Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Trưa Chúa Nhật hôm qua là ”Ngày cho sự sống” tại Italia Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã dọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có hàng ngàn thành viên của các phong trào bảo vệ sự sống. Ngỏ lời chào họ Đức Thánh Cha nói:

Anh chi em thân mến, Chúa Nhật thứ nhất tháng Hai là ”Ngày cho sự sống” tại Italia. Tôi hiệp ý với các Giám Mục Italia mời gọi đầu tư cho sự sống và gia đình, như là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay, như các vị đã viết trong sứ điệp gửi ngày này. Tôi chào mừng Phong trào bảo vệ sự sống và cầu chúc thành công cho sáng kiến mang tên gọi ”Một người trong chúng ta”, để cho âu châu luôn luôn là nơi mọi người được bảo vệ trong nhân phẩm của mình.

Đức Thánh Cha cũng chào đại diện các phân khoa Y khoa và Giải phẫu của các đại học ở Roma, cách riêng các giáo sư ngành Sơ sinh và Sản khoa được tháp tùng bởi Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma. Ngài khích lệ họ nỗ lực đào tạo các nhân viên y tế cho nền văn hóa sự sống.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa bài Phúc Ân thánh lễ Chúa Nhật, kể lại biến cố một ngày thứ bẩy Chúa Giêsu đọc và giải nghĩa Sách Thánh trong hội đường Nagiarét, nơi Người đã lớn lên và ai cũng biết gia đình Người. Đức Thánh Cha nói:

Giờ đây sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một cách thức mới mẻ: trong buổi phụng vụ ngày thứ bẩy Người đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo việc thành toàn của nó bằng cách để cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Điều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, mọi người đều làm chứng và thán phục các lời ân phúc thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Thánh sử Máccô kể rằng ”nhiều người hỏi: ”Bởi đâu ông ta được những điều này? Và ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: ”ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ” (Đức Giêsu thành Nagiarét, 11). ”Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có các khát vọng nào đây?

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: chính vì biết sự khép kín này xác nhận châm ngôn: ”Không có ngôn sứ nào lại được chấp nhận trong quê hương mình” Đức Giêsu nói với dân chúng trong hội đường các lời vang lên như một khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ lớn Elia và Eliseo đã làm cho các người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều đức tin hơn. Tới đây thì phản ứng đồng nhất: mọi người đều đứng lên đuổi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, và còn tìm cách xô Ngươi xuống một vực sâu, nhưng với sự bình tĩnh tột độ Người băng qua đám dân chúng phẫn nộ và bỏ đi. Tới đây người ta phải tự hỏi: tại sao Đức Giêsu lại đã muốn khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ… Nhưng đây mới là điểm đáng nói. Đức Thánh Cha giải thích lý do sự kiện này như sau:

Đức Giêsu đã không tới để tìm sự đồng ý của loài người, nhưng – như sau cùng Người sẽ nói với quan Philatô – để ”làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chna lý, sẵn sàng trả giá cho việc đó. Có đúng thật là Đức Giêsu là vị ngôn sứ của tình yêu, nhưng tình yêu cũng có chân lý của nó. Còn hơn thế nữa, tình yêu và chân lý là hai tên gọi của cùng một thực tại, là hai tên gọi của Thiên Chúa. Trong phụng vụ hôm nay cũng vang lên các lời của thánh Phaolô: ”Đức mến không vênh vang, không tự đắc, không thiếu tôn trọng, không tìm tư lợi, không nóng giận, không chý ý đến sự dữ nhận được, không vui vì bất công, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6). Tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là khước từ các thành kiến riêng, và tiếp nhận gương mặt cụ thể, trong đó Người tự mạc khải ra: đó là con người Đức Giêsu thành Nagiarlet. Và con đường này cũng dẫn tới chỗ nhận biết Người và phục vụ Người nơi tha nhân.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Ở đây thái độ của Đức Maria soi sáng chúng ta. Ai là người thân thiết với nhân tính của Chúa Giêsu hơn Mẹ? Nhưng Mẹ đã không bao giờ lấy làm gương mù gương xấu như các người đồng hương Nagiarét. Mẹ giữ gìn trong tim mầu nhiệm ấy và luôn luôn ngày càng biết tiếp nhận nó hơn, trên con đường lòng tin, cho tới cái chết của Thập Giá và ánh sáng tràn đầy của sự Phục Sinh. Xin Mẹ Maria cũng giúp chúng ta trung thành và tươi vui bước đi trên con đường ấy.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ngài đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong tiếng Pháp Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu cảm tạ Chúa và cầu nguyện cho tất cả những người sống đời thánh hiến, để họ lờn lên trong sự thánh thiện. Gương sống của họ lôi kéo chúng ta dành cho Thiên Chúa một chỗ rộng rãi trong đời sống, qua lời cầu nguyện, qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật và đọc Lời Chúa.

Bằng tiếng Đức ngài nói sứ điệp Phúc Âm hôm nay đòi buộc chúng ta phải quyết định, không phải cho một người nhưng cho Chúa Kitô, như là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Cả ngày nay nữa Phúc Âm cũng vấp phải sự khứơc từ của thế giới, đẩy Thiên Chúa ra bên lề và muốn hài lòng cho mình các câu trả lời dễ dãi và không ràng buộc.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

JERUSALEM. Hôm 29 tháng 1-2013, Tòa Thánh và Israel đã có một cuộc họp ”nghiêm túc và xây dựng” trong khuôn khổ cuộc thương thuyết về các vấn đề kinh tế tài chánh của Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa.

Trên đây là nội dung thông cáo chung sau cuộc họp của Ủy ban làm việc thường trực song phương giữa Tòa Thánh và Israel. Ủy ban đã ghi nhận có những tiến bộ đáng kể và cầu mong sớm đạt tới một hiệp định”.

Phái đoàn Tòa Thánh tại cuộc họp do Đức Ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, hướng dẫn, và phái đoàn Israel do thứ trưởng ngoại giao Daniel Ayalon làm trưởng đoàn.

Đối tượng cuộc thương thuyết là điều số 10 triệt 2 trong hiệp định cơ bản ký kết giữa Israel và Tòa Thánh hồi cuối năm 1993.

Cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm nhưng chưa đạt kết quả. Nhà nước Israel muốn bãi bỏ các qui luật có từ thời Osman cai quản Thánh Địa, miễn thế cho các cơ sở của các tôn giáo như nhà thương, nhà trọ và trường học. Chính phủ Israel muốn chấm dứt các qui luật này nhưng Tòa Thánh tiếp tục đòi duy trì, vì nếu không các cơ sở của Giáo hội sẽ không thể tồn tại.

Giới báo chí quốc tế nhận xét rằng: giống như những lần trước đây, thông cáo chung sau cuộc họp hôm 29-1-2013 cũng nói đến ”những tiến bộ trong cuộc thương thuyết, phần lớn các vấn đề đã được giải quyết và thỏa hiệp chung kết đến gần”.

Phía Tòa Thánh không có tuyên bố nào ngoài thông cáo chung, nhưng phía Israel nói đến những tiến bộ tích cực. Ví dụ Đại sứ Zion Evrony của Israel cạnh Tòa Thánh nói với hãng tin Asia News hôm 30-1-2013 rằng ”Đã có những tiến bộ ý nghĩa về nhiều điểm trong Hiệp định cơ bản giữa Tòa Thánh và Israel, nhất là về những điểm đã thảo luận trong các cuộc gặp gỡ trước đây. Tuy một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết, nhưng từ cả hai phía đều có ý chí tiếp tục tiến bước để lấp đầy sự dị biệt này, đây sẽ là đối tượng cuộc họp tới đây của Ủy ban”.

Hai bên đã thỏa thuận sẽ nhóm khóa họp toàn thể của Ủy ban vào tháng 6 năm nay tại Vatican.

Đại sứ Evrony nói thêm rằng ”Có nhiều lý do để lạc quan, vì chúng tôi đã nhận thấy rằng những chia cách có thể được khắc phục”. Tuy nhiên ông nhận rằng ”Vẫn chưa có những dữ kiện chính xác về lịch trình để tiến tới một hiệp định chung kết”.

Theo Ông Đại Sứ, có sự cải tiến rõ ràng trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel. Các quan hệ tốt đẹp và thấm đượm tinh thần tín nhiệm lẫn nhau.

Một nguồn tin từ Vatican cho biết sở dĩ cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm mà chưa đạt kết quả là vì phía Israel, mỗi khi thay đổi chính phủ, chính phủ đến sau thường không chấp nhận những gì Ủy ban song phương đã đạt được và lại bắt đầu. (SD 30-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. ĐTC mời gọi những người thánh hiến hãy nuôi dưỡng và canh tân đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 2 tháng 2-2013, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, cũng là Ngày đời sống thánh hiến, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ trong Đền thờ thánh Phêrô.

Ngày Đời sống thánh hiến được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành lần đầu tiên hồi năm 1997, với mục đích chúc tụng Thiên Chúa về hồng ân đời sống thánh hiến, là điều vốn thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội, đồng thời ngày càng đề cao chứng tá cũng những người chọn theo Chúa Kitô qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, và đây cũng là cơ hội quí giá để mọi người thánh hiến lập lại quyết tâm đã và đang khích lệ họ hiến thân phụng sự Chúa.

Đây là lần đầu tiên từ 7 năm nay, ĐTC Biển Đức 16 cử hành thánh lễ nhân Ngày Đời Sống thánh hiến. Những năm vừa qua, ngài chỉ chủ sự Kinh Chiều nhân ngày này.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Tổng trưởng Bộ các dòng tu João Braz de Aviz, người Brazil, LM Sebastiano Paciolla, thuộc dòng Xitô, Phó tổng thư ký của Bộ, 4 Bề Trên Tổng quyền thành viên, và hàng chục các LM phục vụ tại Bộ.
Mở đầu buổi lễ có nghi thức làm phép nến do ĐTC chủ sự ở cuối Đền Thờ, rồi ngài cùng với đoàn đồng tế và 50 bề trên nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đi rước tiến lên Bàn thờ chính.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi quảng diễn ý nghĩa trình thuật Phúc Âm về việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, ĐTC nhắc đến cuộc rước nến sáng vào đầu thánh lễ với sự tham dự của các bề trên nam nữ. Ngài nói:

”Đề tài ánh sáng, vang vọng trong bài ca thứ I và thứ II của Người Tôi Tớ Chúa, trong II-Isaia (Xc 42,6; 49,6) hiện diện mạnh mẽ trong phụng vụ này. Thực vậy phụng vụ được mở đầu với cuộc rước đầy ý nghĩa mà các Bề trên nam nữ của các Hội dòng đời sống thánh hiến có mặt tại đây đã tham dự, tay cầm nến sáng. Dấu hiệu này, đặc biệt trong truyền thống phụng vụ của lễ hôm nay, biểu lộ vẻ đẹp và giá trị của đời thánh hiến như một phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô; một dấu hiệu gợi lại biến cố Mẹ Maria tiến vào Đền Thánh: Đức Trinh Nữ Maria, người Thánh Hiến tuyệt hảo, tay bồng chính Ánh Sáng là Ngôi Lời nhập thể, đến để xua tan bóng đêm ra khỏi trần thế bằng tình thương của Thiên Chúa”.

”Anh chị em thánh hiến thân mến, tất cả em chị em được diễn tả trong cuộc lữ hành tượng trưng, – trong Năm Đức Tin, cuộc lữ hành này càng diễn tả sự hợp nhau của anh chị em trong Giáo Hội, để được củng cố trong đức tin và canh tân sự dâng hiến của anh chị em cho Thiên Chúa. Tôi thân ái gửi đến mỗi người và hội dòng của anh chị em lời chào thăm thân ái nhất và cám ơn anh chị em vì sự hiện diện nơi đây. Trong ánh sáng của Chúa Kitô, với nhiều đoàn sủng khác nhau của đời chiêm niệm và tông đồ, anh chị em cộng tác vào cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới. Trong tinh thần biết ơn và hiệp thông ấy, tôi muốn gửi đến anh chị em ba lời mời gọi, để anh chị em có thể hoàn toàn tiến vào ”cánh cửa đức tin” luôn mở rộng cho chúng ta (Xc Tông thư ”Cánh cửa đức tin”, 1).

– Trước tiên tôi mời gọi anh chị em hãy nuôi dưỡng đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình. Để được vậy, tôi nhắn nhủ anh chị em hãy làm một cuộc lữ hành nội tâm, nhớ lại ”mối tình đầu” qua đó Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm tâm hồn anh chị em, không phải để hoài tưởng, nhưng để nuôi dưỡng ngọn lửa ấy. Vì thế cần phải ở với Chúa, trong sự thinh lặng thờ lạy, và nhờ đó khơi dậy ý muốn và niềm vui được chia sẻ cuộc sống, những chọn lựa, sự vâng phục đức tin, mối phúc của người thanh bần, tình yêu quyết liệt của Ngài. Luôn luôn tái khởi hành từ cuộc gặp gỡ yêu thương ấy, anh chị em từ bỏ mọi sự để ở với Chúa và như Chúa, anh chị em dấn thân phụng sự Thiên Chúa và anh chị em đồng loại (Xc Tông Huấn ”Đời sống thánh hiến”, 1).

– Thứ hai tôi mời gọi anh chị em hãy có một đức tin biết nhận ra sự khôn ngoan của yếu đuối. Trong những vui mừng và sầu muộn của thời nay, khi những cam go và sức nặng của thánh giá đè nặng, anh chị em đừng nghi ngờ về sự hạ cố (kenosis) của Chúa Kitô, vốn đã là một chiến thắng phục sinh. Chính trong giới hạn và yếu đuối của con người, chúng ta được mời gọi sống đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, hướng đến sự trọn hảo mai hậu, một sự trọn hảo được diễn tả trước phần nào ngay từ bây giờ (ibid., 16). Trong một xã hội luôn tìm kiến hiệu năng và thành công, cuộc sống của anh chị em, như của một ”số nhỏ”, của một nhóm người nhỏ bé yếu thế, cảm thông với những người không có tiếng nói, trở thành một dấu chỉ mâu thuẫn như Phúc âm đã nói.

– Sau cùng tôi mời gọi anh chị em hãy canh tân đức tin, làm cho anh chị trở thành những người lữ hành hướng về tương lai. Tự bản chất, đời sống thánh hiến là một cuộc lữ hành tinh thần, tìm kiếm một Tôn Nhan khi ẩn khi hiện: ”Faciam tuam, Domine, requiram” (Thánh nhan Ngài lạy Chúa, con tìm kiếm) (Tv 26,8). Ước gì điều này trở thành sự liên lỷ khao khát của tâm hồn, thành tiêu chuẩn cơ bản hướng dẫn hành trình của anh chị em, trong những bước tiến nhỏ của cuộc sống hàng ngày cũng như trong những quyết định quan trọng của Giáo Hội ngày nay. Anh chị em đừng hùa theo những tiên tri tai ương, những người loan báo sự cáo chung hoặc sự vô nghĩa của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội ngày nay, trái lại, anh chị em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, mang lấy những võ khí của ánh sáng, như thánh Phaolô nhắn nhủ (Xc Rm 13,11-14), luôn tỉnh thức canh chừng”. Thánh Cromazio đi Aquileia đã viết: ”Xin Chúa đẩy xa khỏi chúng con nguy hiểm như thế để không bao giờ chúng con bị giấc ngủ bất trung đè nặng; nhưng xin ban ơn thánh và lòng từ bi cho chúng con, để chúng con có thể luôn tỉnh thức trong sự trung thành với Người. Thực vậy lòng trung thành của chúng ta có thể tỉnh thức trong Chúa Kitô” (Bài giảng 32,4).

”Anh chị em thân mến, niềm vui của đời thánh hiến nhất thiết tiến qua sự tham phần vào Thập Giá của Chúa Kitô. Mẹ Maria Chí Thánh đã từng trải qua như thế. Sự đau khổ của Mẹ là sự đau khổ của một con tim trở nên một với Con Tim của Con Thiên Chúa, bị đâm thâu qua vì yêu thương. Từ vết thương ấy, vọt ra ánh sáng của Thiên Chúa, và từ những đau khổ, hy sinh, hiến thân mình mà những người thánh hiến sống vì yêu Thiên Chúa và tha nhân chiếu tỏa cùng ánh sáng, loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Trong lễ này, tôi đặc biệt cầu chúc tất cả những người thánh hiến có một cuộc sống thấm đượm Tin Mừng chân chính, để ”nơi anh chị em Tin Mừng được sống thực, được làm chứng, loan báo và chiếu tỏa rạng ngời như Lời chân lý (Xc Porta fidei, 6). Amen”. (SD 2-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong sứ điệp mùa chay nhân dịp Năm Đức Tin, ĐTC mời gọi các tín hữu suy tư về mối quan hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, đồng thời làm sao để trong mỗi hoạt động bác ái có phản ánh tình thương của Chúa Kitô đối với con người.

Sứ điệp của ĐTC đã được ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriaele, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng 1 tháng 2-2013, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Sứ điệp mang tựa đề ”Tin trong đức mến khơi dậy lòng bác ái.” ”Chúng tôi đã nhìn nhận và tin rằng tình yêu Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (1 Ga 4,16).

Sứ điệp được chia làm 4 phần lần lượt nói về:
1. ”Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa”
2. ”Đức mến như một cuộc sống trong đức tin”
3. ”Mối liên hệ không thể phân ly giữa đức tin và đức mến”
4. ”Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến”

ĐTC nhấn mạnh sự kiện chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (Xc 1, Ga 4,10), nên tình yêu không còn chỉ là ”một giới răn”, nhưng là lời đáp trả hồng ân tình thương qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (Deus caritas est, 1)… Kitô hữu là người được tình thương của Chúa Kitô chinh phục, và vì thế, được tình thương ấy thúc đẩy, họ cởi mở một cách cụ thể và sâu sắc đối với tình yêu tha nhân” (Xc. ibd., 33)… Toàn thể đời sống Kitô là một lời đáp lại tình thương của Thiên Chúa. Và câu trả lời đầu tiên chính là đức tin như một sự đón nhân, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta” (2).
Dưới ánh sáng những sự kiện đó, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hiển nhiên là chúng ta không bao giờ có thể tách rời, hoặc đối nghịch giữa đức tin và đức mến. Hai nhân đức hướng thần này liên hệ mật thiết với nhau và thật là điều sai lầm khi coi hai nhân đức ấy đối nghịch nhau”.

Từ sự kiện đó, ĐTC cảnh giác chống lại thái độ của người quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như khinh rẻ những công việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.. Cũng vậy, ngài chống lại thái độ của người quá đề cao đức mến và các hoạt động bác ái đến độ cho rằng những hành động đó thay thế đức tin. Để có một đời sống thiêng liêng lành mạnh, cần phải xa tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động dạy đời.”

ĐTC nhận xét ”Đời sống Kitô hệ tại liên tục tiến lên núi gặp gỡ Thiên Chúa để rời hạ san, mang tình thiêng và sức mạnh từ cuộc gặp gỡ ấy, phục vụ anh chị em với cùng tình yêu thương của Thiên Chúa”.

Người tín hữu Kitô hoạt động bác ái biết rằng không phải những cố gắng riêng của mình mang lại hoa trái, nhưng đúng hơn là ”sáng kiến cứu độ” đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài. Ân sủng không giới hạn tự do và trách nhiệm của chúng ta, nhưng quí hướng chúng về những hoạt động bác ái”.

Trong các hoạt động bác ái mà các tín hữu Kitô được mời gọi thi hành, ĐTC đề cao công trình bác ái lớn nhất là việc rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa đến cho tha nhân: ”Không có hoạt động nào hữu ích hơn, nghĩa là bác ái hơn đối với tha nhân cho rằng bẻ Bánh Lời Chúa, giúp tha nhân được tham dự vào Tin Mừng, dẫn họ đi vào trong tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất” (3).

ĐHY Robert Sarah

Trong cuộc họp báo, ĐHY Sarah nhắc đến những hoạt động bác ái rất bao quát của Giáo Hội trợ giúp người nghèo, các nạn nhân chiến tranh, các gia đình gặp khó khăn, các bệnh nhân, v.v. Ngài cũng loan báo sẽ gửi một phái bộ sang Giordani từ 19 đến 21-2 tới đây để phối hợp công tác cứu trợ trong vùng, đặc biệt là cho dân chúng Siria. Phái bộ do chính ĐHY hướng dẫn. Tại thủ đô Amman, ngài sẽ gặp vua Abdallah và các đại biểu của Caritas Trung Đông, Bắc Phi, để thảo luận về tình trạng khó khăn đặc biệt tại Siria, và tìm cách trợ giúp cụ thể cho những người tị nạn. Tình hình địa phương thật là bi thảm vì giá lạnh, thieu lương thực, thuốc men, v.v. Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm được giải pháp, nhưng chúng tôi muốn tìm cách ngưng cuộc chiến tranh ở Siria”.

ĐHY cho biết trong năm vừa qua, ĐTC đã dành 3 triệu rưỡi Euro để giúp đỡ các nạn nhân và người nghèo, điều này chứng tỏ sự gần gũi của ĐTC Biển Đức 16 với nhiều thứ đau khổ trên thế giới.

ĐHY Sarah cũng nói: ”Trong Giáo hội có 165 tổ chức Caritas trên toàn thế giới và họp thành một liên hiệp là Caritas quốc tế. Hoạt động của Giáo Hội dành cho người nghèo thật là mênh mông”.

Hiện diện trong cuộc họp báo cũng có Ông Michael Tio, Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các Hội bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô. Ông cho biết Hội này hiện diện tại 148 quốc gia, với 780 ngàn thành viên và 1.3 triệu người thiện nguyện, phục vụ 30 triệu người nghèo. Ông Tio khẳng định rằng ”Đức bác ái Kitô là tình yêu đối bới Thiên Chúa được biến thành việc phục vụ tha nhân” (SD 1-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 01-28 đến 02/03/2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 01-28 đến 02/03/2013

Trích từ Xuân Bích VN

  • Đức Giám Mục xác nhận NCR không phải là tờ báo “Công Giáo”
  • TIN VẮN CUỐI TUẦN QUA.
  • Các Tự Sắc mới tác động đến các chủng viện, dạy giáo lý.
  • Đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống.
  • Thiếu hụt trầm trọng ơn thiên triệu buộc Giáo Hội tính đến những lựa chọn khác.
  • Đức Biển Đức XVI ủng hộ các cuộc diễn hành bảo vệ Sự Sống.
  • Sống Ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa.
  • “Ước gì tên của các nạn nhân Holocaust không bao giờ tàn lụi”.
  • BỔ NHIỆM MỚI.
  • Các ân xá cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân.
  • Giáo Hội và các bệnh nhân phong cùi : 547 trại phong trên thế giới.
  • Cuba: Hoàn trả cho Giáo Hội Công giáo hai trường học và một vùng đất bị tịch biên.
  • Đám đông kỷ lục tại Cuộc Đi Bộ Diễn Hành Vì Sự Sống ở Washington.
  • Một thượng hội đồng để bầu Tân Thượng phụ Can-đê.
  • Dự luật Hôn nhân đồng tính có thể dẫn tới những thay đổi khác trong luật về ngoại tình, ly dị.
  • Uỷ Ban Israel – Toà Thánh.
  • Một số GM Hoa Kỳ sẵn sàng thách thức sắc lệnh HHS, có nguy cơ đi tù.
  • Chim bồ câu của Đức Thánh Cha bị mòng biển tấn công khi mới cất cánh.
  • Thoả thuận giữa Vatican và Palestine hướng tới ký kết “nhanh chóng”.
  • Thánh Đường [nơi Chúa] Giáng Sinh nhận món quà lớn từ Vatican.
  • Giới trẻ bị “ngắt ra” khỏi nền văn hoá của họ.

Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁÓ 01-28-2013 đến 02-03-2013

 

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ – CHÚA NHẬT IV TN C

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ

CHÚA NHẬT IV TN C

Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm rao truyền Lời Chúa, dù gặp khó khăn, trắc trở, bách hại. Giê-rê-mi-a tự thuật Lời Thiên Chúa về ơn gọi làm Ngôn Sứ của mình như sau:

“Trước lúc tượng hình trong dạ mẹ, Ta biết ngươi và thánh hiến ngươi rồi. Ta đặt Ngươi làm ngôn sứ. Hãy đi khắp muôn nơi và nói cho thế giới Lời Ta truyền dạy. Đừng nhát đảm hay chùn chân, khiếp hãi, Bởi nơi ngươi Ta xây vững thành trì. Cột sắt đúc, vách thành đồng, thì sá chi, vì kẻ chống đối không mảy may thắng được. Vì Ta ở cùng Ngươi, đi cùng trong từng bước, để giải thoát ngươi khỏi mưu chước gian tà”.

Thân phận Ngôn Sứ của Đức Giêsu cũng vậy, nếu không nói là còn bi tráng hơn. Cả trình thuật lần về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng hôm nay, đã cho thấy gần như toàn bộ hành trình Ngôn Sứ của Ngài.

Nghe Chúa Giêsu giảng, phút đầu, kẻ thán phục, người ngỡ ngàng rằng kiếm ở đâu ra một con người tài ba xuất chúng thế. Thế nhưng, khi nhận ra con người ấy là Giêsu, con trai ông thợ mộc trong làng, thì họ tỏ ra xem thường Người, phẫn nộ, đuổi xua và thậm chí, còn muốn ám hại Người nữa.

Vâng chuyện xưa nay vẫn vậy. Con mắt trần gian vẫn nhìn người qua thân thế, nguồn gốc. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Há lẽ ông thợ mộc Giuse nghèo hèn thinh lặng kia lại có thể có một đứa con tuyệt vời như vậy sao ? Tính ganh tỵ của con người vẫn không ưa ai hơn mình, có khi ngay cả người nhà: “Người nhà chẳng thích người nhà, lắm tài nhiều đức khôn ra với đời”. Đáng lý phải tự hào, phải hãnh diện về người nhà, người làng mình chứ. Người cùng quê hương, làng xóm với Chúa Giêsu không thể chấp nhận trong làng quê mình lại có người tài giỏi, xuất chúng hơn người. Họ quên rằng, nếu không có cái gốc rạ, thì chẳng có cây lúa, nếu không có cây lúa, thì chẳng có hạt lúa, hạt cơm.

Vâng, còn đó, cái gốc rạ, một đời làm chân cho cây lúa, một đời nặng nhọc, vất vả, rồi tàn úa, từ thuở lúa trổ đòng đòng, đến chắc hạt vàng bông. Thử hỏi ai đã từng quí hạt gạo trắng trong, thì quên sao những đêm mưa, bềnh bồng cây lúa ? Ai đã từng nức nở khen cánh đồng mướt xanh như lụa, lại có thể vô tình xem gốc rạ vô công ?

Cũng vậy, Con Chúa xuống làm người, và làm người con trong gia đình có cái gốc rạ là cô thợ may, anh thợ mộc. Về Nadarét, nghe ai đó mắng vốn thật đau, hẳn thiếu điều Người bật khóc thương cho họ đã không hiểu thấu mầu nhiệm kiếp người của Con Thiên Chúa là được sinh ra vì hạnh phúc cuộc đời, được sai đi ban Lời tình muôn thuở. Và vì thế, họ không đón nhận, họ từ chối, phẫn nộ, đuổi xua. Họ không biết “cái gốc rạ” của Đức Giêsu ở trên Trời.

Trước thái độ của người Do Thái ở làng Nadarét, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cha, chương trình cứu chuộc nhân loại. “Người  băng qua giữa họ mà đi”, vì Tin Mừng không chỉ dành riêng cho Người ở quê hương Ngài, ở Do Thái, mà là Tin Mùng cho muôn dân tộc, cho cả và thiên hạ.

Chúa Giêsu đã rẽ lối, đi về phía xa vời, cho muôn nước, cho mọi thời rạng ngời Lời Cứu Thế. Người vẫn biết số phận Ngôn Sứ là không ai có thể được vinh dự gì nơi cắt rốn chôn nhau. Hẳn là, Người cũng bỏ lại đằng sau bao kỷ niệm luyến thương nơi quê hương ngày thơ bé để bước vào đường thênh thang mà hành trình không cô lẻ, bởi Thánh Linh cùng Người hiên ngang bước Cứu Thế rạng ngời.

Vâng,

Tin Mừng không ưu tiên cho đồng hương, nhưng ưu tiên cho người hân hoan đón nhận. Tin Mừng không ưu tiên cho trí thức, nhưng ưu tiên cho kẻ thành tâm khiêm cung.

Chiếc áo của Tin Mừng không sang trọng lụa là gấm vóc, nhưng là tình yêu thương che ấm những cuộc đời tang tóc điêu linh. Lời thân thưa của Tin Mừng không chuốt ngót, cũng chẳng rẻ khinh, nhưng chân thật tự tấm lòng yêu không hề gian dối.

Bước đi của Tin Mừng không ngại dấn thân vào trong hẻm tối, nhưng can đảm thắp lên niềm tin nơi chán chường, lầm lỗi, diệt vong. Niềm vui của Tin Mừng không chỉ một lóe sáng cõi hư không, nhưng chiếu dọi vạn hào quang rực hồng muôn năm hằng hữu.

Thời gian của Tin Mừng không tính năm tính tuổi, nhưng là vĩnh cửu, là vô hạn vô biên

Ai có thể cầm chân Tin Mừng trong thánh thất, trong đền thiêng, mà không ngộ ra Tin Mừng đã bước đến muôn miền thế giới ? Ai có thể bắt bớ, bỏ tù ngàn ngàn Ngôn Sứ, mà che mắt nhìn cánh đồng vàng muôn tín hữu thành tâm ?

Con Thiên Chúa đến trần gian rất đỗi âm thầm, rồi hiên ngang bước đi gieo Tin Mừng nguồn sống mới. Người đã đi giữa mũi đạn làn tên chống đối, vẫn hùng anh chết để phục sinh cho nên trọn Tin Mừng.

Lạy Chúa, chúng con, những tín hữu thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong đời thường cũng không tránh khỏi bao làn tên mũi đạn. Xin cho chúng con lòng kiên vững làm chứng rằng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa đang dành cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng, đón nhận Đức Giêsu. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 30.1.2013

Để đón tiếp Chúa

 Để đón tiếp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và Thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?”.
 
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
 
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
 
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là  Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
 
Dân làng Nadarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi."
 
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
 
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm  ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
 
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
 
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nadarét đánh mất hồng ân vô giá.
 
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (ĐTGM. GiuseNgô Quang Kiệt).
 
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và  đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
  
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

 Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội Đường Nazaret, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazaret không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Apraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Chúa Nhật 4, QN năm C

Chúa Nhật 4, QN năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, hàng ngày chúng ta hay nói với nhau: “Người đó giỏi thật, họ biết đủ mọi điều”. Khi nói thế là hàm ý ta khâm phục họ và chớ gì ta cũng  có được những hiểu biết tài giỏi như họ. Phải chăng, con người dù có sự hiểu biết đến đâu thì nó cũng có một giới hạn của nó; còn đối với Thiên Chúa thì cái biết của Ngài là cái biết vô cùng và sâu thẳm. Chính vì thế mà trong bài đọc 1 của Chúa Nhật tuần 4 năm C này cho ta thấy, Thiên Chúa biết tiên tri Giêrêmia thế nào? Ta thử xem: “Trước khi tạo thành ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi.” (Gr 1,5). Thiên Chúa biết Giêrêmia là như thế, và Ngài muốn dùng tiên tri làm công việc của Ngài, cho dẫu ông rất sợ hãi sứ mệnh Chúa giao, nên ông nói: “Ôi! lạy Đức Chúa, con đây còn trẻ qúa, con không biết ăn nói” (Gr 1,6).

     Quả thật lạ lùng, trong lịch sử cứu độ, phần lớn ai cũng sợ Chúa gọi và giao cho một sứ mạng nào đó; phải chăng vì con người quá thấp hèn tội lỗi trước mặt Chúa, trong khi sứ mạng Chúa đòi hỏi thật lớn lao và đầy khó khăn. Đúng vậy, nhưng một khi Thiên Chúa đã giao cho ai công việc gì thì Người ban cho họ một khả năng để thi hành sứ mạng, như trường hợp của  Môisê, ông đưa ra lý do với Chúa là ông nói ngọng. Đavit, người chăn chiên. Isaia sợ mà kêu lên rằng: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế”. … rồi đến các Tông Đồ là những người chài lưới quê mùa… Và mãi mãi Thiên Chúa có cách của Ngài trong việc chọn lựa, nhưng tất cả những người được gọi đều có mẫu số chung là: họ cần một sự đáp trả  và bước theo đường Ngài chỉ dạy.

     Xưa kia, Chúa đã quả quyết với Giêrêmia đừng sợ người đời cho dẫu họ là ai đi chăng nữa, vì: “Chính Ta  làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr1,18-19). Quả thật, là người ngôn sứ của Chúa thì không thể nào nói khác những lời của Chúa được. Vai trò của ngôn sứ thì không thể tránh khỏi những hệ lụy đau thương đến bản thân như: bị chống đối, bỏ rơi, loại trừ, hay bị giết chết. Giêrêmia cũng suýt chết vì nói sứ điệp cho dân. Phao lô cũng bị ném đá chết giấc, và hầu hết các ngôn sứ đều chịu cảnh đau khổ liên lụy đến bản thân.
 
     Và hơn ai hết vị ngôn sứ cao cả nhất là Đức Kitô mà qua bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người chống đối không ai xa lạ, mà là người quê hương của Ngài, họ đã lôi Ngài ra khỏi  thành, dẫn lên triền núi và để xô Ngài xuống vực thẳm.
 
     Đến đây ta thử đặt vấn đề, tại sao lại như vậy? Tại sứ điệp của Chúa dở hay tại con người không chấp nhận chân lý sự thật? Chắc chắn là tại con người; vì con người thường thích nghe những điều dễ dãi, tâng bốc, con người muốn vẽ cho mình một con đường luân lý, giữ đạo theo ý của mình, cho nên khi có một lời mời gọi khác, một kiểu sống khác đi ngược lại với những cái xấu và đòi hỏi họ phải từ bỏ. Điều này như Chúa Giêsu đã từng đề ghị qua lời giảng dạy của Ngài, thì người ta không chấp nhận. Và xem ra, càng nói thẳng, nói thật bao nhiêu thì càng bị người ta phản ứng mạnh mẽ bấy nhiêu, có khi dẫn đến cái chết, như vụ án của Chúa Giêsu cho ta thấy rất rõ.
 
     Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi những môn đệ của Chúa hãy rao giảng và sống những lời Chúa truyền dạy, hãy nói thẳng, nói thật “Có thì nói có, không thì nói không, thêm lời đặt điều là bởi ma qủi”. Như vậy người ngôn sứ cần phải rao giảng lời của Chúa, cho dẫu có gặp khó khăn đến mấy đi chăng nữa, thì vẫn rao giảng, miễn làm sao đem lại lợi ích cho người khác. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người mở lòng đón nhận sứ điệp của Chúa qua những con người mà Chúa đã trao sứ vụ cho họ.
 
     Trên hết mọi sự, để mọi việc đều tốt lành và hữu ích thì, chi bằng mỗi người hãy thực hiện lời của Thánh Phaolo truyền dạy trong bài đọc 2, đó là phải yêu mếnĐức Mến là điều hết sức quan trọng, bởi vậy mà thánh nhân quảng diễn một loạt hoa quả của đức mến như sau: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Trên đây thánh Phaolô liệt kê cho chúng ta một loạt những gì mà đức mến đòi hỏi và cần phải có nơi mỗi người; vì nếu không có đức mến thì như thánh nhân quả quyết. Dù tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, hay được ơn nói tiên tri, biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lý lẽ cao siêu, hay chuyển núi dời non, hoặc bán hết gia tài đem bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì chẳng ích gì cho tôi.
 
     Nghe  những điều trên đây ta phải run sợ, bởi nhiều khi ta làm được chút đạo đức hay giúp đỡ được điều gì đó thì vênh vang. Hay nhiều khi chỉ một chút bất bình, một lỗi nhỏ người ta xúc phạm đến mình… mà ta không bỏ qua, không tha thứ được thì qủa thật chiếu theo lời của thánh Phaolo, thì ta ăn nói sao đây khi đến trình diện với Chúa. Cho nên qua lời của thánh Phaolo hôm nay là tiêu chuẩn cho ta biết được ai là người đạo đức thánh thiện thực sự, thì cứ xem qua cách cư xử với người khác. Đó là chuẩn mực của sự đạo đức hay thánh thiện; chứ đừng căn cứ qua sự đọc kinh nhiều, giữ luật lệ nghiêm ngặt; vì có ai giữ luật bằng những người Biệt Phái, Pharisêu, thế mà hạng người đó lại bị Chúa lên án nặng nề nhiều lần như: “ Khốn thay cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và Pharisêu…” ( Mt 23,13-32). Vấn đề giữ đạo bằng hình thức luật lệ qua kinh kệ thì, Chúa Giêsu đã chẳng nói thế này sao: “Không phải những ai nói với Ta:  Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời” (Mt 7,21).
 
     Vậy, ngày hôm nay mỗi người chúng ta đang bước theo Chúa, ta hãy kéo Chúa vào lòng chúng ta, chứ đừng kéo Chúa ra khỏi lòng ta để đưa Chúa lên triền núi và xô Ngài xuống vực thẳm như dân quê hương của Ngài xưa kia. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và muôn vàn thần thánh trên trời cầu bầu cho chúng con, để chúng con luôn lắng nghe và thực hành lời của Chúa. Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Khi chúng ta nói ”Tôi tin nơi Thiên Chúa toàn năng” là chúng ta diễn tả niềm tin của mình nơi quyền năng tình yêu thương của Thiện Chúa, là Đấng nơi Người Con chết và phục sinh của Người đã đánh bại thù hận, sự dữ, tội lỗi và mở ra cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, cuộc sống của con cái ước mong luôn mãi được ở trong ”Nhà Cha”.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 30 tháng 1-2013.

Trong số các phái đoàn hiện diện có một nhóm 12 chị Việt Nam thuộc tu hội ”Nước Hằng Sống” Bỉ mặc áo dài. Trong bài huấn dụ ngài đã suy tư về lời tuyên xưng đầu tiên trong Kinh Tin Kính ”Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng”. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Ngày nay nói về chức làm cha thật không luôn luôn dễ dàng. Nhất là trong thế giới Tây phương, nơi có nhiều yếu tố có thể ngăn cản một tương quan an bình và xây dựng giữa các người cha và con cái như cảnh các gia đình bị tan rã, các dấn thân của công việc ngày càng thu hút, các lo lắng và thường khi sự mệt mỏi phải quân bình các chi tiêu trong gia đình, sự xâm lấn của các phương tiện truyền thông trong cuộc sống thường ngày của gia đình.

Đôi khi việc truyền thông trở thành khó khăn, sự tin tưởng giảm sút và tương quan với gương mặt người cha có thể gặp vấn đề; và cả hình ảnh về Thiên Chúa như một người cha cũng trở thành vấn đề, vì không có các mô thức quy chiếu. Đối với ai đã có kinh nghiệm về một người cha qúa quyền bính và cứng cỏi, hay lãnh đạm và ít trìu mến hoặc còn vắng bóng, thì không dễ mà thanh thản nghĩ tới Thiên Chúa như một người Cha và tín thác nơi Người.

Nhưng mạc khải kinh thánh, đặc biệt là Tân Ước, giúp chúng ta thắng vượt được các khó khăn này, khi giới thiệu với chúng ta Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương loài người đến độ ban chính Con của Người cho ơn cứu rỗi của nhân loại. Trong các giáo huấn của Người Đức Giêsu cho chúng ta hiểu biết một chút về gương mặt và tình yêu thương hiền phụ của Thiên Chúa, là Đấng vô cùng cao cả hơn, trung tín hơn và toàn vẹn hơn bất cứ người cha nào.

Khi chỉ cho các môn đệ gương mặt của Chúa Cha, Đức Giêsu nói: ”Có người nào trong các con khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc khi nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu các con vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha các con, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những ai kêu xin Người sao?” (Mt 7,9-11; x. Lc 11,11-13).

Thiên Chúa là Cha bởi vì Người đã chúc phúc cho chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ (x. Ep 1,3-6) và cho chúng ta được trở thành con cái của Người trong Đức Giêsu (x. Ga 3,1). Và như là Cha, Thiên Chúa đồng hành với tình yêu trong cuộc sống chúng ta, bằng cách ban cho chúng ta Lời Người, giáo huấn của Người, ơn thánh và Thần Khí của Người.

Như Đức Giêsu mạc khải Thiên Chúa là Cha, Đấng nuôi dưỡng chim trời là loài không gieo không gặt, và mặc cho hoa đồng nội các mầu sắc tuyệt vời còn đẹp hơn cả áo của vua Salomon (x. Mt 6,26-32; Lc 12,24-28). Và chúng ta là người thì còn giá trị hơn hoa đồng nội và chim trời rất nhiều. Thiên Chúa tốt lành, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và cho mưa rơi trên người công chính và người không công chính (Mt 5,45). Vì thế chúng ta sẽ luôn luôn có thể hoàn toàn tín thác nơi sự tha thứ của Thiên Chúa Cha khi lầm đường, mà không phải sợ hãi. Thiên Chúa là Cha nhân lành tiếp đón và ôm hôn người con đã mất và sám hối (x. Lc 15,11 tt.), Người ban nhưng không cho những ai xin Người (x. Mt 18,19; Mc 11,24; Ga 15,23), Người cống hiến bánh từ trời và nước hằng sống khiến cho con người được sống đời đời (x. Ga 6,32.51.58).

Cũng chính vì thế người cầu nguyện trong Thánh Vịnh 27, bị bao vây bởi các thù địch và tấn công bởi các kẻ gian ác và vu khống, tìm kiếm sự trợ giúp từ Chúa, khẩn cầu Người và có thể cống hiến chứng tá niềm tin tràn đầy và khẳng định rằng: ”Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27,10). Thiên Chúa là một người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái Người, một người Cha yêu thương nâng đỡ, trợ giúp, tiếp đón, tha thứ, và cứu vớt với lòng trung tín vô cúng vượt xa sự trung tín của con người, để rộng mở cho các chiều kích vĩnh cửu. ”Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, như thánh vịnh 136 tiếp tục lập lại ở mỗi câu khi đi lại con đường lịch sử của dân Israel. Tình yêu của Thiên Chúa Cha không bao giờ suy giảm, không mệt mỏi đối với chúng ta. Đó là tình yêu trao ban cho tới cùng tận, cho tới hiến tế của Người Con. Đức tin trao ban cho chúng ta xác tín trở thành một đá tẳng vững chắc trong việc xây dựng cuộc sống: chúng ta có thể đương đầu với tất cả mọi lúc khó khăn và nguy hiểm, kinh nghiệm của khủng hoảng đen tối và thời gian đau khổ, vì được nâng đỡ bởi sự tin tưởng Thiên Chúa không để chúng ta một mình; Người luôn luôn gần gũi chúng ta để cứu vớt và đem chúng ta đến sự sống vĩnh cửu.

Chính nơi Chúa Giêsu tỏ lộ tràn đầy gương mặt nhân lành của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Và khi biết Người và trông thấy Người là chúng ta cũng có thể biết và trông thấy Thiên Chúa Cha (x. Ga 8,19; 14,7), bởi vì Người ở trong Cha và Cha ở trong Người (x. Ga 14,9.11). Người là ”hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” như thánh Phaolô định nghĩa trong thư gửi tín hữu Côlôxê, là ”Trưởng Tử trước mọi loài thọ tạo… là Trưởng Tử của những kẻ từ cõi chết sống lại”, ”nhờ Người chúng ta được ơn cứu rỗi, và sự tha thứ tội lỗi”, và sự hòa giải mọi sự ”nhờ máu Người đổ ra trên thập giá Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất cũng như trên trời” (Cl 1,13-20).

Niềm tin nơi Thiên Chúa Cha đòi hỏi tin nơi Chúa Con, dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần, bằng cách thừa nhận nơi Thập Giá cứu độ việc vén mở vĩnh viễn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta, khi ban Con của Người cho chúng ta; khi tha thứ tội lỗi chúng ta và đưa chúng ta tới niềm vui của cuộc sống phục sinh; khi ban Thần Khí làm cho chúng ta trở thành con cái và cho phép chúng ta gọi Người là ”Abba, Cha ơi” (x. Rm 8,15). Vì thế khi dậy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nói ”Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9-13; Lc 11,2-4).

Như vậy chức làm cha của Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là sự dịu hiền cúi xuống trên chúng ta là những đứa con yếu đuối cần mọi sự. Thánh vịnh 103 là bài ca vĩ đại của lòng xót thương của Thiên Chúa kêu lên: ”Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người qúa biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi” (Tv 103,12-14). Chính sự bé bỏng, chính bản chất nhân loại yếu đuối, chính sự giòn mỏng của chúng ta kêu gọi lòng thương xót của Chúa, để Người biểu lộ sư cao cả và hiền dịu là Cha của Người bằng cách trơ giúp, tha thứ và cứu rỗi chúng ta.

Thiên Chúa đáp trả lời kêu gọi của chúng ta bằng cách gửi Con của Người đến chết và sống lại vì chúng ta; bước vào trong sự giòn mỏng của chúng ta và làm điều mà con người một mình sẽ không bao giờ có thể làm được: đó là mang lấy trên mình tội lỗi của thế giới, như chiên con vô tội, tái mở con đường sự hiệp thông với Thiên Chúa và khiến cho chúng ta trở thành con cái Chúa. Và chính trên Thập Giá vinh quang xảy ra việc biểu lộ tràn đầy sự cao cả của Thiên Chúa như ”Cha toàn năng”.

Nhưng làm sao chúng ta có thể nghĩ đến một Thiên Chúa toàn năng khi nhìn lên Thập Giá Chúa Kitô? khi nhìn quyền năng của sự dữ đi tới độ giết chết Con Thiên Chúa? Chúng ta muốn một sự quyền năng của Thiên Chúa theo các lược đồ tâm trí và ước muốn của chúng ta: một Thiên Chúa toàn năng giải quyết các vấn đề, can thiệp để tránh cho chúng ta các khó khăn, chiến thắng các quyền lực đối nghịch, thay đổi dòng chảy của các biến cố và xóa bỏ khổ đau. Ngày nay nhiều thần học gia nói rằng Thiên Chúa không thể toàn năng, nếu không thì đã không có biết bao khổ đau, biết bao sự dữ trong thế giới. Thật ra đứng trước sự dữ và khổ đau, đối với nhiều người, đối với chúng ta, tin vào một Thiên Chúa Cha và toàn năng là một vấn nạn, là điều khó khăn. Một số người tìm ẩn náu tong các ngẫu trượng bằng cách nhượng bộ cám dỗ tìm câu trả lời trong một quyền năng ”ma thuật” và trong các hứa hẹn ảo tưởng của nó.

Nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa toàn năng thúc đẩy chúng ta đi theo các con đường khác, học biết rằng tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của chúng ta, và các đường lối của Thiên Chúa khác với các đường lối của chúng ta, và cả quyền năng của Người cũng khác.

Sự toàn năng của Thiên Chúa không được diễn tả ra trong bạo lực, trong tàn phá một quyền lực đối nghịch như chúng ta mong muốn, nhưng được diễn tả ra trong tình yêu, trong lòng thương xót, trong sự tha thứ, trong việc chấp nhận sự tự do của chúng ta, và trong lời không mệt mỏi mời gọi chúng ta hoán cải con tim, trong một thái độ xem ra yếu đuối. Thiên Chúa xem ra yếu đuối, nếu chúng ta thấy Đức Giêsu Kitô cầu nguyện, mời gọi, làm cho chúng ta bị giết, nhưng đó là thái độ xem ra yếu đuối được làm bằng sự kiên nhẫn, hiền dịu và tình yêu, chứng minh cho thấy đó mới là kiểu quyền bính và sức mạnh đích thật. Và quyền bính ấy sẽ chiến thắng…

Chỉ có ai quyền năng mới có thể chịu đựng sự dữ và tỏ ra thương xót; chỉ có ai thực sự quyền năng mới có thể thực thi sức mạnh của tình yêu một cách tràn đầy. Và Thiên Chúa, mà mọi sự đều tùy thuộc Người vì tất cả đều do Người tạo dựng, vén mở sức mạnh của Người bằng cách yêu mến mọi sự và tất cả mọi người trong sự chờ đợi kiên nhẫn mọi người hoán cải, mà Người ước ao như con của Người. Thiên Chúa chờ đợi sự hoán cải của chúng ta.

Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa không biết ranh giới, đến độ đã không tha Con của Người, nhưng trao nộp vì tất cả chúng ta” (Rm 8,32). Quyền năng tình yêu của Thiên Chúa không phải là quyền năng của thế giới, mà là quyến năng của sự cho đi hoàn toàn, và Đức Giêsu Con Thiên Chúa vén mở cho thế giới thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa Cha, bằng cách hiến sự sống cho chúng ta là những kẻ tội lỗi. Đó chính là quyền năng đích thực và toàn vẹn của Thiên Chúa: đáp trả sự dữ không phải băng sự dữ nhưng bằng sự thiện, đáp trả lăng nhục bằng tha thứ, hận thù sát nhân bằng tình yêu trao ban sự sống. Và như thế sự dữ bị thua thực sự, vì được tình yêu của Thiên Chúa tẫy rửa; cái chết vĩnh viễn thất bại vì được biến đổi thành ơn sự sống.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài chúc họ những ngày hành hương bổ ích, sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân

VATICAN. Nhân dịp Ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 21 sắp tới, ĐTC ban ơn toàn xá cho các bệnh nhân và những người chăm sóc và cầu nguyện cho họ.

Ân xá là sự tha thứ hình phạt tạm thời mà một người phải chịu để đền bù những tội đã được tha thứ.

Trong Sắc lệnh công bố hôm 28 tháng 1-2013, ĐHY Monteiro de Castro, Chánh Tòa Ân Giải tối cao, và Đức Ông Krzyssztof Nykiel, Phó Chánh Tòa, cho biết ĐTC Biển Đức 16 ban ơn toàn xá để ”Các tín hữu, thành tâm thống hối và do đức bác ái cũng như tấm gương người Samaritano nhân lành thúc đẩy, trong tinh thần đức tin và từ bi, dấn thân phục vụ những anh chị em đang chịu đau khổ”. Ngài đã quyết định rằng:

– Các tín hữu, với lòng thống hối chân thành, có thể được hưởng ơn toàn xá mỗi ngày một lần, với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý ĐTC, và có thể chỉ ơn này cho các linh hồn quá cố, nếu trong những ngày từ mùng 7 đến 11-2 tới đây, tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting bên Đức, hoặc tại bất kỳ nơi nào do Giáo quyền chỉ định, họ sốt sắng tham gia một buổi lễ được cử hành để cầu xin Chúa cho những ý chỉ của Ngày Thế Giới các bệnh nhân, và họ đọc Kinh Lạy Chúa, kinh Tin Kính và khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria.

– Các tín hữu làm việc tại các nhà thương công cộng hoặc tại bất kỳ nhà tư nào, trợ giúp các bệnh nhận theo tinh thần bác ái như người Samaritano nhân lành, và vì công việc phục vụ ấy, họ không thể tham gia cac buổi lễ nói trên, thì họ cũng được hưởng ơn toàn xá, nếu trong những ngày ấy, họ quảng đại trợ giúp trong vài giờ như thể làm cho chính Chúa Kitô (Xc Mt 25,40) và họ đọc Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, khẩn cầu Đức Mẹ, với tinh thần xha tránh mọi tội lỗi, và với ý hướng chu toàn vừa khi có thể các điều kiện được yêu cầu để hưởng ơn toàn xá.

– Những tín hữu vì bệnh tật, già yếu hoặc vì lý do khác tương tự, bị ngăn trở không thể tham dự các lễ nghi nói trên, cũng sẽ được ơn toàn xá, miễn là với tâm hồn xa tránh bất kỳ tội lỗi nào và quyết tâm chu toàn vừa khi có thể những điều kiện thường lệ, tham dự trong tinh thần các buổi lễ thánh trong những ngày đã định, đặc biệt là trong các buổi lễ phụng vụ và Sứ điệp của ĐTC được truyền đi qua truyền hình hoặc đài phát thanh, sốt sắng cầu nguyện cho tất cả các bệnh nhân, và dâng những đau khổ thể lý và tinh thần, nhờ Mẹ Maria là Sức khỏe của các bệnh nhân.

Sau cùng, ĐTC ban ơn xá bán phần cho tất cả các tín hữu, mỗi khi họ hướng về Thiên Chúa từ bi, với tâm hồn thống hối, trong những ngày từ 7 đến 11-2 nói trên, sốt sắng cầu nguyện trợ giúp những người đau yếu trong tinh thần của Năm Đức Tin hiện nay.

Ngày 11 tháng 2-2013, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Đức TGM Zygmunt Zimowski Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ các nhân viên y tế, Đặc Sứ của ĐTC, sẽ chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting, nam Đức, và cuối lễ, ngài sẽ ban bí tích xức dầu bệnh nhân.

Altoetting, cách thành phố Munich 100 cây số về hướng đông, là nơi có Đền thánh Đức Mẹ nổi tiếng nhất nước Đức và thuộc giáo phận Passau. Thị trấn Altoetting, tuy chỉ có 13 ngàn dân cư, nhưng vẫn được coi là ”Con tim tôn giáo của miền Bavière”. Mỗi năm có hơn 1 triệu tín hữu từ các nơi ở Đức và các nước Trung Âu, đến hành hương trước tượng Đức Mẹ Đen cao 65 centimet, bồng Chúa hài đồng, được đặt trong Nhà Nguyện Ân Phúc của Đền Thánh này. Pho tượng bằng gỗ, bị ám khói nến qua dòng thời gian. Nhà nguyện này có từ khoảng năm 1300, nhưng trở nên nổi tiếng từ năm 1489, với hai cuộc hiện ra của Đức Mẹ. Trong nhà nguyện có rất nhiều bảng tạ ơn Đức Mẹ. Trước tượng Đức Mẹ, có một hòm bằng bạc đựng trái tim của tất cả các vua miền Bavière và các nhân vật nổi bật khác thuộc gia tộc Wittelsbach.

Riêng đối với ĐTC Biển Đức 16, Đền thánh này đã giữ một vai trò quan trọng trong các kỷ niệm thời thơ ấu. Ngài kể: ”Tôi được may mắn sinh ra gần Altoetting. Và các cuộc hành hương của tôi với thân nhân tại đây thuộc vào những kỷ niệm đẹp nhất của tôi trong thời thơ ấu”… Hồi tháng giêng năm 2005, tức là 3 tháng trước khi được bầu làm Giáo Hoàng, ĐHY Ratzinger cùng với bào huynh của ngài đã đến hành hương riêng cũng tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting”. (SD 28-1-2013)


G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều 25 tháng 1-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25 tháng 1-2913 với chủ đề “Điều mà Chúa đòi hòi chúng ta” (Mikea 6,6-8).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, ngoài 20 HY, còn có các GM, giáo sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác.

Trước khi kinh chiều bắt đầu, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện chào mừng và cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này. Ngài cũng giới thiệu đại diện các Giáo Hội Kitô khác có mặt trong Đền thờ: Đức TGM Gennadios, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo; vị kinh sĩ đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo, các vị trong Ủy ban quốc tế hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương; các sinh viên Học viện đại kết ở Bossey gần Genève.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến thách đố chung đang được đề ra cho Kitô giáo và kêu gọi mọi tín hữu Kitô đoàn kết để đáp ứng. Ngài nói:

”Trong xã hội ngày nay, dường như sứ điệp Kitô ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống cá nhân và cộng đoàn, và đây là thách đố đối với tất cả các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội. Sự hiệp nhất tự nó là một phương thế ưu tiên, hầu như một điều tiên quyết phải có để loan báo đức tin ngày càng đáng tin cây cho những người chưa biết Đấng Cứu Thế, hoặc tuy đã được loan báo Tin Mừng, nhưng hầu như đã quên hồng ân quí giá này. Gương mù chia rẽ làm thương tổn hoạt động truyền giáo đã thúc đẩy khởi sự phong trào đại kết mà chúng ta đang biết ngày nay. Sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa các tín hữu Kitô phải được hiểu như một đặc tính cơ bản để làm chứng tá rõ ràng hơn.”

”Trong khi chúng ta tiến bước về sự hiệp nhất trọn vẹn, cần phải theo đuổi một sự cộng tác cụ thể giữa các môn đệ Chúa Kitô, để phục vụ chính nghĩa thông truyền đức tin cho thế giới ngày nay. Ngày nay có một nhu cầu rất lớn về sự hòa giải, đối thoại, cảm thông nhau, trong một viễn tượng không phải vì luân lý, nhưng vì sự chân chính của Kitô giáo để hiện diện một cách quyết liệt hơn trong thực tại thời nay”.

ĐTC nói thêm rằng ”Sự tìm kiếm hiệp nhất của chúng ta trong chân lý và tình thương không bao giờ được quên ý thức rằng sự hiệp nhất Kitô là công trình và là hồng ân của Chúa Thánh Linh, và vượt quá những cố gắng của chúng ta. Vì thế, đại kết linh đạo, nhất là việc cầu nguyện, chính là trọng tâm của những dấn thân đại kết (Xc Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 8). Tuy nhiên, phong trào đại kết sẽ không mang lại hoa trái lâu bền nếu không có kèm theo những cử chỉ cụ thể về sự hoán cải, đánh động lương tâm và tạo điều kiện cho sự chữa lành những ký ức và quan hệ.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Một sự hòa giải đích thực, như sự hòa giải mà Ngôn Sứ Mikea đã gợi ý, và thánh Phaolô Tông đồ đã nêu gương, sẽ đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa, ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đến độ ngày càng xích lại gần nhau hơn. Đó là một yếu tố cơ bản trong nỗ lực đại kết của chúng ta. Sự canh tâm đời sống nội tâm, của tâm trí chúng ta, phản ánh trong đời sống thường nhật, chính là điều thiết yếu trong mọi cuộc đối thoại và hành trình hòa giải, biến phong trào đại kết thành một sự quyết tâm cảm thông, tôn trọng và yêu thương nhau, ”để thế gian tin” (Ga 17,21). (SD 25-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Sống Ngày “Hôm Nay” Trong Chúa

Sống Ngày "Hôm Nay" Trong Chúa

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa Chúa nhật 27-01-2013, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đón nhận Ơn cứu độ và sự hiện diện của Thiên Chúa trong ngày sống của mình bằng cách lắng nghe lời của Ngài.

Trong một ngày nắng đẹp, hàng chục ngàn tín hữu hành hương quần tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài đã giải thích ý nghĩa của đoạn Tin Mừng theo Thánh Luca(Lc 1,1-4; 4,14-21) và nhắn nhủ các tín hữu hãy sống ngày hôm nay như là ngày hồng ân cứu độ. Giải thích về ý nghĩa của đoạn Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng:

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta hai đoạn trích khác nhau trong Tin Mừng theo thánh Luca. Đoạn thứ nhất là lời tựa, là một lời nhắn nhủ tới một con người cụ thể có tên là “Thêôphilô”; vì tên này trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là Yêu mến Thiên Chúa, nên chúng ta có thể nhận ra nơi ông hình ảnh của những người tín hữu biết mở ra với Thiên Chúa và khao khao hiểu biết về Tin Mừng. Trong khi đó, đoạn thứ hai trình bày cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”, đi vào hội đường Na-da-rét. Nhìn kỹ ta thấy rằng Thiên Chúa đã không xem thường những nghi lễ phụng vụ hàng tuần và Ngài vẫn thường quây quần bên những người đồng hương để cầu nguyện và lắng nghe Kinh Thánh. Nghi thức này bao gồm việc đọc một đoạn văn trong Kinh Torah hay Ngôn sứ và sau đó là một vài diễn giải. Vào ngày này, Đức Giê-su đã đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần khí của Ðức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Ðức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61, 1-2). Origen diễn giải rằng: “Không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Ngài mở sách và tìm thấy đoạn ngôn sứ Isaia nói về Ngài, nhưng đây chính là hành động quan phòng của Thiên Chúa”. Sau khi đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giê-su đã thinh lặng, rồi Ngài nói: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,21). Thánh Cirillo Alessandria xác nhận rằng, “hôm nay” được đặt giữa lần đến đầu tiên và cuối cùng của Đức Giê-su, được nối kết với khả năng của người tín hữu trong việc lắng nghe và hoán cải. Nhưng trong ý nghĩa cụ thể hơn, Đức Giê-su chính là “hôm nay” trong lịch sử cứu độ, bởi vì ng”ài đã đến và hoàn tất công trình cứu độ. Thuật ngữ “hôm nay” có ý nghĩa rất phong phú trong Tin Mừng thánh Luca, nó gợi nhắc cho chúng ta chủ đề Kitô học rất được ưa thích bởi Thánh sử Luca. Trong tường thuật về việc sinh hạ, chủ đề này đã được trình bày trong lời của các Thiên Thần: “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,11).

Sau khi diễn giải bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tín hữu phải sống cụ thể ngày “hôm nay” trong đời sống thường ngày. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng này đòi chúng ta phải chất vấn về chính ngày “hôm nay” của chúng ta. Trên hết chúng ta phải nghĩ về cách chúng ta sống ngày Chúa Nhật: ngày để nghỉ ngơi, ngày của gia đình, và trên hết là ngày dành cho Chúa, bằng cách tham dự Thánh Lễ, nơi đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa Kitô và Lời sự sống của Ngài. Thứ đến, trong thời đại đầy xáo trộn và đổi thay này, bài Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng ta chất vấn chính mình về khả năng lắng nghe của chúng ta. Trước khi có thể nói về Thiên Chúa và nói với Thiên Chúa, chúng ta cần lắng nghe Ngài, và phụng vụ của Giáo Hội chính là “trường học” lắng nghe Thiên Chúa, Đấng luôn nói với chúng ta. Cuối cùng, bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta rằng mọi khoảnh khắc đều có thể trở thành hôm nay để chúng ta có thể hoán cải. Mỗi ngày có thể trở thành ngày cứu độ, bởi vì ơn cứu độ là một lịch sử được tiếp nối bởi Giáo Hội và bởi mỗi một người môn đệ của Đức Giê-su. Đây chính là ý nghĩa Kitô giáo của thuật ngữ “Hãy sống với ngày hôm nay" (carpe diem), hãy nắm bắt khoảnh khắc Thiên Chúa kêu gọi bạn để trao ban ơn cứu độ.

Đức Trinh Nữ Maria chính là mẫu gương cho chúng ta và là Đấng hướng dẫn chúng ta trong việc mở ra để đón nhận mỗi ngày trong đời sống chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng cứu độ của chúng ta và của tất cả nhân loại.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắn nhủ một cách đặc biệt vì hôm nay cũng là ngày tưởng niệm các nạn nhân của thảm họa diệt chủng Phát-xít. Ngài nói:
Hôm nay cũng là “Ngày tưởng niệm” những nạn nhân của Holocaust của Phátxít. Việc kỷ niệm thảm họa kinh hoàng này phải là một lời nhắc nhở dành cho mọi người rằng, chúng ta không nên lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ. Và chúng ta phải nỗ lực để vượt qua mọi thái độ ghen ghét và các hình thức phân biệt chủng tộc, đồng thời phải thăng tiến và tôn trọng phẩm giá con người.

Sau Angelus, Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng hôm nay cũng là ngày Thế Giới bệnh nhân. Ngài nhắn nhủ tới mọi người như sau:

Tôi muốn diễn tả sự gần gữi của tôi tới những người phải chịu đau khổ vì bệnh tật, những nhà nghiên cứu đầy can đảm, các nhà thiện nguyện, những người hoạt động trong lĩnh vực y tế và cụ thể là biết bao nhiêu người đang tham gia vào các tổ chức Công giáo và Tổ chức những người bạn của Raoul Follereau. Tôi cũng nguyện xin Thánh Damien de Veuster và thánh Marianna Cope, những người đã hiến trao đời mình cho những người phải chịu đau khổ vì bệnh phong, xin các ngài cầu bầu cho tất cả các bạn.

Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng, Chúa nhật hôm nay là ngày đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình trên Đất Thánh. Và Ngài cảm ơn tất cả những ai đang nỗ lực để thăng tiếng hòa bình trên mọi miền của thế giới và ngài đặc biệt chúc mừng những người hiên diện nơi đây. Sau đó, Ngài cũng chào mừng khách hành hương bằng các thứ tiếng khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, Phần Lan và Tây Ban Nha. Và cuối cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Radio Vatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 01-21 đến 01-27-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 01-21 đến 01-27-2013

Trích từ XBVN

 

  • Tín hữu Công giáo chỉ trích ý kiến bộ trưởng nội vụ về Đức Thánh Cha.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Tấn phong giám mục người bản xứ tiên khởi ở Santa Cruz, Bolivia.

  • ĐHY Ravasi được chọn giảng tĩnh tâm Mùa Chay ở Vatican.

  • Đối thoại với SSPX : sáng kiến của ĐGM Noia.

  • Nhà nguyện Byzantin được lộ ra sau nhiều thế kỷ dưới đất bùn,

  • Đức Thánh Cha chúc lành cho những con chiên nhân ngày lễ Thánh Agnes.

  • Ankara hoàn trả đất đai bị tịch thu từ Trường Thần Học Halki.

  • Ước gì mỗi giáo dân cho 2 bản Kinh Thánh mỗi tháng để rao giảng Phúc Âm.

  • Lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam thăm viếng Vatican.

  • Chấm dứt những thánh lễ đồng tính nam Soho.

  • Toà Thánh làm Tân quan sát viên Hệ Thống Hoà Nhập Trung Mỹ (SICA).

  • Sai một linh mục Giáo phận Czestochowa đi truyền giáo ở Kazakhstan .

  • Lãnh đạo phái Luther không vui với đề xuất về Giáo hạt tòng nhân cho phái Luther.

  • Bộ Giáo Luật được coi là thực hiện nguyện vọng của Công Đồng Vatican II.

  • Giới chức Vatican điểm lại tiến bộ đại kết với các cộng đồng Tin lành.

  • Cầu nguyện cho hoà bình tại Thánh Địa trong 3.000 thành phố trên thế giới.

  • NHỮNG VỤ TỰ THIÊU.

  • Các nữ tu xin lỗi về những lạm dụng phạm phải giữa các năm 1928 – 1970.

  • Các trường Công giáo ở Tây Sydney sẽ rung chuông Truyền Tin mỗi ngày.

  • Liệu pháp tiếng cười của Soeur Lee.

  • 500 Năm Cải Cách: “Từ mâu thuẫn xung đột đến hiệp thông”.

  • Lãnh đạo DCCT lấy làm tiếc về những hành động của một linh mục Dòng.

(Xin xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 01-21-2013 đến 01-27-2013)

Đức Thánh Cha tiếp đoàn thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Rota

Đức Thánh Cha tiếp đoàn thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Rota

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26 tháng 1-2013, dành cho Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma nhân dịp khai mạc năm tư pháp mới, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi đề cao quan hệ mật thiết giữa đức tin và đời sống hôn nhân.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 150 người, trong đó có hơn 20 vị thẩm phán của tòa Rota. Các vị thuộc nhiều quốc tịch dưới sự điều động của vị tân niên trưởng là Đức Ông Pio Vito Pinto.

Lên tiếng trong dịp này, trong bối cảnh Năm Đức Tin, ĐTC đặc biệt khai triển mối liên hệ giữa đức tin và hôn nhân, xét vì cuộc khủng hoảng đức tin ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới cũng đưa tới một cuộc khủng hoảng hôn nhân, kèm theo những đau khổ và cơ cực cho con cái.

ĐTC nhận xét rằng “Giao ước bất khả phân ly giữa người nam và người nữ, để thành bí tích, không đòi phải có đức tin bản thân của đôi hôn phối, nhưng chỉ đòi điều kiện thiết yếu là ý hướng làm điều mà Giáo Hội làm”. Dầu vậy, đức tin vẫn giữ một vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới đời sống hôn nhân của đôi vợ chồng.. ”Niềm tin nơi Thiên Chúa, được ân thánh của Chúa nâng đỡ, là một yếu tố rất quan trọng để sống sự tận tụy đối với nhau và sự chung thủy vợ chồng” (Giáo lý trong buổi tiếp kiến chung ngày 8-6-2011).

Về điểm này, ĐTC trưng dẫn giáo huấn của một số giáo phụ như Tertulliano, và thánh Clemente thành Alessandria về đời sống vợ chồng dưới ảnh hưởng của đức tin, và ngài nói: ”Cácthánh đã sống sự kết hiệp hôn nhân và gia đình trong viễn tượng Kitô, đã thành công vượt thắng những hoàn cảnh khó khăn nhất, qua đó họ đạt được sự thánh hóa người phối ngẫu và con cái với một tình yêu ngày càng được củng cố nhờ niềm tín thác vững chắc nơi Chúa, nhờ lòng đạo đức chân thành và đời sống bí tích nhiệt thành.” ĐTC cũng nói rằng ”Chính những kinh nghiệm ghi đậm đức tin như thế giúp hiểu rõ hơn ngày nay, sự hy sinh của người vợ hoặc người chồng bị bỏ rơi, hoặc bị ly dị, nếu họ nhìn nhận sự bất khả phân ly của mối giây hôn phối hữu hiệu, không để cho mình đi tới chỗ tái hôn.. Trong trường hợp đó, gương chung thủy và sống hợp với đạo lý Kitô có một giá trị chứng tá trước mặt thế giới và Giáo Hội” (Tông huấn Familiaris consortio, 22-11-1981, 83: AAS 74 [1982], p.184)

Thánh lễ với ĐHY Bertone

Trước khi được ĐTC tiếp kiến, các thẩm phán, nhân viên, các luật sư và cộng tác viên của tòa Thượng Thẩm Rota đã tham dự thánh lễ do ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, chủ sự lúc 9 giờ 15 tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa.

Trong bài giảng, ĐHY nhắc đến tấm gương và hoạt động của hai thánh Timôthê và Tito với lễ kính trong ngày 26-1-2013. Ngài đặc biệt nhắc đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô Tông Đồ với môn đệ Timôthê, để kêu gọi mọi người đừng sợ sệt trong bối cảnh xã hội tục hóa ngày nay: ”Thiên Chúa không ban cho chúng ta một tinh thần nhát sợ, nhưng can đảm, bác ái và khôn ngoan thân trọng. Vì vậy con đừng hổ thẹn khi làm chứng về Chúa chúng ta” (2 Tm 1,7-8).

ĐHY Bertone nhận xét rằng ”Chúng ta đang bị một môi trường vây quanh, môi trường này nhiều khi tỏ ra dửng dưng lãnh đạm đối với tôn giáo hoặc công khai bất chấp mọi lời kêu gọi về những giá trị cao cả của Tin Mừng. Sự tục hóa ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm thức ngày nay, biến thành một chủ thuyết duy thế tục nơi lương tâm nhiều người. Chúng ta không thể không nói đến những khó khăn theo đó một bầu không khí văn hóa như thế chống lại hoạt động rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh khích lệ các vị thẩm phán và nhân viên thi hành sứ vụ tư pháp sẵn sàng ”chịu đau khổ vì Tin Mừng”, vì không được cảm thông, và can đảm góp phần mang lại an bình và công lý cho các tín hữu. Sứ vụ này cũng có tính chất mục vụ và là một sự tham gia đặc biệt vào sứ mạng của Chúa Kitô Mục Tử. ĐHY nói: ”Không thể dẫn đưa các linh hồn về Nước Trời, nếu ta tách rời khỏi thái độ bác ái và khôn ngoan là thái độ phải linh hoạt cả công tác dấn thân giúp tuân giữ trung thành luật pháp và các quyền của mọi người trong Giáo Hội” (SD 26-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Toàn Văn Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội Lần Thứ 47

Toàn Văn Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội Lần Thứ 47

Như chúng tôi đã đưa tin, ngày 24 tháng 01-2013, Đức Thánh Cha đã công bố sứ điệp nhân dịp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47 với chủ đề, “Các mạng xã hội: những cánh cửa sự thật và đức tin; những không gian mới của việc rao giảng Tin Mừng”. Sứ điệp được công bố bằng 8 thứ tiếng. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha.

Anh chị em thân mến,

Ngày thế giới truyền thông năm 2013 đến gần, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài phản tỉnh về thực tại ngày càng quan trọng liên quan đến cách thức mà ngày nay chúng ta giao tiếp với nhau. Tôi muốn xem xét về sự phát triển của mạng lưới xã hội kỹ thuật số vốn đang tạo ra một “agora” mới, là một quảng trường mở ra để mọi người có thể đến và chia sẻ quan điểm, thông tin và ý kiến của mình, và cũng nơi đây những mối tương quan mới và các kiểu mẫu về cộng đồng xuất hiện.

Các không gian này nếu được sử dụng một cách khôn ngoan và đúng đắn, chúng sẽ cổ võ các hình thức đối thoại và tranh luận; và nếu tôn trọng và quan tâm đến sự riêng tư, trách nhiệm và chân lý, chúng có thể thúc đẩy mối dây hiệp nhất giữa các cá nhân và thăng tiến một cách hiệu quả sự hòa hợp của gia đình nhân loại. Sự trao đổi thông tin có thể trở thành truyền thông đích thực, thành mối dây liên kết tình bạn và những nối kết tương trợ sự hiệp thông. Để nhận ra tiềm năng lớn lao nơi các mạng lưới này, những người dấn thân vào đó cần phải nỗ lực trở nên trung thực vì, trong những không gian đó, họ không chỉ chia sẻ ý kiến hay thông tin mà còn chia sẻ chính bản thân mình.

Sự phát triển của các mạng lưới truyền thông cũng mời gọi một sự dấn thân: mọi người phải dấn thân xây dựng các mối tương quan và tình bạn, trả lời các câu hỏi trong niềm vui, và hơn hết là tìm kiếm những khích lệ về mặt trí thức, chia sẻ thông tin và kiến thức. Những mạng lưới này ngày càng trở thành một phần quan trọng của cơ cấu xã hội, vì chúng giúp mọi người đến với nhau trên cơ sở của những nhu cầu cơ bản ấy. Như thế, các mạng lưới xã hội cần được nuôi dưỡng bởi những gợi hứng vốn cắm rễ sâu trong trái tim con người.

Văn hóa của các mạng lưới xã hội và những thay đổi trong các phương tiện cũng như cách thế truyền thông đưa ra những thách đố lớn lao cho những ai muốn nói về chân lý và các giá trị. Cũng như những phương tiện truyền thông xã hội khác, tầm quan trọng và hiệu quả của các phương thức diễn tả khác nhau dường như được xác định bởi sự nổi tiếng của chúng hơn là bởi giá trị và tầm quan trọng vốn có. Tính đại chúng thường liên kết với tiếng tăm và các chiến lược nhằm thuyết phục người khác hơn là logic của lập luận. Đôi khi tiếng nói nhẹ nhàng của lý trí có thể bị đè bẹp bởi sự ầm ĩ của những thông tin mang tính phóng đại, và do đó không thể lôi cuốn như những thứ khác vốn có một cách diễn tả thuyết phục hơn.
 

Mạng lưới truyền thông xã hội thực sự cần sự dấn thân của tất cả những ai ý thức về giá trị của đối thoại, những cuộc tranh luận tri thức và lập luận logic, cũng như của những người nỗ lực nuôi dưỡng những hình thức đàm thoại và diễn đạt vốn lôi cuốn những khát vọng cao đẹp của những ai tham gia vào tiến trình truyền thông. Các cuộc đối thoại và thảo luận có thể được dưỡng nuôi và lớn lên khi chúng ta đối thoại với và quan tâm đến những người mà quan điểm của họ đôi khi khác với quan điểm của chúng ta. “Vì thực tại của các nền văn hóa rất đa dạng nên con người không chỉ cần chấp nhận sự hiện hữu của nền văn hóa khác, mà còn cần để cho nó gợi hứng và làm phong phú chính mình và mở ra để đón nhận những gì là tốt lành, đúng đắn và cao đẹp” (Bài nói chuyện trong cuộc gặp gỡ nhân Ngày Văn Hóa Thế Giới năm 2010).

Thách đố mà mạng truyền thông xã hội đang đối diện thì cũng bao gồm việc làm thế nào để chúng mang lại lợi ích từ sự tham gia đầy đủ của những người tin, những người khao khát chia sẻ sứ điệp của Đức Kitô và giá trị của phẩm giá con người vốn được giáo huấn của Ngài khích lệ. Các tín hữu ngày càng nhận thức rằng nếu Tin Mừng không được phổ biến cả trong những môi trường kỹ thuật số, thì có thể sẽ vắng bóng trong kinh nghiệm của nhiều người, vốn coi không gian này của cuộc sống là điều quan trọng. Môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hay chỉ là một thế giới ảo, nhưng là thành phần của thực tại thường nhật của nhiều người, nhất là của giới trẻ. Các mạng truyền thông xã hội là kết quả của những tương tác giữa người với người, nhưng đến lượt mình, các mạng lưới này cũng hình thành những năng động của truyền thông vốn xây dựng các mối tương quan: do đó, một sự hiểu biết đúng đắn về môi trường này là đòi hỏi phải có trước hết để có thể hiện diện một cách ý nghĩa trên đó.

Khả năng sử dụng các ngôn ngữ mới là điều được đòi hỏi, không chỉ để bắt kịp với thời đại, mà còn để giúp sự phong phú vô hạn của Tin Mừng có thể tìm thấy những hình thức diễn tả thích hợp để có thể đi vào tâm trí và con tim của mọi người. Trong môi trường kỹ thuật số, những bài viết cần được song hành với hình ảnh và âm thanh. Như trong các dụ ngôn của Đức Giêsu, truyền thông hiệu qủa cần phải thu hút trí tưởng tượng và tình cảm của những người mà ta muốn mời họ đi vào một cuộc gặp gỡ với mầu nhiệm Tình Yêu của Đức Giêsu. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng, truyền thống Ki-tô giáo rất phong phú về các dấu chỉ và biểu tượng: ví dụ, tôi nghĩ về Thánh giá, các icon, hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria, Hang đá Giáng sinh, các cửa sổ kính màu và các bức ảnh trong các thánh đường. Một phần phần quan trọng của di sản nghệ thuật nhân loại được sáng tạo bởi các họa sĩ và nhạc sĩ khi họ nỗ lực để diễn tả chân lý đức tin.
Trong các mạng lưới xã hội, các tín hữu phải bày tỏ sự chân thành của mình ngang qua việc chia sẻ nguồn mạch sâu xa mang lại cho các tín hữu ấy niềm hy vọng và vui tươi: đó là niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng từ bi và tình thương được mạc khải trong Đức Giêsu Kitô. Sự chia sẻ ấy không phải chỉ hệ tại ở việc biểu lộ đức tin một cách tỏ tường, nhưng còn hệ tại chứng tá, nghĩa là qua cách thức ta thông truyền “những chọn lựa, những sở thích, phán đoán, phù hợp sâu xa với Tin Mừng, cho dù ta không minh nhiên nói về Tin Mừng” (Sứ điệp Ngày Thế giới truyền thông xã hội 2011).

Một cách làm chứng tá có ý nghĩa đặc biệt, đó là khao khát trao ban chính mình cho tha nhân qua thái độ sẵn sàng can dự vào những vấn nạn và những nghi ngờ của tha nhân, trong thái độ kiên nhẫn và tôn trọng, trên hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống. Cuộc đối thoại ngày càng gia tăng về đức tin và tín ngưỡng trên các mạng xã hội xác nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc thảo luận công khai và trong đời sống xã hội.

Đối với những ai đón nhận món quà đức tin với trái tim rộng mở, câu trả lời triệt để nhất cho các vấn nạn của con người về tình yêu, chân lý và ý nghĩa cuộc sống – những vấn nạn chắc chắn không thể vắng bóng trong các mạng xã hội – được tìm thấy nơi con người Đức Giê-su Kitô. Đó là một điều tự nhiên khi những người có đức tin khao khát chia sẻ, với thái độ tôn trọng và lịch sự, với những ai mà họ gặp trên diễn đàn kỹ thuật số. Tuy nhiên, một cách tối hậu, nếu như những nỗ lực chia sẻ Tin Mừng của chúng ta trổ sinh hoa trái đó là vì quyền năng Lời của Thiên Chúa tự nó đã đụng chạm đến con tim của tha nhân, trước bất kỳ nỗ lực nào của ta. Niềm tín thác nơi hoạt động quyền năng của Thiên Chúa luôn phải vượt lên trên mọi cậy dựa vào việc sử dụng các phương thế của nhân loại. Cả trong lãnh vực kỹ thuật số, trong đó người ta dễ gióng lên những tiếng nói gay go và xung đột, nơi mà chủ nghĩa duy cảm có nguy cơ lấn át, chúng ta được mời gọi lưu tâm để phân định. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy nhớ lại rằng, ngôn sứ Isaia nhận ra tiếng Chúa không phải trong gió to bão lớn, không phải trong động đất hay lửa, nhưng trong “tiếng gió hiu hiu” (1Cv 19,11-12). Chúng ta cần phải tin rằng, khao khát nền tảng của con người là yêu, được yêu, tìm thấy ý nghĩa và chân lý – một khao khát mà chính Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim của mỗi người nam và người nữ – khao khát đó khiến cho con người của thời đại không ngừng mở ra với điều mà Chân phước Hồng y Newman gọi là “ánh sáng đức tin tốt lành.”

Các mạng lưới truyền thông xã hội, ngoài việc trở nên một phương tiện của truyền bá Phúc Âm, còn là một yếu tố trong sự phát triển của con người. Ví dụ, ở những nơi mà vì bối cảnh địa lý và văn hóa các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng truyền thông xã hội có thể củng cố cảm thức thuộc về cộng đoàn hoàn vũ của các tín hữu. Các mạng lưới truyền thông có thể làm cho việc chia sẻ các nguồn mạch về linh đạo và phụng vụ diễn ra một cách dễ dàng, giúp mọi người cảm thấy gần gũi hơn với những người chia sẻ cùng niềm tin trong khi cầu nguyện. Một sự dấn thân chân thực và có tính tương tác với câu hỏi và vấn nạn của những người đang ở xa đức tin làm cho chúng ta nhận thấy nhu cầu cần phải nuôi dưỡng, bằng cầu nguyện và phản tỉnh, đức tin của chúng ta trong sự hiện diện của Thiên Chúa cũng như trong việc thực hành đức ái: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Trong thế giới kỹ thuật số, có những mạng lưới xã hội giúp cho con người thời nay có cơ hội cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Thế nhưng, các mạng lưới này cũng mở ra cánh cửa cho các chiều kích khác của niềm tin. Nhờ vào những liên lạc ban đầu trên mạng, nhiều người khám phá ra tầm quan trọng của những cuộc gặp gỡ trực tiếp, kinh nghiệm của đời sống cộng đoàn và thậm chí là kinh nghiệm hành hương, những yếu tố quan trọng trong hành trình đức tin. Cần phải có sự thống nhất và nhất quán trong khi diễn tả đức tin và làm chứng cho Tin Mừng trong mọi thực tại mà chúng ta sống, cho dù đó là thể lý hay kỹ thuật số. Khi tìm cách làm cho Tin Mừng hiện diện trong môi trường kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người gặp gỡ nhau để cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi cụ thể như nhà thờ hoặc nhà nguyện… Khi chúng ta hiện diện với tha nhân, bằng bất cứ cách nào, chúng ta được mời gọi làm cho tha nhân nhận biết tình thương của Thiên Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất.

Tôi nguyện xin Thần Khí Thiên Chúa đồng hành với anh chị em và soi sáng cho anh chị em luôn mãi. Tôi cũng chân thành ban phép lành cho tất cả mọi người, ước gì anh chị em sẽ là những sứ giả và chứng nhân Tin Mừng đích thực: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).

Từ Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2013.
Đức Thánh Cha Biển Đức 16

Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ – Radio Vatican

Công bố 2 tự sắc của Đức Thánh Cha

Công bố 2 tự sắc của Đức Thánh Cha

VATICAN. Hôm 25- tháng -2013, ĐTC qui định rằng từ nay việc Huấn giáo thuộc thẩm quyền của Hội đồng Tòa Thánh cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng, thay vì thuộc Bộ giáo sĩ, và bù lại các chủng viện từ nay thuộc thẩm quyền của Bộ giáo sĩ, thay vì thuộc Bộ Giáo dục Công Giáo.
Hai qui định trên đây được ĐTC trình bày trong hai tự sắc tên là ”Fides per doctrinam” (Đức tin nhờ đạo lý), và ”Ministrorum institutio” (Việc đào tạo các thừa tác viên). Hai văn kiện pháp lý này thay đổi những điều liên hệ thuộc Tông hiến Pastor bonus (Mục Tử Nhân Lành), về việc cải tổ Giáo triều Roma ban hành năm 1988.
Hai tự sắc trên đây bắt đầu có hiệu lực 15 ngày sau khi đăng trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, tức là từ ngày 10 tháng 2-2013 tới đây

Tự sắc Fides per doctrinam

Trong phần dẫn nhập Tự Sắc này, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo lý: ”Đức tin cần được nâng đỡ nhờ một đạo lý có khả năng soi sáng tâm trí của các tín hữu. Thời điểm lịch sử đặc biệt chúng ta đang sống ngày nay, bị cuộc khủng hoảng bi thảm về đức tin, đòi phải có ý thức như thế để có thể đáp ứng những mong đợi lớn nảy sinh trong tâm hồn các tín hữu vì những vấn nạn mới đang gọi hỏi thế giới và Giáo Hội”.
ĐTC cũng nêu bật liên hệ giữa việc giảng dạy đức tin và rao giảng Tin Mừng. Ngài nhắc lại lời Vị Tôi Tớ Chúa Đức Phaolô 6 trong Tông Huấn ”Rao giảng Tin Mừng” (Evangelii nuntiandi): ”Một con đường không được lơ là trong việc rao giảng Tin Mừng là giảng dạy giáo lý. Sự hiểu biết, nhất là của các trẻ em và thiếu niên, cần học hỏi, nhờ việc giảng dạy giáo lý có hệ thống, về những dự kiện cơ bản, nội dung sinh động của chân lý mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho chúng ta và Giáo Hội đã tìm cách diễn tả ngày càng phong phú, qua dòng lịch sử dài của mình” (n.44, AAS 68 [1976], 34).
Trong phần các qui luật, ĐTC qui định rằng: từ nay, Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng có nhiệm vụ thăng tiến việc huấn giáo cho các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng; có thẩm quyền ban hành các qui luật thích hợp để việc giảng dạy giáo lý được thi hành thích hợp theo truyền thống của Giáo Hội; cứu xét và phê chuẩn các sách giáo lý và các tài liệu khác liên quan đến việc huấn giáo, với sự đồng ý của Bộ giáo lý đức tin.

Tự sắc ”Ministrorum institutio”

Sau khi trình bày tiến trình lịch sử và các lý do, ĐTC viết:
”Vì thế tôi thấy một điều thích hợp là ủy thác cho Bộ giáo sĩ nhiệm vụ thăng tiến và điều hành tất cả những gì liên quan tới việc huấn luyện, đời sống và sứ vụ của các LM và phó tế: từ việc mục vụ ơn gọi, tuyển chọn các ứng sinh lên thánh chức, kể cả việc huấn luyện nhân bản, tu sức, đạo lý và mục vụ cho các ứng sinh ấy trong các chủng viện và các trung tâm đào tạo các phó tế vĩnh viễn (Xc Can. 236,1), cũng như việc thường huấn cho họ, kể cả những điều kiện sinh sống và cách thức thi hành sứ vụ, lương bổng, bảo hiểm và an sinh xã hội”.
”Bộ giáo sĩ giúp các GM để trong các giáo phận của các vị các ơn gọi thừa tác viên thánh được vun trồng tối đa, và trong các chủng viện cần thiết lập và điều hành theo giáo luật, các chủng sinh được giáo dục thích hợp nhờ một sự huấn luyện vững chắc về mặt nhân bản cũng như tu đức, đạo lý và mục vụ” (Art. 94,1).
”Chú ý cảnh giác sao cho cuộc sống chung và việc cai quản các chủng viện hoàn toàn đáp ứng những đòi hỏi của việc đào tạo linh mục, và các bề trên, các giáo sư góp phần hết sức, bằng gương sống và đạo lý ngay thẳng, vào việc huấn luyện nhân cách của các thừa tác viên thánh” (Art. 94,2)
”Bộ có thẩm quyền thiết lập các chủng viện liên giáo phận và phê chuẩn qui chế của các cơ sở giáo dục này” (94,3) (SD 25-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP
– Radio Vatican

 

 

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Ngày 21 tháng 01 năm 2012 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và “phó tướng” Biden đã tuyên thệ nhậmchức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh “bộ đôi quyền lực”  này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này.Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden.(Antoine Nguyễn).

Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.

Tại quê  hương Nadaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". 

Trước đó  ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).

Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội…Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45)(x. ĐGM. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).

Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.


1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
 
“Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố…”. Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.

Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. 

Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). 

Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).


2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.

Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác. 

Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo:  “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40); “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu “được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy”. Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc “xức dầu”, được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.


3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
 
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” của Giáo Hội nữa.

Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.

Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).

Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). 

“Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương” (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình.

Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.

LM. Giuse Nguyễn hữu An

Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

  Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

Kính thưa quý ông bà anh chị em, các bạn trẻ thân mến. Mỗi một Chúa Nhật về, ai là người Kitô hữu thì tới nhà nhờ để tham dự thánh lễ hay nói đúng hơn là để cùng nhau dâng thánh lễ; Thánh lễ là một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô hiến tế trong thánh lễ. Trong thánh lễ chúng ta cùng chung lời catiếng hát với nhau, cùng nhau nghe Lời Chúa. Rồi ta có những cử chỉ như đứng lên, ngồi xuống, quỳ gối; phủ phục. Phải chăng đây là những điều đã có trong thời Cựu Ước, như sách Nơ-khe-mi-a chúng ta vừa mới nghe. Thầy thơ ký Esdras mở sách luật ra đọc, toàn dân đứng, khi nghe xong họ đáp.Amen! Amen! Rồi cúi mình phủ phục sát xuống đất.

     Trong thánh lễ chúng ta dâng, trung tâm và cao điểm làkhi linh mục đọc lời truyền phép. Qua lời truyền phép; bánh trở nên Mình Thánh Chúa và rượu trở nên Máu Thánh Chúa đích thực, không một chút hồ nghi. Nếu ngày xưa khi nghe đọc Sách Luật mà dân chúng còn cúi rạp xuống đất tỏ lòng cung kính, thì phương chi bây giờ, khi linh mục cầm Mình Thánh và Chén Máu Thánh Chúa đưa lên cao cho mọi người chiêm ngưỡng lẽ nào ta lại có thái độ nghênh ngang, coi thường. Thế mà, trong thực tế có những người vẫn nghênh ngang coi như không có gì là linh thiêng, là đáng suy tôn, kính thờ.

     Trong bài đọc 2, Thánh Phaolo đã tài tình khéo léo áp dụng những hình ảnh cụ thể qua các bộ phận nơi thân thể  con người. Trong một thân thể, có nhiều chi thể khác nhau, mỗi chi thể có một chức năng khác nhau; khác nhau nhưng không chống đối nhau; trái lại, mỗi chi thể có một sự tương quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau, và cũng không có chuyện loại trừ nhau. Bởi đó, một chi thể đau thì các chi thể khác cũng đau, và ngược lại một chi thể được vinh, thì những chi thể khác cũng được hưởng nhờ. Qua hình ảnh đó, thánh nhân muốn cho ta thấy mỗi một người như là một chi thể trong thân mình của Đức kitô. Cho nên, để thân mình Đức Kitô là Giáo Hội Mẹ được lớn mạnh, không tì ố, không vết nhăn nheo thì, mọi thành phần, mọi đoàn thể, mọi  giáo xứ, mọi Giáo Hội địa phương cần phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau, hổ trợ cho nhau, có như thế thì thân thể là Giáo Hội Mẹ mới được khoẻ mạnh. Đây là bài học rất thiết thực cho mọi người, mọi gia đình và mọi hội đoàn, đoàn thể trong giáo xứ chúng ta, nếu áp dụng được bài học các chi thể trong một thân thể thì phúc cho mỗi người, phúc cho mỗi gia đình và phúc cho các hội đoàn và cho cả giáo xứ.
 
     Còn bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu trở về quê hương để ban bố hồng ân của Thiên Chúa nơi quê hương của Ngài. Với bài giảng đầu tiên ở quê nhà tại hội đường, Ngài lấy lại đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia chương 61,1-2: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. Với đoạn Kinh Thánh này, các luật sĩ, các thầy tư tế đọc cho dân chúng nghe không biết bao nhiêu lần; nhưng hôm nay Chúa Giêsu cũng đọc lại đoạn sách này. Đọc xong, với cửcủa Chúa Giêsu là: gấp sách lại- đưa cho người giúp việc- rồi Người ngồi xuống- mọi người chăm chú nhìn Người- Người bắt đầu nói: Hôm nay đãứng nghiệm lời kinh thánh quí vị vừa nghe”. Chỉ thế thôi, thế mà: “Mọi người thán phục những lời hay ýđẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Tại sao vậy, nếu không phải là Ngài giảng dạy như Đấng có quyền chứ không như các luật sĩ.Chúa Giêsu muốn xác minh cho mọi người biết là đoạn Kinh Thánh này ứng nghiệm vào Ngài, chứ không phải ở một một nào khác. Chúa Giêsu biết Ngài công bố sự thật này, người ta sẽ không chấp nhận, nhất là tại nơi quê hương của Ngài. Quả thật, người đồng hương của Ngài tuy là khâm phục, khen ngợi nhưng liền sau đó họ chống đối, nên Chúa Giêsu phải lên tiếng một cách thật đau lòng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Lẽ ra, quê hương của Ngài sẽđược nhận các ân huệ của Thiên Chúa nhiều hơn bất cứ nơi nào.Nhưng, tiếc thay họ lại không được, bởi họ nhìn Chúa Giêsu qua lăng kính chỉ là một con người bình thường như bao người khác.Họ tưởng rằng họ đã nắm bắt được tông tích lai lịch của Chúa Giêsu, nên không cần phải hiểu thêm gì về Ngài nữa.
 
     Kính thưa qúi ông bà anh chị em, cơn bệnh nơi con người xưa cũng như nay là, một khi đãcó định kiến về một ai đó thì suốt đời người đó chẳng có gì hay đối với kẻ định kiến; trong khi những người khác khâm phục, kính nể. Rồi một cơn bệnh nữa cũng nguy hiểm, đó là bệnh lầm tưởng, nghĩa là, khi cho rằng mình nắm bắt được tất cả rồi, nên chẳng cần tìm hiểu gì nữa. Chẳng hạn, khi ta học thuộc giáo lý xưng tội rước lễ, thêm sức hay biết được một vài đoạn Kinh Thánh và cho thế là nắm bắt được toàn bộ về Chúa rồi, thành thử không cần phải tìm hiểu,đào sâu thêm; cho nên không lạ gì, ngày này qua ngày nọ, năm này tới năm kia ta đọc biết bao nhiêu lần kinh, nghe đi nghe lại cũng đoạn Kinh Thánh đó, nhưng lòng ta vẫn không biến chuyển, không có chút rung cảm, nên nhàm chán, không thiết tha, không muốn tìm hiểu thêm, và như thế, ta không bao giờ tiến thêm được về đường thiêng liêng, về sự khao khát yêu mến Lời của Chúa. Bởi đó, chúng ta khó lòng mà có đời sống say mê Đức Kitô, kết hiệp với Đức Kitô từng giây phút trong cuộc sống của chúng ta như các Thánh được. Nên không lạ gì, khi có việc xẩy ra không vừa ý, thì có những thái độ như người Do-thái xưa; hồ hởi, phấn khởi đó, nhưng ngay sau đó là sự chống đối vàmuốn tiêu diệt.
 
     Vậy hôm nay qua lời của Chúa mà chúng ta đã chia s với nhau, ước mong mỗi người có sự tha thiết và cung kính lời của Chúa như thái độ của dân Israel trong bài đọc 1 diễn tả. Rồi ta lại ý thức được mỗi một người đều có một sự liên đới với nhau chặt chẽ như các chi thể trong một cơ thể mà ta nghe trong bài đọc 2. Khi ta hiểu và sống những điều trên là ta đang sống mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, mầu nhiệm tháp nhập chặt chẽ với Đức Kitô. Xin Chúa giúp chúng con sống được mầu nhiệm này. Amen.

Lm Phaolô Cao Thế Bình,SDD

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các tín hữu tích cực dấn thân trong các mạng xã hội, để chia sẻ Tin Mừng, niềm tin, vui mừng và hy vọng cho tha nhân.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp công bố hôm 24 tháng 1-2013, nhân dịp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47, sẽ được cử hành vào chúa nhật 12-5 tới đây với chủ đề ”Các mạng xã hội: những cánh cửa sự thật và đức tin; những không gian mới của việc rao giảng Tin Mừng”. Sứ điệp được công bố bằng 8 thứ tiếng, kể cả tiếng Arập.

ĐTC nhắc đến nhiều lợi ích cũng như những thách đố của các mạng xã hội và cả những khía cạnh tiêu cực khi chúng bị lạm dụng hoặc không sử dụng đúng đắn. Ngài viết thêm rằng:

”Các tín hữu ngày càng nhận thức rằng rõ nếu Tin Mừng không được phổ biến cả trong những môi trường kỹ thuật số, thì có thể sẽ vắng bóng trong kinh nghiệm của nhiều người, vốn coi không gian này của cuộc sống là điều quan trọng. Môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hoặc thuần túy tiền thể, nhưng là thành phần của thực tại thường nhật của nhiều người, nhất là của giới trẻ”.

ĐTC nêu nhận xét: ”Đặc tính chân chính của các tín hữu trong các mạng xã hội được làm nổi bật nhờ sự chia sẻ nguồn mạch sâu xa mang lại cho các tín hữu ấy niềm hy vọng và và vui tươi: đó là niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng từ bi và tình thương được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Sự chia sẻ ấy không phải chỉ hệ tại biểu lộ đức tin một tỏ tường, nhưng còn hệ tại chứng tá, nghĩa là qua cách thức ta thông truyền ”những chọn lựa, những sở thích, phán đoán, phù hợp sâu xa với Tin Mừng, cho dù ta không minh nhiên nói về Tin Mừng” (Sứ điệp Ngày Thế giới truyền thông xã hội 2011).

ĐTC giải thích rằng ”Một cách làm chứng tá có ý nghĩa đặc biệt, đó là ý chí hiến thân cho tha nhân qua thái độ sẵn sàng can dự vào những câu hỏi và những nghi ngờ của tha nhân, trong thái độ kiên nhẫn và tôn trọng, trên hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống. Sự nảy sinh trong các mạng xã hội cuộc đối thoại về đức tin và tín ngưỡng xác nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc thảo luận công khai trong xã hội”.

ĐTC nhắc nhủ rằng ”Niềm tín thác nơi hoạt động quyền năng của Thiên Chúa luôn phải vượt lên trên sự cậy dựa vào việc sử dụng các phương thế của con người. Cả trong lãnh vực kỹ thuật số, trong đó người ta dễ gióng lên những tiếng nói gay go và xung đột, và nhiều khi những gì là giật gân có nguy cơ lấn át, chúng ta được kêu gọi thực thi chú ý phân định”.

Cũng trong Sứ điệp ĐTC đề cao các mạng xã hội, không những như một dụng cụ rao giảng Tin Mừng, nhưng còn có thể là một yếu tố giúp phát triển con người, củng cố tình đoàn kết và cảm thức thuộc về cộng đoàn hoàn vũ của các tín hữu. Các mạng ấy cũng giúp chia sẻ các nguồn linh đạo và phụng vụ, giúp con người cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa, và dẫn tới cả những cuộc gặp gỡ trực tiếp với nhau. ĐTC viết: ”Khi tìm cách làm cho Tin Mừng hiện diện trong môi trường kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi con người sống những cuộc gặp gỡ cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi cụ thể như nhà thờ hoặc nhà nguyện… Khi chúng ta hiện diện với tha nhân, bằng bất cứ cách nào, chúng ta được mời gọi làm cho tha nhân biết tình thương của Thiên Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất” (SD 24-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican