nhiên khi thấy kết quả. Có lẽ nhiều người trong Hội thánh sẽ lấy làm lạ khi thấy các phụ nữ nghe được giọng nói mạnh cho Hội thánh biết những gì đang xảy đến; và, hội thánh cần làm việc gì đó để giúp đỡ những người cần giúp? Có lẽ cũng là điều thích thú, nếu Hội thánh triển khai khả năng thiết yếu lắng nghe và ra tay hành động.

Phụng vụ hôm nay cho thấy: ta sử dụng bài Tin Mừng này cho mùa lễ quanh năm để hoàn tất mùa Hiển linh, rất lễ hội. Hiển linh mùa lễ, không chỉ có truyện kể về ba vị đạo sĩ từ phương xa tìm đến, hoặc truyện Đức Chúa chịu phép rửa từ thánh Gioan. Bất cứ khi nào ta làm việc gì thực tế hoặc rất hữu dụng cho những ai đang cần đến, thì đó là lễ hội Hiển Linh với người thời đại, rất hôm nay.

Trong tinh thần hiểu biết rất như thế, cũng nên ngâm lại câu thơ ở trên, mà rằng:

            “Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm.

            Hây hây thục nữa mắt như thuyền.

            Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,

            Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.”

            (Xuên Điệu – Thu)

Thục nữ khi xưa, là Mẹ Chúa rất như thuyền. Mẹ vẫn khuyên dạy Con hãy nhớ đến đàn con hôm nay vẫn cần tình thương của mọi người, rất thường tình.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn đại kết Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn đại kết Phần Lan

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 17 tháng 1-2012, dành cho phái đoàn đại kết Phần Lan, ĐTC cổ võ các tín hữu gia tăng cầu nguyện và khiêm tốn tiến bước hướng về sự hiệp nhất.

Phái đoàn đại kết Phần Lan gồm các GM Tin Lành Luther, Chính Thống và Công Giáo, và một số tín hữu tháp tùng về Roma hành hương hằng năm nhân dịp lễ thánh Henrik bổn mạng của nước này.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến chủ đề của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô bắt đầu từ ngày 18 tháng 1-2013, đó là câu trích từ sách Ngôn Sứ Isaia: ”Điều gì Chúa đòi hỏi chúng ta?” (Xc Mi 6,6-8). Dĩ nhiên Ngôn Sứ nêu rõ điều Chúa yêu cầu chúng ta, đó là ”thực hành công lý, yêu thương và khiêm tốn tiến bước với Thiên Chúa chúng ta” (v.8)

ĐTC giải thích rằng: ”Khiêm tốn tiến bước trước sự hiện diện của Chúa, trong niềm vâng phục Lời cứu độ và tín thác nơi kế hoạch ơn phúc của Chúa, chính là một hình ảnh hùng hồn không những về đời sống đức tin, nhưng còn là hành trình đại kết trên con đường tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của mọi Kitô hữu. Trên con đường làm môn đệ Chúa, chúng ta được mời gọi tiến bước theo con đường hẹp của sự trung thành với thánh ý Chúa khi đương đầu với bất kỳ khó khăn và chướng ngại nào chúng ta có thể gặp phải”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Sự tiến bộ trên con đường hiệp thông đại kết đòi hỏi chúng ta phải đoàn kết với nhau hơn trong kinh nguyện, dấn thân hơn nữa trong việc nên thánh, và càng đi sâu hơn trong lãnh vực nghiên cứu thần học và cộng tác trong việc phục vụ một xã hội huynh đệ và công bằng. Trên con đường đại kết linh đạo như thế, chúng ta thực sự đồng hành với Thiên Chúa và với nhau trong công lý và tình thương (Xc Mi 6,8).

Sau cùng, ĐTC xác tín rằng ”Các bạn thân mến, khi cùng nhau khiêm tốn tiến bước theo con đường công lý, từ bi và ngay chính mà Chúa đã chỉ cho chúng ta, các tín hữu Kitô không những ở trong sự thật, nhưng còn là ngọn đèn vui mừng và hy vọng cho tất cả những người đang tìm kiếm điểm tham chiếu vững chắc trong thế giới biến chuyển mau lẹ ngày nay”. (SD 17-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

Ngoại trưởng Tòa Thánh lên án ”sự độc tài của chủ nghĩa duy tương đối”

Ngoại trưởng Tòa Thánh lên án ”sự độc tài của chủ nghĩa duy tương đối”

Đức TGM Dominique Mamberti

VATICAN. Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti, bênh vực tự do lương tâm, và chống lại ”chủ nghĩa độc tài” của thuyết duy tương đối về luân lý.

Đức TGM Mamberti bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, hôm 16 tháng 1-2012, sau khi Tòa Án nhân quyền ở Strasbourg đưa ra phán quyết về 4 vụ kiện từ Anh quốc: hai vụ liên quan đến vấn đề có được đeo thánh giá nhỏ ở cổ tại nơi làm việc hay không, và 2 vụ khác về quyền phản kháng lương tâm, không cử hành hôn phối dân sự cho 1 cặp đồng phái, và chữa trị quan hệ phái tính cho một cặp đồng phái khác.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức TGM Mamberti nhận định rằng ”Các vụ kiện đó chứng tỏ những vấn đề liên quan đến tự do lương tâm và tôn giáo là điều phức tạp, đặc biệt nơi xã hội Âu Châu trong đó ngày càng có sự khác biệt về tôn giáo và trào lưu duy đời (laicismo) gia tăng. Có một nguy cơ thực sự là chủ thuyết duy tương đối về luân lý đang được áp đặt như một qui luận mới của xã hội, nó đến làm thương tổn những nền tảng của tự do lương tâm và tự do tôn giáo của mỗi người.”

Đức TGM Ngoại trưởng Tòa Thánh nhấn mạnh rằng ”Giáo Hội muốn bảo vệ tự do lương tâm và tự do tôn giáo của mỗi người trong mọi trường hợp, kể cả đứng trước ”chế độ độc tài của chủ thuyết duy tương đối”. Vì thế, cần phải trình bày sự hợp lý của lương tâm con người nói chung và hành động luân lý của các tín hữu Kitô nói riêng. Đối với những vấn đề luân lý có tranh luận như phá thai hoặc đồng tính luyến ái, cần phải tôn trọng tự do lương tâm của mỗi người. Sự tôn trọng tự do lương tâm và tự do tôn giáo không phải là chướng ngại cản trở việc thiết lập một xã hội bao dung trong sự đa nguyên, trái lại đó là điều kiện để có xã hội bao dung như thế”.

Hỗ trợ cho những nhận định trên đây, Đức TGM Mamberti trích dẫn lời ĐTC Biển Đức 16 trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh hôm 7-1 vừa qua, theo đó ”cấm sự phản kháng lương tâm của cá nhân và của tổ chức, nhân danh tự do và đa nguyện, thì sẽ mở đường cho sự bất bao dung và một sự cưỡng bách mọi người phải đồng đều như nhau. Làm hao mòn tự do lương tâm chúng chứng tỏ một hình thức bi quan đối với khả năng của lương tâm con người nhìn nhận những gì là tốt lành và chân thật, để rồi chỉ bênh vực luật do con người làm ra, có xu hướng dành độc quyền quyết định về luân lý. Giáo Hội cũng có vai trò nhắc nhở rằng mỗi người, dù thuộc tín ngưỡng nào đi nữa, đều có khả năng theo lương tâm phận biệt thiện ác và do đó có khả năng hành động phù hợp với phán đoán của lương tâm. Đó chính là nguồn mạch tự do đích thực của con người”. (SD 16-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

ĐỨC

ĐỨC RENOIR

Trong bài Đức Mẹ Sầu Bi, tôi đã giải nghĩa chữ đức, nhưng chỉ tập trung vào nghĩa Nôm. Gần đây, Tiểu ban Từ vựng thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin nhờ tôi viết ra các nghĩa của chữ đức, lại có độc giả hỏi về cách dùng chữ đức, cũng như cách dùng chữ đức trong nghĩa Nôm có quy định nào không.
 
Nay tôi viết mục từ riêng về chữ Đức, vừa ghi lại những chi tiết đã có về nghĩa Nôm, vừa bổ sung thêm về nghĩa Hán cho hoàn chỉnh trong một bài viết, hy vọng đáp ứng được sự quan tâm của mọi giới.

I.  Nghĩa Nôm: Đức là từ đi trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để tỏ lòng kính trọng dành cho những đấng, những vị đáng được tôn kính.

Ví dụ: Đức Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức thánh Trần…

II.  Nghĩa Hán

1.   Nghĩa chung của chữ đức

Đức có duy nhất một chữ Hán 德 (tuy có nhiều cách viết, như: 徳, 悳, 惪).

Nguyên nghĩa: (đt.) Nhìn rõ phương hướng, đi thẳng vào đạo lộ → (tt.) Hợp đạo trời, tự nhiên tự đắc (chỉ dùng trong cổ văn) → (dt.) Tư tưởng, phương pháp hợp đạo trời (dt.) Phẩm chất tư tưởng phù hợp với tiêu chuẩn phải trái → (dt.) Việc thiện, ân huệ, Cảm ân đới đức.

Vậy, đức có các nghĩa: (dt.) (1) Ân huệ: Dĩ đức báo oán. (2) Đạo đức, lấy đạo để lập thân: Đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác phong. (4) Cái khí tốt (thịnh vượng) trong bốn mùa: mùa xuân gọi là thịnh đức tại mộc. (5) Ý chí, niềm tin, lòng: nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên quốc gia: Nước Đức. (7) Ơn: Đức tin. (8) Họ Đức [1]. (đt.). (9) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiên tắc đức ngã hồ” (Vua nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). (10) Giáo dục: đức hoá (lấy đức mà dạy bảo). (tt.) (11) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt đẹp).

[Xem chi tiết…ĐỨC]

Nhận ra gương mặt Chúa Giêsu nơi người nghèo, yếu đuối và khổ đau

Nhận ra gương mặt Chúa Giêsu nơi người nghèo, yếu đuối và khổ đau

Nếu muốn trông thấy dung nhan Thiên Chúa, một dung nhan trao ban ý nghĩa, sự vững vàng và an bình cho con đường đời sống, chúng ta phải theo Chúa Kitô và hướng toàn cuộc sống tới việc gặp gỡ Người, yên mến Người và yêu mến tha nhân. Vì dưới ánh sáng của Đấng bị đóng đinh, tình yêu ấy khiến cho chúng ta nhận ra gương mặt của Chúa Giêsu nơi người nghèo, người yếu đuối và người đau khổ.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 16 tháng 1-2013 trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Nơi Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa mạc khải dung nhan Người cho nhân loại”. Trong Hiến chế tín lý về việc mạc khải Dei Verbum, Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng chân lý thâm sâu của toàn sự Mạc Khải về Thiên Chúa sáng ngời nơi ”Đức Kitô là Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn sự Mạc Khải” (Dv 2). Thánh Kinh Cựu Ước kể rằng sau khi tạo dựng, mặc dù có tội tổ tông là sự ngạo mạn của con người muốn thay thế chỗ của Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa lại cống hiến cho con người khả thể có được tình bạn của Người, nhất là qua giao ước với Abraham và lộ trình của một dân tộc bé nhỏ là dân Israel, mà Người đã chọn, không phải với các tiêu chuẩn của quyền bính trần thế, mà chỉ đơn thuần vì tình yêu thương của Người. Việc lựa chọn ấy là một mầu nhiệm, và nó vén mở cho thấy kiểu Thiên Chúa kêu gọi một vài người làm cầu nối dẫn đưa các người khác đến với Người. Trong lịch sử dân Israel chúng ta có thể đi lại các chặng của một lộ trình dài, trong đó Thiên Chúa tự mạc khải và bước vào trong lịch sử với các lời nói và hành động. Và để làm việc này Thiên Chúa dùng các người trung gian như ông Môshê, các Ngôn sứ, các Thẩm phán, để thông truyền cho dân ý muốn của Người, nhắc lại cho họ biết đòi buộc trung thành với giao ước, và tỉnh táo chờ đợi việc thực hiện tràn đầy và vĩnh viễn các lời Thiên Chúa đã hứa.

Chúng ta đã chiêm ngắm chính việc thực hiện các lời hứa này trong lễ Giáng Sinh: sự Mạc Khải của Thiên Chúa đạt tột đỉnh và sự trọn vẹn của nó. Nơi Đức Giêsu thành Nadarét, Thiên Chúa viếng thăm dân Người, viếng thăm nhân loại trong một cách thế vượt mọi chờ mong: Người gửi Con Duy Nhất của Người xuống thế làm người. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta gương mặt của Thiên Chúa. Trong bài ca dẫn nhập Phúc Âm thánh Gioan viết: ”Thiên Chúa đã không ai trông thấy bao giờ: Con duy nhất là Thiên Chúa và ở trong lòng Cháu Cha, chính Người đã vén mở cho chúng ta” (Ga 1,18). Khi cuộc khổ nạn tới gần, Chúa Giêsu đối thoại với các môn đệ và nói với họ về Thiên Chúa Cha. Tông đồ Philiphê hỏi Người: ”Thưa Thầy xin Thầy chỉ Cha cho chúng con là đủ” (Ga 14,8). Philiphê rất cụ thể và thực tiễn, ông xin được trông thấy Chúa Cha, thấy gương mặt của Người. Câu trả lời của Đức Giêsu đưa chúng ta vào trung tâm đức tin kitô học của Giáo Hội: ”Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha” (Ga 14,9). Kiểu nói này gói ghém tổng hợp của sự mới mẻ của Tân Ước, sự mới mẻ xuất hiện trong Hang đá Bếlêhem: Người ta có thể trông thấy Thiên Chúa, Người đã biểu lộ dung nhan Người, Người hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô.

Trong toàn Thánh Kinh Cựu Ước có đề tài ”tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa”. Từ ”panim” dung nhan được lập lại tới 400 lần, trong đó có 100 lần quy chiếu về Thiên Chúa. Nhưng Do thái giáo cấm các hình ảnh, vì không thể diễn tả Thiên Chúa được, như các dân tộc làm với việc thờ lậy các ngẫu tượng. Xem ra nó loại trừ hoàn toàn việc ”trông thấy” khỏi phụng tự và lòng đạo đức. Như vậy thì đối với tín hữu do thái đạo đức tìm nhan Thiên Chúa có nghĩa là gì, dù ý thức được rằng không thể có bất cứ hình ảnh nào của Người?

Câu hỏi này rất quan trọng, vì một đàng muốn nói rằng không thể giản lược Thiên Chúa vào một đồ vật, vào một hình ảnh đơn sơ, cũng không thể để cái gì vào chỗ của Thiên Chúa; tuy nhiên, đàng khác nó khẳng định rằng Người có một gương mặt, nghĩa là một ngôi thứ hai có thể bước vào trong tương quan, Người không khép kín trên Trời, và từ cao nhìn xuống nhân loại. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chắc chắn Thiên Chúa ở trên mọi sự, nhưng Người hướng mặt về chúng ta, lắng nghe, trông thấy, nói và kết ước với chúng ta, Mgười có khả năng yêu thương chúng ta. Lịch sử cứu rỗi là lịch sử của tương quan này của Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải từ từ cho con người, là Đấng làm cho con người biết tôn nhan Người.

Chính trong ngày đầu năm mùng một tháng Giêng chúng ta đã lắng nghe trong phụng vụ lời chúc lành rất đẹp trên dân: ”Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Chúa rạng ngời nét mặt nhìn anh em và dủ thương anh em! Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26).

Sự rạng ngời của dung nhan Thiên Chúa là suối nguồn sự sống, là điều cho phép trông thấy thực tại; ánh sáng gương mặt Người hướng dẫn cuộc sống. Trong Thánh Kinh Cựu Ước có một gương mặt gắn liền với đề tài ”dung nhan Thiên Chúa”: đó là ông Môshê, người Thiên Chúa chọm để giải phóng dân Israel khỏi sự nô lệ Ai Cập, bằng cách ban cho dân Lề Luật của giao ước và dẫn đưa họ vế Đất hứa. Chương 33 sách Xuất Hành nói rằng ông Môshê có tương quan chặt chẽ và tin cậy với Thiên Chúa: “Chúa nói với ông Môshê mặt giáp mặt, như người ta nói với một người bạn” (Xh 33,11). Chính nhờ sự tin tưởng ấy ông Môshê mới xin Thiên Chúa: ”Xin cho con thấy vinh quang Ngài” và câu trả lời của Thiên Chúa thật rõ ràng: ”Ta sẽ cho tất cả lòng lành của Ta đi qua trước mặt ngươi và Ta sẽ xưng danh Ta là Giavê trước mặt ngươi… Nhưng ngươi sẽ không thể trông thấy mặt Ta, bởi vì không ai có thể thấy Ta mà vẫn sống… Đây là chỗ gần Ta.. Ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, nhưng tôn nhan Ta thì không được thấy” (Xh 33,18-33).

Như vậy, một đàng có sự đối thoại mặt giáp mặt như giữa bạn hữu, nhưng đàng khác có sự bất khả thể trông thấy Thiên Chúa là Đấng dấu ẩn, ở trong đời này. Việc trông thấy bị hạn chế. Sau cùng, chỉ có thể theo Thiên Chúa, bằng cách trông thấy lưng của Người.

Tuy nhiên, với sự Nhập Thể, xảy ra một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ. Việc tìm kiếm tôn nhan Thiên Chúa nhận được một khúc rẽ không thể tưởng tượng được, bởi vì bây giờ có thể trông thấy gương mặt ấy: đó là gương mặt của Đức Giêsu, của Con Thiên Chúa làm người. Nơi Người thành toàn con đường mặc khải của Thiên Chúa, đã bắt đầu với ơn gọi của tổ phụ Abraham. Người là sự trọn vẹn của việc mạc khải này, bởi vì là Con Thiên Chúa, đồng thời là ”Đấng trung gian và sự toàn vẹn của Mạc Khải” (DV 2); nơi Người nội dung sự mạc khải và Đấng mạc khải trùng hợp với nhau. Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy gương mặt của Thiên Chúa và làm cho chúng ta biết tên của Thiên Chúa. Trong lời Cầu linh mục trong Bữa Tiệc Ly Người thưa với Thiên Chúa Cha: ”Con đã biểu lộ danh Cha cho họ… Con đã làm cho họ biết danh Cha” (Ga 17,6.26). Kiểu nói ”danh Thiên Chúa” có nghĩa Thiên Chúa như Đấng hiện diện giữa loài người.

Thiên Chúa đã vén mở danh người cho ông Môshê gần bụi gai cháy, Người đã khiến cho mình có thể khẩn cầu, đã cho một dấu chỉ cụ thể về ”sự hiện diện” của Người giữa loài người. Tất cả những điều này tìm được sự thành toàn và trọn vẹn nơi Đức Giêsu: Người khai mào một kiểu mới sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử, bởi vì ai thấy Người là thấy Chúa Cha, như Người nói với Philiphê (x. Ga 14,9). Thánh Bênađô khẳng định: Kitô giáo là tôn giáo của Lời Thiên Chúa”, nhưng khộng phải của ”một lời nói viết ra và câm nín, mà là Ngôi Lời nhập thể và sống động” (Hom. super sissus est, IV, 11; PL 183,86B). Trong truyền thống giáo phụ và thời trung cổ người ta dùng một công thức đặc biệt để diễn tả thực tại này: Đức Giêsu là ”Verbum abbreviatum”, là Lời ngắn gọn và nòng cốt của Thiên Chúa Cha, đã nói với chúng ta tất cả về Người.

Nơi Đức Giêsu sự trung gian giữa Thiên Chúa và con người tìm được sự viên mãn của nó. Trong Thánh Kinh Cựu Ước có một loạt các hình ảnh giữ nhiệm vụ này, đặc biệt là ông Môshê, người giải phóng, vị hướng đạo, người ”trung gian” của giao ước như Thánh Kinh Tân Ước định ngĩa (x. Gl 3,19; Cv 7,35; Ga 1,17). Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là Người thật, không chỉ đơn sơ là một trong các người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, mà là ”Vị Trung Gian” của giao ước mới và vĩnh cửu (x. Dt 8,6.9.15; 12,24). Thật thế, thánh Phaolô khẳng định: chỉ có một Thiên Chúa, một vị trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đó là Con Người Giêsu Kitô” (1 Tm 2,5; x. Gl 3,19-20). Nơi Người chúng ta trông thấy và gặp gỡ Thiên Chúa Cha; nơi Người chúng ta có thể khẩn cầu Thiên Chúa với tên gọi ”Abba, Cha ơi”; nơi Người ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

Và Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Nếu chúng ta muốn trông thấy gương mặt của Thiên Chúa, gương mặt trao ban ý nghĩa, sự vững vàng, niềm an bình cho con đường của chúng ta, chúng ta phải theo Chúa Kitô, không phải chỉ khi cần đến chúng hay khi chúng ta tìm ra được một khoảng thời gian giữa muôn ngàn bận rộn thường ngày. Nhưng toàn cuộc sống phải hướng về việc gặp gỡ Người, về tình yêu đối với Người và trong đó cả tình yêu đối với tha nhân cũng phải có một chỗ trung tâm, tình yêu mà dưới ánh sáng của Đấng chịu đóng đanh, làm cho chúng ta nhận biết gương mặt của Chúa Giêsu nơi người nghèo, người yếu đuối, người đau khổ.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ những ngày hành hương sốt sắng bổ ích. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 




Đức Tổng Giám Mục Girelli có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam

Đức Tổng Giám Mục Girelli có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam

VATICAN. Hôm 16 tháng 1-2012, ĐTC đã bổ nhiệm Đức TGM Joseph Marino, Sứ thần Tòa Thánh tại Bangladesh, làm Sứ thần Tòa Thánh tại Malaysia, đồng thời làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Đông Timor kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Brunei.

Cho đến nay, nhiệm vụ Đại diện Tòa Thánh tại 3 quốc gia vừa nói do Đức TGM Leopoldo Girelli phụ trách. Như vậy, với việc bổ nhiệm này, Đức TGM Girelli chỉ còn giữ nhiệm vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Singapore và Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam, kiêm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các nước Đông Nam Á, gọi tắt là Asean. Điều này có nghĩa là ngài có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam, vì Singapore chỉ là một giáo phận duy nhất.

Đức TGM Joseph Marino, người Mỹ, năm nay 60 tuổi (23-1-1953), thụ phong GM năm 2008 và trong gần 5 năm qua ngài làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Bangladesh.

Malaysia rộng tương đương với Việt Nam, nhưng chỉ có 23 triệu rưỡi dân cư, trong số này có khoảng 850 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 3 giáo tỉnh với tổng cộng 9 giáo phận.

Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp Đại sứ từ tháng 7 năm 2011 (SD 16-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Từ vựng Công Giáo: Tân Phúc-Âm-hóa hay Tân-Phúc-Âm hóa?

Từ vựng Công Giáo: Tân Phúc-Âm-hóa hay Tân-Phúc-Âm hóa?

tin than phuc am

1.    Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự

Dưới nhan đề: “Vatican đang nỗ lực khuếch trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr., chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng là phóng viên của đài truyền hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:

“Trong một triều đại giáo tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng hành chính, toàn bộ Vatican dưới triều của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ít nhất đã bị buộc chặt vào một điểm: Tính cấp thiết của một cuộc “tân Phúc Âm hoá”.

Bằng mọi cách có thể, Đức Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm hoá”, hiểu một cách rộng rãi là đánh thức tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội, như là một ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các bộ máy quan liêu, nhưng gần đây ĐTC Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại Vatican một cơ quan hoàn toàn mới để xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá. Ngài đã bổ nhiệm một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy quyền lực, là Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một danh sách thành viên Hội Đồng gồm các vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna, ĐHY Angelo Scola của Venice, ĐHY George Pell của Sydney, và Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan của New York.

ĐTC Bênêđictô cũng đã dành cho Thượng Hội Đồng Giám Mục – một cuộc họp của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ ngày 07-28/10/2012 – sắp tới, một chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo”[1]mà Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình bày trong cuộc họp báo sáng nay tại Vatican.”[2].

Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc năm Đức Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá[3]. Hơn thế nữa, trong Sứ điệp dài 4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều kích cơ bản của“nền linh đạo tân Phúc Âm hoá”.

Vài sự kiện nêu trên cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay như thế nào.

Tân Phúc Âm hoá tiếng Anh là New Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao tiếng Việt dịch là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối đạo. Vậy chúng ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như thế nào trong tiếng Việt.

2.    Evanglization: Phúc Âm hoá

Chữ này phát xuất từ động từ Evangelise (truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ Evangel (Phúc Âm).

Chúng tôi đã có dịp bàn tới hai thuật từ Phúc Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và “Missio” đăng trong nguyệt san Bài giảng Chúa nhật[4] và đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo”[5]. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ Evangelizatio và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số 73[6]. Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy ý chính:

2.1. Evangelium (A: Evangel; P: Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo chúng tôi, thuật từ Phúc Âm có nội dung phong phú và sâu sắc hơn, bao hàm mọi điều thiện hảo mà con người mơ ước theo triết lý Đông phương và như vậy có tính hội nhập văn hoá cao hơn.

2.2. Thuật từ Evangelizatio xuất hiện từ thế kỷ XIX và được du nhập vào thần học Công Giáo vào thế kỷ XX, đặc biệt từ Công Đồng Vaticanô II[7]. ĐTC Phaolô VI sử dụng từ này với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho lương dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân)[8].

Evangelizatio (Anh: Evangelization; Pháp: Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân loại nên mới" (EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng người, vào cách suy nghĩ, cách hành động của con người, vào các lãnh vực hoạt động như xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế… Nói cách khác là đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong các thực tại trần thế như men ở trong bột. Vì vậy, nếu hiểu cách tổng quát Evangelizatio được thực hiện vừa bằng lời nói, vừa bằng chứng tá đời sống cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với tinh thần Phúc Âm.

2.3. Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá, truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng, việc truyền giáo… Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền giảng, rao giảng, loan báo, loan truyền… không có ý nghĩa tổng quát như chữ “hoá” trong từ Phúc Âm hoá. Là một nguyên vị tiềm tàng[9] giữ vai trò hậu tố từ, "hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần hoặc làm cho trở thành… Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm hay loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng…. thì thuật từ Phúc Âm hoá vừa ngắn gọn, lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn tả ý niệm Evangelizatio thích hợp hơn.

2.4. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là làm cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã cung cấp một định nghĩa khác: “Phúc Âm hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói” (Số 905).

3. Nghĩa các chữ tân, phúc, âm, hoá

3.1. Nghĩa của từ "tân"

Tân có 12 chữ Hán: 新, 濱(滨), 津, 賓(宾), 薪, 辛, 鋅(锌), 檳(槟), 莘, 繽(缤), 獱, 蠙, trong trường hợp này là chữ新. Tân 新là chữ gốc của chữ 薪tân (nghĩa là: củi đuốc, tiền lương). Chữ do辛tân và 斤cân tạo thành. Trong giáp cốt văn, tân chỉ âm, và cân là cái rìu.

Tân nghĩa là (dt.) (1) Mới: Thôi trần xuất tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu của Vương Mãng sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4) Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5) Những cái mới: Tân y (áo mới). (6) Những gì mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra). (7) Những người hay vật thuộc về thời gian mới cưới: Tân phòng (phòng cưới). (pht.) (8) Mới bất đầu: Tân tả (mới viết).

Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Xử nữ: Gái tân. (2) Màng trinh: Còn tân.

3.2. Nghĩa của từ "phúc"

Phúc có 9 chữ Hán: 福, 腹, 復(复), 覆, 輹, 輻(辐), 蝮, 愊, 鍑, ở đây là chữ福. Trong bài “Evangelium” tôi có phân tích chữ này, nay xin trích lại: “Theo Lục thư[10], chữ phúc (福)  thuộc “hình thinh”. Viết bộ thị (示còn đọc kỳ) và thinh bức(畐bị), có nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị(示) và dùng bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn  (nghĩa làcó đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: trời đất ban xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh 畐. Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận lợi). Chữ phúc (福)  đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.”Chữ福 (phúc) nghĩa là (dt.) (1) Những sự tốt lành, Kinh Thi chia ra năm phúc : – Giàu 富, – Yên lành 安寧,- Thọ 壽, – Có đức tốt 攸好德, – Vui hết tuổi trời 考終命. (2) Điều may: Phúc Âm (tin lành). (3) Thịt phần tế. (4) Rượu tế còn thừa. (5) Họ Phúc. (đt.) (6) Thần bảo hộ, giúp: Phúc hựu. (7) Bộ điệu người nữ ngày xưa chào bằng cách chắp tay đặt ở eo:Đạo vạn phúc (Kính chào). (tt.) May mắn: Phúc tướng (tướng may mắn).

3.3. Nghĩa của từ "âm"

Âm có 11 chữ Hán: 音, 暗, 陰(阴), 隂, 侌, 瘖, 喑, 蔭, 廕, 荫, 愔, trong mục từ Tân Phúc Âm hoá, Âm là chữ 音, tôi đã từng phân tích chữ này[11]: “Âm (音) trong từ phúc âm (福音) có nghĩa làtiếng, tin, thuộc loại “chỉ sự”. Viết chữngôn (言, lời ) ngậm dấu ngang (—) là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu ngang, dấu dài đặt ở dưới. Như vậy chữngôn (言)phần dưới có chữkhẩu (口),chữkhẩu ngậm dấu ngang(—). Thinh do tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là cái hợp thinh mà được nhịp nhàng hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là âm. Chữ 音(âm) nghĩa là: (dt.) (1) Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, do không khi làm môi giới mà truyền đi: Tạp âm (tiếng tạp). (2) Giọng điệu: Hương âm (giọng quê). (3) Tiếng đọc của chữ: Chú âm (tiếng ghi). (4) Tin tức, thư từ: Âm tín. (5) Tiếng kính trọng kẻ khác: Đức âm. (6) Họ Âm.

3.4. Nghĩa của từ "hoá"

Hoá có 2 chữ Hán: 化, 貨(货), chữ cần bàn là chữ 化. Hoá (化) có hai hình người, một đứng thẳng, một đứng lộn xuống dưới, giống diễn viên đang làm xiếc hoặc biểu diễn ảo thuật, chỉ nghĩa “biến hoá”. Có những nghĩa mở rộng như “Tạo Hoá”, “tử vong”, và “hoà tan”.

Hoá có nghĩa là (dt.) (1) Giáo dục: Giáo hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4) Lễ, nhạc, chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6) Thay đổi: Thiên biến vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8) Chết: Vật hoá. (9) Dần dần ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá. (10) Ăn xin: Hoá duyên. (11) Đặt sau danh từ hay tĩnh từ, để chuyển biến trạng thái hay tính chất của vật: (i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn dụ hoá, bần cùng hoá, bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải hoá, cảm hoá, công hữu hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy hoá, chính thức hoá, chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng hoá, điện khí hoá, đồng bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức hoá, khái quát hoá, lý tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức tạp hoá, tập thể hoá, thần bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự động hoá… (ii) làm cho trở thành:cốt hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu hoá, nhũ hoá, nhựa hoá, ion hoá, oxy hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã hoá…

Trong từ Phúc Âm hoá, hoá có vai trò hậu tố từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.

Nghĩa Nôm: Goá: Hoá vợ.

4. New Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?

4.1. Tân Phúc Âm – Đức tin loại gì đây?

Có người thắc mắc: "Nói đến Đức Tin Công Giáo mà nói đến “tân phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin loại gì đây?" – Chúng tôi thử vào Google để tìm kiếm cụm từ "tân phúc âm" và "tân tin mừng", thì không thấy chỗ nào nói Tân Phúc Âm hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá hay Tân Tin Mừng hoá mà thôi!

Thiết nghĩ: Người Công Giáo, dù là tân tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy nhất", và vì duy nhất trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc Âm" hay "Tân Tin Mừng"[12]. Thực ra chữ "Tân Phúc Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của Lm. Vũ Kim Chính[13]dùng chữ này để dịch chữ Neo-Evangelism, danh xưng của một giáo phái Tin Lành[14]. Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì "Tân Phúc Âm hoá" (nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín đồ Tân Phúc Âm". Nhưng trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ Neo-Evangelism là "Phong trào Tin Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ Tân Phúc Âm.

4.2. Cũng tại thiếu cái dấu…

Tôi nhớ khi cha già Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu – cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn – từ trần, một cha khẩn cấp báo tin cho bạn bè của ngài bên Paris: "DIEU EST MORT"! Các cha bên Pháp đã hết sức kinh ngạc, không thể hiểu nội dung của bức điện nên phải liên lạc hỏi lại… Cũng tại chữ "Điểu" đã viết thành chữ "Dieu" (Thiên Chúa).

Có lẽ ở đây cũng tương tự, từ ghép Tân Phúc Âm hoá có hai cách hiểu về trật tự cấu tạo của nó:

Trước năm 1975, tại miền Nam, người ta thêm dấu gạch nối (-) giữa những mục từ ghép Hán Việt hoặc thuần Việt. Như trường hợp trên, tân Phúc Âm hoá là từ ghép có cấu trúc theo quan hệ cú pháp thuận Hán, tức tĩnh từtân đứng trước danh từ Phúc Âm hoá. Để hiểu "tân" là từ bổ nghĩa cho "Phúc Âm hoá", người ta viết là: "tân Phúc-Âm-hoá", Phúc-Âm-hoá là một mục từ được giải thích theo nghĩa riêng biệt của mục từ này mà không bị hiểu sai. Còn muốn chỉ "hoá" là hậu tố từ của "Tân-Phúc-Âm" thì viết là: "Tân-Phúc-Âm hoá". Nay bỏ gạch nối giữa những từ ghép ấy làm cho nhiều người không thể hiểu nổi những danh từ kép hay từ ghép biệt nghĩa.

Đã có người đề nghị Quốc Hội cho dạy lại Hán Nôm trong trường học, điều này hoàn toàn không thực tế. Để giải quyết vấn để, chúng ta chỉ cần phục hồi dấu gạch nối trong những trường hợp nói trên, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng hơn.

5. New Evangelization: Tân Phúc-Âm-hoá

5.1. “New Evangelization” là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội Thánh muốn thể hiện một cách mới mẻ sứ mệnh cơ bản của Hội Thánh, căn tính và lý do hiện hữu của Hội Thánh[15]. Để có thể hiểu chính xác nguồn gốc và nội dung của thuật từ này, thiết tưởng không gì bằng đọc tác phẩm mới xuất bản của Đức TGMRino Fisichella, vị chủ tịch đầu tiên của Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá[16]: "The New Evangelization- Responding to The Challenge of Indifference" hoặc bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo và Lm. Giuse Phan Tấn Thành trong Bản tin Hiệp Thông nói trên[17]. Dưới đây chúng tôi chỉ lưu ý vắn tắt về nội dung và nhận xét về những cách phiên dịch của từ New Evangelization trong tiếng Việt mà thôi.

5.2. Năm 1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh về tầm quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC Gioan Phaolô II nói: “Việc kỷ niệm nửa thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu chư huynh trong tư cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của mình, một dấn thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá. Nó sẽ mới trong nhiệt tâm, mới trong phương pháp và mới trong cách truyền đạt của nó. Về phương diện này, cho phép tôi uỷ thác nơi chư huynh, gói ghém trong ít lời, các khía cạnh đối với tôi xem ra là căn bản nhất đối với việc tân Phúc Âm hoá”[18]

Như vậy, tân Phúc Âm hoá nghĩa là ta công bố Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp mới có khả năng thông truyền ý nghĩa sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất biến của nó. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể giải thích: Tân Phúc Âm hoá là việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá mới. Mới, không phải ở bản chất hay nội dung của Phúc Âm, mà là "mới trong sự nhiệt thành, trong phương pháp và trong lối diễn tả"[19].

Hiện nay, bên cạnh "tân Phúc Âm hoá", thuật từ “New Evangelization” còn được dịch là: tái truyền giảng Tin Mừng [20], cách tân truyền giảng Tin Mừng [21], việc tân truyền bá Phúc Âm hoá [22], cuộc loan báo Tin mừng mới [23].

6. Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá

Chữ tái trong tiếng Việt (cũng như iterata trong La ngữ và tiếp đầu ngữ Re- trong tiếng Anh, Pháp) có nghĩa là lặp lại, trở lại lần nữa, nhưng (1) Nó có thể chỉ việc lặp lại một hành động, như trong trường hợp tái diễn một vỡ kịch (re-enacting); (2) Nó cũng có thể diễn tả việc trở về với giai đoạn trước đó, như tái thủ đắc(re-acquiring); (3) Nó cũng có nghĩa đem lại một giá trị mới cho một hành động có trước như tái sinh (re-generation)… Nếu hiểu chữ táitheo nghĩa thứ 3 này, thì "tái Phúc Âm hoá" sẽ bao hàm ý tưởng về một sự thay đổi, đổi mới trong nội dung của hành động "Phúc Âm hoá". Có thể đó là lý do mà ĐTC Gioan Phaolô II từ sau thông điệp Redemptoris Missio (1990) đã không sử dụng thuật từ Re-Evangelization nữa, và Đức TGM Rino Fisichella, chủ tịch Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá, khuyên chúng ta nên tránh kiểu nói này.[24]

7. Renewed Evangelization: Cách tân truyền giảng Phúc Âm

Trong tiếng Anh có những kiểu nói: The Proclamation of Salvation, The Proclamation of the Gospel, The Preaching of the Gospel… hay Renewed Evangelization, Renewed Integral Evangelization, The Renewed Mission of the Church… là những cách diễn tả ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization ở mặt nào đó, không toàn diện và nhất là không thể thay thế cho những thuật từ này[25]. Cũng thế, trong tiếng Việt cũng có những kiểu nói: Loan truyền Ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, truyền bá Phúc Âm… hay cách tân việc truyền giảng Tin Mừng, canh tân Phúc Âm hoá toàn diện, canh tân sứ mạng của Hội Thánh… Chúng tôi thiết nghĩ có thể sử dụng trong những hoàn cảnh để trình bày, diễn giải… chứ không thể dùng như những thuật từ chuyên môn định danh cho ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization.

Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn[26], tác giả bộ "Danh từ Khoa học"và rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực cho việc giáo dục và quốc học nước ta, để tạo một danh từ chuyên môn cần phải tuân thủ tám điều kiện và ba phương sách như sau: Năm điều kiện về nội dung: (1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải riêng về ý ấy; (3) Một ý đừng có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý; (5) Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc. Ba điều kiện về hình thức: Danh từ (6) phải gọn; (7) phải có âm hưởng Việt Nam; và (8) phải đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính cách quốc gia. Ba phương sách: (1) Dùng tiếng thông thường; (2) Phiên âm; (3) Lấy gốc chữ Nho.

Giáo sư Hãn còn viết: "Nói thế không phải rằng ta đặt một chữ nào cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên kia. Những điều kiện trên có khi nó thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt, ta lại xem cách nào tiện hơn mà chọn. (…) Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt có những đức tính sau đây: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt thì không duy nhất được. Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng Việt Nam và có tính cách Việt Nam là được".

Các linh mục tiền bối trong Ban giáo sư Trường Thần học Bùi Chu khi xưa cũng đã đồng ý tuân thủ những điều kiện và phương sách này khi biên soạn quyển "Danh từ Thần Học và Triết Học". Nhờ đó Hội Thánh tại Việt Nam đã có được bộ thuật ngữ làm nền tảng cho việc học tập và giảng dạy thần học và triết học bằng Việt ngữ hơn nửa thế kỷ qua.

Vì vậy, trên phương diện học thuật, chúng tôi nhận thấy cụm từ "tân Phúc Âm hoá" có thể dùng như một thuật từ để định danh cho ý niệm "New Evangelization". Còn các cách dịch: việc tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan báo Tin mừng mới, cách tân truyền giảng Tin Mừng, tái truyền giảng Tin Mừng… mang tính định nghĩa hơn là định danh.

8. Kết luận

Việt Nam chưa có hàn lâm viện, không ai có thể bảo ai phải làm thế nào. Nên chăng, Hội Thánh tại Việt Nam theo gương các bậc tiền bối, đi bước đầu làm trong sáng lại tiếng Việt.

Để tiếp tục đóng góp vào bộ thuật ngữ quý báu này, chúng ta cần cẩn trọng khi chọn lựa từ ngữ để dịch những khái niệm mới trong các khoa ngành của Hội Thánh.


[1]“Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam – The New Evangelization for the Transmission of the Christian Faith”.
[2]John L. Allen Jr.: VATICAN TRIES TO FLESH OUT 'NEW EVANGELIZATION', xem: http://ncronline.org/blogs/ncr-today/vatican-tries-flesh-out-new-evangel….
[3]Tự sắc Porta Fidei, số 4, 7.
[4]Bài Giảng Chúa Nhật, TGM GP. TP.HCM, Số 3/2006 và 10/2009.
[5]Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ, TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO, 2012, tr. 19-25; 298-315.
[6]Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP., “LOAN BÁO TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ” – Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012, tr. 52-79.
[7]Các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đã sử dụng danh từ Evangelizatio 31 lần, đặc biệt trong Sắc Lệnh Truyền Giáo 21 lần. Tuy bản dịch tiếng Việt của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1970) dịch là “truyền bá Phúc Âm” nhưng cũng đã thấy có vài nơi sử dụng thuật từ “Phúc Âm hoá” (tr. 348, 796).
[8]xem Tông huấn EVANGELII NUNTIANDI, số 18.
[9]Nguyên vị tiềm tàng là những yếu tố gốc Hán có ý nghĩa phản ánh gián tiếp hiện thực. Theo cách nói của Gs. Hồ Lê: CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI, Nxb KHXH, TP.HCM, 2003, tr.154.
[10]Sáu quy tắc tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.
[11]Bài Giảng Chúa Nhật, tháng 3/2006, Bài “Phúc Âm và Tin Mừng”, tr. 93.
[12]Nếu đặt vấn đề: Đối với người lương thì sao? – Thưa, thì phải tìm hiểu mới biết được. Vì đã là thuật từ thì dù thuộc ngành nào, bộ môn nào, thì cũng phải “học nhi tri chi”. Tương tự như các thuật từ “Mẹ Thiên Chúa” hay “bất khả ngộ” .v.v…
[13]Lm. Vũ Kim Chính, SJ., TỰ ÐIỂN THẦN HỌC TÍN LÝ ANH VIỆT, Đài loan, 1999.
[14]Neo-Evangelism: Một phong trào có từ năm 1940, phát nguồn từ Phái Phúc Âm (Evangelicals: Phong trào Tin Lành), với các đặc điểm là tập trung vào nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trải nghiệm qui đạo, lời chứng về đức tin cá nhân, và có quan điểm truyền thống về Thánh Kinh. Phái này tin rằng Phúc Âm cần phải được tái khẳng định và tái công bố trong một cung cách mới. Vì vậy, xuất hiện thuật ngữ Neo – mới hoặc được làm cho mới. Danh xưng Neo-Evangelism do Harold Ockenga đặt ra năm 1947, mà anh em Tin Lành Việt Nam dịch là “Phong trào Tin Lành Hiện đại”, để phân biệt với giáo phái Căn Bản (Fundamentalists: Phong trào Nền Tảng) mới được hình thành vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, với ảnh hưởng rộng lớn trong cộng đồng Tin Lành, Phái Tân Phúc Âm được xem là đồng nghĩa với Phái Phúc Âm, đại diện cho những Kitô hữu liên kết đức tin của mình với các giá trị truyền thống của Giáo Hội tiên khởi.
[15]Đề cương (Lineamenta) của THĐGM Lần thứ XIII, số 10.
[16]Archbishop Rino Fisichella: THE NEW EVANGELIZATION- RESPONDING TO THE CHALLENGE OF INDIFFERENCE, Gracewing Publishing, 2012.
[17]Xem bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo (tr. 29-51) và Lm. Giuse Phan Tấn Thành (tr. 52-79) trong Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012.
[18]John Paul II, Address to CELAM (Opening Address of the Sixth General Assembly of CELAM, 9 March 1983, Port-au-Prince, Haiti), L’Osservatore Romano English Edition 16/780 (18 April 1983), no. 9.
[19]Insegnamenti di Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698.
[20]Lm. G. Trần Đức Anh, OP. : SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần thứ XIII Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA (http://gpbanmethuot.vn); ĐTC MỜI GỌI CÁC TÍN HỮU TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20111017/12964) hay VAI TRÒ CỦA BÍ TÍCH HOÀ GIẢI TRONG VIỆC TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120310/15017); đối chiếu với: POPE: CONFESSION A KEY PART OF EVANGELIZATION (http://www.zenit.org/article-34434?l=english)
[21]Lm. Px. Nguyễn Hùng Oánh: TÂN PHÚC ÂM HOÁ: CÁCH NÓI NGUY HẠI CHO ĐỨC TIN??? (http://titocovn.com/article/20121208/36320)
[22]Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, TÂN PHÚC ÂM HOÁ , xem: http://www.thoidiemmaria.net/TDM2010/MucVuTruyenGiao/TanPhucAmHoa.htm
[23]Sr, Therese Tran, MTG-DL: CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG MỚI – XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG, xem: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/GiaoHoiAChau/TaiLi… FX. Trần Kim Ngọc, OP.: LOAN BÁO TIN MỪNG? xem: http://www.daminhvn.net/trang-chu/3050-suc-manh-nao-de-loan-bao-tin-mung…
[24]Archbishop Rino Fisichella, http://americamagazine.org/issue/100/new-evangelization.
[25]Msgr. Manny Gabriel: THE PURSUIT OF THE BEC DIRECTION IN THE ARCHDIOCESE OF MANILA: IN SEARCH OF SHARED FRAMEWORK: "New Evangelization" is not just "renewed evangelization", or "integral evangelization" or both "renewed, integral evangelization". (Xem: http://frpicx.tripod.com/refl-gabriel.htm)
[26]Hoàng Xuân Hãn, DANH TỪ KHOA HỌC, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1948.

 

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

 

Nguồn: UB. Giáo Lý Đức Tin – HĐGMVN

 

 

 

 

Đức Thánh Cha Rửa Tội Cho 20 Trẻ Em – Cuộc Sống Mới Trong Tình Yêu Thiên Chúa

Đức Thánh Cha Rửa Tội Cho 20 Trẻ Em – Cuộc Sống Mới Trong Tình Yêu Thiên Chúa

Rửa tội 20 trẻ em trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa

VATICAN. Sáng Chúa Nhật 13 tháng 01-2013, trong thánh lễ Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, ĐTC Biển Đức 16 đã ban phép Rửa tội cho 20 trẻ em và sau đó ngài chủ sự kinh Truyền Tin như thường lệ.
Cũng như những năm trước, trong Thánh Lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, ĐTC ban phép rửa tội cho các em bé tại nhà nguyện Sistina ở dinh Tông Tòa. Năm nay có tất cả 20 trẻ em được lãnh Phép Rửa Tội, tất cả các em là con cái của các nhân viên giáo dân làm việc tại Vatican. Sau lời chào phụng vụ và nhắn nhủ, ĐTC và các cha mẹ cùng với những người đỡ đầu lần lượt ghi dấu Thánh Giá trên trán của các hài nhi.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC dành nhiều thời gian để chia sẻ về ý nghĩa của việc Đức Giê-su chịu phép rửa, sau đó ngài cũng nhắc nhở các cha mẹ và những người đỡ đầu về trách nhiệm giáo dục con cái:

Ngài nói: “Bài Tin Mừng tường thuật biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa chỉ cho chúng ta con đường khiêm hạ mà con Thiên Chúa đã chọn lựa để hoàn tất kế hoạch của Chúa Cha, để vâng phục thánh ý Cha và yêu thương con người trong mọi sự, thậm chí cho đến chết trên thập giá. Khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của mình khi đến dòng sông Giordan để xin Gioan chịu phép rửa để tỏ lòng ăn năn và sám hối. Điều diễn ra trước mắt chúng ta dường như là một nghịch lý. Đức Giê-su mà cũng cần hoán cải sao? Chắc chắn là không. Thế nhưng, chính Đấng vô tội đã đồng hành với các tội nhân để được chịu phép rửa, để thực hiện hành vi sám hối. Đấng Thánh của Thiên Chúa đã gia nhập đoàn lũ những người nhận thấy mình cần đón nhận ơn tha thứ và xin Thiên Chúa món quà hoán cải, nghĩa là ân sủng để quay lại với Ngài với trọn vẹn con tim để hoàn toàn thuộc về Ngài. Đức Giê-su muốn đứng về phía các tội nhân, liên đới với họ, như là một sự diễn tả gần gũi của Thiên Chúa. Đức Giê-su đã liên đới với chúng ta, với khao khát đổi đời nơi chúng ta để xóa tan đi nỗi ích kỷ nơi ta và giúp ta ra khỏi xiềng xích của tội và nói cho chúng ta biết rằng nếu chúng ta đón nhận Ngài vào đời sống của mình, Ngài sẽ nâng chúng ta lên và đưa về cùng với Chúa Cha. Và sự liên đới của Đức Giê-su thì không chỉ dừng lại ở tâm trí và ý muốn. Đức Giê-su đã thực sự dìm mình vào trong điều kiện của con người, Ngài đã sống trọn kiếp người ngoại trừ tội lỗi và do đó Ngài hiểu được những yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Do đó, Ngài cảm thấy chạnh lòng thương trước nỗi thống khổ của con người, Ngài cùng chịu đau khổ với họ, và đồng thời Ngài cũng kiên nhẫn với những yếu đuối của họ.”

Nhắn nhủ với bậc cha mẹ, Đức Thánh Cha nói rằng: “Anh chị em là những bậc làm cha mẹ, anh chị em phải diễn tả và làm chứng cho đức tin của mình, cho niềm vui được trở thành Ki-ô hữu và thuộc về Giáo hội. Đó là một niềm vui, vì việc đón nhận đức tin là một món quà từ Thiên Chúa, món quà đức tin hoàn toàn không do công trạng của chúng ta, nhưng chúng ta được trao ban một cách nhưng không và chúng ta đáp trả với tiếng xin vâng. Đó là một niềm vui, vì khi trở thành con cái Thiên Chúa, chúng ta trở nên con cái của Ngài, chúng ta tin tưởng vào Ngài và cảm thấy ấm áp trong vòng tay yêu thương của Ngài như một người con cảm nhận được tình yêu thương của người mẹ dành cho mình. Niềm vui này dựa vào mối tương quan cá vị với Đức ki-tô vốn có khả năng hướng dẫn toàn bộ đời sống con người.”

Tiếp đến Ngài nhắn nhủ với các cha mẹ đỡ đầu, Ngài mong rằng khi đồng hành với các em, họ sẽ là những người chuyển giao chân lý đức tin và làm chứng cho Tin Mừng. Ngài nói: “Các bậc cha mẹ đỡ đầu thân mến, anh chị em có một nhiệm vụ hết sức quan trọng là cùng với cha mẹ các em đồng hành trong việc chuyển giao chân lý đức tin và làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, trong việc nuôi dưỡng các em này lớn lên trong tình bạn với Thiên Chúa. Ước mong anh chị em sẽ trao cho các em những mẫu gương sống động ngang qua việc sống các nhân đức Kitô giáo. Ngày nay, điều đó không dễ, vì trong xã hội chúng ta đang sống, những người tin tưởng vào Đức Giê-su thường bị xem là lỗi thời và lạc hậu. Thậm chí, trong số các Kitô hữu, nhiều người cũng nghĩ rằng, việc theo Đức Kitô là một điều gì đó giới hạn sự tự do nơi con người. Chúng ta thì không vậy, chúng ta hiểu rằng Tình yêu Thiên Chúa giúp chúng ta tự do khỏi sự ích kỷ, chỉ biết quay vào mình, để dẫn chúng ta đến một đời sống trọn vẹn, thông hiệp với Thiên Chúa và mở ra cho người khác. Vì “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16).

Kinh Truyền Tin

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 35 và sau đó, đúng 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã trình đi sâu vào giải thích ý nghĩa của việc Đức Giê-su chịu phép rửa. Ngài nói như sau:

“Với thánh lễ Chúa Nhật sau lễ Hiển Linh, thời gian phụng vụ Mùa Giáng Sinh đã kết thúc: thời gian của ánh sáng, ánh sáng của Đức Kitô chiếu dọi vào con người, vào chân trời của nhân loại, đã xua đi bóng đêm của sự dữ và ngu muội. Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa: Hài Nhi, con của Trinh Nữ, Đấng mà chúng ta đã chiêm ngắm trong mầu nhiệm sinh hạ, hôm nay chúng ta thấy Ngài đã trưởng thành và đang dìm mình vào dòng nước trên dòng sông Giordan và thánh hóa mọi nguồn nước và toàn thể vũ trụ. Nhưng tại sao Đức Giê-su, Đấng không hề vương một dấu vết của tội là phải chịu phép rửa của ông Gioan? Tại sao Ngài muốn thực hiện hành vi sám hối cùng với những con người muốn chuẩn bị để chờ đón Đấng Mê-si-a? Hành vi này chính là con đường của Nhập thể, của việc Thiên Chúa hạ mình từ nơi cao nhất tới vực thẳm của âm ti. Ý nghĩa của việc hạ mình của Thiên Chúa chỉ có thể được tổng hợp nơi một từ: Tình yêu, nghĩa là chính Danh Thánh của Thiên Chúa. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” và Ngài đã sai con của Ngài “đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4,9-10). Đây là lý do giải thích tại sao hành vi đầu tiên trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su là đón nhận phép rửa của ông Gioan, người mà khi nhìn thấy Ngài đã nói: “Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).

Tác giả Tin Mừng Luca thuật lại rằng, khi Đức Giê-su chịu phép rửa, “đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,21-22). Đức Giê-su chính là con Thiên Chúa và đã hoàn toàn dìm mình vào ý muốn yêu thương của Cha. Ngài chính là Đấng chịu chết trên thập giá và phục sinh nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đấng mà giờ đây đang ngự xuống trên Ngài và thánh hóa Ngài. Ngài chính là một con người mới, một con người muốn sống với tư cách là con cái Thiên Chúa, nghĩa là sống trong tình yêu; người mà, đứng trước sự dữ của thế gian, đã chọn con đường khiêm hạ và trách nhiệm, không chọn để cứu chính mình nhưng là để trao ban mạng sống mình cho chân lý và công bình. Trở nên người Ki-tô hữu nghĩa là sống như Ngài, nhưng cách sống này đòi hỏi một cuộc tái sinh từ bên trên, từ Thiên Chúa và ân sủng. Cuộc tái sinh này chính là Bí Tích Rửa Tội, một món quà mà Đức Giê-su đã trao ban cho Giáo hội để trao tặng cho con người một sự sống mới.”

Cuối bài huấn từ, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cùng cầu nguyện cho những em bé mới được rửa tội. Ngài cũng ban phép lành cho các em. Và ngài nhắc nhở rằng, trong Năm Đức Tin này, chúng ta cần khám phá vẻ đẹp của việc được tái sinh từ trên cao, từ tình yêu của Thiên Chúa để chúng ta có thể sống như những người con đích thực.

Ngài cũng nhắc nhở rằng, hôm nay chúng ta cử hành ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn, với chủ đề: “Cuộc lữ hành của đức tin và hy vọng”. “Thật vậy, những người di dân là những người đã rời bỏ chính quê hương của mình vì hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, họ dám ra đi cũng bởi vì họ tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng luôn hướng dẫn con người trên hành trình của mình như gương của Abraham. Vì thế, những người di dân là những người thông truyền đức tin và hy vọng cho thế giới. Tôi muốn gửi lời chúc lành tới từng người, đặc biệt là phép lành và lời cầu nguyện đặc biệt của tôi. Tôi đặc biệt gửi lời chúc mừng tới cộng đoàn Công Giáo của những người di dân ở Roma.”

Đức Thánh Cha cũng gửi lời chào tới các khách hành hương bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Ba Lan và Ý. Và sau cùng, ngài ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Vietvatican
 

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiến Binh Vatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiến Binh Vatican

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 200 Hiến binh và lính cứu hỏa Vatican chiều ngày 11 tháng 1-2012, ĐTC mời gọi họ hãy nhận ra nơi mỗi tín hữu hành hương người anh em của mình.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Quốc vụ khanh Bertone, ĐHY Giuseppe Bertello, Chủ tịch Phủ Thống Đốc thành Vatican và các vị lãnh đạo khác.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nồng nhiệt cám ơn sự cộng tác và phục vụ của các Hiến binh Vatican, đồng thời ngài nhắn nhủ rằng “Trong mỗi tín hữu hành hương hoặc du khách, anh em hãy biết nhìn thấy khuôn mặt của một người anh em mà Chúa đặt trên đường của anh em, vì thế, hãy tiếp đón họ một cách nhã nhặn và giúp đỡ họ, cảm thấy họ là thành phần của đại gia đình nhân loại. Như tôi đã viết trong Sứ điệp mới đây nhân Ngày Hòa bình thế giới: ”Việc thực hiện hòa bình tùy thuộc trước tiên nơi sự nhìn nhậm một gia đình nhân loại duy nhất trong Thiên Chúa. Như Thông điệp Hòa bình dưới thế đã dạy, gia đình này được hình thành nhờ những quan hệ giữa con người và tổ chức với nhau, được nâng đỡ và linh hoạt nhờ cảm thức cộng đồng với nhau.. Hòa bình là một trật tự được tình yêu làm cho sinh động và hội nhập, đến độ cảm thấy những nhu cầu và đòi hỏi của tha nhân cũng là của mình” (n.3).

Sau cùng, ĐTC cũng nhắn nhủ các Hiến binh và lính cứu hỏa Vatican tăng cường đời sống thiêng liêng cũng như dấn thân đào sâu đời sống đức tin Kitô, can đảm làm chứng đức tin trong mọi môi trường qua cuộc sống phù hợp với niềm tin.

Trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến đặc biệt này, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết, qua đó ĐTC muốn khích lệ và bày tỏ lòng biết ơn của ngài đối với Đoàn Hiến Binh Vatican, sau một thời kỳ Đoàn này đã phải đáp ứng những ”thách đố đặc biệt khó khăn”.

Đoàn Hiến Binh Vatican hiện nay có 130 nhân viên, dưới sự hướng dẫn của Ông Domenico Gianni. Cùng với các sĩ quan vệ binh Thụy Sĩ, ông là trưởng nhóm Hiến Binh cận vệ của ĐTC.

Đoàn Hiến Binh Vatican hiện nay đảm nhận các chức năng như: công an, giữ trận tự công cộng, bảo vệ biên giới, cảnh sát tư pháp và cảnh sát lưu thông. (SD 11-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

Mật tuyển viện sắp tới có gì mới mẻ?

Mật tuyển viện sắp tới có gì mới mẻ?

Có chắc là vị Giáo Hoàng kế tiếp sẽ là người châu Âu?

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI sẽ bước sang tuổi 86 vào ngày 16 tháng 4 tới, trở thành vị giáo hoàng thứ ba cao tuổi nhất trong 600 năm qua.

Như thường lệ, đã có các đồn đoán xôn xao về ai trong số những ứng cử viên Hồng Y nặng ký sẽ kế vị ngài.

Đức cố Giáo Hoàng Clement XII (1730-1740) qua đời ở tuổi 87, trong khi Đức cố Giáo Hoàng Leo XIII (1875-1903) sống đến 93 tuổi – mặc dầu những ghi chép trước đây về tuổi của các giáo hoàng có khuynh hướng không chính xác hoàn toàn.

Sức khỏe tổng thể của Đức Benedict XVI có vẻ tốt nhưng ngài đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu mệt mỏi và suy yếu. Và dường như có bằng chứng cho thấy chính ngài đang chuẩn bị cho người kế vị.

Năm ngoái ngài đã bổ nhiệm 27 hồng y mới, đưa số Hồng y đoàn lên con số tối đa là 120.

Năm 1996, Đức Gioan Phaolô II đã sửa luật bầu giáo hoàng cân nhắc việc tính số phiếu chiếm đa số đơn sau một ít tuần bế tắc. Trước đây, việc bỏ phiếu sẽ phải tiếp tục cho đến khi một ứng cử viên nhận được đa số phiếu là 2/3 cộng 1.

Người ta nói rằng khi đó Đức Hồng y Ratzinger đã đạt được số phiếu đa số đơn rất sớm trong cuộc bỏ phiếu mà cuối cùng ngài được chọn làm Giáo Hoàng và rằng một số Hồng Y đã ủng hộ thêm để tránh mật tuyển viện kéo dài thêm.

Điều này có thể không xảy ra trong mật tuyển viện bầu giáo hoàng tiếp theo. Không lâu sau khi được chọn, Đức Benedict XVI đã thay đổi luật để quay trở về với phương thức truyền thống. Vì vậy, người kế vị ngài có thể sẽ là người phải có được sự ủng hộ của đa số chứ không phải của một người đến từ một phe nhóm nào đó.

Một vài người cho rằng vụ Vatileaks là một phản ứng mạnh chống lại vị hồng y chuyên quyền và bảo thủ người Ý, Hồng y Bertone và là một cách xác định một ứng viên thủ cựu cho vị trí giáo hoàng kế tiếp.

Mật tuyển viện tiếp theo sẽ bao gồm một nhóm hồng y quan trọng với kinh nghiệm làm việc lâu năm ở Giáo triều Rôma. Vị giáo hoàng kế tiếp sẽ cần đến sự hậu thuẫn của họ.

Ngoài ra, hơn một nửa Giáo triều là người châu Âu và đại đa số đã học ở Rôma hoặc một nơi nào khác ở châu Âu. Vì thế, vị giáo hoàng kế tiếp – cả khi không phải là người châu Âu – cũng có thể đã được “Âu hóa” nhiều.

Vả lại, bất cứ đối thủ nặng ký nào cho vị trí Giám mục Rôma đều cần phải thành thạo tiếng Ý.

Với một số lượng lớn người Ý đứng đầu các văn phòng của Vatican và nhiều tổng giáo phận Ý theo truyền thống được cai quản bởi các hồng y, các hồng y người Ý sẽ có được lượng phiếu bầu mạnh mẽ tại mật nghị hồng y tới.

Thực tế, ngay cả sau khi phong sáu hồng y mới nhất, các hồng y người Ý vẫn ở con số 28 Hồng Y cử tri, 20 trong số này do Đức Benedict XVI phong Hồng Y. Tuổi trung bình của các Hồng Y cử tri là trên 72.

Một trong hai vị người Ý đang dẫn đầu là Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, 70 tuổi, người đã chỉ trích các linh mục về những bài giảng “nhàm chán” và “không thích hợp” của họ. Ngài trêu chọc và khuyến khích họ sử dụng mạng xã hội Twitter.

Là một cựu giáo sư và là học giả khảo cổ học, Đức Hồng y Ravasi được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa năm 2007. Ngài cho thấy một sự háo hức thật sự để Giáo hội tái tham gia vào nghệ thuật đương đại trong một cách thức có ý nghĩa

Đức Hồng y Ravasi nói rằng ngài muốn đề xướng một cuộc “đối thoại”, không giáo huấn và chê bai, không thuyết giảng và luận chiến, nhưng là một cuộc đối thoại hai chiều dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Ngài rất được mến mộ đến nỗi hiện tại có một danh sách chờ đợi hai năm để được ngài xác nhận với tư cách là phát ngôn viên của hội đồng.

Người Ý thứ hai được đánh giá cao là Đức Hồng Y Angelo Scola, 71 tuổi, Tổng Giám mục Milan. Nhiều vị thánh và giáo hoàng từng đảm nhiệm chức tổng giám mục này như Thánh Ambrôsiô ở thế kỷ thứ tư và Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978).

Đức Hồng y Scola được cho là gần gũi với Đức Benedict XVI. Một trong những thành tựu lớn của ngài là đưa các học giả Kitô giáo và Hồi giáo ngồi lại với nhau nhằm nghĩ cách giải quyết tương lai của khu vực Địa trung hải.

Tỷ lệ của các cử tri châu Âu vượt 51%. Con số này rõ ràng tương phản với thực tế rằng, theo số liệu thống kê của Vatican, không tới 24% người Công giáo trên khắp thế giới sống ở châu Âu.

Trong số các vị người châu Âu nhưng không phải là người Ý, có Đức Hồng y Christoph Schönborn của giáo phận Vienna, 67 tuổi, thuộc dòng Đa Minh, có lẽ là ứng cử viên nặng ký hơn cả. Năm 1998, khi trở thành Hồng Y trẻ tuổi, ngài đã được xem là một trong những người sáng giá nhất của nhóm bảo thủ trong hồng y đoàn. Nhiều người tin rằng nếu được trao cho cơ hội, ngài sẽ thực hiện một khởi đầu mới.

Trong tất cả các công nghị, nhân vật then chốt là phúc trình viên hoặc tổng thư ký, người tổ chức công việc, giám sát việc chuẩn bị toàn bộ tài liệu và phân phát hai bài báo cáo chính trước và sau các cuộc thảo luận ở công nghị. Hai vị giáo hoàng liên tiếp gần đây nhất trước tiên đã nổi bật lên với vai trò là phúc trình viên của công nghị.

Đức Hồng y Karol Wojtyla của Balan đã đảm nhận công việc này ở công nghị năm 1974 về Phúc Âm hóa và Đức Hồng y Joseph Ratzinger của Đức cũng giữ vai trò đó trong công nghị năm 1980 về gia đình.

Tại công nghị tháng 10-2012 về Tân Phúc Âm hóa, phúc trình viên là Đức Hồng y Donald Wuerl, 72 tuổi, Tổng Giám mục Washington từ năm 2006. Trước đây ngài là giám mục phụ tá giáo phận Seattle (1986-1987) và giám mục giáo phận Pittsburgh (1988-2006). Ngài được Đức Benedict XVI phong lên Hồng Y.

Năm 2010, Đức Hồng y Wuerl ban hành thư mục vụ về Tân Phúc Âm hóa, để lại một ấn tượng rất tốt nơi Đức Giáo hoàng đương kim. Ngài có thể là ứng viên sáng giá vùng Bắc Mỹ cho chức giáo hoàng?

Hay sẽ là Đức Hồng y Canada gốc Pháp, Marc Ouellet, người đã trải qua 10 năm ở Colombia, sau đó trở về Canada trong chín năm trước khi sang Rôma năm 1997 để dạy tại Học viện Gioan Phaolô II về hôn nhân và gia đình? Ngài đứng đầu Bộ Giám mục ở Vatican từ năm 2010.

Châu Mỹ Latinh có hai ứng cử viên sáng giá. Một là Đức Hồng Y Odilo Pedro Scherer của giáo phận São Paulo, 64 tuổi, người có sức lôi cuốn vượt ra khỏi ranh giới địa lý. Ngài không những đứng đầu một giáo phận lớn nhất ở đất nước đông người Công giáo nhất thế giới từ năm 2007, mà ngài còn đạt được những bằng cấp ở Rôma.

Đức Hồng Y Brazil gốc Đức này đã đậu cử nhân và tiến sĩ thần học tại Đại học Greogria và sau đó làm việc tại Bộ Giám Mục một vài năm (1994-2001).

Hai là Đức Hồng Y Oscar Andrés Rodríguez Maradiaga của giáo phận Tegucigalpa, 70 tuổi, người được mô tả là Đức Gioan Phaolô II của châu Mỹ Latinh vì tính cách lôi cuốn, khả năng về ngôn ngữ và công việc của ngài trong việc thúc đẩy các giáo huấn xã hội của Giáo hội.

Đức Hồng Y người Honduras bản địa này – hiện đang là chủ tịch Caritas Quốc tế –  đã được “Ý hóa” rất sớm bởi chương trình đào tạo trong dòng Salesian ở Rôma và Turin. Ngài được phong Hồng Y năm 2001. Tuy nhiên, ngài đã làm lu mờ danh tiếng của mình do ban đầu ủng hộ cuộc đảo chính quân sự năm 2009 ở Honduras.

Đức Hồng Y châu Phi Peter Turkson, 64 tuổi, chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về công lý và hòa bình, là người dẫn đầu trong các quốc gia châu Phi. Sinh ra ở Ghana trong một gia đình có cha mẹ là người Công giáo trở lại từ Tin Lành Methodist, ngài là một trong số ít những người châu Phi đã thực hiện các nghiên cứu tiến sĩ tại Giáo Hoàng Học viện Kinh Thánh ở Rôma.

Ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Cape Coast năm 1992 và làm hồng y năm 2003.

Đức Hồng y Turkson dường như đã thu nhỏ các cơ hội của mình do trong công nghị Tân Phúc Âm hóa, ngài đã trình chiếu một đoạn video chống Hồi giáo và đã bị các giám mục từ một số nơi trên thế giới chỉ trích vì gây hoang mang và không chính xác.

Ít được biết tới hơn nhưng vẫn có thể là ứng cử viên của châu Phi là Đức Hồng Y Laurent Monsengwo Pasinya của giáo phân Kinshasa, nước Cộng hòa Dân chủ Congo, một tiếng nói lâu năm của Công giáo châu Phi, và Đức Hồng y Robert Sarah của Guinea, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum.

Các cử tri châu Á chiếm 9%. Tỷ lệ người Công giáo ở châu Á là trên 10% trong tổng số người Công giáo trên khắp thế giới. Ứng cử viên châu Á duy nhất được đánh giá có thể ứng cử cho chức Giáo Hoàng là Đức Hồng y Luis Tagle của Tổng giáo phận Manila, Philippines, 55 tuổi, người mới được phong Hồng Y.

Cổ ngữ có câu: “Người nào bước vào như giáo hoàng thì đi ra như hồng y”, có nghĩa là người được ưa chuộng không phải là người luôn chiến thắng. Chúa Thánh Thần có thể cho nổi lên một ứng viên bất ngờ cho chức giáo hoàng trong mật nghị hồng y tới.

Linh mục Desmond de Souza thuộc dòng Chúa Cứu Thế trước đây là thư ký điều hành của Văn phòng Phúc Âm hóa của Liên Hội đồng Giám mục Á châu. Ngài có liên hệ chặt chẽ với các Giáo hội ở châu Á từ năm 1980 – 2000. Giờ ngài đang ở Goa.

UCANEWS VietNam

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 01-07 đến 01-13-2013)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
       (Từ 01-07 đến 01-13-2013)

Trích từ XBVN

  • Sự trở về Israel của chi tộc bị trục xuất ứng nghiệm lời tiên tri?

  • Tái khởi động cuộc vận động ‘hoàn trả’ các thánh tích của Thánh Nicolas.

  • Các nhà hoạt động “ủng hộ phá thai” (pro-Choice) đang thua trận.

  • Tập san Dòng Tên: Vatican II không phải là một sự gián đoạn triệt để.

  • Giáo Hội nước Anh [Anh giáo] phán quyết các GM có thể có quan hệ đồng tính.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • GM Fellay điểm mặt “những kẻ thù của Giáo Hội”.

  • Đức Thánh Cha đối với các khủng hoảng nhân đạo trên thế giới.

  • Phá thai : một điều cấm kỵ đặt ra vần đề.

  • Nhà dịch thuật – TỔNG LUẬN THẨN HỌC – nói dự án 52 năm dễ hơn ta tưởng.

  • Thông điệp ghi hình của Đức Biển Đức XVI gửi Giáo Hội tử vì đạo Cam-Bốt.

  • Một nhà chính trị : Giám Mục người Tây Ban Nha nên bị “khoá miệng”.

  • Bắc Kinh loan báo chấm dứt các trại lao động cưỡng bức.

  • Chủng viện Anh từ chối thỉnh cầu về Thánh Lễ tiếng La-tinh truyền thống.

  • Các Kitô hữu Châu Phi đang đối mặt với lán sóng bách hại khổng lồ.

  • Các lãnh đạo CHA vẫn hy vọng vào   sự điều chỉnh” sắc lệnh HHS.

  • “Tín hữu Công Giáo và Trầm Cảm”.

  • Nhà thờ lớn quốc gia [Anh giáo Mỹ và Canada] cử hành hôn lễ đồng tính.

  • Đức Thánh Cha tiếp Hoàng thân Albert II Monaco ngày 12 tháng 01.

  • Lãnh đạo Công Giáo Côp (Cope) chỉ trích tân hiến pháp Ai Cập.

  • Ủng hộ mạnh mẽ việc hạn chế nạo phá thai ở Hoa Kỳ.

  • Đức Gioan-Phaolô II sẽ được tôn phong hiển thánh năm nay?.

  • Một số Kitô hữu Ấn-Độ bị từ chối nước, trừ phi trở lại Ấn giáo.

  • Các nhà lãnh đạo Giáo Hội phải chiến đấu chống lại thuyết tương đối.

  • Hàng trăm ngàn người tràn ngập Paris để ủng hộ hôn nhân.

  • Báo cáo của những người tham quan làm dậy lên những căng thẳng ở Thánh Địa.

(Xin xem chi tiết . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 01-07 đến 01-13-2013 )

Suy Niệm Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa – NƯỚC THANH TẨY & THÁNH HOÁ (Lc 3:15-16.21-22)

Suy Niệm Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa – NƯỚC THANH TẨY & THÁNH HOÁ (Lc 3:15-16.21-22)

Cách đây hai năm, ngày 13 tháng 01/2011, cả thế giới bàng hoàng khi nghe tin: một trận mưa bão lớn suốt ba tuần, đã làm ngập lụt khắp thành phố Brisbane, thủ phủ tiểu bang Queensland, nước Úc. Sau đó hai tháng, ngày 11 tháng 3/2011, một trận động đất lớn ngoài biển kéo theo cơn sóng thần tàn phá nhiều thành phố miền Đông Bắc thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Muôn người ngỡ ngàng và khiếp sợ khi xem được những hình ảnh các thành phố này bị chìm trong biển nước. “Thủy Thần” nổi giận kinh hồn.

Được biết, trận mưa bão lâu ngày khiến nước dâng cao ở thành phố Brisbane là hiện tượng hiếm thấy xưa nay tại Úc Đại Lợi: nhiều xóm làng cũng như hoa mầu nông trại tại tiểu bang Queensland bị ngập úng, đường xá trong thành phố bó buộc phải đóng lại, một số khu vực bị cúp điện làm tê liệt sinh hoạt vì mực nước quá cao. Trận lũ lụt gây thiệt hại hàng tỷ đô la vì kinh tế vùng Queensland chủ yếu dựa vào than đá, khoáng sản, nông nghiệp. Tất nhiên, nó ảnh hưởng đến ngành công nhiệp sản xuất thép ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Hoa. Các cơ xưởng bị đình trệ vì họ thường xuyên nhập khẩu than đá, nguyên liệu cần thiết cho việc luyện thép, chủ yếu từ Úc. Nước Lụt nguy hiểm biết bao! 

Trong khi ấy, trận động đất mạnh 8.9 richter đã gây ra nhiều cơn sóng lừng cao tới 10 mét đập ầm ầm vào bờ biển phía Đông Nhật Bản, khiến 10,000 người mất tích. Đài truyền hình quốc gia phát đi hình ảnh những ngôi nhà bị sóng thần cuốn trôi, đường băng phi trường Sendai ngập nước trong khi cả chục người phải đứng trên nóc các toà nhà chờ cấp cứu. Nhiều vụ hoả hoạn xảy ra, hệ thống tàu điện ngầm ngưng hoạt động, tiếng còi hú xe cứu thương chạy khắp nơi. Cảnh tượng được mô tả là ghê rợn, vì sức tàn phá quá nặng nề. Có người sánh ví: tưởng chừng không có thảm cảnh nào kinh khủng hơn.
 
Thật xót xa cho những thiệt hại nặng nề từ những trận mưa to, gió lớn. Nước như cơn đại hồng thủy, tàn phá mọi hoa màu, nhà cửa, ruộng vườn, nhân mạng. Ta nhận thấy mãnh lực của Nước thật đa dạng:
  • giúp duy trì sự sống con người, cung ứng điều hoà thân nhiệt, giúp thanh tẩy mọi vật nên sạch mới, tươi mát, là đường giao thông nối liền các đại lục.
  • Nhưng đôi khi qua thảm hoạ thiên nhiên, Nước có thể hủy diệt mọi vườn tược cây cối, gây thiệt hại các công trình xây dựng, làm ngưng đọng mọi sinh hoạt thường lệ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đến nhận Phép Rửa của Thánh Gioan tại dòng sông Giođan.
  • Dân chúng trước đó, ai nấy đều nghe lời Gioan rao giảng, đã lũ lượt đến xin Gioan làm phép Rửa thanh tẩy với lòng sám hối.
  • Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống như con người ngoại trừ tội lỗi. Đấng thanh khiết, vô tội hoàn toàn, “không cần phải hoán cải, cũng chẳng cần được Gioan làm phép Rửa cho, nhưng vì Người là Đấng Cứu Tinh, nên Người muốn hoà đồng với các anh em tội lỗi của mình là những kẻ đang đi tìm ơn tha thứ” (Lời Chúa cho mọi người, trang 1732).
Trong dòng nước Giodan, Thánh Gioan Tẩy Giả giúp thanh tẩy tâm hồn hối nhân nên sạch mới.  Trong nước thánh tinh tuyền, trong lửa và Thánh Thần, Giáo Hội giúp thánh hoá tội nhân trở thành tạo vật mới, được tái sinh làm con Chúa, nên phần tử sống động của Hội Thánh giữa thế trần.
 
A. Giá trị thực hữu của Nước.
 
Nhìn bản đồ thế giới, ta thấy trái đất này được bao quanh bởi Nước chiếm ¾, chỉ còn ¼ là đất liền. Mọi tạo vật sống nhờ Nước: từ hoa lá cỏ cây, thực vật đến các loài động vật, sinh vật.
  • Các nông gia phải khai mương, đào kênh, dẫn thủy nhập điền…giúp ruộng đồng tươi tốt.
  • Các nhà trồng trọt phải tưới nước, cho cành lá đơm nụ nở bông, cho cây xanh sinh hoa kết trái.
  • Các trang trại phải xây đập, điều hoà lưu lượng nước, tạo mùa màng không hạn hán, ngập úng.
  • Nước Trung Hoa đã thiết lập nhà máy thủy điện lớn bên dòng sông Dương Tử, cũng như Việt Nam sau 1975, đã xây dựng nhà máy thủy điện Trị An từ nguồn nước sông Đồng Nai.
Rõ ràng, Nước luôn là một nhu cầu thiết yếu cho đời sống con người. Người ta có thể tuyệt thực lâu ngày không ăn không chết sớm, nhưng họ không thể nhịn khát lâu giờ: thiếu nước, họ sẽ từ giã cõi đời nhanh hơn.
  • Khách lữ hành đi trong sa mạc, nắng cháy da người, Nước giúp họ đủ sức vượt đường dài.
  • Tháng chay Ramadan, người Hồi Giáo nhịn ăn từ sáng đến chiều, nhưng không thể nhịn uống.
  • Cha Maximilien Kolbe bị quân Phát xít Đức bỏ đói nhiều ngày trong ngục, vẫn sống . Mỗi ngày, Ngài sống nhờ những giọt nước uống cầm sức. Đến ngày thứ 14, Cha bị tiêm thuốc độc mà chết.
B. Công dụng đa năng của Nước.
 
Con người dùng Nước với nhiều mục đích khác nhau: thanh tẩy, hủy diệt, chữa lành, tăng trưởng.
  1. Thanh Tẩy nên mới:
  • Nước bột giặt giúp làm sạch quần áo, nước xà bông rửa chén giúp chén dĩa nên mới.
  • Nước thiên nhiên giúp tắm rửa hàng ngày khỏi bụi bặm, giúp rửa xe cộ khỏi dơ bẩn.
  1. Hủy Diệt ngăn ngừa:
  • Nhiều người chữa cháy đã dùng Nước dập tắt mọi lây lan của ngọn lửa.
  • Cảnh sát dùng Vòi Nước mạnh, để xua tan, giải tán dòng người biểu tình chống đối.
  1. Chữa Lành phục hồi:
  • Tài xế ngừng lại, tiếp Nước vào xe, để làm nguội động cơ đang cao nhiệt.
  • Nhà bếp cho thêm Nước vào nồi canh, để làm nhạt, giảm độ mặn món ăn.
  • Khách đi đường xa bị rát họng khô cổ, uống Nước vào thấy mát rượi, dễ chịu.
  1. Tăng Trưởng vươn cao:
  • Nhà vườn tưới Nước cho rau xanh, cây non…phát triển tươi tốt mỗi ngày.
  • Mùa khô, chủ nhà mở vòi Nước xịt tứ phương, giúp cây cỏ thổ cư xinh tươi, không úa tàn.
Các tôn giáo dùng Nước để chúc lành, thánh hoá.
  • Cử hành bí tích Rửa Tội, thừa tác viên đổ Nước trên đầu, giúp thụ nhân được sạch Nguyên Tội, thánh  hoá thụ nhân thành con Chúa và Hội Thánh.
  • Linh mục rảy nước thánh, làm phép Nhà, phép Tàu, phép Tiệm…xin Chúa chúc lành, bảo vệ, che chở cho mọi sự tốt đẹp.
  • Người Ấn Giáo tắm nước ở dòng sông Hằng, tẩy xoá tội lỗi, cầu mong ơn phúc…
C. Nước thanh tẩy và nước thánh hoá trong Kitô Giáo.
  1. Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa tại bờ sông Giođan (Lc 3:7):
    + toàn dân đến nghe lời Gioan rao giảng và mời gọi sám hối.
    + họ quyết tâm cải thiện và canh tân đời sống thăng hoa.
    + mỗi người đón nhận phép Rửa bằng Nước, thanh tẩy mọi tỳ ố với lòng ăn năn, từ bỏ sự xấu.
  1. Đức Giêsu Kitô thánh hoá kitô hữu trong Thánh Thần và trong Nước (Ga 3:5):
    + hủy diệt vết nhơ Nguyên Tội hằng lưu truyền.
    + Thần Khí thánh hoá nên tạo vật mới: làm con Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8:15).
    + nhận Ơn Thánh từ trời ban tặng: sống thực hành kính Chúa hết lòng và yêu mến anh em như chính bản thân mình. 
Thánh Giám Mục Mác-xi-mô nói: “Đức Kitô chịu phép Rửa không phải để được nước thánh hoá nhưng là để chính Người thánh hoá nước và dùng sự thanh sạch Người mà thanh tẩy dòng nước”.
 
D.  Dìm mình trong Nước luôn mãi, để nên Sạch và Mới từng ngày.
 
Khi nhận bí tích Thánh Tẩy trong nước và Thánh Thần, thụ nhân được goi là kitô hữu.  Hiểu theo Nho ngữ, “kitô hữu” là người có Chúa Kitô ở trong mình.  Bởi thế, ta phải cố gắng “sống Thánh giữa Đời”, hầu xứng danh ‘kitô hữu”, người thuộc về Chúa Kitô.
  • Năng lãnh nhận nguồn ân sủng trong các Bí Tích: có Chúa đồng hành với ta mỗi ngày.
  • Kín múc mãi Lời Hằng Sống trong Kinh Thánh, trong Giáo Lý Công Giáo, trong giáo huấn Giáo
     Hội giảng dạy, trong Giáo Luật: có Thánh Ý Chúa hướng dẫn ta sống Đạo tốt lành.
  • Tắm Rửa thường xuyên trong Kinh Nguyện, Lễ Dâng: phương thế hiệp thông Chúa luôn luôn.
  • Thanh Tẩy từng đêm trong Xét Mình cá nhân, “nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân”: giúp nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5:48).
Có một thiếu phụ khô khan nguội lạnh, yếu lòng tin. Gặp đau khổ trong cuộc sống, bà luôn bi quan nghĩ rằng: Chúa đã quên lãng, bỏ rơi bà. Một hôm, bà bế con thơ đến gặp mục sư Collins, xin ông cầu nguyện giúp Bà khỏi khốn cực. Vị mục sư yêu cầu: “Bà hãy buông đứa bé xuống đất di?”.  
            Thiếu phụ nhìn mục sư, trả lời: “Ông điên à, không hiểu tại sao ông bảo tôi làm điều ấy?”.
            Vị mục sư thách thức: “Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để Bà buông đứa bé rơi xuống sàn nhà, bà có sẵn sàng ham tiền, mà làm việc ấy chăng?”. “Không bao giờ”, người thiếu phụ tức giận nói. “Dù người ta có cho tôi nhiều tiền như sao trên trời, giúp tôi bớt khổ, tôi sẽ không đời nào buông con tôi rơi xuống đất để nó phải chết”. Lúc ấy, mục sư Collins mới ôn tồn khuyên bảo: “Có khi nào bà nghĩ là tình thương của bà dành cho con mình lớn hơn tình thương của Cha trên trời đối với con cái của Người ư?”  (Lời Chúa và Cuộc Sống, Mùa Giáng Sinh, trang 89).
 
Hãy biết dìm mình trong Ơn Thánh để nhận thức Thiên Chúa hằng yêu thương ta biết chừng nào!!!
 
Rất nhiều lần đến với Chúa, ta cứ tưởng mình tin tưởng và kínb mến Chúa thật.  Song thực tế, kinh nghiệm dạy ta biết rằng: ta thường đến gặp Chúa khi có nhu cầu, khi tâm hồn ta đong đầy ưu tư nặng trĩu, lòng chất chứa những toan tính vụ lợi, mong Chúa ra tay cứu giúp mình.
 
Thật giống như: một nhóm kitô hữu tụ họp cầu nguyện tại một ngôi nhà trong xóm. Trước mặt tiền ngôi nhà ấy, họ treo biểu ngữ với hàng chữ “Jesus Only” (chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi). Thế nhưng, một cơn gió mạnh bất ngờ thổi đến, làm bay mất 3 mẫu tự đầu tiên, chỉ còn lại các chữ “Us Only” (chì vì chúng ta mà thôi). Rõ ràng: họ cứ nghĩ là mình cầu nguyện cho sáng danh Chúa, nhưng đúng hơn, ý hướng cá nhân đã thực sự chi phối việc làm đạo đức của họ (Lời Chúa và Cuộc Sống, mùa T. Niên I, trang 42).
 
E. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa! Hạnh phúc cho Con khi được làm con Chúa, được trở thành một kitô hữu.  Xin giúp Con luôn ghi nhớ Hồng Ân Qúi Báu này, biết tu luyện bản thân nên tốt, gắng liên tục dìm mình trong Ơn Sủng ngàn đời của Chúa, năng thăng tiến cuộc sống mình bằng Lời Chúa sáng soi mỗi ngày.  AMEN.
 
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD.