Cuộc chiến đấu chống hôn nhân đồng phái tại Pháp

Cuộc chiến đấu chống hôn nhân đồng phái tại Pháp

Phỏng vấn ông Antoine Renard, Chủ tịch Liên minh các hiệp hội gia đình công giáo Pháp

Trong các ngày qua tình hình tại Pháp sôi động với các cuộc biểu tình chống dự luật hôn nhân đồng phái, liên tục diễn ra trong nhiều thành phố khắp nước. Ngày Chúa Nhật 21 tháng 4-2013 đã có 230,000 người biểu tình trong thủ đô Paris. Sau khi thách thức thái độ châm biến của giới truyền thông phò dự luật hôn nhân đồng phái của chính quyền đảng xã hội, các lực lượng biểu tình thuộc nhiều hiệp hội và giai tầng xã hội khác nhau nhất quyết ”ăn thua đủ” với tổng thống François Hollande. Theo kết qủa của một cuộc thăm dò dư luận mới đây đàng sau phong trào ”Biểu tình cho tất cả” có 55% tổng số dân Pháp không chấp nhận luật cho phép hôn nhân đồng phái và quyền nhận con nuôi.

Từ mấy tháng qua uy tín của tổng thống Hollande và của đảng xã hội đã ”xuống dốc không phanh” vì các vụ tai tiếng gian tham hối lộ và bất lực trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh cũng như nạn thất nghiệp trong nước khiến cho người dân Pháp vô cùng bất mãn. Dân chúng cho rằng chính quyền mất thời giờ cho hôn nhân đồng phải và quyền nhận nuôi con của họ là những chuyện ”trời ơi đất hỡi”, mà không muốn nghiêm chỉnh lo cho các vấn đề cấp bách hơn nhiều đối với hạnh phúc của đa số dân như công ăn việc làm và tình trạng kinh tế suy thoái, đang khiến cho cuộc sống của dân chúng vô cùng khốn đốn.

Trong các cuộc biểu tình tuần qua ban đầu tại Nantes, là quê sinh của thủ tướng Jean Marc Ayrault, và sau đó tại Versailles và Paris, các người biểu tình đã hô to các khẩu hiệu sống sượng như: ”Hollande phát xít, độc tài xã hội”. Tại Paris và nhiều thành phố khác đã xảy ra các vụ tấn kích tập thể ngoạn mục của các nhóm thanh niên chống hôn nhân đồng phái gọi là ”Hommen”. Chúng chứng minh cho thấy đây là các nhóm có tổ chức chặt chẽ và có các hành động cương quyết bất ngờ. Họ đeo các mặt nạ trắng có vẽ các giọt lệ, khóc cho tình trạng luân lý xã hội suy đồi, hay biểu tượng bị bịt miệng, mình trần với các hàng chữ mầu đen và các biểu tượng của phong trào chủ hòa và các khẩu hiệu bênh vực ”quyền của các trẻ em”. Các nhóm Hommen mặc quần Jean nhiều mầu từ đỏ tới xanh, và thường hành động theo nhóm từ 20 tới 80 người. Họ chiếm các quảng trường hay các trực đại lộ, dùng khói mầu và xích chân tay vào các đài kỷ niệm, hát quốc ca Pháp và hô các khẩu hiệu chống hôn nhân đồng phái, bảo vệ gia đình truyến thống, và quyền của các trẻ em được giáo dục bởi cha mẹ. Hành động táo bạo nhất là ngày 15-4-2013 một nhóm khoảng 30 người đã xích tay nhau chặn đường Rivoli gần quảng trường Vendôme nơi có bộ Tư Pháp, và ngăn chặn lưu thông trong giờ cao điểm nhất.

Ngày 16 tháng 4-2013 Phong trào ”Biểu tình cho mọi người” kêu gọi dân chúng tiếp tục phản đối, liên tục vào mỗi buổi chiều cho tới tối mịt, nhưng trong ôn hòa, bất bạo động. Năm dân biểu thuộc đảng tân Golíst đối lập đã không thể vào bàn giấy nằm cạnh trụ sở quốc hội, vì hàng rào đầy đặc cảnh sát bị dân chúng bao vây bên ngoài. Môt trong các dân biểu là ông Damien Meslot đã tố cáo việc huy động lực lượng an ninh qúa đông đảo không tương xứng với thái độ hòa hoãn của các đoàn người biểu tình. Tuy kêu gọi dân chúng bình tĩnh, nhưng phong trào đã không tha thứ cho chính quyền vụ bắt giữ 200 người biểu tình trong các ngày qua, đôi khi chỉ vì họ mang huy hiệu của phong trào. Ngoài ra, phong trào đã mạnh mẽ tố cáo vài nhân viên cảnh sát không mang huy hiệu trà trộn vào đám đông, cố ý gây ra các hành động bạo lực để có cớ bắt các người biểu tình. Tổ chức bảo vệ các trẻ em Pháp báo động rằng ”nền dân chủ tại Pháp đang lâm nguy” vì các hành động đàn áp của chính quyền đảng xã hội. Chiều ngày 17 tháng 4-2013 Quốc hội đã bắt đầu thảo luận dự luật hôn nhân đồng phái. Phe đối lập có ý đưa ra 700 khoản tu chính, nhưng chính quyền áp đặt việc thảo luận nội trong 25 giờ đồng hồ. Lý do vì tổng thống Hollande muốn quốc hội bỏ phiều thông qua dự luật vào ngày 23 tháng 4-2013. Và đa số dân biểu xã hội theo lập trường này. Tuy nhiên, bầu khí xã hội tại Pháp càng lúc càng căng thẳng, đến độ nguyên thủ tướng Jean Pierre Raffarin đã báo động trên đài phát thanh là nước Pháp đang có nguy cơ sống lại bầu khí xã hội nổi loạn hồi tháng 5 năm 1968. Ông nói: ”Chúng ta hãy nhìn rõ một sự đe đọa hỗn loạn trong nước. Nếu sự giận đữ của các nghiệp đoàn đạt tột đỉnh cộng với sự giận dữ của phía xã hội, thì chúng ta sẽ ở trong một tình trạng mong manh rất lớn”. Sự kiện nghiêm trọng đó là dự luật hôn nhân đồng phái trái nghịch với Luật dân sự và hai thỏa hiệp quốc tế mà chính nước Pháp đã ký nhận. Dân biểu Hervé Mariton hứa là phe tân Golist sẽ tổ chức trưng cầu dân ý.

Do sáng kiến của thủ tướng Ayrault một phái đoàn của Phong trào Biểu tình cho mọi người đã được Bộ trưởng nội vụ Manuel Valls tiếp kiến. Nhưng chính quyền đảng xã hội không muốn thay đổi lập trường.

Hồi mùa hè năm 2012 Giáo Hội công giáo Pháp đã phát động ”Ngày toàn nước cầu nguyện”, và đã mạnh mẽ gây ý thức cho toàn dân trước các hậu qủa trầm trọng đe dọa gia đình và xã hội do dự luật này gây ra. Việc khước từ sự khác biệt như kiểu nhân bản nhận diện, và đặc biệt là sự khước từ phái tính khác nhau sẽ gây ra các hệ lụy trầm trọng trong cuộc sống gia đình, trong nền giáo dục và trong cuộc sống xã hội. Ngoài ra, sự kiện chính quyền đã tìm mọi cách để tránh né các cuộc thảo luận công cộng, cả trong tiến trình của quốc hội nữa, là bằng chứng cho thấy ý đồ đen tối của chính quyền đảng xã hội muốn tàn phá gia đình, là tế bào nền tảng của mọi xã hội lành mạnh.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị bài phỏng vấn ông Antoine Renard, Chủ tịch Liên minh các hiệp hội gia đình công giáo Pháp, kiêm phát ngôn viên phong trào ”Biểu tình cho mọi người”, về cuộc đấu tranh chống hôn nhân đồng phái tại Pháp hiện nay.

Hỏi: Thưa ông, ông và phong trào ”Biểu tình cho mọi người” có còn chờ đợi gì nơi chính qyuền và tổng thống Hollande nữa không?

Đáp: Tôi không còn chờ đợi gì nữa từ chính quyền, nhưng trái lại từ tổng thống thì tôi chờ đợi, vì ông có trách nhiệm luân lý và chính trị phải bảo đảm cho các cơ cấu, và từ các cơ cấu ấy giờ đây chúng tôi chờ đợi một bằng chứng của sự sáng suốt đối với dự luật hôn nhân đống phái và quyền nhận con nuôi.

Hỏi: Liên minh các hiệp hội gia đình công giáo Pháp đang sống giai đoan căng thẳng hiện nay ra sao?

Đáp: Người ta có cảm tưởng là đã thành công trong việc tạo ra được một biến cố đã chờ đợi từ lâu: đó là một phần ngày càng gia tăng trong dân chúng đã nói lên tiếng nói của họ, không phải để bênh vực các lợi lộc cá nhân, nhưng là để bênh vực các nguyên tắc, bênh vực xã hội và bênh vực tương lai của gia đình. Có sự hài lòng và niềm hy vọng lớn, nhưng cũng có sự giận dữ và một sự tước đoạt thực sự khi thấy chính quyền không muốn lắng nghe tiếng nói của chúng tôi.

Hỏi: Vậy bầu khí bên trong phong trào ”Biểu tình cho mọi người” hiện nay như thế nào, thưa ông?

Đáp: Trong khu tổng hành dinh của phong trào thì tâm tình nổi bật là sư thanh thản và cương quyết. Chúng tôi muốn tiếp tục tranh đấu trong sự hợp pháp hoàn toàn, vì ý thức rằng sức mạnh của phong trào là chính ở nơi thái độ bất bạo động và không hiếu chiến, tôn trọng và có khả năng lắng nghe.

Hỏi: Thưa ông Renard, có người nhắc tới các nguy cơ của khuynh hướng qúa khích có thể xảy ra, riêng ông thì ông nghĩ sao?

Đáp: Tôi tin rằng nguy cơ là từ phía chính quyền, và đây là điều rất gây âu lo và bận tâm. Chứ nguy cơ không có từ phía phong trào ”Biểu tình cho mọi người”, cả khi dĩ nhiên nếu không được lắng nghe, thì chúng tôi sẽ lên tiếng mạnh mẽ hơn nữa. Thế rồi đúng thật là có nhiều người trẻ đã dấn thân một cách tự phát trong phong trào lớn này, và họ là các thành phần dấn thân nhất. Họ có nguy cơ nghe theo các người lãnh đạo đang lên nhưng ít được linh hứng, nhưng trong phong trào ”Biểu tình cho mọi người” không có những người như thế. Ngoài ra, chúng tôi sẽ tiếp tục kêu gọi bình tĩnh.

Hỏi: Thế thì bên ngoài phong trào có nguy cơ bị lệch hướng hay không?

Đáp: Vâng, có, và đây là một nguy cơ thực, nhưng tôi xác tín rằng có vài nhóm sẽ không được dân chúng ủng hộ. Vả lại chính quyền có lỗi trong việc khiêu khích loại phản ứng như thế, với thái độ qúa khích của mình. Có các cá nhân riêng rẽ có thể ”bị cháy cánh”, nhưng tôi không tin là họ được người ta đi theo. Thế rồi từ phía chính quyền thật là vô trách nhiệm chiếu đèn trên các hiện tượng ngoài lề, cả khi đó là trò chơi cũ rích của quyền bính.

Hỏi: Ông có tin rằng đã có việc sử dụng không cân xứng các phương tiện cảnh sát và lực lượng an ninh để chống lại phong trào biểu tình cho mọi người hay không?

Đáp: Vâng, đó là điều rõ ràng là như thế. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng cả giới truyền thông cũng đã trở thành đồng lõa một cách kinh khủng của một chiến dịch nói xấu, xuyên tạc hoàn toàn bất công đối với chúng tôi.

Hỏi: Ông có cho rằng các tín hữu công giáo là một thành phần đáng kể, và hơn thế nữa họ chiếm đa số trong phong trào này hay không?

Đáp: Vâng, tôi tin là như thế. Và đó là bằng chứng cho thấy rằng, mặc dù việc thực hành đạo có sút giảm, nhưng tại Pháp vẫn còn có một nền văn hóa Kitô sâu xa đang tỉnh dậy.

(Avvenire 16.18-4-2013)

Linh Tiến KhảiVatican Radio

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố phúc trình thường niên về nhân quyền VN

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố phúc trình thường niên về nhân quyền VN

RFA 20.04.2013

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chiều hôm qua cho công bố phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Theo phúc trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì tình hình nhân quyền tại Việt Nam trong năm qua xấu đi. Cơ quan chức năng hạn chế quyền tự do bày tỏ ý kiến, thông qua những qui định luật pháp mơ hồ về an ninh quốc gia để bỏ tù những người bất đồng chính kiến, sách nhiễu những người hoạt động và gia đình của họ. Tất cả những việc làm đó của cơ quan chức năng Việt Nam bất chấp yêu cầu tinh thần pháp trị.

Chính quyền Việt Nam tiếp tục hạn chế các quyền chính trị của công dân, đặc biệt quyền thay đổi chính phủ. Rồi giới hạn thêm nữa những quyền tư riêng và quyền bày tỏ ý kiến; trong đó có các cơ quan truyền thông, quyền tập họp, lập hội và quyền đi lại.

Những quyền như thế trên mạng cũng bị hạn chế. Chính quyền tiếp tục có can dự vào những vụ tấn công nhắm đến những trang chủ phê phán. Chính quyền tiếp tục theo dõi, xử phạt, bắt giữ và kết án những bloggers bất đồng chính kiến; gồm luật sư Lê Quốc Quân, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Anh BaSG Phan Thanh Hải, Đinh Đăng Định và nhiều người khác.

Quyền tự do tôn giáo tiếp tục là đối tượng bị diễn giải và bảo vệ không đồng nhất gây nên những vấn đề không dứt, đặc biệt ở cấp tỉnh và cấp địa phương xã phường. Chính quyền giới hạn quyền tự do lập hội của công nhân bằng cách không cho thành lập công đoàn độc lập, cũng như không thực thi hiệu quả các điều kiện làm việc an toàn cho họ.

TA ĐÃ YÊU CON BẰNG MỐI TÌNH MUÔN THƯỞ!

TA ĐÃ YÊU CON BẰNG MỐI TÌNH MUÔN THƯỞ!

… Câu chuyện ơn gọi tu dòng của con có thể so sánh với dụ ngôn Vị Mục Tử nhân lành để chín mươi chín (99) con chiên ngoài đồng hoang để đi tìm cho kỳ được một (1) con chiên bị mất (Luca 15,4). Con chiên lạc mất này chính là con!

Con là trưởng nữ trong gia đình Công Giáo có 5 người con. Ngay từ thơ bé Đức Mẹ MARIA đã canh giữ con cũng như gia đình con. Thân mẫu con rất chú trọng việc giáo dục con cái. Đặc biệt mẹ con để ý cách riêng đến con và em gái con. Cho dầu song thân không thường xuyên lãnh nhận các bí tích, các ngài vẫn biết thông truyền cho con cái các nguyên tắc thánh thiêng nòng cốt và bất khả xâm phạm.

Như con vừa nói, Đức Mẹ MARIA canh giữ con ngay từ thời thơ bé. Thật thế, năm 12 tuổi con theo học nơi trường các nữ tu Salésien, núp bóng thánh Gioan Bosco (1815-1888) và thánh Phanxicô đệ Sales (1567-1622). Tuy nhiên, dầu lớn lên trong bầu khí đạo đức con vẫn thích sống như bao thiếu nữ đồng lứa tuổi. Con ham chơi, yêu đời và chạy theo các bóng hình giả-trá phù-du của thế gian. Từ năm 15 đến 20 tuổi là khoảng thời gian trôi-nổi đẩy-đưa nhất của quãng đời thanh xuân. Con líu-lo nhí-nhảnh với bạn bè. Con có tất cả những gì con ưa thích. Cha mẹ con không hề để con thiếu thốn bất cứ thứ gì: ăn mặc hợp thời trang, dư giả tiền của, tự do học hành và đi đây đi đó. Con cũng có sắc đẹp kha-khá nên thường được người đời tấm-tắc ngợi khen.

Nói tóm lại, con nắm trong tay mọi ước mơ trần thế, vậy mà nội tâm con vẫn bất ổn không vui. Vào những lúc ngồi thinh lặng suy tư một mình, con hướng tâm hồn lên với Chúa. Con tin nơi THIÊN CHÚA, nhưng không bao giờ nghĩ rằng THIÊN CHÚA có thể can dự vào cuộc đời con. Do đó, mặc dầu lớn lên cạnh các nữ tu, nếu thỉnh thoảng trong con có lảng-vảng tư tưởng đi tu liền bị con tức khắc gạt ngang! Con nhất quyết không muốn trở thành nữ tu!

Thời gian tuần tự trôi qua trong cuộc sống bình thường. Cho đến một ngày Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trực tiếp can thiệp. Mẹ siết chặt con vào lòng Mẹ và đưa con đến với Đức Chúa GIÊSU. Hôm ấy là 30-4-2001. Đó là ngày các nữ tu Phan-Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm đi vào cuộc đời con và làm đảo lộn tất cả. Câu chuyện diễn tiến như sau.

Hôm ấy thân mẫu con nhất quyết đưa hai chị em con đến nhà Dì con để tham dự buổi họp mặt cầu nguyện chung. Cũng có sự hiện diện của các nữ tu Phan-Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Thoạt trông thấy Các Chị còn trẻ và đoan trang trong chiếc áo dòng màu xanh-xám nhẹ, không hiểu sao lòng con bỗng xúc động bồi hồi. Con thắc mắc tự hỏi tại sao? Tại sao ư? Con không biết nữa! Chỉ biết rằng kể từ ngày đáng ghi nhớ ấy, con không bao giờ quên những nét mặt tươi vui xuân trẻ trong trắng ấy! Và kể từ sau lần gặp gỡ đầu tiên này, hai chị em con rất thích tham dự các buổi họp mặt cầu nguyện chung như thế.

Riêng con, vẫn còn những tâm tình ngỗn-ngang trái ngược nhau. Một đàng con lo lắng tự hỏi: ”Phải chăng mình có ơn gọi tu dòng?” Đàng khác, mỗi khi tư tưởng đi tu xuất hiện, con cương quyết đẩy xa, y như thể đó là tư tưởng kéo theo chuyện không lành! Con khẳng khái từ chối. Con cương quyết khẳng định: ”Không! Không thể được!” Thế nhưng cùng lúc ấy, tiếng Đức Chúa GIÊSU gọi mời trong con mỗi ngày một rõ ràng hơn, một mãnh liệt thúc bách hơn. Con gần như không thể nào chống cự lại được. Còn đang phân vân không biết phải xử sự ra sao thì một sự kiện khác xảy ra làm rung chuyển cuộc đời con.

Đó là chuyện em gái con. Hai chị em con thương nhau đậm đà thắm thiết. Chúng con luôn khắng khít và hòa hợp trong mối dây ràng buộc tinh thần. Bỗng chốc, em con quyết định từ bỏ tất cả để gia nhập dòng các Nữ Tu Phan Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Giờ đây chỉ còn lại mình con đơn độc nơi gia đình. Tình huống thật éo le. Một bên tiếng Chúa gọi con thúc bách ra đi. Bên kia gia đình con còn đang đau đớn vì cuộc ra đi của em gái con. Con không nỡ gây thêm một vết thương nữa trong trái tim còn ”nưng-mủ” của Ba Má con.

Thêm vào đó vẫn còn có sự kiện trái nghịch diễn tiến trong nội tâm con. Một đàng em gái con đã vào tu nơi Cộng Đoàn Các Nữ Phan-Sinh Vô Nhiễm, đàng khác con vẫn tiếp tục có những tâm tình chống đối mỗi khi nghĩ về các nữ tu hoặc tư tưởng muốn chọn nếp sống tu trì. Chỉ có điều hơi khác là bây giờ con nghĩ rằng em con và con được Đức Chúa GIÊSU yêu dấu cách riêng. Ngoài ra Đức Mẹ MARIA vẫn tiếp tục canh giữ cuộc đời con. Đức Mẹ ban thêm sức mạnh để con sẵn sàng từ bỏ thế gian và gia đình.

Hai năm trôi qua kể từ ngày em gái con đi tu. Gia đình con giờ đây đã đủ sức tiếp nhận một tin mới khác. Con nhớ rõ hôm ấy là ngày 23-9, ngày lễ kính Cha thánh Pio thành Pietrelcina (1887-1968), con trịnh trọng báo cho gia đình biết quyết định chọn nếp sống tu dòng. Mọi người ngỡ ngàng đau đớn. Nhưng tất cả cúi đầu chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA. Rồi đến ngày 4-10, lễ kính thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226), Ba Má con lập lại cử chỉ dâng hiến đứa con gái thứ hai cho THIÊN CHÚA. Ba Má con can đảm để con tự do từ giã thế gian đi theo tiếng gọi của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng là Chủ Tể mọi chân-thiện-mỹ.

Giờ đây con là nữ tu Phan-Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Con ước ao trở thành chiếc bánh bé nhỏ của đau thương và của tình yêu trong bàn tay dấu ái của Đức Mẹ MARIA Vô Nhiễm để góp phần cứu rỗi các linh hồn.

(Chứng từ của Dì Phước Maria Catarina, người Ý).

… Từ xa THIÊN CHÚA đã hiện ra với tôi và phán: ”Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thưở, nên Ta vẫn dành cho con lòng xót thương. Ta sẽ lại xây con lên và con sẽ được xây lại, hỡi trinh nữ Israel. Con sẽ lại nên xinh đẹp; với những chiếc trống cơm, con sẽ xuất hiện giữa đám nhảy múa tưng bừng. Con sẽ trồng nho lại trên núi đồi Samari; những kẻ trồng cây sẽ trồng cây và được hưởng hoa lợi. Vì có ngày trên núi Ép-ra-im người canh gác sẽ hô lớn: ”Đứng lên nào, chúng ta lên Sion, đến cùng THIÊN CHÚA chúng ta!” (Giêrêmia 31,3-6).

(”Immacolata Mia”, n.10, Dicembre/2006 + n.1 Gennaio/2007, trang 14-15)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi: Đức Thánh Cha Phanxicô Phong Chức Linh Mục Cho 10 Thầy Phó Tế

Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi: Đức Thánh Cha Phanxicô Phong Chức Linh Mục Cho 10 Thầy Phó Tế

VATICAN. Vào lúc 9h30 sáng ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, cũng là Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 50, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ phong chức linh mục cho 10 thầy phó tế, trong đó có 2 thầy người Ấn độ, một thầy người Argentina, một thầy người Croatia và 6 thầy còn lại là người Ý.
Đồng tế với ĐTC có ĐHY Giám quản Agostino Vallini, các Giám mục, và các bề trên liên quan đến các tiến chức.

Nghi thức truyền chức bắt đầu sau bài Phúc Âm. Thầy Phó Tế được ủy nhiệm lần lượt điểm danh 10 tiến chức và ĐHY Giám quản xin ĐTC truyền chức linh mục cho các thầy.
Sau nghi thức giới thiệu, ĐTC đã diễn giảng ý nghĩa của việc phong chức linh mục và nhiệm vụ của các linh mục trong việc xây dựng Giáo hội là Hiền Thê của Chúa Kitô. Sau đây là lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiện diện.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

“Anh em biết rõ rằng Đức Giêsu là tư tế Tối Cao Duy nhất của Tân ước, nhưng nơi Ngài tất cả dân thánh của Thiên Chúa được trở thành dân tư tế. Dầu vậy, trong số các môn đệ của mình, Đức Giêsu muốn chọn đặc biệt một số người, để ngang qua việc thực thi một cách công khai chức vụ tư tế trong Giáo hội vì lợi ích của con người, họ sẽ tiếp tục sứ mạng của Ngài như là thầy, tư tế và mục tử.
Thực vậy, Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đi như thế nào, thì đến lượt mình, Ngài cũng sai vào thế giới trước hết là các tông đồ, rồi đến các giám mục và các cộng sự của họ, và cuối cùng là những cộng tác viên, các linh mục – những người nối kết với các giám mục trong chức vụ tư tế – để phục vụ dân Chúa như vậy.
Sau khi phản tỉnh và cầu nguyện đầy đủ, giờ đây chúng ta hiện diện nơi đây để phong chức linh mục cho những người anh em của mình để nhờ việc phục vụ Đức Kitô, là Thầy, Tư tế và Mục tử, họ sẽ lao tác và xây dựng Thân Thể Chúa Kitô là Giáo hội nơi dân Thiên Chúa và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Họ sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Tư tế Tối cao và đời đời, nghĩa là họ sẽ được thánh hiến để trở thành các tư tế đích thực của Tân Ước và qua tước hiệu này, họ sẽ được nối kết với các giám mục của họ trong chức vụ tư tế. Họ sẽ là những nhà truyền giảng Tin Mừng, mục tử Dân Thiên Chúa và chủ sự các nghi lễ phụng vụ, đặc biệt là trong việc của hành sự hiến tế của Thiên Chúa.”

Kế đến Đức Thánh Cha nhắc nhở các tiến chức sứ mạng của mình, là Mục tử của Dân Thiên Chúa. Ngài nói:

“Anh em sẽ được phong chức linh mục, anh em hãy nhớ rằng ngang qua việc thực thi thừa tác vụ về Giáo thuyết thánh, anh em được dự phần vào sức mạng của Đức Kitô, là Thầy Duy nhất. Hãy phân phát cho mọi người Lời Chúa mà chính anh em đã lãnh nhận trong niềm vui. Hãy nhớ đến cha mẹ, ông bà, các giáo lý viên, những người đã trao cho anh em lời Chúa, đức tin.. món quà Đức tin. Chính các vị ấy đã thông chuyển cho anh em món quà đức tin. Hãy đọc và năng suy niệm Lời Chúa, hãy tin những gì mình đã đọc, dạy những gì mình tin, và sống những gì mình dạy. Hãy nhớ rằng, Lời Chúa không phải là tài sản của anh em: là Lời của Thiên Chúa. Và Giáo hội là người bảo vệ Lời Chúa.

Vì thế, anh em hãy nuôi dưỡng Dân Chúa bằng giáo thuyết của mình, hãy nuôi dưỡng và trao cho các tín hữu niềm vui bằng hương thơm đời sống của anh em, để với lời và gương mẫu, anh em có thể xây ngôi nhà của Thiên Chúa, là Giáo hội. Anh em hãy tiếp tục những hành động thánh hiến của Đức Kitô. Nhờ vào thừa tác vụ của anh em, sự thánh hiến thiêng liêng của các tín hữu trở nên hoàn thiện. Vì qua bàn tay anh em, nhân danh toàn thể Giáo hội, sự thánh hiến của các tín hữu sẽ được kết hợp với sự thánh hiến của Đức Kitô, được dâng lên bàn thờ khi cử hành các Mầu Nhiệm Thánh. Hãy nhớ điều anh em sẽ làm. Bắt chước điều anh em cử hành, để nhờ vào việc dự phần vào mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Thiên Chúa, anh em mang lấy nơi chi thể mình cái chết của Đức Giêsu và bước đi với Ngài trong đời sống mới.
Với Bí tích rửa tội, anh em hãy giúp những người tân tòng gia nhập vào Dân Thiên Chúa. Nhờ bí tích Hòa giải, anh em hãy tha thứ tội lỗi nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội: Hôm nay, tôi mời gọi anh em, nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội, xin anh em đừng bao giờ mệt mỏi thương xót. Với dầu thánh, anh em hãy xoa dịu nổi đau của những người bệnh và người già: đừng ngại bày tỏ sự thắm thiết-dịu dàng đối với những người già. Ngang qua các cử hành phụng vụ thánh và việc tham dự các giờ kinh nguyện khác nhau trong ngày, anh em hãy trở thành tiếng nói của Dân Thiên Chúa và toàn thể con người.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc nhở các tiến chức rằng:

“Cuối cùng, bằng việc dự phần vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, là Đầu và Mục Tử, trong sự hiệp thông con thảo với giáo mục của mình, anh em hãy nỗ lực để giúp các tín hữu hiệp nhất với nhau trong một gia đình duy nhất, để dẫn họ đến với Thiên Chúa là Cha, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Hãy luôn giữ trước mắt anh em mẫu gương của vị Mục Tử Tốt Lành, Đấng đã tới không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, và Đấng đến để cứu những gì đã hư mất.”

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Thánh lễ kết thúc lúc 11h45, vào đúng 12h trưa, ĐTC Phanxicô đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới trời nắng đẹp. Nhắn nhủ với các tín hữu và khách hành hường, Đức Thánh Cha đã quãng diễn về ý nghĩa của lời Chúa trong ngày lễ Chúa Nhật thứ Tư Phục sinh. Ngài nói:

Anh chị em thân mến!
Hôm nay là Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh. Ngày Chúa Nhật này được đặc trưng bởi bài Phúc Âm nói về Vị Mục Tử Nhân Lành – trong chương X của Tin Mừng Gio-an – bài Phúc Âm này được đọc hằng năm. Đoạn Tin Mừng của ngày hôm nay trình bày lại cho chúng ta những lời của Chúa Giê-su:
"Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi;
tôi biết chúng và chúng theo tôi.
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời;
không bao giờ chúng phải diệt vong
và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Cha tôi, Ðấng đã ban chúng cho tôi,
thì lớn hơn tất cả,
và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Tôi và Chúa Cha là một" (Ga 10, 27-30)

Bốn câu này hàm chứa tất cả sứ điệp của Chúa Giêsu: Ngài mời gọi chúng ta hãy thông dự vào trong mối tương quan của Ngài với Chúa Cha, và đây chính là sự sống đời đời.

Chúa Giêsu muốn thiết lập với các bạn hữu của Ngài một mối tương quan, phản ánh mối tương quan của chính Ngài đã có với Chúa Cha: một mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau trong niềm tín thác trọn vẹn và tình hiệp thông thắm thiết. Để diễn tả mối tương quan sâu đậm này, trình thuật Tin Mừng về mối tương quan tình bằng hữu của Chúa Giê-su đã dùng đến hình ảnh người mục tử với chiên của mình: người mục tử gọi chúng và chúng nhận ra tiếng của anh, chiên nghe tiếng gọi của chủ và theo chủ. Dụ ngôn này thật đẹp biết bao! Mầu nhiệm của tiếng gọi có tính gợi ý: ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ, chúng ta học biết nhận ra tiếng của mẹ và tiếng của cha; từ một cung điệu của lời được cất lên, chúng ta cảm nhận được sự yêu thương hay khinh miệt, yêu mến hay lạnh nhạt. Tiếng của Chúa Giêsu là độc nhất! Nếu chúng ta học để nhận ra được tiếng ấy, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta trên nẻo đường sự sống, một con đường băng qua vực thẳm của sự chết!

Tiếp đến Đức Thánh Cha khích lệ các bạn trẻ lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu và bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Ngài nói:

Mà Chúa Giê-su nói và ám chỉ đến các con chiên của mình: "Cha của tôi, Đấng đã trao chúng cho tôi…" (Ga 10,29). Đây là điều rất quan trọng, là một mầu nhiệm sâu xa, chẳng dễ hiểu chút nào: nếu như tôi cảm được sự hấp dẫn từ Chúa Giêsu, nếu như tiếng của Ngài sưởi ấm trái tim tôi, thì đó chính là ơn sủng từ Chúa Cha, Đấng đã đặt trong trí tim tôi khao khát tình yêu, chân lý, sự sống, và cái đẹp… và Đức Giêsu là tất cả những điều ấy trong sự trọn đầy!
Điều này giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm của ơn gọi, cách riêng là mầu nhiệm của tiếng gọi bước theo một sự thánh hiến đặc biệt. Đôi khi Đức Giêsu gọi chúng ta, mời chúng ta bước theo Ngài, nhưng có lẽ điều đó xảy ra mà chúng ta lại không nhận ra đó chính là Ngài, đúng như nó đã từng xảy ra với trẻ Samuel. Hôm nay, tại quảng trường này, có rất nhiều bạn trẻ. Cha muốn hỏi các con: có lúc nào đó các con cảm được tiếng của Đức Chúa, qua một ước muốn, một niềm thổn thức, mời gọi các con bước theo Ngài một cách gần gũi hơn không? Các con có muốn trở thành người tông đồ của Chúa Giê-su không?

Người trẻ cần đặt ước muốn ấy vào cuộc chơi cho những lý tưởng cao đẹp. Hãy hỏi Chúa Giêsu điều Ngài muốn và hãy can đảm lên! Trước và sau mỗi ơn gọi làm linh mục hoặc ơn gọi đời sống thánh hiến, vẫn luôn có những lời cầu nguyện mạnh mẽ và quyết liệt của một người nào đó, chẳng hạn như lời cầu của ông bà nội ngoại, của cha mẹ, của cộng đoàn… Quả thực Chúa Giê-su đã nói: "Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt – chính là Chúa Cha – sai thợ ra gặt lúa về!" (Mt 9,38). Ơn gọi được nảy sinh trong lời cầu nguyện và bởi lời cầu nguyện; và chỉ trong lời cầu nguyện mà thôi, những ơn gọi ấy mới được gìn giữ và trổ sinh hoa trái. Cha cũng muốn nhấn mạnh rằng hôm nay là "Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi". Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho các tân Linh Mục của Giáo Phận Rô-ma, là những người đã có niềm vui của việc thụ phong sáng nay. Và chúng ta hãy khẩn nài sự cầu bầu của Đức Maria, là Đức Mẹ của tiếng "Vâng". Mẹ đã học để biết nhận ra tiếng của Chúa Giêsu kể từ lúc Mẹ cưu mang Ngài trong bụng. Xin Đức Maria giúp chúng ta nhận ra tiếng của Giêsu tốt hơn và bước theo Ngài, để tiến bước trên con đường của sự sống!

Sau kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, ĐTC đã ban phép lành cho mọi người hiện diện tại quảng trường.

Sau đó ĐTC đã bày tỏ sự gần gũi đối với những gì đang diễn ra ở Venezuela, và Ngài hứa sẽ đồng hành với người dân nước này với tình yêu và lời cầu nguyện. Ngài hy vọng và mời gọi mọi người dân, đặc biệt là các chính trị gia và những người ra quyết định, hãy khước từ mọi hình thức bạo lực, và thiết lập cuộc đối thoại dựa trên chân lý và tôn trọng nhau trong nỗ lực tìm kiếm thiện ích chung cho đất nước. Ngài cũng yêu cầu các tín hữu cầu nguyện và lao tác cho sự hòa giải và hòa bình.
Kế đến, ĐTC cũng mời gọi mọi nhớ đến các nạn nhân đang bị ảnh hưởng bởi động đất ở Trung quốc. Ngài mời gọi mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân và những người phải gánh chịu đau khổ vì thiên tai này.

Nguyễn Minh Triệu SJ – Vatican Radio

Bể Bầu Tâm Sự – Ba Vui & Ba Buồn Ở Giáo Xứ

  Bể Bầu Tâm Sự – Ba Vui & Ba Buồn Ở Giáo Xứ

Trong ngày Chúa Nhật Linh Mục Priesthood Sunday 2012 vừa qua, tôi nhận được khá nhiều những thiệp chúc mừng từ anh chị em giáo dân, từ các thầy cô và các em học sinh thuộc trường Thánh Tôma Thiện.  Trong số đó có một tấm thiệp của một người trong giáo xứ hỏi tôi như thế này:  “Đi tu sướng hay khổ vậy cha?  Con thắc mắc là bởi vì lúc nào con cũng thấy cha cười rất tươi!”  Từ hôm đó đến nay, tôi chưa có cơ hội trả lời, hôm nay nhân ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành (Good Shepherd  Sunday), tôi xin trả lời cho người đã nêu lên thắc mắc và cũng là một dịp để “bể bầu tâm sự” cùng với quý cụ quý ông bà và anh chị em thuộc giáo xứ thánh Giuse, nơi tôi đã có duyên về đây phục vụ suốt gần 6 năm qua.

Giống như tất cả mọi người, giống như mọi ơn gọi khác, và theo quy luật tự nhiên, tôi cũng có lúc buồn, lúc vui, lúc up lúc down, lúc sốt sắng, lúc khô khan, có lúc cười và cũng có lúc khóc… Chứ chả có khi nào vui hoài hay buồn mãi cả!  Và dĩ nhiên tôi cũng chẳng khi nào sốt sắng và thánh thiện suốt bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông như có người tưởng!  Nhân vô thập toàn mà lại!

Đi tu sướng hay khổ?”  Dĩ nhiên câu trả lời của tôi sẽ là:  Ai bảo đi tu là khổ, đi tu sướng lắm chứ!” Nếu khổ thì tôi đâu còn trong đời tu trì cho đến hôm nay nữa!  Nhưng tôi xin mở một ngoặc đơn nhỏ ở đây!  Và xin thưa với anh chị em là sướng hay khổ là tự nơi mình mà thôi!  Nếu tôi và anh chị em bằng lòng với những gì Chúa đã và đang ban cho chúng ta, và chúng ta cố gắng tin tưởng phó thác vào Ngài trong mọi nơi, và trong mọi lúc, thì dù là đi tu hay lập gia đình, hoặc sống độc than “chỉ có mình ên” thì chúng ta là những người sung sướng, còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ đứng núi này trông núi nọ, không bao giờ bằng lòng với những ơn huệ của Chúa ban cho ta và tệ hơn nữa chẳng biết trông cậy và phó thác nơi Ngài, thì cuộc sống của chúng ta sẽ chỉ thấy Khờ ô khô hỏi khổ” mà thôi!
 
Nhân ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, tôi xin chia sẻ ba niềm vui lớn (large size) và ba cái khổ cỡ trung (medium size) mà tôi cảm nghiệm được trong những năm qua tại giáo xứ thánh Giuse này.
 
Đây là ba niềm vui lớn mà tôi cảm nhận được trong khi phục vụ quý ông bà và anh chị em:
  1. VUI NHẤT:  Số  người  đến  tham  dự thánh lễ trong những ngày thường (weekdays)  có chiều  hướng  gia  tăng, mỗi ngày đông hơn.  Từ con số 10-15 người  vào  năm  2007,  cho  đến  nay trung bình có khoảng 60-150 người đến tham dự các thánh lễ ngày thường, nhất là vào các thánh lễ vào tối thứ năm và tối thứ sáu hàng tuần.  Thứ năm và thứ sáu  đầu  tháng  thì còn  đông  hơn  nữa, nhất là trong mùa hè.  Điểm đáng chú ý là số người đến tham dự thánh lễ gồm đủ mọi giới, có già, có trẻ, có nam có nữ, có thanh thiếu niên, có những gia đình cả chồng vợ, con cái cùng đi với nhau rất đều đặn, và có cả những người đi làm  vất vả cả ngày  rồi nhưng  vẫn tranh  thủ  đến  tham  dự  thánh  lễ mỗi ngày.
  2. VUI NHÌ:  Từ ngày về giáo xứ này cho đến nay, tôi chưa lần nào phải lo nghĩ, phiền não hay lo lắng gì về vấn đề tiền bạc! Bà con trong và ngoài giáo xứ rất ư là quảng đại và rộng rãi đóng  góp  tài năng,  công  sức và của cải vật chất cho giáo xứ, và cho giáo phận. Nhờ vào sự rộng rãi và quảng đại của bà con cô bác mà tất cả mọi công việc lớn nhỏ đều đã diễn ra một cách bình an và thuận lợi!  Từ quỹ Đức Giám Mục cho đến quỹ bác ái mùa chay, cho đến quỹ xây dựng ngôi tân thánh đường … bà con  đã và đang  vui vẻ đóng  góp  cũng  như cộng tác rất tích cực với tôi trong những năm qua.
  3. VUI BA:  Tôi nhận được sự cộng tác rất tích cực từ mọi giới, các cụ, các ông, các bà, các chú bác, dì cô, các anh chị, các em thanh thiếu niên, các cháu thiếu nhi … Nhất là trong khi điều  hành  & theo  dõi công  trình  xây  dựng ngôi  thánh  đường,  quý  vị  trong  Ban  Xây Dựng, trong Hội Đồng Tài Chánh, trong Ban Thường Vụ, trong Hội Đồng Mục Vụ, và rất nhiều quý ân nhân, rất nhiều nhân tài đã phụ giúp và nâng đỡ tôi cả về mặt chuyên môn, về mặt tinh thần lẫn về mặt vật chất.  Có những vị ân nhân ở xa lắc xa lơ, chả có trách nhiệm hay  bổn  phận  gì với giáo  xứ này, nhưng vẫn quảng đại đóng góp cho ngôi tân thánh đường, và con số đóng góp của họ không phải là nhỏ.  Có những vị dâng cúng cả vài chục ngàn cho ngôi tân thánh đường chứ không phải là vài trăm.
Và đây là ba cái buồn medium size của tôi! Hơi buồn thôi chứ chưa đến nỗi buồn đến chết được đâu nhé!    
  1. BUỒN NHẤT:  Trong các giờ chầu Thánh Thể  vào  các  sáng  Chúa  Nhật,  chưa  có nhiều  người  hưởng  ứng  & tham  gia  cho lắm, hình như cứ hễ đến phiên hội đoàn của mình  phụ  trách  Giờ  Chầu  thì mình  mới tham dự, còn không phải đến phiên thì … xin miễn.  Mỗi chiều Chúa Nhật, từ 2-4 giờ chiều, tôi cố ý đặt Mình Thánh để quý vị phụ  huynh,  những  người  bận  rộn  đi làm trong tuần có cơ hội đến viếng Chúa và kín múc sức mạnh từ nơi Ngài qua Giờ Chầu Thánh Thể, nhưng tôi quan sát chỉ thấy có một số rất ít quý vị phụ huynh tham dự, quanh đi quẩn lại chỉ thấy một số thầy cô, các em trong Nhóm Thomas teens và các em học sinh mà thôi! 
  2. BUỒN NHÌ:  Tôi cầu nguyện mỗi ngày, trong mỗi thánh lễ, cầu suốt trong gần sáu năm trời nay mà chưa thấy có bạn trẻ nào dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì cả!  Kể cả việc mời gọi bà con tham gia Hội Bảo Trợ Ơn Gọi Nhà Chúa, để cầu nguyện và giúp đỡ cho nhà dòng của tôi trong việc đào tạo và huấn luyện chủng sinh & tu sĩ, để sau này giáo xứ thánh Giuse  có linh  mục  cử hành  các  bí tích,  nhưng  chả  thấy  có nhiều người hưởng ứng.  Đơn phát ra thì nhiều, nhưng nhận lại… chẳng có bao nhiêu !
  3. BUỒN BA:  Tôi vẫn còn nghe nói, trong các buổi hội họp, tiệc tùng, đọc kinh, khi ngồi lại với nhau, vẫn còn có người cứ hay đem người này kẻ nọ ra để làm đề tài chê bai, chỉ trích, dèm pha, nói hành nói xấu nhau, và có những khi đem cả các Giám Mục, các linh mục ở tận bên Việt Nam, và ở Grand Prairie này (tức là tôi!) đem lên bàn mổ, để mổ xẻ và phân tích từng li từng tí!  Tôi sợ chết oan lắm vì tôi biết rất rõ những người này chưa hề học ở trường thuốc nào ở Việt Nam cũng như ở Mỹ, và cũng chẳng có lai-xần, lai xiếc gì về mổ xẻ cả!  Ớn!    !
Hôm nay là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, xin anh chị em cầu nguyện và xin anh chị em giúp tôi ba việc nhỏ này:
  1. Tranh thủ, thu xếp để đến tham dự các giờ Chầu Thánh Thể, mỗi người cố gắng dành cho Chúa mỗi tuần 1 giờ đồng hồ. Anh chị em  sẽ thấy rất nhiều những ơn ích mà Chúa ban cho mình & gia đình anh chị em qua việc siêng năng đến tham dự những Giờ Chầu Thánh Thể.
  2. Xin quý cụ, quý ông bà và quý phụ huynh  ráng động  viên, khuyến khích con cháu của mình suy nghĩ về ơn gọi tu trì, và cầu nguyện cho chúng, để chúng lắng nghe và can đảm đáp lại lời mời gọi của Chúa. Những khi các dòng tu tổ chức các buổi Tìm Hiểu Ơn Gọi, thì xin anh chị em chở các em tới, hay mua vé máy  bay  cho  các  em  đi tham  dự. Và xin anh chị em ghi danh tham gia vào Hội Bảo Trợ Ơn Gọi của Tu Đoàn  Nhà  Chúa  hay  của  các dòng  tu  khác,  để  cầu  nguyện  và giúp  đỡ  cho  việc  đào  tạo,  huấn luyện chủng sinh cũng như tu sĩ.
  3. Xin  đừng  phê  bình  hay  chỉ trích, hoặc mổ xẻ các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ… Chúng tôi vốn đã là những con người yếu đuối, khiếm khuyết, và xấu xa, anh chị em nói xấu chúng tôi thì chúng tôi chỉ xấu thêm  chứ chẳng  đẹp hơn được  tí nào cả, vì thế cho nên xin dủ lòng thương  xót,  vui lòng  STOP  đừng nói  xấu  hay  phê  bình  chúng  tôi nữa! Tội nghiệp!  Và nếu anh chị em có điều gì bất mãn hay không vừa ý trong cách hành xử hay trong cách làm việc của tôi, xin anh chị em  cứ mạnh  dạn  vào  gặp  để trao đổi và đối thoại  trực  tiếp  với  tôi, cho tôi có cơ hội để giải thích, để phân trần, như vậy mới gọi là công bằng, còn nếu chỉ ra ngoài nói xấu tôi, thông  tin kiểu  một  chiều  như vậy thì thật chẳng công bằng với tôi một chút nào cả.
Khi tâm sự với anh chị em những niềm vui và nỗi buồn trên, tôi chỉ mong ước anh chị em nhận ra hai điều này:
  • Thứ nhất:  Anh chị em đã và sẽ còn đóng những vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho giáo xứ chúng ta được thăng tiến về mọi phương diện.  Và xin cho tôi nói nhỏ một tí: “Không có sự cộng tác và không có sự hỗ trợ của anh chị em thì Chúa cũng … chịu thua luôn chứ đừng nói gì đến cái thằng … tôi này!”
  • Thứ hai: Sự cộng tác, sự nâng đỡ và những lời cầu nguyện của anh chị em dành cho tôi qua việc tích cực đóng góp về tài năng, về của cải vật chất, và qua những lời kinh cầu cho các linh mục trong các Giờ Chầu Thánh Thể vào mỗi thứ năm hàng tuần là những nhân tố giúp cho tôi sống vui, sống lạc quan và tự tin hơn trong vai trò của một linh mục chánh xứ.
Chân thành cám ơn anh chị em, xin cám ơn từng người, cám ơn quý ông, quý bà, quý anh quý chị, từng gia đình, từ trẻ tới già, từ nhỏ tới lớn, từ người mới tới người cũ trong giáo xứ Thánh Giuse đã giúp tôi có được những niềm vui to lớn, và những nỗi buồn nho nhỏ trong những năm qua.
 
Xin  Thiên Chúa là Cha toàn năng gìn giữ và chúc lành cho anh chị em luôn mãi.  Amen!

Lm. Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

Vị Chủ Chăn Nhân Lành

Vị Chủ Chăn Nhân Lành

Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chăn Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục, tu sĩ nam nữ. Bài Phúc Âm nhắc chúng ta nhớ lại mối tương quan giữa Chúa Giêsu và mỗi tín hữu. Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên tốt lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên.

Cuốn phim về cuộc đời ông Bach Adams, trình bày cho chúng ta thấy một phần nhân cách phi thường, khác thường đến độ bị kẻ khác xét như một người điên. Đó là nhân cách của ông Bach Adams: ông khám phá ra chiều kích nhân bản tương quan giữa người với người trong việc chữa trị bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ bình phục mau chóng hơn khi mối tương quan giữa bác sĩ và đương sự được tốt đẹp. Thái độ của ông Bach Adams rất khác biệt với thái độ cứng nhắc, vô tâm, vô tình của bác sĩ tâm thần không màng nghe người bệnh. Thái độ của ông Bach Adams bị thử thách khi người mang ơn những trợ giúp nhân đạo của ông không những không biết ơn mà còn hành động tàn bạo giết chết người yêu của ông. Adams cảm thấy sự hy sinh của mình bị xúc phạm, bị lợi dụng và muốn bỏ cuộc. Tác giả cuốn phim cho chúng ta thấy rằng chỉ khi nào Adams chấp nhận hy sinh, cho đi tất cả, thực sự cho đi tất cả, thì ông mới trung thành được với sứ mạng. Đây có thể nói là một cách sống thí mạng cho kẻ khác, cách sống của vị chủ chăn chiên hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

Lòng quảng đại suông không bị thử thách, không quảng đại hy sinh, không phải thí mạng cho kẻ khác thì chưa phải là lòng quảng đại của vị chăn chiên nhân lành. Ngày ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi theo Chúa, đây không phải là thứ lòng quảng đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện ra bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó sẽ không kiên trung kéo dài lâu, gặp khó khăn sẽ dễ dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng thành và vững mạnh.

Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Giêrônimô và hỏi: – Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?

Thánh Giêrônimô đáp: – Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.

Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn thỏa mãn, Ngài hỏi thêm: – Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?

Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời: – Con dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.

Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài lại hỏi lần thứ ba: – Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?

Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ thưa cùng Chúa: – Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu mà con có thể dâng cho Chúa được.

Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn đầy yêu thương và phán: – Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi, những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập giá là để đền tội lỗi con mà.

Thánh Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của mình.

Câu chuyện này phần nào diễn tả tất cả tâm hồn tràn đầy yêu thương của Chúa đối với mỗi người chúng ta. Ngài biết rõ chúng ta như chủ chăn biết rõ từng con chiên. Ngài đến với mỗi người chúng ta và đặt ra cùng một câu hỏi: “Con có gì dâng cho Ta hôm nay không?”, ngoài những gì tốt đẹp nhất mà sức hèn con người có thể thực hiện để dâng cho Chúa, chúng ta còn được Chúa âu yếm mời gọi đừng sợ, hãy dâng cho Chúa cả những tội lỗi của mình. Chúa yêu thương chúng ta, thật khác với mọi lãnh tụ trần gian, chỉ muốn thuộc hạ dâng cho mình điều tốt. Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân lành, vì Chúa là Chúa, nên muốn chúng ta dâng cho Ngài những điều tốt lẫn những điều xấu, vì Ngài có đủ quyền năng để biến đổi những điều xấu, thanh tẩy những tội lỗi chúng ta nếu chúng ta muốn.

Hình ảnh vị chủ chăn nhân lành nhắc nhở chúng ta nhớ lại tình thương yêu, bảo vệ và hướng dẫn của Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội lỗi của chúng ta. “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta”. Chúng ta hãy đến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của mình, tất cả những điều tốt đẹp, kể cả những điều xấu, những tội lỗi để cho ân sủng Chúa thanh tẩy mỗi người chúng ta mỗi ngày được nên tốt đẹp hơn.

Radio Veritas

Chiên nghe theo Chủ Chăn

Chiên nghe theo Chủ Chăn

Theo một tư liệu mới được tìm thấy, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, nhà soạn nhạc người Anh nổi tiếng Gustav Holst (1874-1934) thường chơi kèn trombone, khi từ London trở về nhà ở Cheltenham. Lúc đó Holst đang là sinh viên của Trường Âm nhạc Hoàng gia Anh và do quá nghèo, không có tiền mua vé tàu hỏa, nên phải đi bộ về nhà. Ông thường tập kèn mỗi khi đi qua cánh đồng. vì nghĩ rằng nơi đó vắng vẻ, không làm phiền tới ai.

Có lần Holst mải mê “biểu diễn” trên một quả đồi ở Cotswold trong vài tiếng và bị một nông dân tìm tới mắng mỏ, rằng tiếng kèn “như còi tàu hỏa” đã làm con cừu của ông ta đẻ non. (Internet)

Cừu, hay chiên (Ovis aries) là một trong những loài gia súc được con người thuần hóa sớm nhất để lấy lông, thịt, sữa, mỡ và da. Đàn cừu trên thế giới hiện nay là trên 1 tỷ con. Cừu là loại dễ tính, có thể ăn các loại cỏ khô cằn , ưa khí hậu khô , không chịu ẩm ướt.

Bài Tin Mừng thánh Gioan hôm nay chỉ gói gọn trong ba câu thật ngắn ngủi, súc tích, sâu sắc và thấm thía. Chúa Giêsu là Mục tử chăm sóc đàn chiên dân Chúa.

Vốn hiền lành, dịu dàng, nên chiên hay bị thú dữ đe dọa, nhất là chó sói hung bạo. Vì vậy, thính giác loài chiên rất phát triển để củng cố bản năng sinh tồn. Do đó, con chiên có thể nghe được nhiều cách khác nhau.

Con chiên nghe mùi

Hương vị đặc trưng của đoàn chiên giúp con chiên dễ nhận ra nhau. Đồng thời cũng dễ dàng nhận ra chủ chăn thân thương, gần gũi qua mùi cố hữu đó. Dĩ nhiên chủ chăn phải thực sự sống cùng, sống với và sống cho đoàn chiên, thì mới nồng nàn đượm mùi chiên. Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các linh mục tại Đền Thờ Thánh Phêrô, hôm Lễ Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh 28/3/2013, cũng nhấn mạnh: “Cha mời gọi các con điều này: Các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên!”

Mùi chiên của người mục tử nhân lành tỏa ra từ thái độ, lời nói, hành động chan chứa tình cảm trìu mến. Phong cách, suy tưởng, tình cảm và quan điểm của chủ chăn đều bộc lộ trực tiếp, hay gián tiếp mỗi khi gần gũi đàn chiên. Nếu là kẻ chăn thuê thì chỉ tanh tưởi mùi bạc, ngầy ngậy bơ sữa bổng lộc chức tước. Nếu là kẻ chăn giả mạo thì nồng nặc tà khí man trá, lạnh lẽo, lưu manh. Con chiên tuy hiền lành, nhưng rất bén nhạy đánh hơi xem mùi thân thuộc, hay lạ, dễ dàng tìm ra chủ chăn chính đáng nhân lành hay kẻ chăn thuê, hoặc giả mạo.

Chúa Giêsu còn ân cần nhắc nhở, cảnh báo: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.” (Ga 10, 12-13)

Con chiên nghe thấy

Không chỉ nghe mùi, con chiên còn nghe thấy chủ chăn âu yếm gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng đã nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10, 3-5) Như thế, con chiên còn nhận biết chủ chăn qua nếp ứng xử, qua sự chăm sóc tận tụy, vì chủ chăn biết rõ tên tuổi, cá tính, sức khỏe, nhu cầu và tâm trạng từng con chiên.

Chứng kiến sự tận tâm, hy sinh, con chiên mới gắn bó, yêu thương chủ chăn. Mà không nỡ đi theo người lạ, kẻ gian hay người làm thuê. Nếu con chiên lỡ ham vui, đi hoang lạc bầy, thì chủ chăn nhân lành cũng vẫn bỏ 99 con chiên ở lại, để đi tìm cho bằng được một con chiên bị lạc.

Vì thuộc về chủ chăn nhân lành, con chiên cảm nhận được sự ưu ái cụ thể, như xua đuổi sói dữ, băng bó, chữa lành thương tích, ôm ấp vác lên vai, dẫn dắt về tận chuồng trại nghỉ ngơi, dưỡng sức.

Con chiên nghe tiếng

Không chỉ ban ngày, mà ngay đêm khuya thanh vắng, con chiên vẫn văng vẳng nghe tiếng chủ chăn tâm tình, dỗ dành, vuốt ve, an ủi, căn dặn, dạy dỗ. Thậm chí còn hy sinh vì đoàn chiên. “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 14-15).

Đắm mình trong suy tư, cầu nguyện, con chiên có thể nghe tiếng Chủ Chăn nhân lành qua Lời Chúa, qua Thánh Kinh, và các dấu chỉ chung quanh. Đây chính là động thái tích cực của con chiên để hiểu và nghe theo Chủ Chăn. Một sự hợp tác cần thiết phải có, để con chiên nghe được tiếng chủ chăn bảo vệ, hướng dẫn đến dồng cỏ xanh non, suối mát dịu ngọt.

Con chiên luôn cần tỉnh thức đế lắng nghe Chủ Chăn gọi. Như xưa kia ngôn sứ Samuen đang ngủ, nghe tiếng gọi của Thiên Chúa ba lần, nhưng đã không nhận ra, cho đến khi được thầy tư tế Êli hướng dẫn (I Sm 3:1-10).

Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.

Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.

Người đưa tôi tời dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.

Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính,

vì danh dự của Người. Lạy Chúa,

dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.

Côn trượng Người bảo vệ, con vững dạ an tâm (Tv 23)

Lạy Chúa, chúng con xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các vị lãnh đạo của Giáo Hội Chúa. Xin giúp chúng con bỏ qua những lỗi lầm của họ để nhận ra con người thực của họ: là các dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Chúa giữa chúng con. (Lm. Mark Link, SJ)

Lạy Mẹ Maria, xin cho con luôn nhớ Mục Tử Nhân Lành đã hy sinh chịu chết vì đoàn chiên. Xin Mẹ cho con nhận ra tình thương cao cả và nhắc nhủ con luôn sống xứng đáng với tư cách con chiên của Người.

AM Trần Bình An

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH

Nói đến chiên cừu là nói đến những động vật dễ thương, gần gũi với con người, đặc biệt là dân Do-thái. Ngoài những thứ chúng cung ứng cho tiện nghi sinh sống của con người (như sữa, lông, da, thịt), còn một điều ít có con vật nào có được là chiên còn được dùng trong những dịp lễ lạc của đời sống tâm linh (sát tế, tế thần, lễ vật toàn thiêu). Cũng vì thế nên hình ảnh con chiên thường được dùng để nói về những con người tin vào Thiên Chúa, được Người chăn dắt tận tình (“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” – Is 40, 11; “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” – Tv 23, 1-4).

Không chỉ những tín hữu là con chiên của Thiên Chúa, mà chính Đức Giê-su Ki-tô – Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại, thi Người cũng là một Con Chiên – Chiên Thiên Chúa – như lời khẳng định của Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1, 29). Như vậy, Thiên Chúa đã thương yêu con cái của mình, coi chúng như đoàn chiên ngoan ngoãn dễ thương, nên mới ban Con Một xuống thế để chăn dắt đoàn chiên đó (“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” – Ga 10, 11).

Khi nói đến vấn đề chăn nuôi súc vật (mục vụ: 牧 務 ), thường có 2 dạng: có thể người chăn nuôi (mục tử: 牧 子) ấy là chủ thực sự của đàn súc vật, và cũng có thể là người làm thuê (do người chủ mướn trông coi đàn súc vật). Cũng có những người làm thuê tận tuỵ với công việc bằng một tình cảm thương yêu, chăm sóc đàn súc vật mà mình trông coi mướn như là của chính mình, hơn là vì đồng lương, tiền công mà chủ trả cho hàng tháng, hàng năm. Tuy nhiên, số này rất hiếm, đa số những người làm thuê thường chỉ làm vịêc cho tương xứng với tiền công, như một sự trao đổi sòng phẳng (một bên bỏ ra tiền của, một bên bỏ ra công sức). Vì thế những người làm thuê không thể sánh với chủ nhân của đàn súc vật đó. Người chủ chăn không chỉ vì những lợi ích vật chất do đàn súc vật mang lại, nhất là khi đàn súc vật đó lại là những con chiên đẹp đẽ, ngoan hiền, dễ thương, thì người chủ còn coi đàn chiên như những đứa con em máu mủ của mình. Nói khác đi, người chủ chăn (chúa chiên) không chỉ vì nhu cầu vật chất, mà còn coi đó là bổn phận, và hơn thế nữa là trách nhiệm của mình (lo lắng thực phẩm, săn sóc bệnh tật, thậm chi còn sẵn sàng bênh vực, che chở chúng trước những nanh vuốt kẻ thù như sói lang ác hiểm).

Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp (“Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.” – Ga 10, 24). Cũng vì trước đó khi nghe Đức Giê-su nói “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do-thái này đã nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” (Ga 10, 20); nên Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải toả thắc mắc để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33). Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26).

Sau khi xác định đám người “cơ hội” Do thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.

Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt con người về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Augustinô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei – XX, 10).” Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo Hội thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Ơn Thiên Triệu – Bí tích Truyền Chức (“Danh từ “hàng Linh Mục” đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những “thừa tác viên” của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô” – Sắc lệnh “Chức vụ và đời sống các linh mục”, số 2).

Hai chức vụ tư tế đó quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị xẻ đàn tan nghé ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.

Trong đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly (“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.” – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như “Thư của ĐTC Biển Đức XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục” ngày 16/6/2009, viết : “Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm “Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐTC Biển Đức XVI gửi Giáo Hội Ai-len” v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).

Nói chung thì hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm “gương mù và khước từ” ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo Hội, đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn.” (ĐTC Biển Đức XVI – “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).

Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” (Ga 21, 17). Lần này thì Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo Hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm (“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” – Is 40, 11).

Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo Hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ sệt – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là “cha thiên hạ”, không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật “bất khả xâm phạm, bất khả thay thế” nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.

Ý thức được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo Hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo Hội, để ai nấy đều “được sống và sống dồi dào” Tình Yêu của Chiên-Sát-Tế-Giêsu-Kitô, ngõ hầu đổi mới cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối và sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô I trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD

KHIÊM NHƯỜNG KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN ĐỨC CỦA KẺ YẾU

KHIÊM NHƯỜNG KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN ĐỨC CỦA KẺ YẾU

Khiêm nhường không phải là nhân đức của kẻ yếu, ĐHY Jorge Mario Bergoglio, trong một cuốn sách mới xuất bản bằng tiếng Ý, đã giải thích như thế. Cuốn sách này là một bài ca ngợi nhân đức khiêm nhường, nhân đức vốn đã đánh động dân chúng kể từ lời tuyên bố Habemus Papam (Chúng ta có Giáo hoàng), khi ngài xin dân Chúa đang tụ tập ở quảng trường thánh Phêrô cầu nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho Ngài.

Tác phẩm có tựa đề “Đức khiêm nhường, con đường đi đến Thiên Chúa”. Tác phẩm lấy lại một bài phát biểu của ngài vào năm 2005 khi ngài là Hồng y Tổng giám mục giáo phận Buenos Aires. Đức Hồng y Bergoglio cảm hứng từ một chú giải của Dorothée de Gaza, một Giáo phụ vào thế kỷ thứ VI.

Trong cuốn sách này, đức khiêm nhường được trình bày “không phải như một nhân đức dành cho kẻ yếu”, nhưng như là “con đường khả thể duy nhất để sống hiệp thông với tha nhân và gần với Thiên Chúa”.

Một hành trình vốn đòi hỏi cả chặng đường dài của cuộc sống: nó không hệ tại “một tình cảm bẩm sinh”, nhưng là một nỗ lực liên lỉ, được xây dựng trên việc kiểm điểm lương tâm để được thiết lập trong một thái độ phục vụ chứ không trịnh thượng.

Đó là những gì mà Đức Phanxicô biểu lộ từ đầu triều đại Giáo hoàng của ngài: tầm quan trọng của việc “trở nên người phục vụ, thay vì được phục vụ”.

Tý Linh (Theo Zenit)

Xuân Bích VN

Cha Lombardi (SJ) được trao tặng giải thưởng “Nhà Truyền thông của năm”

Cha Lombardi (SJ) được trao tặng giải thưởng “Nhà Truyền thông của năm”

Father Federico Lombardi

Đức Ông Federico Lombardi

Công ty phục vụ tài chánh quốc tế của Đức Allianz Group, đại diện cho hơn 70 quốc gia và có hơn 78 triệu khách hàng khắp thế giới, đã trao giải thưởng “Nhà truyền thông của năm” cho Cha Federico Lombardi (SJ) Giám Đốc Văn phòng Báo chí truyền thông của Tòa Thánh) .

Giải thưởng được trao vào buổi sáng trong buổi họp của các giám đốc cùng ngành truyền thông, mỗi năm họp một lần tại một thủ đô tại Âu Châu để  phân tích các chủ đề và những chiến lược gắn liền với thế giới của ngành truyền thông với sự giúp đỡ của các chuyên gia trong cùng lãnh vực.

Trong số các lý do cho giải thưởng năm nay, công ty Allianz nhấn mạnh rằng “đại diện cho mấu chốt để thấu hiểu và truyền đạt của Tòa Thánh với sự chọn lọc và kinh nghiệm, mà chính ông là người lãnh đạo. “ Bài văn của lễ phát giải thêm rằng Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh lúc nào cũng luôn luôn “ ở tư thế phục vụ thông tin, từ cả hai bộ mặt của một sự việc dù tốt hay ngược lại”.
 

Phỏng dịch từ Vatican Radio

ĐTC Phanxicô gọi điện cho thợ đóng giày ở Argentina để nhờ sửa giày

ĐTC Phanxicô gọi điện cho thợ đóng giày ở Argentina để nhờ sửa giày

(VATICAN CITY) – ĐTC Phanxicô, người nhanh chóng được biết đến với tính cách mộc mạc, sẽ tiếp tục dùng đôi giày đen giản dị của ngài và đã gọi điện cho thợ đóng giày của ngài từ quê nhà Buenos Aires, Argentina, để nhờ sửa giày cho ngài.

Suốt 40 năm, người thợ đóng giày 81 tuổi Calos Samaria đã cung cấp giày từ cửa hàng của ông ở ngoại ô thủ đô của Argentina cho Đức Hồng y Jorge, trước khi ngài được bầu làm Giáo hoàng.

“Xin chào ông Samaria, Bergoglio đây”, cuộc trò chuyện qua điện thoại bắt đầu.

“Nhưng đây là ai vậy?” – người thợ đóng giày phản ứng với sự ngạc nhiện.

“Ông Samaria, Phanxicô đây, Đức Giáo hoàng đây mà!” – Đức Thánh Cha trả lời.

Theo chương trình Đài Phát thanh Brazil, Đức Thánh Cha nói với ông Samaria: “Không đóng giày đỏ nhé, đóng giày đen bình thường như mọi khi thôi.”

Ông Samaira cho biết giày mà ĐTC Phanxicô mang “đơn giản và làm bằng da thuộc màu đen, với mũi giày mềm và không trang trí”.

“Ngài không muốn đi giày mới, tôi chỉ sửa những đôi giày cũ cho ngài”, ông Samaria nói.

Tuy nhiên, ông cho biết thêm là ông có ý định “đóng một đôi giày mới cho ngài, nhưng đơn giản thôi, vì ngài nói tháng 5 này ngài có thể đi thăm viếng”.

Jos. Tú Nạc, NMS

Đức Thánh cha bày tỏ đau buồn khi xảy ra động đất

Đức Thánh cha bày tỏ đau buồn khi xảy ra động đất

Đức Thánh cha Phanxicô nói ngài 'bên cạnh người dân Iran và Pakistan

Trong cuộc gặp gỡ chung hàng tuần tại quảng trường Thánh Phêrô hôm thứ Tư, đức Thánh cha Phanxicô bày tỏ tình liên đới "với người dân Iran và Pakistan" sau khi xảy ra động đất mạnh tại khu vực biên giới giữa hai nước.

Trận động đất có cường độ 7,8 Richter chiều thứ Ba là trận động đất thứ hai xảy ra trong vùng này trong nhiều tuần qua.

Đức Giáo hoàng người Argentina nói bằng tiếng Ý trước khoảng 50.000 người rằng ngài "hết sức đau buồn" khi nghe tin xảy ra "động đất lớn ảnh hưởng đến rất nhiều người dân ở Iran và Pakistan, gây thương vong, đau khổ và tàn phá".

Đức Phanxicô nói ngài sẽ cầu nguyện cho "tất cả nạn nhân và cho tất cả những người đau khổ", và bày tỏ "tình liên đới với người dân Iran và Pakistan".

Đức Thánh cha còn kêu gọi trợ giúp cho những người bị ảnh hưởng động đất.

Các nhà địa chấn học nói đây là trận động đất mạnh nhất ở Iran trong hơn 50 năm qua, mặc dù chưa có nhiều chi tiết về mức độ thiệt hại.

Hãng thông tấn Fars của Iran cho biết các thành phố Khash và Saravan, cách tâm chấn chưa đến 150 km, không bị thiệt hại gì nghiêm trọng.

Bên kia biên giới Pakistan, các nhà chức trách thông báo có tới 34 người bị thiệt mạng và khoảng 80 người khác bị thương trong huyện Mashkel thuộc tỉnh Balochistan.

Sau cuộc gặp gỡ hôm thứ Tư, đức Phanxicô còn hội kiến đại sứ Arập tại Ý, Saleh Mohammad Al-Ghamdi.

Ông thay mặt Vua Arập Abdullah bin Abdulaziz Al-Saud chuyển thông điệp riêng đến đức Thánh cha.

Trong bài phát biểu tại quảng trường, đức Phanxicô nói Chúa Giêsu là "luật sư bào chữa" của chúng ta trước mặt Chúa, và "Ngài luôn cầu bầu cho chúng ta".

"Thật vui khi nghe điều này. Ngài bảo vệ chúng ta chống lại sự xảo quyệt của ma quỷ, Ngài cứu giúp chúng ta, chống lại tội lỗi. Anh chị em thân mến, chúng ta có vị luật sư này, chúng ta không phải e ngại khi đến cầu xin Ngài, đến nhờ ngài xua tan nỗi sợ hãi, cầu xin ngài ban phúc và thương xót", ngài nói thêm.

Alessandro Speciale từ thành phố Vatican

Bộ Giáo lý Đức tin gặp Hội đồng Lãnh đạo các Nữ tu Hoa kỳ

Bộ Giáo lý Đức tin gặp Hội đồng Lãnh đạo các Nữ tu Hoa kỳ

WHĐ (16.04.2013) – Hôm  15-04, các vị lãnh đạo của Bộ Giáo lý Đức tin đã gặp Chủ tịch đoàn Hội đồng lãnh đạo các Nữ tu Hoa kỳ (LCWR). Tham gia cuộc gặp gỡ này còn có Đức Tổng giám mục James Peter Sartain, Tổng giám mục Seattle, Washington, Hoa Kỳ, và là vị Đặc ủy của Tòa Thánh phụ trách thẩm định phương diện giáo thuyết đối với LCWR. Thông cáo của Bộ Giáo lý Đức tin cho biết như trên.
 
Vì đây là lần đầu gặp gỡ Chủ tịch đoàn LCWR, Đức Tổng giám mục Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin Gerhard Ludwig Müller, bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp to lớn của các nữ tu đối với Giáo hội tại Hoa Kỳ, như đã thấy tại nhiều trường học, bệnh viện, và các tổ chức trợ giúp người nghèo được các Dòng tu thành lập và điều hành trong nhiều năm qua.
 
Sau đó Đức Tổng giám mục Bộ trưởng nhấn mạnh đến giáo huấn của Công đồng Vatican II về nhiệm vụ quan trọng của các tu sĩ trong việc thúc đẩy một quan điểm về sự hiệp thông trong Giáo hội dựa trên niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và giáo huấn của Hội Thánh, như đã được trung thành truyền dạy qua các thời đại dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền. Ngài cũng nhấn mạnh rằng một Hội đồng Bề trên Thượng cấp như LCWR, hiện diện là để thúc đẩy những nỗ lực chung giữa các Hội Dòng thành viên cũng như cộng tác với Hội đồng Giám mục sở tại và các giám mục. Vì thế, Hội đồng ấy được thành lập theo hướng dẫn của Tòa Thánh và luôn ở dưới sự hướng dẫn của Tòa Thánh.
 
Cuối cùng, Đức Tổng giám mục Müller đã thông báo cho Ban lãnh đạo LCWR rằng mới đây ngài đã thảo luận với Đức giáo hoàng Phanxicô về Bản thẩm định giáo thuyết, và Đức giáo hoàng đã tái xác nhận các đánh giá của Bản thẩm định và chương trình cải cách Hội đồng Bề trên Thượng cấp này.
 
Thông cáo của Bộ kết luận, Tòa Thánh thành thật mong muốn cuộc gặp gỡ này sẽ giúp thúc đẩy các nữ tu nêu cao chứng từ toàn vẹn, dựa trên nền tảng đức tin và tình yêu Kitô giáo vững vàng, để gìn giữ và tăng cường đức tin và tình yêu ấy, hầu làm phong phú Giáo hội và xã hội cho các thế hệ mai sau.
 
(Theo VIS, 15-04-2013)

Minh Đức

Chúa Kitô phục sinh luôn hướng dẫn nâng đỡ và bầu cử cho chúng ta

Chúa Kitô phục sinh luôn hướng dẫn nâng đỡ và bầu cử cho chúng ta

Chúng ta không bao giờ cô đơn vì Chúa Kitô tử nạn và phục sinh luôn ở với chúng ta. Người luôn hướng dẫn, nâng đỡ và bầu cử cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh cuộc sống và giúp chúng ta đem quyền bính tình yêu của Người đến cho thế giới.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 17 tháng 4-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Bên cạnh hàng trăm đoàn hành hương đến từ Bắc Mỹ và Âu châu, đặc biệt là từ nhiều giáo phận Italia có các Giám Mục Anh quốc và vùng Galles. Cũng có các nhóm hành hương Á châu đến từ Ấn Độ, Singapore, Sri Lanka và Philippines. Trong khi từ châu Mỹ Latinh có các đoàn hành hương Argentina, Panama, Venezuela và Mêhicô. Đến từ xa nhất là đoàn hành hương Australia.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý lấy từ Kinh Tin Kính: Chúa Giêsu ”đã lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha”. Dùng trình thuật của thánh sử Luca Đức Thánh Cha nói: Cuộc sống dương thế của Đức Giêsu đạt tột đỉnh với biến cố Lên Trời, nghĩa là khi Người từ trần gian này về với Thiên Chúa Cha và được nâng lên bên hữu Người. Phúc Âm thánh Luca kể như sau: ”Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên Trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,51). Đức Thánh Cha giải thích:

Khi Người ”lên” Thành Thánh, nơi sẽ thành toàn cuộc ”xuất hành” của Người khỏi đời này, Chúa Giêsu đã trông thấy đích điểm là Trời, nhưng Người biết rõ là con đường đem Người trở về với vinh quang của Thiên Chúa Cha, đi qua Thập Giá, đi qua sự vâng phục chương trình tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Giáo Lý Giáo hội Công Giáo khẳng định rằng ”việc nâng cao lên trên thập giá có nghĩa và loan báo việc nâng cao của việc lên trời” (s. 661). Cả chúng ta nữa cũng phải biết rõ rằng trong cuộc sống kitô của mình việc bước vào trong vinh quang của Thiên Chúa đòi hỏi hy sinh, đôi khi đòi hỏi thay đổi các chương trình của chúng ta. Việc lên trời của Chúa Giêsu xảy ra một cách cụ thể trên Núi Cây Dầu, gần nơi Chúa đã rút lui vào để cầu nguyện trước cuộc khổ nạn, để sống trong sự kết hiệp xâu xa với Thiên Chúa Cha: một lần nữa chúng ta thấy rằng lời cầu nguyện ban cho chúng ta ơn thánh giúp sống trung thành với chương trình của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Vào cuối Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Lên Trời một cách rất ngắn gọn. Chúa Giêsu dẫn các môn đệ ra ngoài về phía Bêtania và Người giơ tay chúc lành cho các ông. Trong khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên Trời. Bấy giờ các ông bái lậy Người, rồi trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,50-53). Đức Thánh Cha ghi nhận hai yếu tố của trình thuật và nói:

Trước hết, trong khi lên Trời Chúa Giêsu thành toàn cử chỉ chúc lành của linh mục và chắc chắn các môn đệ diễn tả đức tin của mình với cử chỉ phủ phục, qùy gối và cúi đầu. Đây là một điểm quan trọng đầu tiên: Chúa Giêsu là Linh Mục duy nhất và đời đời với cuộc khổ nạn của mình đã đi qua cái chết và mồ chôn, đã phục sinh và lên Trời; Người ở bên Thiên Chúa Cha, nơi Người luôn mãi cầu bầu cho chúng ta (x. Dt 9,24). Như thánh Gioan khẳng định trong thư thứ I: Người là trạng sư của chúng ta. Thật là đẹp biết bao khi nghe điều này! Khi một người bị thẩm phán mời hay phải ra tòa, điều đầu tiân phải làm là tìm một trạng sư để bênh vực mình. Chúng ta có một trạng sư luôn luôn bênh vực chúng ta, Người bênh vực chúng ta khỏi các sách nhiễu của qủy dữ, Người bênh vực chúng ta khỏi chính chúng ta, khỏi các tội lỗi của chúng ta. Anh chị em rất thân mến, chúng ta có trạng sự đó: chúng ta đừng sợ hãi đến với Người và xin lỗi, xin phước lành, xin lòng thương xót! Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Người là trạng sư của chúng ta: Người luôn luôn bênh vực chúng ta. Chúng ta đừng quên điều đó.

Như thế việc Chúa Giêsu lên Trời làm cho chúng ta biết thực tại trao ban an ủi đối với con đường đời ta: trong Chúa Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật, nhân loại đã được đem lên gần Thiên Chúa; Người đã mở lối cho chúng ta; Người giống như người dẫn đầu toán leo núi, đã lên tới đỉnh và kéo chúng ta lên, bằng cách dẫn đưa chúng ta tới với Thiên Chúa. Nếu chúng ta tín thác cuộc sống chúng ta cho Người, nếu chúng ta để cho Người hướng dẫn chúng ta thì đúng thật là chúng ta ở trong các bàn tay chắc chắn.

Có một yếu tố thứ hai: thánh sử Luca kể rằng các Tông Đồ, sau khi đã nhìn thấy Chúa Giêsu lên Trời, họ trở lại Giêrusalem ”với niềm vui lớn”. Điều này xem ra hơi lạ. Nói chung, khi chúng ta chia tay các người thân trong gia đình hay bạn hữu, để ra đi vĩnh viễn và nhất là vì cái chết, có sự buồn sầu tự nhiên, bởi vì chúng ta sẽ không trông thấy mặt họ nữa, chúng ta sẽ không lắng nghe được tiếng của họ nữa, chúng ta sẽ không còn có thể hưởng nếm sự trìu mến và sự hiện diện của họ nữa. Trái lại thánh sử nêu bật niềm vui sâu xa của các Tông Đồ. Tại sao vây? Chính bởi vì với cái nhìn của đức tin các vị hiểu rằng, cho dù khuất mắt họ, Chúa Giêsu vẫn luôn luôn ở với họ, Người không bỏ họ và trong vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người nâng đỡ, hướng dẫn và bầu cử cho họ.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Ở đầu sách Công Vụ các Tông Đồ, thánh sử Luca cũng kể lại việc lên Trời để nhấn mạnh rằng biến cố này giống như vòng xích nối liền cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu với cuộc sống của Giáo Hội. Ở đây thánh Luca cũng nêu bật áng mây che phủ Chúa Giêsu khỏi cái nhìn của các môn đệ, còn đứng đó để chiêm ngưỡng Chúa Kitô lên trời về với Thiên Chúa Cha (x. Cv 1,9-10), Khi đó có hai người mặc áo trắng can thiệp mời các vị đừng ở yên bất động nhìn trời, nhưng hãy dưỡng nuôi cuộc sống mình và làm chứng cho sự chắc chắn rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong cùng một cách thức mà các ông đã thấy Người lên trời (x. Cv 1,10-11). Đức Thánh Cha giải thích lời các thiên thần mời đoàn môn đệ như sau:

Đó là lời mời gọi ra đi từ việc chiêm ngưỡng quyền là Chúa của Đức Giêsu, để có từ Người sức mạnh đem Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng vào trong cuộc sống thường ngày: chiêm ngắm và hành động, cầu nguyện và làm việc, như thánh Biển Đức dậy, cả hai việc đều cần thiết cho cuộc sống kitô của chúng ta.

Anh chị em thân mến, biến cố lên Trời không ám chỉ sự vắng mặt của Chúa Giêsu, mà nói với chúng ta rằng Người sống giữa chúng ta một cách mới mẻ; Người không còn ở trong một chỗ chính xác của thế giới như trước khi lên trời nữa. Giờ đây Người ở trong quyền là Chúa của Thiên Chúa, hiên diện trong mọi nơi mọi lúc, gần gũi từng người trong chúng ta. Trong cuộc sống chúng ta không bao giờ cô đơn: có Chúa chịu đóng đanh và phục sinh hướng dẫn chúng ta. Và với chúng ta có biết bao nhiêu anh chị em hằng ngày trong thinh lặng và kín ẩn, trong cuộc sống gia đình và làm việc, trong các vấn đề và các khó khăn của họ, trong những nỗi vui buồn và hy vọng của họ, họ sống đức tin mỗi ngày và cùng với chúng ta đem quyền là Chúa của tình yêu Thiên Chúa đến cho thế giới.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương hiện diện và chúc mọi người có những ngày viếng thăm Roma tươi vui và bổ ích. Với đông đảo các bạn trẻ ngài xin Chúa phục sinh đổ tràn đầy tình yêu của Người trong trái tim họ để họ sẵn sàng hăng say theo Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa nâng đỡ các anh chị em đau yếu để họ chấp nhận gánh nặng của khổ đau với tâm hồn thanh thản. Ngài xin Chúa hướng dẫn các cặp vợ chồng mới cưới để gia đình họ lớn lên trong sự thánh thiện bằng cách noi gương sống của Thánh Gia.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau đó Đức Thánh Cha đã đứng chào các Giám Mục và một số quan khách. Rồi ngài đi sang hai bên để bắt tay chào, nói chuyện và lắng nghe các tín hữu, cũng như hôn và thoa đầu các trẻ em, trong khi các bạn trẻ thì không ngừng gọi tên Đức Thánh Cha. Cũng có người tặng Đức Thánh Cha chiếc áo của đội bóng đâ Argentina.

Khi xe díp chở ngài xuống khỏi thềm đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh Cha bảo tài xế dừng xe để ngài xuống bắt tay chào các người tàn tật ngồi trên các xe lăn. Ngài hỏi thăm, an ủi và chúc lành cho họ. Có một em bé mù ban đầu không chịu để cho Đức Thánh Cha hôn nhưng sau đó quàng tay ôm cổ Đức Thánh Cha và không muốn rời ngài nữa. Ngài cũng đã ôm hôn nhiều người tàn tật khiến cho giới trẻ lại càng gọi tên Đức Thánh Cha to hơn.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.” Đó là lời của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong thông điệp gửi cho toàn thể dân Chúa nhân Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi lần thứ 50 sẽ được cử hành vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục sinh, 21 tháng 4-2013. Sứ điệp này được Đức Thánh Cha Biển Đức 16 công bố ngày 15 tháng 12 năm 2012, sau đây là nội dung toàn bộ Sứ Điệp.

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp lần thứ 50 ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi, được tổ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 2013, Ngày Chúa Nhặt Thứ 4 Phục Sinh, tôi muốn mời gọi các bạn phản tỉnh về chủ đề: Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng đặt nền tảng trên đức tin, được diễn ra trong năm Đức Tin cùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc công Đồng Vaticano II. Trong khi Công Đồng đang họp, Tôi tớ Chúa, Đức Phaolô VI, đã thiết lập ngày toàn thể Giáo hội cầu nguyện cho ơn gọi. Vào ngày này, mọi người được mời gọi để cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha, xin Ngài tiếp tục sai các thợ gặt đến với Giáo Hội (Mt 9,38). Tại thời điểm đó, Ngài nói rằng: “Vấn đề có đủ số lượng các linh mục có một ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tín hữu, không chỉ vì linh mục là nền tảng của xã hội Kitô giáo trong tương lai, nhưng hơn thế, việc có đủ số linh mục là một dấu chỉ rõ ràng của sức sống đức tin và là dấu chỉ tình yêu thương của mỗi giáo xứ cũng như các cộng đoàn giáo phận, đồng thời nó cũng là dấu chỉ rõ ràng về một đời sống luân lý lành mạnh nơi các gia đình Kitô hữu. Nơi đâu ta càng thấy có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống Tin Mừng với sự quảng đại lớn lao (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4 năm 1964).

Trong suốt nhiều thế kỷ qua, các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới quây quần bên nhau vào ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh và cùng nhau cầu nguyện để xin Thiên Chúa những món quà ơn gọi linh thánh, đồng thời gợi ý cho mọi người tiếp tục phản tỉnh về nhu cần khẩn thiết trong việc đáp trả lời mời gọi linh thánh. Thực vậy, hàng năm sự kiện quan trọng này đã giúp các Kitô hữu thấy được tầm quan trọng của ơn gọi linh mục và tu sĩ, và nhờ đó giúp họ ý thức về điều này trong đời sống thiêng liêng, cầu nguyện và tông đồ của mình.

Hy vọng là một sự trông mong về một điều gì đó tích cực trong tương lai, nhưng mặt khác nó cũng nuôi dưỡng hiện tại thường bị ghi dấu bởi những bất mãn và thất bại. Vậy, đâu là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta? Nhìn vào lịch sử của dân tộc Do thái, được tường thuật lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy một yếu tố luôn xuất hiện, đặc biệt là trong những thời điểm khó nhăn như thời Lưu Đày, một yếu tố được tìm thấy đặc biệt nơi các bài viết của các Ngôn Sứ, đó là việc Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa với các Tổ Phụ: Một sự ghi nhớ mời gọi chúng ta bắt chước mẫu gương sáng chói của Tổ Phụ Abraham, ngài “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: “Dòng dõi người sẽ đông đảo như thế” (Rm 4,18). Một chân lý đầy an ủi và có tính soi sáng luôn hiển lộ trong toàn bộ lịch sử cứu độ, đó chính là sự trung tín của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Ngài luôn đi vào Giao Ước và đổi mới nó, bất chấp con người đã phá vỡ nó khi bất trung và phạm tội, từ thời lụt hồng thủy (St 8,21-22) đến lúc xuất hành và ngang qua cuộc hành trình qua sa mạc (x. Dt 9,7).

Sự trung tín đó khiến cho Thiên Chúa tiếp tục ký kết một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu với con người, nhờ vào máu của Người Con, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta. Trong mỗi giây phút, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, sự trung tín của Thiên Chúa luôn là nguồn sức mạnh đích thực của lịch sử cứu độ. Sức mạnh này khơi nên trong trái tim của những người nam và người nữ một niềm xác tín vững chắc vào niềm hy vọng rằng một ngày họ sẽ đạt đến “Đất Hứa”. Đây chính là nơi chúng ta tìm thấy nền tảng chắc chắn của mọi hy vọng: Thiên Chúa chưa bao giờ từ bỏ chúng ta và Ngài vẫn luôn trung tín với Lời của mình. Vì lý do đó, trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay khó khăn, chúng ta vẫn có thể nuôi dưỡng một niềm hy vọng chắc chắn và cầu nguyện với Thánh Vịnh: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến (Tv 62, 6).

Như thế, để có hy vọng, chúng ta cần tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng tín trung, Ngài luôn giữ lời hứa đã giao ước. Vì thế, đức tin và hy vọng có mối liên hệ mật thiết với nhau. “Thực ra, “Hy vọng” là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin” (10:22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (10:23). Cũng thế, trong thư Thứ Nhất, khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do –cho niềm hy vọng của họ (x. 3:15), thì từ “hy vọng” là tương đương với từ “đức tin” (Spe Salvi, 2).

Anh chị em thân mến,

Chính xác thì sự trung tín của Thiên Chúa là gì mà chúng ta có thể đặt để niềm hy vọng của mình? Thưa, đó chính là tình yêu của Ngài. Ngang qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa là Đấng đã đổ tràn tình yêu vào nơi sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta (xem Rm 5,5). Và tình yêu này, được biểu lộ trọn vẹn nơi Đức Kitô, đã thấm sâu vào tâm khảm mỗi chúng ta và đòi hỏi một lời đáp trả ngang qua cách thức mà mỗi cá nhân muốn chọn lựa cách sống cho riêng mình. Tình yêu Thiên Chúa đôi lúc dẫn người ta tới nơi mà mình chưa bao giờ tưởng tượng, nhưng tình yêu này cũng luôn dẫn ta đến với những con người mà ta muốn tìm gặp. Như thế, hy vọng được dưỡng nuôi bởi sự xác tín này: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16).

Tình yêu sâu xa và mang tính đòi hỏi này đã thấm sâu vào chúng ta và trao ban cho chúng ta một niềm can đảm. Tình yêu này cũng trao cho ta niềm hy vọng vào cuộc hành trình của mình, vào lịch sử và tương lai. Cách riêng, cha muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ, cha muốn nhắc lại rằng: “Sự sống của các con sẽ là gì nếu thiếu tình yêu này? Thiên Chúa chăm sóc mọi người nam và người nữ từ khi tạo dựng đến khi thời gian tới hồi viên mãn, khi Ngài hoàn tất kế hoạch cứu độ của mình. Nơi Thiên Chúa Phục Sinh, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn” (Bài Huấn Dụ Dành Cho Các Bạn Trẻ Thuộc Giáo phận Sang Marino – Montefeltro, 19 tháng 6 năm 2011).

Như xưa Đức Giêsu đã sống cuộc đời dương thế như thế nào, thì hôm nay Đức Giêsu Phục sinh cũng đồng hành trong cuộc sống của chúng ta như vậy. Ngài dìm mình vào hành động của chúng ta, với tất cả khao khát và nhu cầu của ta. Giữa mọi hoàn cảnh, Đức Giêsu tiếp tục nói với chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta sống với Ngài, vì chỉ duy Ngài là Đấng có thể thỏa đáp được mọi khát vọng nơi ta. Giờ đây, Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn các môn đệ chính là Giáo Hội, và Ngài vẫn mời gọi mọi người bước theo mình. Lời mời gọi này có thể đến bất kỳ lúc nào. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục cất lời: “Hãy đến và theo tôi” (Mc 10,21). Chấp nhận lời mời gọi này nghĩa là không còn chọn lựa con đường của riêng mình nữa. Theo Ngài nghĩa là đặt để ý muốn của chúng ta nơi Ý muốn của Đức Giêsu, trao ban cho Ngài chính mình, đặt Ngài vào vị trí trổi vượt trong mọi lĩnh vực của đời sống: gia đình, công việc, sở thích riêng và chính bản thân mình. Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.

Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta. Tiến trình này, một tiến trình mà ngang qua đó chúng ta đáp trả một cách tích cực đối với lời mời gọi của Thiên Chúa, chỉ khả thi nơi những cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nơi có một cảm thức truyền giáo mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy người ta hiến mình cho Nước Thiên Chúa. Tiến trình này được nuôi dưỡng bởi các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và ngang qua một đời sống cầu nguyện liên lỉ. Đời sống cầu nguyện, “một đàng là cái gì đó rất riêng tư, là một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính tôi với Chúa, Thiên Chúa hằng sống. Đàng khác, lời cầu ấy phải luôn được hướng dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu nguyện cho xứng hợp” (Spe Salvi, 34).

Đời sống cầu nguyện sâu xa và bền bỉ giúp tăng trưởng đức tin nơi cộng đoàn Kitô hữu. Đồng thời đời sống cầu nguyện cũng giúp đổi mới không ngừng niềm xác tín rằng Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài và luôn nuôi dưỡng họ bằng cách trao ban những ơn gọi đặc biệt – ơn gọi linh mục và tu sĩ – để họ có thể là dấu chỉ hy vọng cho thế giới. Thực vậy, linh mục và tu sĩ được mời gọi để trao ban chính mình một cách vô điều kiện cho Dân Thiên Chúa, trong một sự phục vụ yêu thương cho Tin Mừng và Giáo hội, với niềm xác tín vào niềm hy vọng vốn chỉ có thể đến từ một sự mở ra đối với Thiên Chúa. Do đó, ngang qua những chứng tá về đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ, họ có thể thông truyền, đặc biệt với các thế hệ trẻ, một khao khát mạnh mẽ để quảng đại và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô, Đấng mời gọi họ bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Khi một người môn đệ của Đức Giêsu chấp nhận lời mời gọi thần linh để dâng hiến chính mình trong đời sống linh mục hay tu trì, chúng ta chứng kiến một hoa trái chín mùi nhất của cộng đoàn Kitô hữu, giúp chúng ta nhìn vào tương lai của Giáo Hội và sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong niềm tin tưởng và hy vọng. Điều này đòi hỏi cần có những người thợ gặt mới để công bố Tin Mừng, để cử hành Thánh Lễ và bí Tích Hòa Giải. Vì thế, không thể thiếu những linh mục nhiệt thành, những người luôn ở bên người trẻ với tư cách là “những người bạn đồng hành”, giúp đỡ họ, trong bước đường đời đầy khó khăn và cam go, nhận ra Đức Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (xem Ga 14,6). Các linh mục cũng là người nói cho người trẻ về lòng can đảm của Tin Mừng, về vẻ đẹp của việc phục vụ Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu và anh chị em của mình! Các linh mục là hiện thân của hoa trái phát sinh từ một sự dấn thân nhiệt thành vốn trao ban ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của họ, vì đời sống này được đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước ( x. Ga 4,19).

Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô.

Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên con đường đức ái đầy đòi hỏi và sự can đảm này. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban; các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu; và các con sẽ học để sẵn sàng đưa ra một câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con (Pr 3,15).

Nguyễn Minh Triệu sj Chuyển ngữ

ĐHY O’Malley của Boston nói mọi người đau buồn sâu sắc cho nạn nhân những vụ đánh bom

ĐHY O’Malley của Boston nói mọi người đau buồn sâu sắc cho nạn nhân những vụ đánh bom

BOSTON (CNS) – Chỉ vài giờ sau hai vụ nổ xảy ra gần vạch đích của cuộc đua Marathon Boston ngày 15 tháng 4, ĐHY Sean P. O’Malley đã gửi một thông điệp cầu nguyện và hỗ trợ cho những người bị thương, những người thân yêu của họ và những người đã trải qua chấn thương của thảm kịch.

“Tổng Giáo phận Boston tham gia tất cả mọi người thiện chí thể hiện nỗi buồn sâu sắc sau các hành động bạo lực vô cảm đã gây ra tại cuộc đua chạy đường dài ở Boston hôm nay”, ngài nói.

Gần 3 giờ chiều Cục Cảnh sát Boston báo cáo rằng các nhân viên đã đáp ứng với hai vụ nổ dọc theo tuyến đường đua ở Boston khiến 3 người chết, trong đó có một bé trai 8 tuổi và 176 người bị thương, trong đó có 7 người bị thương nặng.

“Những công dân của Thánh phố Boston và sự thịnh vượng chung của Tiểu bang Massachusetts được ban phước bởi lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng của nhiều người, nhất là các nam, nữ cảnh sát và nhân viên cứu hoả và cứu hộ đã đáp ứng trong những khoảnh khắc của những sự kiện bi thảm này”, Đức Hồng y nói.

Nhiều người đã tỏ ra lo sợ trước những vụ nổ, hai lần cách nhau, được thực hiện bởi những kẻ khủng bố, và AP cho biết các quan chức liên bang đang đối phó với những vụ nổ như một hành động khủng bố.

Cho đến ngày 16 tháng 4 chưa có ai đứng ra nhận trách nhiệm về hành động này, diễn ra vào Ngày Patriot, một ngày nghỉ của Massachusetts đánh dấu trận đánh đầu tiên của cuộc Cách mạng Mỹ.

ĐHY O’Malley khen ngợi những nỗ lực của Thống đốc bang massachusttes Deval Patrick, Thị trưởng Boston Mayor Thomas Menino và Cảnh sát trưởng Thành phố Ed Davis.

Họ đã cung cấp cho chúng tôi những nhà lãnh đạo sẽ nhìn thấy chúng tôi qua thời gian cực kỳ khó khăn này và các thủ tục thích hợp sau đó để bảo đảm an ninh công cộng”, Đức Hồng y nói.

Đức Hồng y cũng ca ngợi những người đã nhanh chóng đến giúp kịp thời tại hiện trường khi thảm kịch xảy ra.

“Giữa bóng tối của thảm kịch này, chúng ta tìm đến ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng đó là chứng cứ trong cuộc sống con người, những người quay lại để giúp đỡ những người gặp khó khăn hôm nay”, ngài nói.

ĐHY O’Malley đã hứa Giáo hội Công giáo hỗ trợ cho những cộng đồng tôn giáo khác, thúc đẩy một thông điệp của hy vọng để đáp ứng trước thảm kịch này.

“Chúng ta đứng trong sự đoàn kết với các đồng nghiệp liên tôn toàn thế giới trong lời cam kết để chứng kiến sức mạnh cao cả hơn của cái thiện trong xã hội chúng ta và cùng nhau làm việc để hàn gắn”, Đức Hồng y nói.

ĐHY Timothy M. Dolan của New York, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, kêu gọi tất cả “cầu nguyện cho các linh hồn của những người đã qua đời và chữa lành những người bị thương tích và những người đang làm việc vãn hồi hoà bình cho tất cả chúng ta.

“Lời cầu nguyện đặc biệt của chúng ta cùng với Tổng Giáo phận Boston và người dân ở đó đang làm việc do hậu quả của cuộc khủng hoảng này để giải quyết những người bị thương bằng nhiều cách bởi sự kiện này”, ngài nói thêm trong một tuyên bố đưa ra một vài giờ sau các vụ nổ.

“Kết thúc bi thảm” của cuộc đua chạy đường dài “nhắc nhở tất cả chúng ta tội ác tồn tại và cuộc sống mong manh”, ĐHY Dolan nói.

Trong một cuộc họp báo, TT Barack Obama đã gửi lời chia buồn quốc gia tới các nạn nhân và gia đình họ nói rằng ông tuyệt nhiên tin tưởng “thành phố kiên cường” mà người dân Boston sẽ cùng nhau hỗ trợ trong giờ phút khó khăn này.

“Và khi họ làm, nhân dân Mỹ sẽ cùng đi với họ từng bước trên đường.”

TT Barack Obama cho biết Cục Điều tra Liên bang FBI đang làm việc theo hướng vụ nổ bom hôm thứ hai là một hành động khủng bố.

TT Obama nói tại cuộc họp báo rằng “đây là một hành động hèn nhát và đáng ghê tởm”.

Thống đốc Patrick của Tiểu bang Massachusettes cũng kêu gọi cầu nguyện trong một tuyên bố đưa ra sau khi các vụ nổ.

“Đây là một ngày khủng khiếp ở Boston. Những suy nghĩ và lời cầu nguyện của tôi dành cho những nạn nhân”, ông Patrick nói.

 

Jos. Tú Nạc, NMS

ĐTC Phanxicô gửi điện văn chia buồn với các nạn nhân cuộc khủng bố tại Boston, Hoa Kỳ

ĐTC Phanxicô gửi điện văn chia buồn với các nạn nhân cuộc khủng bố tại Boston, Hoa Kỳ

WHĐ (17.04.2013) – Sáng 16 tháng 4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến Đức Hồng y Sean O’Malley, Tổng Giám mục Boston (tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ), điện văn chia buồn sau cuộc khủng bố, xảy ra vào chiều 15-4 tại thành phố Boston, khiến nhiều người chết và bị thương.

Trong bức điện văn, Đức Thánh Cha nêu rõ ngài rất đau buồn trước những hậu quả do cuộc khủng bố gây ra, đồng thời bày tỏ sự liên đới với các nạn nhân và cầu nguyện cho họ. Ngài luôn gần gũi mọi người đang phải gánh chịu những đau đớn và những người tham gia cứu hộ. Đức Thánh Cha khích lệ mọi người dân Boston hãy hiệp nhất cùng nhau bài trừ cái ác và quyết tâm lấy sự lành chống lại sự dữ, bằng cách kiến tạo một xã hội ngày càng có công lý, tự do và được an toàn.

Được biết, cuộc đánh bom xảy ra vào lúc 14g50 chiều 15 tháng 4 (giờ địa phương) nhắm vào các vận động viên và khán giả cổ vũ cuộc thi marathon được tổ chức tại thành phố Boston.

Tại gần đích đến, có hai quả bom nổ chỉ cách nhau vài giây. Có 3 người đã chết , trong đó có một cậu bé 8 tuổi. Ngoài ra, có 134 người khác bị thương, trong đó có 8 đang trong tình trạng nguy kịch và 14 bị thương nặng. Ít nhất 8 trong số các nạn nhân là trẻ em.

Hiện chưa rõ thủ phạm của cuộc đánh bom. Cơ quan an ninh Hoa Kỳ ngay lập tức đã bắt tay vào việc điều tra nhằm tìm ra thủ phạm.

(Tin tổng hợp)

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự thánh lễ đầu tiên tại Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự thánh lễ đầu tiên tại Đền thờ thánh Phaolô ngoại thành

ROMA. Chiều chúa nhật 14 tháng 4-2013, ĐTC Phanxicô đã đến viếng mộ Thánh Phaolô Tông Đồ và cử hành thánh lễ đầu tiên trong Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Hiện diện trong thánh lễ lúc 5 giờ rưỡi, có hàng ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường, đặc biệt là các Đan sĩ dòng Biển Đức, đông đảo các sinh viên thuộc đại học Roma 3, cũng với nhiều chức sắc và tín hữu, trong đó có 12 Hồng y và một số Giám Mục.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY James Harvey, người Mỹ, Giám quản Đền thờ này, và hai vị nguyên giám quản là ĐHY Andrea Cordero Lanza di Montezemolo, ĐHY Francesco Monterisi, cùng với Cha Edmund Power, Viện Phụ Đan viện Biển Đức cạnh Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành. Khi đoàn rước tiến đến bàn thờ chính, ĐTC đã xuống mộ của Thánh Tông Đồ dân ngoại, xông hương tôn kính và cúi mình thật lâu để cầu nguyện trước mộ thánh nhân.
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã nêu bật 3 ý tưởng dựa theo các bài đọc của Phụng vụ: loan báo, làm chứng và thờ lạy Chúa. Ngài nói:

Anh chị em thân mến

Thật là một niềm vui cho tôi được cử hành Thánh Lễ với anh chị em trong Vương cung thánh đường này. Tôi mến chào ĐHY Giám quản Đền thờ, James Harvey, và cám ơn ĐHY vì những lời đã bày tỏ với tôi; cùng với ĐHY, tôi chào thăm các tổ chức khác nhau của Đền thờ này và tất cả các anh chị em. Chúng ta ở tại mộ của thánh Phaolô, một tông đồ vừa khiêm hạ vừa vĩ đại của Chúa, thánh nhân đã rao giảng Chúa bằng lời nói, đã làm chứng cho Chúa bằng cuộc tử đạo và đã thờ lạy Chúa với trọn tâm hồn. Tôi muốn suy tư về 3 động từ này dưới ánh sáng Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe: loan báo, làm chứng và thờ lạy.

1. Trong bài đọc thứ I, ta thấy nổi bật sức mạnh của thánh Phêrô và các Tông Đồ khác. Trước lệnh truyền phải im lặng, không được giảng dạy nhân danh Đức Giêsu nữa, không được loan báo Sứ điệp của Chúa nữa, các Tông Đồ trả lời minh bạch rằng ”Cần phải vâng lời Thiên Chúa, thay vì vâng lời loài người”. Dù bị đánh đòn, các vị vẫn không ngừng rao giảng, dù bị lăng mạ và cầm tù cũng thế. Phêrô và các Tông Đồ can đảm loan báo trong tất cả sự thật điều mà các vị đã nhận lãnh, đó là Tin Mừng của Chúa Giêsu. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có khả năng đưa Lời Chúa tới các môi trường cuộc sống của chúng ta hay không? Chúng ta có biết nói về Chúa Kitô, về vị thế của Chúa đối với chúng ta trong gia đình, với những người thuộc về cuộc sống của chúng ta hay không? Đức tin nảy sinh từ sự lắng nghe, và được củng cố trong việc rao giảng.

2. Nhưng chúng ta hãy tiến thêm một bước: việc loan báo của thánh Phêrô và các Tông Đồ không phải chỉ bằng lời nói, nhưng sự trung thành với Chúa Kitô còn liên hệ tới trọn cuộc sống của các vị, một cuộc sống được biến đổi, được một hướng đi mới, và chính bằng cuộc sống mà các vị làm chứng về đức tin và loan báo Chúa Kitô. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu 3 lần yêu cầu thánh Phêrô chăn dắt đoàn chiên của Ngài, và chăn chiên với lòng yêu mến, và Chúa báo cho Phêrô biết trước: ”Khi con già nua, con sẽ giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho con và đưa con đến nơi con không muốn” (Ga 21,18). Đó là một lời được gởi đến tất cả chúng ta là những mục tử: ta không thể chăn dắt đoàn chiên Chúa nếu không chấp nhận để thánh ý Chúa dẫn đưa tới nơi mà chúng ta không muốn, nếu ta không sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô bằng sự hiến chính bản thân chúng ta, không do dự, không so đo, nhiều khi phải trả bằng chính mạng sống chúng ta. Nhưng điều này cũng giá trị đối với tất cả mọi người: Tin Mừng cần được rao giảng và làm chứng. Mỗi người phải tự hỏi: làm thế nào tôi làm chứng về Chúa Kitô bằng đức tin của tôi? Tôi có lòng can cảm của thánh Phêrô và các Tông đồ khác để suy nghĩ, chọn lựa và sống như Kitô hữu, vâng phục Thiên Chúa hay không? Chắc chắn là việc làm chứng tá đức tin có bao nhiêu hình thức khác nhau, như trong một bức bích họa to lớn, có nhiều mầu sắc và sắc thái khác nhau; nhưng tất cả những điều ấy đều quan trọng, cả những điều không trổi lên. Trong kế hoạch bao la của Thiên Chúa, mỗi chi tiết đều quan trọng, cả chứng tá bé nhỏ, khiêm hạ của bạn, của tôi, cả những chứng tá âm thầm của người sống đức tin đơn sơ của mình trong những quan hệ thường nhật của gia đình, nơi làm việc, với bạn bè, đều là điều quan trọng. Có những vị thánh hằng ngày, những vị thánh 'âm thầm', một thứ ”giai cấp trung của sự thánh thiện” mà tất cả chúng ta có thể là thành phần. Nhưng tại nhiều nơi trên thế giới, cũng có những người đang chịu đau khổ như thánh Phêrô và các Tông đồ, vì Tin Mừng; có những người hiến mạng sống để trung thành với Chúa Kitô bằng chứng tá được đánh dấu bằng giá máu. Tất cả chúng ta hãy nhớ điều này: ta không thể loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô mà không làm chứng tá cụ thể bằng cuộc sống. Ai nghe và nhìn chúng ta phải có thể đọc được trong những hoạt động của chúng ta điều mà họ nghe từ miệng chúng ta và chúc tụng vinh danh Thiên Chúa! Thái độ bất nhất của các tín hữu và các mục tử giữa điều họ nói và điều họ làm, giữa lời nói và lối sống làm thương tổn uy tín của Giáo Hội.

3. Nhưng tất cả những điều đó chỉ có thể nếu chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô, vì chính Ngài đã kêu gọi chúng ta, đã mời gọi chúng ta tiến theo con đường của Ngài, đã chọn chúng ta. Loan báo và làm chứng là điều chỉ có thể nếu chúng ta gần gũi Chúa, như thánh Phêrô, Gioan và các tông đồ khác trong đoạn Phúc âm ngày hôm nay, quanh Chúa Giêsu Phục Sinh; có một sự gần gũi hằng ngày với Chúa, và các vị biết rõ Ngài là ai, họ biết Ngài. Thánh Sử Phúc Âm nhấn mạnh rằng ”không ai dám hỏi Ngài ”Thầy là ai?”, vì họ biết rõ Ngài là Chúa” (Ga 21,12). Đó là điểm quan trọng đối với chúng ta; sống một quan hệ khẩn trương với Chúa Giêsu: một cuộc sống thân mật trong đối thoại đến độ có thể nhìn nhận Ngài là ”Chúa”, thờ lạy Ngài. Đoạn sách Khải Huyền mà chúng ta đã nghe nói về sự thờ lạy: vô số các thiên thần, toàn thể các thụ tạo, các sinh vật, các kỳ lão, phủ phục thờ lạy trước Ngai Thiên Chúa và Chiên Con bị sát tế, là Đức Kitô, lời chúc tụng, vinh dự và vinh quang dành cho Người (Xc Kh 5,11-14). Tôi muốn tất cả chúng ta tự hỏi: Bạn, tôi, chúng ta có thờ lạy Chúa hay không? Chúng ta đến cùng Chúa phải chăng chỉ để cầu xin, cám tạ hay chúng ta cũng đến nơi Chúa để thờ lạy Ngài? Thờ lạy Chúa như vậy có nghĩa là gì? Có nghĩa là ở với Chúa, dừng lại đối thoại với Chúa, cảm thấy rằng sự hiện diện của Chúa là chân thực nhất, tốt lành nhất, quan trọng hơn tất cả mọi sự. Mỗi người chúng ta, trong cuộc sống của mình, một cách ý thức, và có lẽ nhiều khi không ý thức, có một thứ tự chính xác nơi những điều được coi là hơn kém quan trọng. Thờ lạy Chúa có nghĩa là dành cho Chúa chỗ thuộc về Ngài; thờ lạy Chúa có nghĩa là khẳng định, tin, nhưng không phải chỉ bằng lời nói, rằng chỉ có Chúa thực sự hướng dẫn cuộc sống chúng ta; thờ lạy Chúa có nghĩa là chúng ta xác tín trước Chúa rằng chỉ mình Ngài là Thiên Chúa, Chúa Tể đời sống và lịch sử của chúng ta.

Điều này có một hệ luận trong cuộc sống chúng ta: cởi bỏ bao nhiêu thần tượng lớn nhỏ mà chúng ta có và nương náu trong đó, chúng ta tìm kiếm trong đó và nhiều lần chúng ta đặt niềm tín thác nơi chúng. Đó là những thần tượng mà nhiều khi chúng ta giấu kín: đó có thể là tham vọng, ham muốn thành công, sự nghiệp, đặt mình ở trung tâm, xu hướng muốn trổi vượt hơn người khác, tự nhận mình là chủ tể độc nhật của đời mình, đó là vài thứ tội mà chúng ta gắn bó, và nhiều tội khác nữa. Chiều tối hôm nay tôi muốn một câu hỏi được vang dội trong tâm hồn mỗi người chúng ta và chúng ta hãy thành thật trả lời: tôi có nghĩ đến thần tượng nào ẩn náu trong cuộc sống của tôi hay không, thứ thần tượng cản trở tôi thờ lạy Chúa? Thờ lạy là cởi bỏ những thần tượng của chúng ta, cả những thần tượng thầm kín nhất, và chọn Chúa làm trung tâm, như con đường chủ yếu của đời ta.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, Chúa kêu gọi chúng ta mỗi ngày hay can đảm theo Ngài trong niềm trung thành; Chúa ban cho chúng ta hồng ân lớn lao, Ngài chọn chúng ta như những môn đệ của Ngài; Ngài sai chúng ta đi loan báo Ngài trong niềm vui tươi như Đấng Phục Sinh, nhưng Chúa yêu cầu chúng ta thi hành điều đó bằng lời nói, và bằng cuộc sống chứng tá thường nhật. Chúa là Thiên Chúa duy nhất của đời ta và Ngài mời gọi chúng ta hãy cởi bỏ bao nhiêu thần tượng và thờ lạy một mình Chúa. Xin Đức Trinh Nữ Maria và thánh Phaolô Tông Đồ giúp chúng ta trong hành trình này và chuyển cầu cho chúng ta”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

80 ngàn tín hữu tham dự buổi đọc kinh với Đức Thánh Cha

80 ngàn tín hữu tham dự buổi đọc kinh với Đức Thánh Cha

VATICAN. 80 ngàn tín hữu hành hương đã tham dự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng với ĐTC Phanxicô trưa chúa nhật 14 tháng 4-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Đây là lần thứ 7 ngài xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của các ĐGH trong dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh với các tín hữu hành hương. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã quảng diễn bài đọc sách Tông Đồ công vụ về tấm gương can đảm của các Tông Đồ vui mừng chịu đau khổ vì rao giảng Chúa Kitô và ngài mời gọi các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho các Kitô hữu đang bị bách hại tại nhiều nơi trên thế giới. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em!

Tôi muốn dừng lại một chút về trang sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta đọc trong Phụng Vụ chúa nhật thứ ba Phục Sinh này. Đoạn văn nói về bài giảng đầu tiên của các Tông Đồ ở Jerusalem, làm cho thành này tràn đầy tin Chúa Giêsu đã sống lại thật, theo Kinh Thánh, và Ngài là Đấng Messia đã được các tiên tri báo trước. Các thượng tế và thủ lãnh dân thành tìm cách chặn đứng từ trong trứng nước cộng đoàn các tín hữu Kitô và bỏ tù các Tông Đồ, truyền cho các vị không được giảng dạy nhân danh Người nữa. Nhưng thánh Phêrô và 11 Tông Đồ trả lời: ”Cần phải vâng lời Thiên Chúa thay vì vâng lời người phàm. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Đức Giêsu sống lại.. Chúa đã nâng Người lên ngự bên hữu Ngài như thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế.. Chúng tôi và Thánh Linh là chứng nhân về những sự kiện ấy” (Cv 5,29-32). Bấy giờ họ ra lệnh đánh đòn các Tông Đồ và tái ra lệnh cho các vị không được nói về danh Chúa Giêsu nữa. Và các ông ra đi, ”vui mừng vì được coi là xứng đáng chịu xỉ nhục vì danh Chúa Giêsu” (c.41)

”Từ đâu các môn đệ đầu tiên tìm được sức mạnh để làm chứng như vậy? Không những thế: từ đâu các vị tìm được niềm vui và can đảm để loan báo, mặc dù có những chướng ngại và bạo lực? Chúng ta đừng quên rằng các Tông Đồ là những người đơn sơ, không phải là các kinh sư hoặc các nhà thông luật, cũng chẳng thuộc giai cấp tư tế. Làm sao họ có thể làm đầy thành Jerusalem bằng những giáo huấn như thế, mặc dù có những giới hạn và bị nhà cầm quyền chống đối? (Xc Cv 5,28). Hiển nhiên là chỉ có sự hiện diện của Thánh Linh mới có thể giải thích được sự kiện ấy. Niềm tin của các vị dựa trên một kinh nghiệm bản thân rất mạnh mẽ về Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết và sống lại, khiến các vị không sợ hãi điều gì và sợ ai, và thậm chí các vị coi những bách hại như một điều vinh dự, để theo vết Chúa Giêsu và trở nên giống Ngài qua việc làm chứng tá bằng chính cuộc sống.

”Lịch sử về cộng đồng Kitô đầu tiên nói với chúng ta một điều rất quan trọng, có giá trị cho Giáo Hội trong mọi thời đại, và cho cả chúng ta: đó là khi một ngừơi thực sự biết Chúa Giêsu Kitô và tin nơi Chúa, cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống và sức mạnh sự phục sinh của Chúa, thì không thể không thông truyền kinh nghiệm ấy. Và nếu họ gặp phải những thái độ thiếu cảm thông hay chống đối, thì họ cư xử như Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn: lấy tình thương và sức mạnh của chân lý để đáp lại.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta cùng nhau cầu khẩn Nữ Vương Thiên Đàng, xin Mẹ Maria chí thánh phù trợ để Giáo Hội ở các nơi trên thế giới thẳng thắn và can đảm loan báo sự sống lại của Chúa và làm chứng tá hữu hiệu bằng những dấu chỉ tình yêu thương huynh đệ. Chúng ta đặc biệt cầu cho các tín hữu Kitô đang bị bách hại ở rất nhiều nước trên thế giới: xin cho họ cảm thấy sự hiện diện sinh động và an ủi của Chúa Phục Sinh.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nói thêm rằng:
”Hôm qua, tại thành Venezia, đã có lễ phong chân phước cho Cha Luca Passi, LM miền Bergamo hồi thế kỷ 19, sáng lập Hội thiện giáo dân thánh nữ Dorotea, và Dòng các nữ tu giáo viên Thánh Dorotea. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì vị Linh mục tốt lành này.

”Hôm nay tại Italia là Ngày Đại Học Công giáo Thánh Tâm với chủ đề là ”Các thế hệ trẻ vượt qua khủng hoảng”. Đại học này, nảy sinh từ tâm trí của Cha Agostino Gemelli, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của dân chúng, đã đào tạo hàng ngàn ngàn người trẻ trở thành những công dân có khả năng và trách nhiệm, những người xây dựng công ích. Tôi mời gọi luôn luôn hỗ trợ Đại học này, để tiếp tục cống hiến cho các thế hệ trẻ một nền huấn luyện tốt đẹp nhất, hầu đương đầu với những thách đố hiện nay.

”Tôi thân ái chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện nơi đây, đến từ bao nhiêu nước! Các gia đình, các nhóm giáo xứ, các phong trào, và người trẻ. Đặc biệt tôi chào đoàn hành hương của Giáo phận Siena-Colle Val d'Elsa-Montalchino, với Đức TGM Buoncristiani. Tôi cũng đặc biệt nghĩ đến các bạn trẻ nam nữ đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích thêm sức. Tôi cầu chúc tất cả anh chị em chúa nhật tốt đẹp và dùng bữa trưa ngon.
Chiều hôm qua vào lúc 5 giờ chiều, ĐTC đã đến Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, để dâng thánh lễ và nhận thánh đường này.

G. Trần Đức Anh OP-Vatican Radio

Mầu nhiệm Giáo Hội

Mầu nhiệm Giáo Hội

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?

2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?

3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua hơn 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

TGM Ngô Quang Kiệt